Page 3 of 7 FirstFirst 1234567 LastLast
Results 21 to 30 of 62

Thread: Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    CẢM NGHĨ VỀ TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM
    CỦA CỰU TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU




    Trên cương vị Tổng Thống, tôi không có đủ th́ giờ thăm viếng tất cả các sư đoàn. Rất tiếc là chuyến sau cùng tôi xuống Cần Thơ đi thăm Biệt Khu 44 cùng với Tướng Thanh vào ngày Thứ Bảy trước khi đi Côn Sơn, qua ngày Chủ Nhật hôm sau th́ Tướng Thanh tử trận, trước hay sau đó tôi không nhớ rơ, tôi có ngồi nói chuyện với Tướng Nam. Sau này, Tướng Nam có lên phủ Tổng Thống họp trong những ngày cuối, lúc t́nh h́nh nguy hiểm.

    Theo dơi các Tư Lệnh Sư Đoàn th́ tôi thấy ông là người nghiêm chỉnh, đạo đức, về cái đạo đức của ông th́ quá tốt, ḿnh không c̣n ǵ để đặt câu hỏi. Khả năng quân sự th́ chỉ có khen thôi, không có chỗ nào có thể chê được, con người can đảm, trầm tĩnh, suy nghĩ và lư luận rất là chín chắn, phân tách rất rơ ràng.

    Tóm lại, khi suy nghĩ về cái chết của Tướng Nam và các tướng lănh khác, tôi thấy đó là những cái chết anh hùng không ai có thể chối căi được - Tướng chết anh hùng là như vậy - Nhưng có điều tôi có thể nói là tôi tiếc v́ đă nghĩ lầm: “Hồi đó, tôi tin tưởng rằng, vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa, các tướng lănh sẽ có lập trường riêng của ḿnh.” Khi tôi quyết định từ chức, tôi chỉ giao quyền cho cụ Hương, mặc dù tôi cũng có nghe nói Tướng Dương Văn Minh muốn thay thế cụ Hương. Tôi từ chức là v́ những lư do riêng của tôi, và tôi nghĩ rằng đó là quyết định tốt nhất cho đất nước trong t́nh thế khó khăn lúc ấy. Tôi quyết định từ chức v́ bổn phận bắt buộc tôi phải làm như vậy. Tôi tin rằng giao lại cho cụ Hương, chắc chắn Cụ sẽ không bao giờ chịu trao quyền lại cho Việt Cộng, họa chăng Việt Cộng vào Dinh Độc Lập, dí súng vào cổ ông, ông thà chịu để cho địch bắt đi chớ không bao giờ kêu gọi quân dân trao quyền cho chúng.

    Trước khi tôi từ chức, đâu phải quân đội ḿnh hoàn toàn tan ră đâu. Ḿnh muốn tiếp tục đánh th́ cũng đánh được, không biết tới bao lâu thôi, và chắc ḿnh cũng không phải đầu hàng vô điều kiện. Trước đó, tôi có hỏi ư kiến một số anh em sĩ quan hay lấy ư kiến từ những người này người kia, mọi người đều đồng ư rằng nếu thương thuyết một giải pháp chính trị với Việt Cộng là việc không thể tránh th́ ḿnh phải làm, nhưng nếu giải pháp chính trị quá bất lợi cho ḿnh th́ phản ứng tự nhiên của quân đội là rút về miền Tây. Tôi nghĩ rằng nếu cụ Hương c̣n th́ ông cũng làm như vậy. Ông sẽ giao quyền cho anh em tướng lănh, và về phương diện quân sự, lựa chọn cuối cùng của các anh em tướng lănh là rút về miền Tây. Có điều tôi lấy làm tiếc là khi ông Minh ra lệnh buông súng đầu hàng Cộng Sản th́ các anh em tướng lănh tại miền Tây như ông Nam, Hưng, Hai lại lựa chọn giải pháp tuẫn tiết. Lúc ấy ở miền Tây th́ các ông ấy có toàn quyền quyết định. Ḿnh có câu nói: “Tướng sa trường đâu có bắt buộc phải theo lệnh thượng cấp.”

    Thật ra bây giờ, tôi chỉ tiếc cho cái chết của Tướng Nam và các tướng lănh khác. Quốc gia, quân đội và nhân dân đă không được tận dụng tối đa các đức tính và tài năng của cấp chỉ huy quân đội c̣n lại như ông Nam. Lấy ví dụ như là các ông ấy quyết định tử thủ miền Tây mà thua đi v́ thiếu phương tiện (dù không đầu hàng th́ ḿnh cũng phải thua, không phải v́ ḿnh thua trí, thua cái can đảm mà ḿnh thua sức, thua phương tiện), th́ lúc đó các ông ấy vẫn làm được cái ǵ để giữ ḿnh và c̣n có cơ hội làm lại được điều ǵ hữu ích cho đất nước sau này.

    Trong 25 năm nay, các tướng lănh giỏi c̣n lại ở hải ngoại vẫn nuôi dưỡng một chí hướng muốn làm một cái ǵ để khôi phục lại tự do, dân-chủ-hóa đất nước. Mặc dù xứ này không phải là đất dụng vơ, nhưng nếu c̣n những người như ông Nam hay các tướng lănh đă tuẫn tiết khác, họ cũng góp được phần lớn trong các cuộc đấu tranh chính trị, thu phục nhân tâm, hoàn toàn không vơ trang để thúc đẩy dân chúng cũng như các chiến hữu trong và ngoài nước v́ giá trị của con người trong lănh vực tinh thần, đạo đức trong cuộc tranh đấu không vơ trang rất là cần thiết. T́m được các tướng lănh có khả năng và đạo đức như Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ trong công cuộc đấu tranh chính trị không phải là dễ. Tài năng của các ông ấy có thể được sử dụng không vào lănh vực này th́ vào lănh vực khác. Cái tài và đức có thể sử dụng không về quân sự th́ về chính trị hay bất cứ địa hạt nào.

    Cuộc đấu tranh của dân tộc chúng ta chưa chấm dứt. Tôi vẫn quan niệm rằng cho đến lúc dân tộc Việt Nam chưa có dân chủ, tự do, hạnh phúc th́ cuộc đấu tranh vẫn c̣n. Khi nào chúng ta chết th́ cuộc đấu tranh mới ngừng. Ngay khi mục tiêu đạt được th́ ḿnh cũng phải c̣n tiếp tục. Cho đến bây giờ, ḿnh vẫn thiếu những người có tài và đức để giúp khôi phục lại tự do và dân chủ cho đất nước. Hành động của các tướng tuẫn tiết, chúng ta chỉ biết bái phục, kính trọng muôn đời. Chỉ tiếc công việc đem tự do và dân chủ cho đất nước vẫn c̣n dài dài mà ḿnh không c̣n cơ hội để dùng cái tài, cái đức của các vị đó nhằm đạt đến mục đích cuối cùng.

    Cũng như vấn đề tự do, dân chủ cho đất nước, tôi tin rằng không sớm th́ muộn Cộng Sản bắt buộc phải chấp thuận bầu cử. Có thể ḿnh sẽ không thắng các cuộc bầu cử đầu tiên nhưng ḿnh phải tiếp tục cố gắng. Ḿnh phải giúp củng cố tinh thần tự do dân chủ trong tất cả mọi người Việt Nam để tư tưởng, ư-thức-hệ Cộng Sản không c̣n chỗ nào có thể xâm nhập được, không c̣n một chỗ đứng trong ḷng người dân. Đó là mục đích tối hậu trong cuộc đấu tranh của chúng ta. Lấy kinh nghiệm của các nước Đông Âu trong thời hậu Cộng Sản, trong một, hai nhiệm kỳ Tổng Thống đầu th́ dân chúng bầu cho những người không Cộng Sản, sau đó những người Cộng Sản lù lù trở lại. Làm thế nào dù rằng vẫn có một số người Cộng Sản mà tư tưởng, ư-thức-hệ Cộng Sản không c̣n trong đầu của người dân Việt.

    Thành thử trong vấn đề đấu tranh đa nguyên đa đảng, đôi khi tôi nghĩ rằng điều kiện tiên quyết là phải giải thể đảng Cộng Sản, nhưng suy nghĩ lại th́ thấy điều đó không cần thiết. Khi tất cả mọi người không c̣n chấp nhận tư tưởng, ư-thức-hệ Cộng Sản, th́ dù rằng nó có đổi tên hay trá h́nh dưới h́nh thức ǵ đi nữa, chẳng c̣n ai vào đảng Cộng Sản th́ đó mới đích thực giải thể Cộng Sản.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?


    Nguyễn Văn Thiệu (5 tháng 4 năm 1923 – 29 tháng 9 năm 2001) là Chủ tịch Ủy ban Lănh đạo Quốc gia Việt Nam Cộng ḥa thời kỳ 1965-1967 và Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa thời kỳ 1967-1975.



    Thân thế

    Nguyễn Văn Thiệu sinh tháng 11 năm 1924 (âm lịch). Ông có hai người anh: Nguyễn Văn Hiếu (hơn ông Thiệu 16 tuổi)[1] và Nguyễn Văn Kiểu. Nguyễn Văn Hiếu thời Đệ nhị Cộng ḥa được bổ làm đại sứ ở Ư c̣n Nguyễn Văn Kiểu làm đại sứ ở Đài Loan.[2]

    Học hết lớp 9 ở quê nhà ông lên Sài G̣n để học nghề ở Trường Kỹ thuật Đỗ Hữu Vị. Sau đó, ông Thiệu được người anh cả Nguyễn Văn Hiếu giúp đưa vào học trong một trường ḍng của Pháp[3] là trường công giáo La Mă Pellerin tại Huế. Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ông hoàn thành khóa học và quay trở về nhà. Trong ba năm Nhật Bản chiếm đóng, ông làm ruộng cùng với gia đ́nh. Quan điểm của ông Thiệu về chủ nghĩa dân tộc ngày càng gia tăng cùng với sự bại trận của Nhật Bản và sự quay lại của quân đội Pháp ở Đông Dương.[4]

    Binh nghiệp

    Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc năm 1945, ông tham gia lực lượng Việt Minh do Hồ Chí Minh đứng đầu.[4] [3] [5] Ông cùng các đồng chí được huấn luyện vũ khí trong rừng dùng gậy tre v́ họ không có súng. Năng lực quản lư của ông sớm được công nhận, sau đó được bổ nhiệm trở thành một người đứng đầu huyện.[4] Nhưng sau chưa đến một năm, ông bắt đầu thất vọng, "Tôi biết rằng Việt Minh là cộng sản," ông trả lời trong một cuộc phỏng vấn, và nói thêm: "họ bắn người dân, họ lật đổ các ủy ban xă, họ tịch thu đất đai".[5] Ông bí mật vào Sài G̣n, rồi với sự giúp đỡ của anh ông là Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Văn Thiệu được nhận vào học Trường Hàng hải.[3] Sau một năm, ông được phong hàm sĩ quan, nhưng ông từ chối làm việc trên một con tàu khi biết được chủ người Pháp sẽ trả lương cho ông thấp hơn lương của sĩ quan Pháp. Từ đó ông bỏ hẳn ư định theo nghiệp hàng hải và ghi danh khóa đầu tiên tại Trường Sĩ quan Việt Nam, tiền thân của Trường Vơ bị Đà Lạt.[4] Tháng 6 năm 1949, ông tốt nghiệp với quân hàm Thiếu úy, thuộc lực lượng Quân đội Quốc gia Việt Nam. Cùng năm đó, ông sang Pháp học ở Trường bộ binh Coetquidan.

    Trong những trận đánh nhau với Việt Minh, Nguyễn Văn Thiệu có tiếng là dũng cảm và có năng lực chỉ huy.[4] Với chính sách chế tài đối với những sĩ quan ở miền Trung và miền Nam nên ông được điều ra Bắc.

    Năm 1951, ông kết hôn với Nguyễn Thị Mai Anh, con gái của một người hành nghề y thành đạt gốc ở Mỹ Tho thuộc tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang). Bà là một tín đồ Công giáo Roma. Sau đó ông đă cải đạo, theo tôn giáo của vợ.[3] Ông bà Thiệu có ba người con: một gái, Nguyễn Thị Tuấn Anh và hai trai, Nguyễn Quang Lộc và Nguyễn Thiệu Long.

    Năm 1954, với quân hàm thiếu tá chỉ huy một tiểu đoàn, Nguyễn Văn Thiệu đă dẫn đầu một cuộc đánh vào làng quê Thanh Hải, nơi ông từng sinh sống. Việt Minh rút lui vào căn nhà cũ của gia đ́nh Nguyễn Văn Thiệu, tin rằng ông sẽ không tấn công tiếp, nhưng họ đă nhầm[6] Ông đă cho nổ ḿn đánh bật được lực lượng Việt Minh ra khỏi khu vực, nhưng đồng thờ căn nhà nơi ông sinh ra và lớn lên cũng bị phá hủy.[4].

    Sang thời Đệ nhất Cộng ḥa năm 1955 ông là Trung tá, giữ chức Chỉ huy trưởng Trường Vơ bị Đà Lạt. Đến năm 1962, ông thăng chức Tư lệnh Sư đoàn 5 bộ binh, hàm Đại tá.
    Tham gia đảo chính và trở thành quốc trưởng

    Năm 1963, ông tham gia lực lượng đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Sau đảo chính, ông được phong hàm Thiếu tướng.

    Khi tướng Nguyễn Khánh thực hiện "chỉnh lư", nắm quyền lănh đạo chính quyền, ông được cử giữ chức Tham mưu trưởng sau đó được cử giữ chức Tổng trưởng Quốc pḥng. Năm 1965, ông được thăng Trung tướng. Cũng năm này, chính phủ của Thủ tướng Phan Huy Quát đă giải tán và trao quyền lănh đạo quốc gia lại cho Hội đồng Quân lực. Hội đồng tướng lĩnh đă bầu ông giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lănh đạo Quốc gia và tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương. Ông trở thành quốc trưởng và tướng Kỳ trở thành thủ tướng của chính phủ mới.

    Thành lập Đệ nhị Cộng ḥa Việt Nam


    Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu quan sát bản đồ Đông Á



    Huy hiệu Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa Nguyễn Văn Thiệu

    Năm 1967, dưới sự hậu thuẫn từ phía Mỹ và lực lượng đảng Dân chủ do chính ông thành lập, Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm tổng thống, tuyên bố thành lập nền Đệ nhị Cộng ḥa Việt Nam, với 38% số phiếu. Ông giữ chức này cho đến khi chính thể Đệ nhị Cộng ḥa sắp sụp đổ vào cuối tháng 4 năm 1975 (Xem Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975). Thời kỳ này chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa càng lệ thuộc vào sự giúp đỡ của Hoa Kỳ nhiều hơn cả chính phủ tiền nhiệm của Ngô Đ́nh Diệm. Ông đă tập trung quyền lực vào ngành hành pháp trong khi làm suy yếu quyền lập pháp của quốc hội.

    Năm 1969, Tổng thống Thiệu kêu gọi ḥa b́nh bằng cách đề nghị bầu cử bao gồm cả lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nhưng phó Tổng thống Kỳ đă cảnh báo rằng bất kỳ nỗ lực nào để Liên minh với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đều rất nguy hiểm. [7] Cũng trong năm này, Nguyễn Văn Thiệu đă vượt quyền hiến pháp, cụ thể là điều luật quy định sự bất khả xâm phạm của dân biểu, để bắt giữ và mở ṭa án quân sự kết án dân biểu Trần Ngọc Châu 10 năm khổ sai, sau khi vị dân biểu này đề nghị lập một đoàn gồm các nhà lập pháp Việt Nam Cộng ḥa ra Bắc để đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.[8]

    Trong những năm tại vị, Nguyễn Văn Thiệu đă kư tại Cần Thơ lệnh số 003/60 ban hành luật "Người cày có ruộng" (xem Cải cách điền địa (Việt Nam Cộng ḥa)). Ông nói: "Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi". Báo chí Hoa Kỳ ca ngợi, tờ Washington Evening Star gọi đó là "Tin tức tốt đẹp nhất đến từ Việt Nam kể từ khi kết thúc sự chiếm đóng của người Nhật". C̣n tờ New York Times cho rằng "Có lẽ đây là cuộc cải cách ruộng đất không cộng sản mang nhiều tham vọng và tiến bộ nhất của thế kỷ 20". Theo ông Nguyễn Tiến Hưng trong sách Khi đồng minh tháo chạy: "Nhiều quan sát viên quốc tế đă cho chương tŕnh "Người cày có ruộng" là một trong những chương tŕnh cải cách điền địa thành công nhất ở các nước hậu tiến. Nó là điểm vàng son của nền Đệ nhị Cộng ḥa". Chương tŕnh này đă tạo ra một tầng lớp tiểu nông đông đảo, thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp phát triển. Nông dân hăng hái sản xuất và năng suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng, đời sống của nông dân được cải thiện.

    Năm 1971, Việt Nam Cộng ḥa tổ chức bầu cử tổng thống. Sau cố gắng bất thành của Nguyễn Văn Thiệu trước kia nhằm gạt hẳn Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi cuộc đua, trong kỳ này Dương Văn Minh rút lui không tham gia tranh cử và Nguyễn Cao Kỳ cũng từ chối ra tranh cử nên cuộc bầu cử chỉ có một ứng cử viên. Kết quả là Nguyễn Văn Thiệu đạt được 94% số phiếu.[9]

    Năm 1973, sau khi kư kết Hiệp định Paris, Mỹ triệt thoái hoàn toàn quân đội ra khỏi Miền Nam Việt Nam. Một thời gian ngắn sau đó Hoa Kỳ cũng cắt giảm một nửa các kinh phí viện trợ cho chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa khiến khả năng quân sự của chính quyền bị suy giảm nặng. Dầu vậy Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra Chánh sách Bốn Không làm căn bản trong chiến cuộc chống với những người Cộng sản.

    Tháng 3 năm 1975, sau khi Ban Mê Thuột (nay gọi là Buôn Ma Thuột) bị Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh chiếm và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa phản kích thất bại, Nguyễn Văn Thiệu tỏ ra lúng túng rồi quyết định rút bỏ toàn phần Cao nguyên Trung phần. Sai lầm chiến lược đó đă đưa đến những cuộc tháo chạy hỗn loạn khỏi các tỉnh Tây Nguyên và bị Quân giải phóng miền Nam tấn công gây thiệt hại nặng. Sau đó các tỉnh duyên hải miền Trung cũng thất thủ.

    Vài tuần cuối cùng trước khi cuộc chiến kết thúc, ông Thiệu lui vào trong Dinh Độc Lập ngày càng nhiều hơn, ngày càng ít nói chuyện với các cố vấn hơn, ngay cả với cố vấn cao cấp Mỹ người mà ông đă duy tŕ trong nhiều năm hiếm khi thấy ông trong những ngày tháng tư. Trước khi ông từ chức, một quan chức cấp cao Mỹ đă hỏi tổng thống phản ứng thế nào trước những thất bại của quân đội, ông nói: "Tôi biết nên làm thế nào đây?"[cần dẫn nguồn] Khi các lực lượng quân sự của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam sắp giành được chiến thắng, ông từ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 1975, 9 ngày trước khi Việt Nam Cộng ḥa đầu hàng vô điều kiện. Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay làm tổng thống.

    Lưu vong

    Đêm 25 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam với tư cách là đặc sứ của Việt Nam Cộng ḥa đến Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch. Khi ông rời bỏ đất nước ra đi, khắp Sài G̣n, từ dân chúng đến giới báo chí lúc đó xôn xao tin đồn rằng Nguyễn Văn Thiệu đă đem theo 16 tấn vàng trong ngân khố quốc gia ra nước ngoài (mà sau này đă được xác nhận là tin đồn không có thực). Sau đó, ông đến Anh định cư. Ông sống một cuộc sống thầm lặng trong quăng đời c̣n lại và qua đời vào ngày 29 tháng 9 năm 2001 tại Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ.

    Vào năm 1992, ông đă lên tiếng tố cáo sự xích lại gần nhau giữa chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và chính phủ Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng ít lâu sau ông lại có ư muốn tham gia vào các cuộc thảo luận ḥa giải dân tộc, điều này đă làm một số người cực đoan tức giận [4], c̣n tướng Trần Văn Đôn nhận xét qua hồi kư của ḿnh (xuất bản năm 1997) th́ ông Thiệu là người thức thời với chủ trương đối thoại với người trong nước.

    Nguyễn Văn Thiệu và Hiệp định Paris

    Ông chính là người phản đối quyết liệt nhất việc kư kết Hiệp định Paris vào lúc đó, v́ theo ông việc đó sẽ làm cho Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa có được lợi thế đáng kể so với Việt Nam Cộng ḥa. Cụ thể là người Mỹ sẽ chấm dứt những cam kết và ủng hộ của ḿnh đối với Việt Nam Cộng ḥa, đồng nghĩa với việc viện trợ cho chính phủ của ông bị cắt giảm và ưu thế quân sự sẽ nghiêng về phía Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Nguyễn Văn Thiệu đă cố t́nh tŕ hoăn việc đồng ư kư kết hiệp định, nhưng phía Mỹ đă có quyết định dứt khoát về việc này và gây áp lực cho chính phủ của ông, trong thư của Tổng thống Nixon gửi ông vào ngày 16 tháng 1 có đoạn: "Tôi đă quyết định dứt khoát sẽ kư tắt hiệp định vào ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói trên một ḿnh. Trong trường hợp đó tôi phải giải thích công khai rằng chính phủ của ông cản trở ḥa b́nh. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự thay đổi nhân sự trong chính phủ của ông khó mà nói trước".

    Trong bức thư đề ngày 6/10/1972, Nixon c̣n ngầm đe dọa: "Tôi yêu cầu ông cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một t́nh huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đă ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đă kịch liệt phản đối năm 1968...". Cũng theo cuốn "Khi đồng minh tháo chạy" của Nguyễn Tiến Hưng, ngày 21/10/1972, hai chuyên viên trong Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ là Roger Morris và Anthony Lake đă viết cho cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger một phúc tŕnh mà trong đó có nói tới các phương án lật đổ Nguyễn Văn Thiệu. Sau này, Morris xác nhận: "Tôi bảo Tony rằng hai đứa ḿnh phải cho Henry hiểu rơ là ta sẵn sàng thanh toán Thiệu"…

    Kết quả là Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận kư kết hiệp định một cách miễn cưỡng, mặc dù đă được chính phủ của tổng thống Nixon cam kết sẽ đảm bảo sự tồn tại của Việt Nam Cộng ḥa, Nixon cũng bí mật cam kết với Nguyễn Văn Thiệu rằng sẽ khôi phục lại việc Hoa Kỳ cho B-52 ném bom không kích chống lại bắc Việt Nam để trả đũa cho bất kỳ cuộc tấn công tăng cường nào của những người cộng sản. Nhưng Nixon đă từ chức trước khi kết thúc nhiệm kỳ của ḿnh, và những lời hứa của Mỹ cũng không bao giờ được thực hiện.
    Nhận xét

    Nguyễn Văn Thiệu có ư kiến khác biệt với chính phủ Mỹ về văn bản chính thức của Hiệp định Paris, thực tế sau này cho thấy nhận thức của ông về sự thất bại có thể xảy ra cho Việt Nam Cộng ḥa nếu chấp nhận văn bản đó là đúng đắn. (Cuối cùng, dưới áp lực của Mỹ, chính phủ của Việt Nam Cộng ḥa đă bị buộc kư vào hiệp định Paris). Ông là vị nguyên thủ quốc gia có thái độ cứng rắn với Cộng sản với Lập trường bốn không: không chấp nhận, không thương lượng, không liên hiệp và không nhượng đất cho Cộng sản. Ông bị nhiều tai tiếng như vụ 16 tấn vàng và khả năng lănh đạo quân sự.

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?


    Nhận xét

    Nguyễn Văn Thiệu có ư kiến khác biệt với chính phủ Mỹ về văn bản chính thức của Hiệp định Paris, thực tế sau này cho thấy nhận thức của ông về sự thất bại có thể xảy ra cho Việt Nam Cộng ḥa nếu chấp nhận văn bản đó là đúng đắn. (Cuối cùng, dưới áp lực của Mỹ, chính phủ của Việt Nam Cộng ḥa đă bị buộc kư vào hiệp định Paris). Ông là vị nguyên thủ quốc gia có thái độ cứng rắn với Cộng sản với Lập trường bốn không: không chấp nhận, không thương lượng, không liên hiệp và không nhượng đất cho Cộng sản. Ông bị nhiều tai tiếng như vụ 16 tấn vàng và khả năng lănh đạo quân sự.
    Đánh giá của người trong cuộc

    Tướng Cao Văn Viên, trong một cuộc phỏng vấn lúc cuối đời, đă có một số nhận xét về Nguyễn Văn Thiệu cũng như so sánh giữa Nguyễn Văn Thiệu và Ngô Đ́nh Diệm

    "Mỗi người độc tài theo cách riêng. Tổng thống Diệm cai trị nước như một quan lại của thời quân chủ, ông bẩm sinh chống cộng, tự ban cho ḿnh 'thiên mạng' cứu nước.

    "Tổng thống Diệm tự hào về dân tộc, tự đại về gia đ́nh, thích độc thoại, không chấp nhận dễ dàng sự chỉ trích. Ông chủ trương 'tiết trực tâm hư' nhưng bị ảnh hưởng nặng của gia đ́nh. C̣n ông Thiệu th́ theo đường lối 'độc tài trong dân chủ', bên trong chi phối cả hai ngành lập pháp và tư pháp. Bàn tay sắt trong đôi găng nhung.

    "V́ không vững kiến thức như ông Diệm, ông Thiệu chịu khó thăm ḍ ư kiến của các chuyên viên, lắng nghe, đúc kết lại để quyết định một ḿnh. Tổng thống Diệm dễ tin người xu nịnh nên dễ bị phản trắc. Ông Thiệu đa nghi Tào Tháo và không e ngại ban phát ân huệ để tạo phe cánh và chia rẽ đối phương như ông đă làm tại Quốc hội. Ông chủ trương 'làm chính trị phải ĺ'. Bởi thế Tổng thống Thiệu 'lật' ông Kỳ không khó và tồn tại lâu hơn Tổng thống Diệm nhưng ông không khí khái bằng ông Diệm. Ông Thiệu mưu sĩ, ông Diệm đạo đức."

    Henry Kissinger về sau trong hồi kư của ḿnh đă dành những lời rất nặng nề để nói về Nguyễn Văn Thiệu. Mặc dù không phủ nhận rằng Tổng thống Thiệu có một người khôn ngoan hoạt bát nhưng lại cho rằng, Nguyễn Văn Thiệu đă điều hành quốc sự theo một kiểu "tàn bạo", "xấc láo", "ích kỷ, độc ác" với những "thủ đoạn gần như điên cuồng" khi làm việc với người Mỹ… Kissinger cũng tiết lộ rằng, khi nói về việc Nguyễn Văn Thiệu ngăn cản Mỹ kư hiệp định Paris, Tổng thống Nixon đă giận dữ thốt lên: "Ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hăy tin lời tôi."[10]

    Câu nói nổi tiếng

    Đừng nghe những ǵ Cộng sản nói, mà hăy nh́n những ǵ Cộng sản làm![11]
    Đối với Cộng sản Việt Nam không có hội đàm/thương thảo, mà chỉ có đem bom ném lên đầu chúng nó !
    Mỹ c̣n viện trợ, th́ chúng tôi c̣n chống cộng [12]
    Đất nước c̣n, c̣n tất cả ; đất nước mất, mất tất cả.[13]
    Tôi mà tham nhũng th́ cái chính phủ này sẽ sụp đổ chỉ trong ba ngày!
    Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa th́ không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập ! [14]
    Làm kẻ thù của Mỹ th́ dễ, làm bạn với Mỹ th́ rất khó.
    Nếu họ (M&#7929... muốn ám sát tôi th́ cũng dễ thôi. Rồi sau đó cứ việc đổ cho Việt Cộng hoặc là do âm mưu đảo chính
    Sống không có tự do là đă chết.
    Mỹ c̣n viện trợ, th́ chúng ta c̣n chống Cộng.

    Giai thoại 16 tấn vàng



    Trước và sau năm 1975, báo chí thế giới và trong nước loan tin tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước khi ra đi đă mang theo 16 tấn vàng là tài sản quốc gia. Giai thoại này lan truyền rất rộng răi nhưng không có sự xác nhận hay phủ nhận chính thức của chính quyền trong nước. Đến năm 2006, báo Tuổi trẻ đă thực hiện một loạt phóng sự điều tra xác nhận rằng toàn bộ số vàng (1234 thỏi) và tiền mặt (hơn 1000 tỷ đồng) đă được bàn giao cho Ban Quân quản "khớp với sổ sách từng chi tiết nhỏ,"[15] như vậy ông Thiệu không có đem vàng của quốc gia đi.

    Ông Lữ Minh Châu nguyên Trưởng ban Quân quản các ngân hàng Sài G̣n - Gia Định, là người tổ chức tiếp quản toàn bộ tiền, vàng của chế độ Việt Nam Cộng ḥa cũng xác nhận 16 tấn vàng, tiền dự trữ và châu báu, nữ trang c̣n nguyên và được chuyển vào tài sản quốc gia.[16]

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    16 tấn vàng của Việt Nam Cộng ḥa

    16 tấn vàng là ngân khoản dự trữ của chính phủ Việt Nam Cộng ḥa cất trong Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vào thời điểm tháng 4 năm 1975, khoảnh khắc cuối cùng của sự tồn tại của nhà nước Việt Nam Cộng ḥa. Số vàng này gồm 1.234 thoi, trị giá 220 triệu đô-la Mỹ theo tỷ giá vào thời điểm đó.

    16 tấn vàng này gắn liền với tên tuổi tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong giai đoạn cuối cùng của chế độ, người đă phải chịu một tin đồn kéo dài suốt hơn 30 năm.

    Bối cảnh

    Vào tháng 3 và tháng 4 năm 1975, các tuyến pḥng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa liên tục sụp đổ trước cuộc tổng tấn công của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong khi đó, Quốc hội Mỹ từ chối đề nghị của Chính phủ Mỹ về việc viện trợ quân sự khẩn cấp cho Việt Nam Cộng ḥa. Chính quyền này đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn.
    Kế hoạch dùng 16 tấn vàng để mua vũ khí

    Để cứu văn sự sụp đổ hoàn toàn hay ít ra cũng làm chậm nó, từ đầu tháng 4, khi hy vọng được Mỹ viện trợ khẩn cấp đă gần như không c̣n, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă lập một kế hoạch khác để vay tiền cho Việt Nam Cộng ḥa. Ông cử ngoại trưởng Vương Văn Bắc bay sang Saudi Arabia, đề nghị quốc vương Haled tiếp tục đồng ư cho Việt Nam Cộng ḥa vay tiền như phụ vương của ông ta (vua Faisal) đă hứa trước khi bị hạ sát. Nhưng để đạt được giải pháp tài chính nhanh hơn nữa, Nguyễn Văn Thiệu cử tổng trưởng kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng ngày 15 tháng 4 bay sang Mỹ để cùng ngoại trưởng Vương Văn Bắc xúc tiến vận động hành lang để vay 3 tỉ USD từ chính phủ Mỹ, với 4 khoản thế chấp là tài nguyên dầu hỏa và nông nghiệp của Việt Nam Cộng ḥa, số tiền mấy trăm triệu USD mà quốc vương Haled hứa cho vay, và 16 tấn vàng dự trữ đang nằm trong hầm của Ngân hàng Quốc gia ở bến Chương Dương.[1] Theo ông Nguyễn Tiến Hưng, thư ông Thiệu gửi Tổng thống và Quốc hội Hoa Kỳ có đoạn: "Tôi trân trọng thỉnh cầu Ngài kêu gọi Quốc hội cho Việt Nam Cộng ḥa vay dài hạn 3 tỷ đô la, chia làm ba năm, lăi suất do Quốc hội ấn định, và xin triển hạn 10 năm trước khi trả vốn và lời. Tài nguyên dầu hoả và canh nông của Việt Nam Cộng ḥa sẽ dùng làm tiền thế chân cho món nợ này. Món nợ giúp chúng tôi chống xâm lăng và cho chúng tôi cơ hội để tồn tại như một quốc gia tự do.[2]

    Cũng từ đầu tháng 4, ông Nguyễn Tiến Hưng đă đề nghị giải pháp dùng vàng dự trữ để mua vũ khí cho Quân lực Việt Nam Cộng ḥa như là "nỗ lực pḥng thủ cuối cùng" và đề xuất các phương pháp chuyển tiền ra nước ngoài. Số vàng dự trữ lúc đó c̣n 16 tấn, trị giá khoảng 220 triệu USD (theo giá vàng lúc đó)[3] được giao cho Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia Lê Quang Uyển phụ trách chuyển ra ngoại quốc để thế chấp. Ông Uyển lập tức liên lạc với các hăng hàng không TWA, Pan Am và Hăng bảo hiểm Lloyd's ở London. Nhưng thông tin bị lộ ra ngoài. Ngày 5 tháng 4, một số tờ báo nước ngoài đă bắt đầu đăng tải những bản tin sốt dẻo đó, với sự ám chỉ về một âm mưu chiếm đoạt của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.[4] Các tờ báo lớn có phóng viên thường trú tại Sài G̣n đưa tin “tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chuẩn bị mang 16 tấn vàng ra khỏi Việt Nam”. Không chỉ BBC, AP, mà nhiều tờ báo khác như Los Angeles Times lúc đó cũng đăng tin. Báo chí Việt Nam Cộng ḥa cũng đưa tin về sự kiện này. Tờ Chính Luận ngày 16 tháng 4 đăng tuyên bố của phát ngôn viên chính phủ: “Hoàn toàn là tin thất thiệt, đầy ác ư, cố ư bôi lọ”. Và: “T́nh trạng loan tin thất thiệt và cố ư bôi lọ của các hăng thông tấn và báo chí ngoại quốc loan đi không phải mới xảy ra mà đă kéo dài từ lâu”[5].

    Kế hoạch chuyển vàng đi Thụy Sĩ v́ thế đă bị vỡ. Các hăng hàng không và bảo hiểm quốc tế từ chối phi vụ này v́ sợ bị dư luận chỉ trích.

    Đại sứ Mỹ Graham Martin can thiệp để giúp chuyển vàng đi. Để hy vọng làm tan đi mối nghi ngờ xung quanh vụ việc, Martin thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu gửi vàng vào Ngân hàng Dự trữ Liên bang tại New York (Federal Reserve Bank of New York), nơi nhiều nước khác cũng gửi tài sản. Nguyễn Văn Thiệu đồng ư.

    Ngày 16 tháng 4, đại sứ Martin đă điện về Washington xin một chuyến bay quân sự đặc biệt được bảo hiểm để chở số vàng đó đi New York. Nhưng không quân Mỹ và Ngân hàng dự trữ liên bang New York đă không dễ dàng t́m được hợp đồng bảo hiểm cho một khối tài sản lớn như thế từ một nước đang có chiến tranh. Cuối cùng th́ vấn đề bảo hiểm cũng được dàn xếp xong.[3]. Sáng ngày 25 tháng 4, một chiếc máy bay quân sự từ căn cứ Clark (Philippines) đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhứt tại Sài G̣n, sẵn sàng bốc 16 tấn vàng ra khỏi Việt Nam.

    Kế hoạch bất thành

    Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Xuân Lộc - tuyến pḥng thủ cuối cùng cho Sài G̣n, người đưa ra quyết định chuyển vàng ra nước ngoài là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă phải từ chức do sức ép lớn từ Mỹ, Pháp khi họ muốn t́m kiếm một giải pháp cứu văn Việt Nam Cộng ḥa bằng thương lượng. Dù ông Thiệu đă từ chức không c̣n quyền hành ǵ, nhưng nhiều người vẫn không muốn sự có mặt của ông tại Sài G̣n trong những ngày căng thẳng đó. Tân tổng thống Trần Văn Hương khuyên ông nên sớm rời khỏi Việt Nam.

    Đêm 25 tháng 4, với sự hộ vệ của các nhân viên CIA Mỹ[6], cùng với cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Văn Thiệu ra đi với tư cách là đặc sứ của Việt Nam Cộng ḥa đến Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch (qua đời ngày 5 tháng 4). Ông không c̣n quyền lực ǵ đối với 16 tấn vàng khi đó vẫn nằm nguyên trong hầm chứa của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. C̣n dư luận th́ vẫn bán tín bán nghi về tin đồn tổng thống mang vàng đi, dù đă có tuyên bố cải chính của chính phủ Việt Nam Cộng ḥa ngày 16 tháng 4. [5]

    Khi Nguyễn Văn Thiệu hết quyền Tổng thống, những người có thẩm quyền lúc đó đă không chịu làm theo ư ông Thiệu nữa. Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Văn Hảo, cựu phó thủ tướng đặc trách sản xuất kiêm tổng trưởng canh nông và kỹ nghệ thời chính phủ Nguyễn Bá Cẩn, lúc đó là người giữ liên lạc giữa chính quyền Sài G̣n và sứ quán Mỹ, hoàn toàn không muốn chuyển 16 tấn vàng ra khỏi Việt Nam[7].

    Trong Hồ sơ mật dinh Độc Lập, tác giả Nguyễn Tiến Hưng viết: Nguyễn Văn Hảo vào gặp tổng thống Trần Văn Hương và dọa rằng: "Nếu tổng thống cho phép chuyển số vàng ấy ra ngoại quốc th́ trong trường hợp tướng Minh (tức ông Dương Văn Minh) lên thay, tổng thống sẽ bị lên án là phản quốc!". Ông Hương đồng ư giữ vàng lại. Sáng ngày 24 tháng 4 (một ngày trước khi ông Thiệu rời Việt Nam), ông Hảo điện cho cố vấn kinh tế đại sứ quán Mỹ Denny Ellerman, nói rằng: tổng thống Trần Văn Hương đă quyết định hoăn vô thời hạn việc chuyển vàng ra khỏi Việt Nam, cho đến khi một chính phủ mới được thành lập.[8]

    Đại sứ Martin bất ngờ trước tin này, nhưng ông không cố gắng thuyết phục tổng thống Hương hủy bỏ lệnh ấy mà quyết định tạm để vàng ở lại v́ nó có thể nâng cao vị thế của chính phủ Việt Nam Cộng ḥa khi thương lượng với phe Cộng sản. Ông lệnh cho chiếc máy bay tiếp tục đợi cho đến nửa đêm ngày 27 tháng 4.[8] Trả lời phỏng vấn TS Nguyễn Tiến Hưng ngày 27 tháng 3 năm 1985, Martin kể: "Vào lúc chót, tôi có nghĩ đến việc liên lạc với người bạn cũ ở Thái Lan là tư lệnh không quân Dhawee Chulasapaya. Sau đó, kêu gọi thêm một số thủy quân lục chiến Thái Lan bay qua Sài G̣n để giải phóng số vàng, mang nó đi. Nhưng chỉ nghĩ thế thôi… Vàng vẫn c̣n lại ở đó".

    Ngày 27 tháng 1 năm 1976, cựu đại sứ Martin đă giải tŕnh trước Quốc hội Mỹ về chuyện 16 tấn vàng:

    "...Những sắp xếp tạm thời đă được thực hiện để chuyển số vàng dự trữ của Việt Nam cộng ḥa sang Ngân hàng Bank of International Settlement (BIS) ở Basel bên Thụy Sĩ nhằm có thể làm thế chấp cho một khoản vay mua đạn dược tại châu Âu. Khi tin này lộ ra th́ không có cách nào chở vàng đi bằng đường hàng không thương mại được nữa.
    "Bởi vậy đă có những sắp xếp tiếp theo để chuyển nó sang tài khoản (của Việt Nam cộng ḥa - NV) tại Ngân hàng Dự trữ liên bang New York.
    "Chẳng may, đang khi có sự chậm trễ về phía Hoa Kỳ trong việc t́m kiếm nguồn bảo hiểm (cho việc chuyên chở số vàng) th́ tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă ra đi. Ông phó thủ tướng (Nguyễn Văn Hảo) và tổng trưởng tài chính đă không xin được phép của tân tổng thống (Trần Văn Hương) để chuyển số vàng này đi...". [2]

    Tiếp quản sau sự kiện 30 tháng 4

    Theo phóng sự điều tra của báo Tuổi Trẻ [9], ngày 2 tháng 5, cựu Phó Thủ tướng VNCH Nguyễn Văn Hảo gặp lănh đạo Ủy ban quân quản thành phố Sài G̣n - Gia Định, ông tŕnh bày chi tiết về câu chuyện liên quan đến 16 tấn vàng và đề nghị Ủy ban quân quản tiến hành tiếp quản và kiểm kê ngay.[10]

    Cũng theo báo Tuổi Trẻ [9], ông Hoàng Minh Duyệt, chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, nói về những nhân viên bảo vệ ngân hàng của chế độ cũ "đă không rời vị trí v́ nhiệm vụ của họ là bảo vệ an toàn kho tiền và vàng dự trữ, không để nó bị xâm nhập, cướp phá giống như nhiều ṭa nhà và trụ sở lân cận. Họ giữ vị trí cho đến khi những người lính giải phóng xuất hiện".

    Cũng theo báo Tuổi trẻ, các ông Huỳnh Bửu Sơn, Lê Minh Kiêm là các nhân chứng trực tiếp bàn giao vàng cho chính quyền mới. Đầu tháng 6 năm 1975, Huỳnh Bửu Sơn, người giữ ch́a khóa kho vàng, và Lê Minh Kiêm, người giữ mă số của các hầm bạc được lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia cùng đơn vị tiếp quản tiến hành kiểm kê các kho tiền và vàng của chế độ cũ. Số tiền và vàng nằm trong kho khớp đúng với sổ sách từng chi tiết nhỏ.

    Ông Huỳnh Bửu Sơn kể về cuộc kiểm kê kho vàng lần cuối cùng khi bàn giao cho chính quyền mới:[11] Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14 kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.

    Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau... Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này c̣n được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dơi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán của ngân hàng theo dơi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho.

    Tin đồn về Nguyễn Văn Thiệu

    Từ đầu tháng 4 năm 1975, khi Nguyễn Văn Thiệu vẫn c̣n tại vị, một số tờ báo nước ngoài đă bắt đầu đăng tải tin về kế hoạch chuyển 16 tấn vàng ra nước ngoài với sự ám chỉ về một âm mưu chiếm đoạt của ông. Báo chí Việt Nam Cộng ḥa cũng đưa tin về sự kiện này. Tuy có báo đăng tuyên bố cải chính của chính phủ Việt Nam Cộng ḥa, nhưng sau khi ông Thiệu đă ra đi, ngày 28 tháng 4, báo Độc Lập khác của Việt Nam Cộng ḥa đăng một bản tin về chuyến ra đi của ông Nguyễn Văn Thiệu với chi tiết: “Tin Reuters ghi nhận liền sau khi đoàn người Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng xuống phi cơ và được đưa vào pḥng khách danh dự, một số hàng hơn 10 tấn cũng đă được cất xuống theo”.[5] Các báo chí viết tường thuật nói ông Thiệu đă bỏ trốn với một số lượng vàng lớn lấy đi từ ngân khố của chính phủ Việt Nam Cộng ḥa. [12].

    Trong hồi kư "Đại thắng mùa xuân", Đại tướng Văn Tiến Dũng khẳng định Nguyễn Văn Thiệu đă mang 16 tấn vàng ra khỏi Việt Nam[13].

    Theo Việt Báo [14], trong suốt 26 năm từ năm 1975 cho đến khi ông Thiệu qua đời, Hà Nội vẫn "rêu rao dựng đứng tin tổng thống Thiệu ra đi mang theo 16 tấn vàng ông đă vơ vét". Ngay cả khi tổng thống Nguyễn Văn Thiệu qua đời, báo Thanh Niên, báo Nhân Dân, và các cơ quan truyền thông của Việt Nam "vẫn công nhiên lôi chuyện 16 tấn vàng để bôi nhọ tổng thống Thiệu".

    C̣n theo báo Tuổi Trẻ, "có quá ít tài liệu trong nước đề cập một cách chính xác và đầy đủ về chuyện này sau năm 1975", cũng theo tờ báo này, "Trong một cuốn sách khá nổi tiếng[15] đă được tái bản khá nhiều lần trong hơn 20 năm qua (ở Việt Nam), người ta đọc được một đoạn “có vẻ chắc chắn” như sau: “Thiệu và Khiêm đáp máy bay rời Sài G̣n sang Đài Loan, nơi anh ruột của Thiệu đang c̣n làm đại sứ (tức ông Nguyễn Văn Kiểu). Thiệu mang theo năm vali chứa đầy đôla. Trước đó, Thiệu đă mướn một chiếc máy bay chở hành khách cỡ lớn của Mỹ, đưa khỏi Việt Nam 17 tấn vàng bạc, châu báu, tài sản quí mà gia đ́nh y đă vơ vét được sau hai nhiệm kỳ làm tổng thống”"[5].

    Theo Luật sư Lê Quang Định[16], từ sau năm 1975, "rất nhiều ấn phẩm trong nước đă thay nhau đổ tội và kết án ông trong “vụ án” bịa đặt này với những “bằng chứng” chắc chắn như thể chính các tác giả đều tận mắt trông thấy".

    Mọi nguồn thông tin đều không bênh vực cho ông Thiệu, ông ra đi mang theo một cái án là kẻ ăn cắp tài sản quốc gia.

    Trong nhiều năm sau chiến tranh, những người biết rơ số phận của 16 tấn vàng tại các cơ quan chức năng nhà nước đă không đính chính tin đồn. Sau này, khi thông tin đă được phổ biến rộng răi qua loạt phóng sự điều tra của báo Tuổi Trẻ. Khi được hỏi tại sao lâu nay Nhà nước Việt Nam không đính chính, ông Lữ Minh Châu, cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trả lời: "Ḿnh biết rất rơ là số vàng đó vẫn c̣n, đă được kiểm kê cẩn thận và đưa vào tài sản quốc gia, nhưng không đính chính v́ đó là tin đồn đăng trên báo chí, có ai đặt câu hỏi chính thức với Nhà nước đâu". [17]
    Giải oan

    Sau hơn 30 năm, tháng 12 năm 2005 hồ sơ mật được phép giải mă, chính phủ Anh công bố Hồ sơ Bộ Ngoại giao trong đó có phần nói về chuyện vị lănh đạo của chính quyền Việt Nam Cộng hoà chuyển sang sống tại khu ngoại ô của London như thế nào. Tuy nhiên, hồ sơ này không nói đến số vàng nào được ông Thiệu mang tới Anh.[12]

    Trả lời phỏng vấn BBC ngày 29 Tháng 12 năm 2005[12], Cựu Tổng trưởng Kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng nói rằng số tiền vàng này chưa mang ra khỏi Việt Nam, nhưng ông không phải là nhân chứng của vụ việc.

    Dư luận nhân dân đặt câu hỏi về việc ông Thiệu có mang vàng ra ngoài hay không và nếu không th́ giờ ở đâu.[5]

    Trong loạt phóng sự điều tra được đăng từ ngày 26 tháng 04 năm 2006, báo Tuổi Trẻ đă phỏng vấn các nhân chứng trực tiếp liên quan đến 16 tấn vàng, làm rơ rằng cựu Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa Nguyễn Văn Thiệu không “đánh cắp” số vàng này. Tuy nhiên, ông đă qua đời từ trước đó, vào năm 2001.

    Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người giữ ch́a khóa kho vàng và là thành viên ban lănh đạo Nha Phát hành Ngân hàng Quốc gia thời điểm tháng 4 năm 1975, th́ số lượng tiền vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách tới từng chi tiết nhỏ.[1]

    Nhận xét

    Về tin đồn Nguyễn Văn Thiệu chuyển 16 tấn vàng ra nước ngoài, Luật sư Lê Công Định viết: "t́m ra tận cùng của sự thật, báo Tuổi Trẻ đă làm được một việc thiện xét từ góc độ lương tri".[16]

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    Kissinger viết ǵ về TT Nguyễn Văn Thiệu?



    Khi chiếm xong miền Nam CSVN nhân danh là kẻ chiến thắng đă phủ chụp lên những lănh đạo miền Nam biết bao tội danh bỉ ổi nào là “lấy 16 tấn vàng đi ra ngoại quốc ” nào “bán nước cho đế quốc Mỹ ” nhưng thời gian dần qua sự thực là sự thực. AI bán nước? Ai tẩu tán vàng? phải chăng là bè lũ tội đồ CSVN đang bán nước hại dân chễm chệ hiện nay tại Hà nội.


    Video Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong ngày Quân Lực VNCH (19-6-1973?)

    Chính ông Nguyễn Văn Thiệu người mà CSVN phủ chụp cho bao điều “hèn mạt” nhất nhưng chính người trong cuộc là cựu ngọai trưởng Mỹ Kissinger cũng viết vài ḍng cảm phục trong hồi kư của ông. Về một người chịu bao đắng cay và nhục nhằn để bảo ṭan đất nước và v́ an nguy dân tộc.

    Lời dẫn: Trong cuốn hồi kư “NHỮNG NĂM THÁNG BIẾN ĐỘNG (YEARS OF UPHEAVAL)" cựu ngoại trưởng Henry Kissinger đă dành khoảng 6 trang viết về TT Nguyễn văn Thiệu trong dịp TT Thiệu đến San Clemente Hoa kỳ sau kư kết hiệp định Ba Lê 27/1/1973. Là đạo diễn chính cho hiệp định này, Kissinger lngười cảm nhận sự chống đối quyết liệt nhất từ TT Thiệu; thêm vào đó ông biết ḿnh là kẻ quyền năng cho thời vận một nước đồng minh nhỏ bé là miền Nam VN.

    Từ đó ác cảm gia tăng giữa hai ngừơi: Một kẻ từng là “quân sư” cho cố TT Richard Nixon, cường quốc số 1 Hoa kỳ. Phía đồng minh TT Thiệu, nhà lănh đạo của một nhược tiểu tuy mang tiếng đồng minh, thân hữu nhưng bó tay trong mọi quyết định tối quan trọng. Ông Kissinger tuy đă làm xong nhiệm vụ của ông ta – một công thần nước Mỹ. Những ngày sau này khi hồi hưu, trong hồi kư chúng ta hi vọng ông Kissinger đối diện với lương tâm và sự thật viết lại những cảm nghĩ của ông về TT Nguyễn văn Thiệu.

    Hơn nữa hi vọng không c̣n sức ép nào để ông ta viết sai đi. Điểm chú ư chúng ta có thể nghĩ ra, ông Kissinger có thể xem thường TT Thiệu v́ miền Nam lệ thuộc hoàn toàn vào viên trợ Mỹ nhưng ông ta không thể xem khinh TT Thiệu được. Trong hồi kư này ông Kissinger cũng thổ lộ những bất công từ báo chí Tây phưong cùng những cay đắng từ định kiến công luận Phương Tây vốn dĩ bị lèo lái theo truyền thông thiên tả.

    Trích dịch: Xuân Khê
    Lưu ư: trích dịch này hoàn toàn dành cho biên khảo và học thuật tuyệt đối không dành cho công việc thương măi nào. Warning: The translation is for a quote in the research- absolutely not for any commercial aim (Xuân Khê)

    YEARS OF UPHEAVAL Henry Kissinger (NHỮNG NĂM BIẾN ĐỘNG)

    Ông (*) Thiệu viếng San Clemente Trước khi chúng ta (**) để tâm đến chuyện vi phạm của miền Bắc VN, chúng ta phải quan tâm đến một phấn nhỏ của đàm phán là cam kết của chúng ta(Hoa k&#7923...đối với đồng minh tổng thống VNCH phải có cơ hội tới thăm tt Hoa kỳ như là phần khích lệ đi sau việc ngưng bắn. Ông Thiệu đă nhiều tháng liền chống đối lại thỏa hiệp ḥa b́nh chia cắt đất nước ông ta. Các điều khoản của hiệp ươc Ba lê c̣n tốt hơn ngay cả kẻ chỉ trích hay ủng hộ chúng ta đă nghĩ.

    Về đề xuất thương thảo phía ông Thiệu tự chấp thuận đề án 3năm trong lúc phía Bắc Việt khó ḷng chấp nhận chuyện này. Nếu chuyện này thành,ông ta đă khéo léo đưa trách nhiệm lên vai chúng ta. Cái ông ta cần là tiếp tục chiến đấu cho đến khi kẻ xâm lăng cuối cùng ra khỏi lănh thổ. Đây không phải là điều sai của ông mà công luận Hoa kỳ th́ lại không chấp nhận. Ông Thiệu chống lại chúng ta(Hoa k&#7923... bằng chiến thuật kiên tŕ … chúng ta cả hai đều đồng đến một kết luận, một miền Nam VN an toàn về lảnh thổ.

    Những ai trong chúng ta dự phần vào thương thảo ḥa ước Ba lê đều không quá nghi ngờ cũng như không quá ngây thơ. Chúng ta nghĩ rằng Băc Việt sẽ gia tăng sức ép, nhưng chúng ta đă ngưng gia tăng mọi lực lượng và quốc hội chúng ta sẽ bỏ phiếu bắt buộc chúng ta bước ra khỏi cuộc chiến này vô điều kiện nếu chúng ta vượt quá giới hạn. Hoa kỳ hi vọng rằng thế bế tắc về quân sự ít nhất sẽ bảo đảm tính an toàn và có thể dẫn đến cuộc nói chuyện tay đôi giữa các phía VN với nhau. Ông Thiệu luôn nh́n vào chuyện trước mắt là quan trọng nhất. Cái gần nhất với ông không phải là ḥa b́nh sau cùng mà địch quân trước mắt.

    Sau khi ngưng bắn, quân đội chúng ta sẽ rút về bên kia bán cầu, c̣n dân tộc của ông vẫn c̣n cảnh một đội quân tiếp tục hi sinh cho những hy vọng mong manh của nền độc lập tại Đông Dương. Chúng ta đă chắc rằng biện pháp của chúng ta sẽ kềm hăm tham vọng của Hà nôi. Nhưng mắt của ông Thiệu chỉ chú mục vào những điều không chắc chắn về lâu dài. Về căn bản ông Thiệu có thể đúng, v́ chuyện là nôi các TT Nixon không thể chống đối nỗi những quyết định từ quốc nội và nếu giá dư có thuận lợi chăng th́ nội các đó cũng tránh né ư niệm về trách nhiệm của chúng ta.

    Ông Thiệu càng lúc càng ghét cay ghét đắng tôi v́ vai tṛ kiến trúc sư của tôi về thỏa ước ḥa b́nh này. Trong lúc này tôi chỉ biết thông cảm sâu xa về nỗi bực tức của ông, nhưng chúng ta không có chọn lựa nào khác. Hoa kỳ không thể phủ quyết khi Hà nội đă chấp thuận, những điều khoản rất ḥa b́nh chúng ta đă đề ra với sự chấp thuận của ông Thiệu cho thời hạn ba năm. Cho đến hôm nay tôi kính trọng ông Thiệu như là một gương hào hùng của một kẻ dám chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông, một kẻ sau này đă chiến bại bởi những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân ông, đất nước ông và ngay cả ngoài ṿng quyết định của chúng ta. Ông Thiệu viếng Hoa kỳ từ hôm 2/4/1973.\

    Chúng ta chẳng được chút ǵ tự hào về chuyến viếng thăm này. Suốt cuộc chiến vừa qua chúng ta chiến đấu vai bên vai với người dân đất nước ông, rất khó ḷng chấp nhận ông vào thăm trong nội địa Hoa kỳ v́ một nỗi e ngại sự chống đối của dân chúng. TT Hoa kỳ và ông đă kín đáo gặp nhau lần lượt tại Guam, Hawaii, và tại Midway. Ông Thiệu chưa bao giờ được phép đặt chân vào nội địa Hoa kỳ. Chuyến viếng thăm của ông Thiệu vào Hoa kỳ năm 1973 là cố tâm tạo dựng một biểu tượng về mối dây giao hảo trong giai đoạn ḥa b́nh mới mà sự hi sinh của chúng ta dành cho một miền Nam tự do. Chuyện gần như hoàn toàn trái ngược.

    Sự chấm dứt chiến tranh chưa hẳn làm thôi nguy cơ chống đối của công chúng. Do đó chúng ta phải tiếp đón nhà lănh đạo một nước đồng minh tại ṭa ‘‘Bạch Ốc tại bờ Tây” tức là San Clemente, mà hàng chục ngàn sinh mạng người Mỹ cùng đồng minh và hàng trăm ngàn sinh mạng người VN phải hi sinh cho nền tự do của họ. Những buổi lễ tiếp đón và đưa tiễn phải bị thu hẹp lại cơ ngơi của TT cùng canh gác nghiêm nhặt. Ngay cả buôi tiệc tối quốc gia cũng phải chuyển đổi thành bữa tiếp tân gia đ́nh.

    Lư do bào chữa của TT Nixon v́ pḥng ăn tối chỉ đủ chỗ không quá mười hai khách nhưng thực ra v́ mời nhiều khách khứa sẽ mang lại nỗi e sợ những vị khách quá khích chống đối. Nhằm thực hiện lời hứa, phó TT Spiro Agnew được chọn làm vai tṛ chủ nhân tiếp đăi tại thủ đô. T́nh cảnh buổi tiếp đó ông Agnew tiết lộ chớp nhoáng với tôi qua điện thoại trước khi phi cơ chở ông Thiệu hạ cánh. Agnew phàn nàn rằng chỉ có một nhân vật chính phủ là ông bộ trưởng lao động Peter J. Brennan đi theo để đón ông Thiệu thôi. Chỉ có một ít khách dự bữa tối đó với ông phó TT.

    Những nhân vật cao cấp trong nội các th́ t́m cớ để ra khỏi thành phố lúc này. Đây là điều hổ thẹn v́ những ngày tôi tùng sự tại Hoa thịnh Đốn mốt số nhân vật lănh đạo Cộng Sản đă được tiếp đón một cách danh dự. Những giới chức cao cấp giành nhau đến dự cho được buổi dạ tiệc nhằm vinh danh những nhân vật trung lập đặc biệt họ từng chỉ trích nặng nề Hoa kỳ chúng ta. Nhưng một tổng thống chung thủy với một nước bạn bè th́ chúng ta hững hờ phó mặc. Những kẻ này đă lấy lư do về những khiếm khuyết dân chủ của ông ta làm lư do bào chữa và đẩy đưa cả dân tộc ông về phía kẻ thù của dân chủ. Không có sự kiện thuyền nhân chạy trốn khỏi VN khi ông Thiệu c̣n tại chức.

    Rơ ràng hàng triệu bàn chân trốn chạy về vùng ông Thiệu kiểm soát tránh xa vùng đất CS chiếm đóng tức đă bầu cho ông ta rồi. Thói thường hay đổ tội cho việc dội bom của chúng ta nhưng sau này chắc hẳn một điều là đó là phản ứng đối với tính bạo tàn của chế độ CS. Ông Thiệu từng bước cố gằng mở rộng cơ cấu chính quyền – tuy chưa đầy đủ- ngay cả trong vùng CS kiểm soát nơi đó các giới chức của ông dễ thành mục tiêu. Theo phê phán của ông th́ chuyện này chưa có lợi lộc nào cả. Theo cảm nhận từ chúng ta, điều có phần chắc miền Nam VN mới chỉ phôi thai tạo dựng một thể chế dân chủ. Cũng có những phê phán công b́nh về sự hà khắc cùng tham nhũng.

    Nhưng những khi phe đối lập của ông Thiệu tŕnh bày những rắc rối từ nền chính trị đa nguyên tại Sài g̣n tới giới báo chí chúng ta th́ chúng ta chưa ai so sánh với Hà nội cả, một nơi mà đối lập chưa bao giờ được chấp nhận, báo chí bị kiểm soát và sự liên lạc với truyền thông ngoại quốc hoàn toàn bị cấm đoán. Nói gọn đi đ̣i hỏi này thật khó ḷng đáp ứng cho được t́nh thuận lợi cho cách nh́n kiểu Mỹ đối với ông Thiệu. Kh tôi thăm ḍ bạn bè Âu châu về chuyến thăm của Ông Thiệu đến Hoa kỳ ngay cả khi kết hợp công du hay cá nhân, có một sự im lặng khó hiểu.

    Ông và ngay cả ngoại trưởng của ông cũng chưa bao giờ được tiếp đón tại thủ đô các nước đồng minh ngoại trừ Ba Lê nơi diễn ra ḥa đàm - một tiến tŕnh giải thể chính phủ ông Thiệu - bước đầu tiên trong việc bỏ rơi- diễn khá hay. Trong lúc đó, bà Nguyễn thị B́nh, cái gọi là bộ trưởng ngoại giao cho chính phủ MA: CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG SẢN, chưa hề có khả năng tŕnh ra ngay cả một nơi làm thủ đô th́ lại được tiếp trọng thể tại Đông Âu. Thật là một hiện tượng lạ đời, ngừơi ta cứ tự ru ngủ ḿnh bằng cách cứ thuyết phục những người đứng đắn và chân thiện hướng chuyện phẩn nộ về đạo đức vào cái gọi là bảo thủ. Trong cuộc chiến tại Âu châu có khẩu hiệu ” không có quân thù ở cánh tả ” Vào những năm sau chiến tranh báo chí Tây Phương dăy đầy chuyện vi phạm từ các chế độ như Tây ban Nha, Bồ đào Nha, Nam Hàn, Hy lạp, Ba tư, Nam VN và một số khác.

    Trong khi đó có nhiều nước những cái gọi là “dân chủ nhân dân ” đáng bị kiềm chế đáng phải hối cải về những chuyện tàn ác của họ vẫn tại Đông Âu hay chế độ chuyên chế thiên tả Thế giới Thứ Ba và dĩ nhiên có Cộng sản Bắc Việt. Đừng bao giờ cho rằng các chế độ “tiến bộ” là đầy tớ của nhân dân- các thử thách về ḷng trung thành phục vụ dân chúng - bởi v́ các chế độ này hoàn toàn là những thể chế toàn trị mà những chế độ bảo thủ thường gặp rối loạn v́ họ không có cả lư thuyết lẫn công cụ để đàn áp có hiệu quả. Đừng cho là các thể chế bảo thủ sẽ để yên cho lân bang và có trường hợp sẽ tự phát triển thành các thể chế dân chủ (Tây ban Nha, Hy lạp, Bồ đào Nha) khi quân đội Sô viết áp đặt ư muốn họ lên thế giới lấy danh nghĩa chủ thuyết đại đồng. Chưa hề có ghi nhận nào về sự tiến triển tốt đẹp cho các chế độ chính trị ở Thế giới Thứ Ba vào thời hậu chiến.

    Làn sóng di dân ào ạt vào thời đại chúng ta luôn luôn phát xuất từ các nước CS chứ không hề theo chiều ngược lại. Thê mà vẩn c̣n những thói khinh mạng, xúc phạm cùng đối xử bất xứng để dành cho cho bạn bè Tây phương chúng ta như trường hợp ông Thiệu năm 1973 và sau này là Vua Shah của Ba Tư cùng trong cùng thập kỷ… [skipped unrelated passages…]. Đất nước ông Thiệu bị tấn công bởi nhiều mặt trận, trước tiên là lực lượng du kích được Hà nội trang bị cùng huấn luyện và tiếp đến là sự xâm lăng ào ạt của lực lượng chính quy từ Bắc VN.

    Tuy thế chính phủ Hoa kỳ vẫn cố gắng gia tăng áp lực thúc đẩy vấn đề tổng tuyển cử và linh động trong thương thuyết phần nào tránh được sự lên án và xoa dịu chỉ trích dai dẳng tại quốc nội. Như là một phép lạ phát xuất từ ḷng dũng cảm, ông Thiệu đă cố gắng lèo lái quốc gia trong giai đoạn cam go này, chiến đấu chống lại quân thù cố tâm xâm lấn và làm an tâm đồng minh nào chưa thông hiểu ông. Ông nổi bật với thỏa ứớc 1973 trong đó Hà nội phải từ bỏ những đ̣i hỏi về chính trị từ bao lâu nay mà quay lại cho vấn đề ngưng bắn c̣n tốt hơn chúng ta mong đợi, tuy c̣n bấp bênh theo kỳ vọng của ông.

    Về riêng tư tuy tôi dành ít cảm t́nh về ông Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông v́ ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm (nguyên văn: terrible loneliness) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm t́nh và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao ṃn đi. Dù rằng nguyên thủ chúng ta đă tổ chức buổi đón rước ông với sự thiếu vắng từ phía công chúng, phản ứng của ông xem như là chuyện thường t́nh trên thế giới này. Tại San Clemente, trong bài diễn văn lịch sự dành cho ông, TT Nixon có ám chỉ đến khả năng tự bảo vệ của miền Nam VN - một ư niệm nghi ngờ khi Hà Nội dốc toàn lực tấn công với vũ khí của Liên xô.

    Thật lạ như chuyện thần kỳ ông không vội suy sụp ngay khi so sánh với thực tế miền Nam với Châu Âu sau thế chiến Hai chúng ta đă duy tŕ 300,000 quân Mỹ ở lại tới một phần tư thế kỷ! Sau các nghi thức buổi lễ, hai nhà lănh đạo tiếp tục nói chuyện riêng với nhau. Thực sự, chẳng c̣n ǵ nhiều để bàn thảo thêm nữa . Ông chẳng hề kêu van về công chuyện chúng ta bỏ lại cho ông và ngay cả cái dă tâm từ phía Hà nội. Nhưng ông đưa ra một một sự kiện thưc tế trước mắt chúng ta là vi phạm từ phía Bắc Việt. Về riêng tư TT Nixon có bảo đảm với ông-cũng như TT đă từng công bố vào hôm 15 tháng Ba và vài nơi khác – rằng TT sẽ chống lại những vi phạm trắng trợn đó bằng vũ lực nếu thấy cần thiết. Cùng một lúc TT(tức Nixon) vừa năn nỉ vừa dọa dẫm ông Thiệu bắt miền Nam phải thi hành những điều khoản của hiệp định đề ra.

    Ông Nixon c̣n nhắn nhủ nếu có thất bại nào về Hiệp ước Ba lê th́ rơ ràng trách nhiệm thuộc về cánh Hà nội. Ông Thiệu chỉ rơ trở ngại chính về sự thành lập Ủy Ban Ḥa Giải Ḥa Hợp Dân Tộc do Hiệp ước đề ra là do Hà Nội từ chối cuộc tổng tuyển cử do ủy ban này giám sát. “Cuộc tranh đua về chính trị” này đă được một số người Mỹ nhiệt liệt tán thành cùng ủng hộ trong thời kỳ đang xảy ra chiến tranh nhưng sẽ không bao giờ được phía Hà nội thi hành lúc ḥa b́nh. Cuộc tranh đấu bằng bầu cử, loại h́nh từng bị coi thường ngay trong chính quốc gia của nó nhưng nó không bao giờ gây mất mát cho cả một thế hệ nào. Sang ngày thảo luận thứ hai hai Ông Nixon và Ông Thiệu quan tâm vấn đề viện trợ cho miền Nam VN.

    Có một điều chưa thực tế cho lắm đối với các bên liên quan, v́ người ta biết rằng sự ủng hộ của Quốc hội chúng ta ngay cả việc giúp đỡ phát triển về kinh tế cho miền Nam cũng thu hẹp lại quá mau. Phía Tự Do (Liberals) th́ thấy không c̣n lợi lộc ǵ v́ họ đă mất dần cam kết giúp cho Miền Nam sống c̣n, phía Bảo Thủ th́ muốn tin rằng họ phải hoàn thành nhiệm vụ làm sao giúp cho cuộc chiến này chấm dứt trong danh dự. Hai phía đều biểu hiệu sự mệt mỏi của quốc gia. Ông Nixon hứa sẽ xem lời yêu cầu viện trợ của Sài G̣n làm mục tiêu trước mắt. Nhưng chuyện c̣n tùy thuộc vào ư kiến từ Quốc Hội.

    Ông Thiệu đă nhận được lời hứa trên thông cáo chung chính phủ rằng hai đồng minh sẽ duy tŕ “TÍNH CẢNH GIÁC” nhằm chống lại “SỰ TÁI TỤC TẤN CÔNG PHÍA CS SAU KHI LỰC LƯỢNG DIỆN ĐỊA HOA KỲ RÚT KHỎI NAM VN” và nữa, “BẤT CỨ HÀNH ĐỘNG NÀO GÂY ĐE DỌA TÍNH ỔN ĐỊNH CHO HIỆP ĐỊNH SẼ NHÂN LẤY PHẢN ỨNG MẠNH MẺ THÍCH ĐÁNG “đây là tuyên bố sau này trứơc công luận từ TT Nixon khi ông quyết tâm thi hành hiệp định. Sự mập mờ chưa dứt khoát về vấn đề viện trợ kinh tế không làm lu mờ ḷng hưng phấn của ông Thiệu ngày ông rời San Clemente.

    Khi máy bay của ông cất cánh khỏi California, ông đă khui rượu uống mừng ghi nhớ sự hài ḷng cùng khuây nguôi của ông từ cuộc nói chuyện với ông Nixon. Dù tánh ông hay nghi ngại cùng các dấu hiệu khó khăn tương lai đang tới dần–gồm thái độ do dự của chúng ta đối với sự vi phạm hiệp định của Hà nội và lưỡng lự viện trợ kinh tế cho miền Nam – thế mà ḷng tin của ông không bao giờ thay đổi rằng Hoa kỳ sẽ đáp ứng viện trợ cho miền Nam trong trường hợp khẩn cấp. Đây cùng niềm tin từng được các đồng minh khác của Hoa kỳ ấp ủ xưa nay, ḷng trung thành từng tạo dựng nên một trong các giá trị căn bản của Hoa kỳ chúng ta đối với thế giới thế nên chúng ta gắng làm sao đừng để nó vuột mất.

    Source: Kissinger, Henry. Years of Upheaval. 1st ed. Boston: Little Brown, 1981. 309-315

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HOÀ II
    (năm 1967)


    QUỐC HỘI LẬP HIẾN Chung quyết trong phiên họp Ngày 18 tháng 3 năm 1967

    -------o0o--------

    LỜI MỞ ĐẦU


    Tin tưởng rằng ḷng ái quốc, chí quật cường, truyền thống đấu tranh của dân tộc bảo đảm tương lai huy hoàng của đất nước.

    Ư thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lănh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lănh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ư chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể Cộng Ḥa của dân, do dân và v́ dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lănh thổ, bảo đảm Độc Lập Tự Do Dân Chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.

    Chúng tôi một trăm mười bảy (117) Dân Biểu Quốc Hội Lập Hiến đại diện nhân dân Việt Nam, sau khi thảo luận, chầp thuận Bản Hiến Pháp sau đây :

    CHƯƠNG I: Điều khoản căn bản
    ĐIỀU 1
    1- VIỆT NAM là một nước CỘNG H̉A, độc lập, thống nhất, lănh thổ bất khả phân
    2- Chủ quyền Quốc Gia thuộc về toàn dân
    ĐIỀU 2
    1- Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân
    2- Quốc Gia chủ trương sự b́ng đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái. Đồng bào thiểu số được đặc biệt ,nâng đỡ để theo kịp đà tiến hóa chung của dân tộc
    3- Mọi công dân có nghĩa vụ góp phần phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc
    ĐIỀU 3
    Ba cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rơ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều ḥa để thực hiện trật tự xă hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự Do, Dân Chủ và Công Bằng Xă Hội
    ĐIỀU 4
    1- Việt Nam Cộng Ḥa chống lại chủ nghĩa cộng sản dưới mọi h́nh thức
    2- Mọi hành vi nhằm mục đích tuyên truyền hay thực hiện chủ nghĩa cộng sản đều bị cấm chỉ
    ĐIỀU 5
    1- Việt Nam Cộng Ḥa chấp nhận các nguyên tắc quốc tế pháp không trái với chủ quyền quốc gia và sự b́nh đẳng giữa các dân tộc
    2- Việt Nam Cộng Ḥa cương quyết chống lại mọi h́nh thức xâm lược và nỗ lực góp phần xay dựng nền an ninh và ḥa b́nh thế giới

    CHƯƠNG II: Quyền lợi và Nghĩa vụ công dân
    ĐIỀU 6
    1- Quốc Gia tôn trọng nhân phẩm
    2- Luật pháp bảo vệ tự do, sinh mạng, tài sản và danh dự của mọi công dân
    ĐIỀU 7
    1- Quốc Gia tôn trọng và bảo vệ quyền an toàn cá nhân và quyền biện hộ
    2- Không ai có thể bị bắt bớ, giam giữ nếu không có mệnh lệnh hợp pháp của cơ quan có thẩm quyền luật định, ngoại trừ trường hợp quả tang phạm pháp
    3- Bị can và thân nhân phải được thông báo tội trạng trong thờ hạn luật định. Mọi sự câu lưu phải đặt dưới quyền kiểm soát của cơ quan Tư Pháp
    4- Không ai có thể bị tra tấn, đe dọa hay cưỡng bách thú tội. Sự nhận tội v́ tra tấn. Đe dọa hay cưỡng bách không được coi là bằng chứng buộc tội
    5- Bị can phải được xét xử công khai và mau chóng
    6- Bị can có quyền được luật sư biện hộ dự kiến trong moi giai đoạn thẩm vấn kể cả trong cuộc điều tra sơ vấn
    7- Bị can về các tội Tiểu H́nh, chưa có tiền án quá ba (3) tháng tù về các tội phạm cố ư, có thể được tại ngoại hầu tra nếu có nghề nghiệp và địa chỉ chắc chắn. Nữ bị can về các tội tiểu h́nh. Có nghề nghiệp và địa chỉ chắc chắn, nếu có thai trên ba (3) tháng
    8- Bị can được suy đoán là vô tội cho đến khi bản án xác nhận tội trạng trở thành nhất định.
    Sự nghi vấn có lợi cho bị can
    9- Bị can bị bắt giữ oan ức, sau khi được tuyên bố vô tội, có quyền đ̣i Quốc Gia bồi Thường thiệt hại trong những điều kiện luật định
    10- Không ai có thể bị câu thúc thân thể v́ thiếu nợ
    ĐIỀU 8
    1- Đời tư, nhà cửa và thư tín của công dân phải được tôn trọng
    2- Không ai được quyền xâm nhập, khám xét nơi cư trú và tịch thâu đồ vật của người dân, trừ khi có lệnh của Ṭa Aùn hoặc cần bảo vệ an ninh và trật tự công cộng trong phạm vi luật định
    3- Luật pháp bảo vệ tánh cách riêng tư của thư tín, những hạn chế, nếu có phải do một (1) đạo luật qui định
    ĐIỀU 9
    1- Quốc Gia tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do truyền giáo và hành đạo của mọi công dân miễn là không xâm phạm đến quyền lợi quốc gia, không phương hại đến an ninh, trật tự công cộng và không trái với thuần phong mỹ tục
    2- Quốc Gia không thừa nhận một tôn giáo nào là Quốc Giáo. Quốc Gia vô tư đối với sự phát triển của các tôn giáo
    ĐIỀU 10
    1- Quốc Gia công nhận quyền tự do giáo dục
    2- Nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí
    3- Nền giáo dục Đại Học được tự trị
    4- Những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn
    5- Quốc Gia khuyến khích và nâng đỡ các công dân trong việc nghiên cứu và sáng tác về khoa học, văn học và nghệ thuật
    ĐIỀU 11
    1- Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản
    2- Một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục
    ĐIỀU 12
    1- Quốc Gia tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, báo chí và xuất bản, miễn là sự hành xử các quyền này không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc pḥng hay thuần phong mỹ tục
    2- Chế độ kiểm duyệt không được chấp nhận, ngoại trừ các bộ môn điện ảnh và kịch trường
    3- Một đạo luật sẽ ấn định qui chế báo chí
    ĐIỀU 13
    1- Mọi công dân đều có quyền tự do hội họp và lập hội trong phạm vi luật định
    2- Mọi công dân đều có quyền bầu cử , ứng cử và tham gia công vụ trên căn bản b́nh đẳng theo điều kiện và thể thức luật định
    3- Quốc Gia tôn trọng các quyền chính trị của mọi công dân kể cả quyền tự do thỉnh nguyện, quyền đối lập công khai bất bạo động và hợp pháp
    ĐIỀU 14
    Mọi công dân đều có quyền tự do cư trú, đi lại, xuất ngoại và hồi hương, ngoại trừ trường hợp luật pháp hạn chế v́ lư do y tế, an ninh và quốc pḥng
    ĐIỀU 15
    1- Mọi công dân đều có quyền, có bổn phận làm việc và được hưởng thù lao tương xứng để bảo đảm cho bản thân và gia đ́nh một đời sống hợp với nhân phẩm
    2- Quốc Gia nỗ lực tạo công việc làm cho mọi công dân
    ĐIỀU 16
    Quyền tự do nghiệp đoàn và quyền đ́nh công được tôn trọng trong phạm vi và thể thức luật định
    ĐIỀU 17
    1- Quốc Gia công nhận gia đ́nh là nền tảng của xă hội. Quốc Gia khuyến khích, nâng đỡ sự thành lập gia đ́nh, săn sóc sản phụ và thai nhi
    2- Hôn nhân được đặt căn bản trên sự ưng thuận, sự b́nh đẳng và sự hợp tác giữa vợ chồng
    3- Quốc Gia tán trợ sự thuần nhất gia đ́nh
    ĐIỀU 18
    1- Quốc Gia nỗ lực thiết lập chế độ an ninh xă hội
    2- Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập chế độ cứu trợ xă hội và y tế công cộng
    3- Quốc Gia có nhiệm vụ nâng đỡ đời sống tinh thần và vật chất của các chiến sĩ quốc gia, bảo trợ và dưỡng dục các quốc gia nghĩa tử
    ĐIỀU 19
    1- Quốc Gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu
    2- Quốc Gia chủ trương hữu sản hóa nhân dân
    3- Sở hữu chủ các tài sản bị truất hữu hoặc trưng dụng v́ lư do công ích phải được bồi thường nhanh chóng và thoả đáng theo thời giá
    ĐIỀU 20
    1- Qsuyền tự do kinh doanh và cạnh tranh được công nhận nhưng không được hành xử để nắm giữ độc quyền, độc chiếm hay thao túng thị trường
    2- Quốc Gia khuyến khích và tán trợ sự hợp tác kinh tế có tánh cách tương trợ
    3- Quốc Gia đặc biệt nâng đỡ những thành phần xă hội yếu kém về kinh tế
    ĐIỀU 21
    Quốc Gia chủ trương nâng cao đời sống nông dân và đặc biệt giúp đỡ nông dân có ruộng đất canh tác
    ĐIỀU 22
    Trên nguyên tắc quân b́nh giữa nghĩa vụ và quyền lợi, công nhân có quyền cử đại biểu tham gia quản trị xí nghiệp, đặc biệt về những vấn đề liên quan đến lương bổng và điều kiện làm việc trong phạm vi và thể thức luật định
    ĐIỀU 23
    1- Quân Nhân đắc cử vào các chức vụ dân cử, hay tham chánh tại cấp bậc trung ương phải được giải ngũ hay nghỉ giả hạn không lương, tuỳ theo sự lựa chọn của đương sự
    2- Quân Nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái
    ĐIỀU 24
    1- Quốc Gia công nhận sự hiện hữu của các sắc tộc thiểu số trong cộng đồng Việt Nam
    2- Quốc Gia tôn trọng phong tục tập quán của đồng bào thiểu số. Các ṭa án phong tục phải được thiết lập để xét xử một số các vụ án phong tục giữa các đồng bào thiểu số
    3- Một đạo luật sẽ qui định những quyền lợi đặc biệt để nâng đỡ đồng bào thiểu số
    ĐIỀU 25
    Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc và chánh thể Cộng Ḥa
    ĐIỀU 26
    Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Hiến Pháp và tôn trọng luật pháp
    ĐIỀU 27
    Mọi công dân đều có nghĩa vụ thi hành quân dịch theo luật định
    ĐIỀU 28
    Mọi công dân đều có nghĩa vụ đóng thuế theo luật định
    ĐIỀU 29
    Mọi sự hạn chế các quyền công dân căn bản phải được qui định bởi một đạo luật có ấn định rơ phạm vi áp dụng trong thời gian và không gian. Tuy nhiên trong mọi trường hợp, tánh cách thiết yếu của các quyền công dân căn bản vẫn không được vi phạm.

    CHƯƠNG ...: Lập Pháp
    ĐIỀU 30
    Quyền Lập Pháp được quốc dân ủy nhiệm cho Quốc Hội.
    Quốc Hội gồm hai viện :
    - Hạ Nghị Viện
    - Thượng Nghị Viện
    ĐIỀU 31
    Hạ Nghị Viện gồm từ một trăm (100) đến hai trăm (200) Dân Biểu
    1- Dân Biểu được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín theo thể thức đơn danh, trong từng đơn vị lớn nhất là tỉnh
    2- Nhiệm kỳ Dân Biểu là bốn (4) năm. Dân Biểu có thể được tái cử
    3- Cuộc bầu cử tân Hạ Nghị Viện sẽ được kết thúc chậm nhất là một (1) tháng trước khi pháp nhiệm cũ chấm dứt
    ĐIỀU 32
    Được quyền ứng cử Dân Biểu những công dân :
    1- Có Việt tịch từ khi mới sanh, hoặc đă nhập Việt tịch ít nhất bảy (7) năm, hoặc đă thủ đắc hoặc hồi phục Việt tịch ít nhất năm (5) năm tính đến ngày bầu cử
    2- Đủ hai mươi lăm (25) tuổi tính đến ngày bầu cử
    3- Được hưởng các quyền công dân
    4- Ở trong t́nh trạng hợp lệ quân dịch
    5- Hội đủ những điều kiện khác dự liệu trong đạo luật bầu cử Dân Biểu
    ĐIỀU 33
    Thượng Nghị Viện gồm từ ba mươi (30) đến sáu mươi (60) Nghị Sĩ
    1- Nghị Sĩ được cử tri đoàn toàn quốc bầu lên trong một cuộc phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín theo thể thức Liên Danh đa số. Mỗi Liên Danh gồm từ một phần sáu (1/6) đến một phần ba (1/3) tổng số Nghị Sĩ
    2- Nhiệm kỳ Nghị Sĩ là sáu (6) năm, mỗi ba (3) năm bầu lại phân nửa (1/2). Nghị Sĩ có thể được tái cử
    3- Các Nghị Sĩ trong pháp nhiệm đầu tiên sẽ được chia làm hai nhóm đều nhau, theo thể thức rút thăm. Nhóm thứ nhất có nhiệm kỳ sáu (6) năm, nhóm thứ hai có nhiệm kỳ ba (3) năm
    4- Cuộc bầu cử các tân Nghị Sĩ phải được tổ chức chậm nhất là một (1) tháng trước khi phân nửa (1/2) tổng số Nghị Sĩ chấm dứt pháp nhiệm
    ĐIỀU 34
    Được quyền ứng cử Nghị Sĩ những công dân đủ ba mươi (30) tuổi tính đến ngày bầu cử, hội đủ các điều kiện dự liệu trong đạo luật bầu cử Nghị Sĩ và các điều kiện qui định ở Điều 32
    ĐIỀU 35
    1- Trong trường hợp khống khuyết Dân Biểu v́ bất cứ nguyên nhân nào, cuộc bầu cử thay thế sẽ được tổ chức trong hạn ba (3) tháng, nếu sự khống khuyết xảy ra trên hai (2) năm trước ngày chấm dứt pháp nhiệm
    2- Trong trường hợp khô&ng khuyết Nghị Sĩ v́ bất cứ nguyên nhân nào, cuộc bầu cử thay thế sẽ được tổ chức chung với cuộc bầu cử phân nửa (1/2) tổng số Nghị Sĩ gần nhất
    ĐIỀU 36
    Các thể thức và điều kiện ứng cử, bầu cử Dân Biểu và Nghị Sĩ, kể cả Dân Biểu đồng bào Thiểu số, sẽ do những đạo luật quy định
    ĐIỀU 37
    1- Không thể truy tố, tầm nă, bắt giam hay xét xử một Dân Biểu hay Nghị Sĩ v́ những sự phát biểu và biểu quyết tại Quốc Hộ
    2- Trong suốt thời gian pháp nhiệm, ngoại trừ trường hợp quả tang phạm pháp, không thể truy tố, tầm nă, bắt giam hay xét xử một Dân Biểu hay Nghị Sĩ, nếu không có sự chấp thuận của ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ
    3- Trong trường hợp quả tang phạm pháp, sự truy tố hay bắt giam sẽ được đ́nh chỉ nếu có sự yêu cầu của Viện sở quan
    4- Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền bảo mật về xuất xứ các tài liệu tŕnh bày trước Quốc Hội
    5- Dân Biểu và Nghị Sĩ không thể kiêm nhiệm một chức vụ công cử hay dân cử nào khác
    6- Dân Biểu và Nghị Sĩ có thể phụ trách giảng huấn tại các trường đại học và cao đẳng kỹ thuật
    7- Dân Biểu, Nghị Sĩ và người hôn phối không thể tham dự những cuộc đấu thầu hay kư hợp đồng với các cơ quan công quyền
    ĐIỀU 38
    1- Trong trường hợp can tội phản quốc hay các trọng tội khác, Dân Biểu hay Nghị Sĩ có thể bị Viện sở quan truất quyền
    2- Sự truất quyền phải được hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ đề nghị
    3- Quyết định truất quyền phải được ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ chấp thuận
    4- Đương sự được quyền biện hộ trong mọi giai đoạn của thủ tục truất quyền
    ĐIỀU 39
    Quốc Hội có thẩm quyền :
    1- Biểu quyết các đạo luật
    2- Phê chuẩn các hiệp ước và hiệp định quốc tế
    3- Quyết định việc tuyên chiến và nghị ḥa
    4- Quyết định việc tuyên bố t́nh trạng chiến tranh
    5- Kiểm soát chính phủ trong việc thi hành chánh sách Quốc Gia
    6- Trong phạm vi mỗi viện, quyết định hợp thức hóa sự đắc cử của các Dân Biểu hay Nghị Sĩ
    ĐIỀU 40
    1- Mỗi viện với một phần ba (1/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ có quyền yêu cầu Thủ Tướng hay các nhân viên chính phủ ra trước Viện sở quan để trả lời các câu chất vấn về sự thi hành chánh sách quốc gia
    2- Chủ tịch Uũy Ban của mỗi viện có quyền yêu cầu các nhân viên chánh phủ tham dự các phiên họp của Uũy Ban để tŕnh bày về các vấn đề liên quan đến Bộ sở quan
    ĐIỀU 41
    Thượng Nghị Viện có quyền mở cuộc điều tra về sự thi hành chánh sách quốc gia và yêu cầu các cơ quan công quyền xuất tŕnh các tài liệu cần thiết cho cuộc điều tra này
    ĐIỀU 42
    1- Quốc Hội có quyền khuyến cáo thay thế từng phần hay toàn thể Chánh phủ với đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ
    2- Nếu Tổng Thống không có lư do đặc biệt để khước từ, sự khuyến cáo sẽ có hiệu lực
    3- Trong trường hợp Tổng Thống khước từ, Quốc Hội có quyền chung quyết sự khuyến cáo với đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ. Sự khuyến cáo sau này của Quốc Hội có hiệu lực kể từ ngày chung quyết
    ĐIỀU 43
    1- Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền đề nghị các dự án luật
    2- Tổng Thống có quyền đề nghị các dự thảo luật
    3- Các dự án luật và dự thảo luật, gọi chung là dự luật phải được đệ nạp tại văn pḥng Hạ Nghị Viện
    4- Trong mọi trường hợp Hạ Nghị Viện chấp thuận hoặc bác bỏ một dự luật. Viện này đều chuyển dự luật sang văn pḥng Thượng Nghị Viện trong thời hạn ba (3) ngày tṛn
    5- Nếu Thượng Nghị Viện đồng quan điểm với Hạ Nghị Viện, dự luật sẽ được chuyển sang Tổng Thống để ban hành hoặc sẽ bị bác bỏ
    6- Nếu Thượng Nghị Viện không đồng quan điểm với Hạ Nghị Viện, dự luật sẽ được gởi về văn pḥng Hạ Nghị Viện trong thời hạn ba (3) ngày tṛn, kèm theo quyết nghị có viện dẫn lư do
    7- Trong trường hợp sau này, Hạ Nghị Viện có quyền chung quyết dự luật với đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu
    8- Nếu Hạ Nghị Viện không hội đủ đa số hai phần ba (2/3) nói trên, quan điểm của Thượng Nghị Viện được coi là chung quyết
    9- Thời gian thảo luận và biểu quyết một dự luật tại Thượng Nghị Viện chỉ có thể bằng phân nửa (1/2) thời gian thảo luận và biểu quyết tại Hạ Nghị Viện. Thời gian thảo luận và chung quyết một dự luật tại Hạ Nghị Viện chỉ có thể gấp đôi thời gian thảo luận và biểu quyết tại Thượng Nghị Viện
    ĐIỀU 44
    1- Các dự luật được Quốc Hội chung quyết sẽ được chuyển sang Tổng Thống trong thời hạn ba (3) ngày tṛn
    2- Thời gian ban hành là mười lăm (15) ngày tṛn kể từ ngày Tổng Thống tiếp nhận dự luật
    3- Trong trường hợp khẩn cấp do Quốc Hội thẩm định, thời hạn ban hành là bảy (7) ngày tṛn
    4- Nếu Tổng Thống không ban hành trong các thời hạn kể trên, dự luật đă được Quốc Hội biểu quyết đương nhiên thành luật và sẽ được Chủ Tịch Thượng Nghị Viện ban hành
    ĐIỀU 45
    1- Trong thời hạn ban hành, Tổng Thống có quyền gởi thông điệp có viện dẫn lư do yêu cầu Quốc Hội phúc nghị một hay nhiều điều khoản của dự luật
    2- Trong trường hợp này, Quốc Hội sẽ họp khoáng đại lưỡng viện để chung quyết dự luật vớ đa số quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ. Nếu Quốc Hội chung quyết bác bỏ lời yêu cầu phúc nghị của Tổng Thống, dự luật đương nhiên thành luật và được chuyển sang Tổng Thống để ban hành
    ĐIỀU 46
    1- Dự thảo ngân sách được đệ nạp tại văn pḥng Hạ Nghị Viện trước ngày ba mươi tháng chín (30-09)
    2- Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền đề nghị các khoản chi mới nhưng đồng thời phải đề nghị các khoản thu tương đương
    3- Hạ Nghị Viện phải biểu quyết dự thảo ngân sách trước ngày ba mươi tháng mười một (30-11) và chuyển bản văn đă được chấp thuận đến văn pḥng Thượng Nghị Viện chậm nhất là ngày một tháng mười hai (1-12)
    4- Thượng Nghị Viện phải biểu quyết dự thảo ngân sách trước ngày ba mươi mốt tháng mười hai (31-12)
    5- Trong thời hạn nói trên, nếu Thượng Nghị Viện yêu cầu Hạ Nghị Viện phúc nghị một hay nhiều điều khoản trong dự thảo ngân sách, thủ tục qui định tại điều 43 phải được áp dụng. Trường hợp này Tổng Thống có quyền kư sắc luật cho thi hành từng phần ngân sách tương đương với một phần mười hai (1/12) ngân sách thuộc tài khoá trước cho đến khi Hạ Nghị Viện chung quyết xong dự thảo ngân sách
    ĐIỀU 47
    1- Mỗi Viện họp những khóa thường lệ và những khóa ba^’t thường
    2- Hằng năm mỗi viện họp hai khóa thường lệ. Một khóa họp bắt đầu ngày thứ Hai đầu tiên trong tháng Tư dương lịch, một khóa họp bắt đầu ngày thứ hai đầu tiên trong tháng Mười dương lịch. Mỗi khóa họp thường lệ không thể lâu quá chín mươi (90) ngày. Tuy nhiên Hạ Nghị Viện có thể triển hạn khóa họp để chung quyết dự thảo ngân sách
    3- Mỗi viện có thể triệu tập các khóa họp bất thường khi có sự yêu cầu của Tổng Thống hoặc một phần ba (1/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ. Nế khóa họp bất thường do Tổng Thống yêu cầu triệu tập, nghị tŕnh khóa họp do Tổng Thống ấn định
    ĐIỀU 48
    1- Quốc Hội họp công khai trừ khi quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ hiện diện yêu cầu họp kín
    2- Trong các phiên họp công khai, biên bản tường thuật toàn vẹn cuộc thảo luận và các tài liệu tŕnh bày tại Quốc Hội sẽ được đăng trên Công Báo
    ĐIỀU 49
    1- Mỗi viện bầu Chủ Tịch và các nhân viên văn pḥng
    2- Mỗi viện thành lập các Uũy Ban thường trực và các Uũy Ban đặc biệt
    3- Mỗi viện trọn quyền ấn định nội quy
    4- Văn pḥng hai (2) viện ấn định thủ tục liên lạc và sinh hoạt giữa hai (2) viện
    ĐIỀU 50
    1- Chủ Tịch Thượng Nghị Viện triệu tập và chủ tọa các phiên họp khoáng đại lưỡng viện
    2- Trường hợp Chủ Tịch Thượng Nghị Viện bị ngăn trở, Chủ Tịch Hạ Nghị Viện sẽ thay thế Chủ Tịch Thượng Nghị Viện trong nhiệm vụ này
    Last edited by alamit; 12-05-2012 at 06:13 AM.

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HOÀ II
    (năm 1967)
    P2




    CHƯƠNG IV: Hành Pháp
    ĐIỀU 51
    Quyền Hành Pháp được Quốc Dân ủy nhiệm cho Tổng Thống
    ĐIỀU 52
    1- Tổng Thống và Phó Tổng Thống cùng đứng chung một liên danh, được cử tri toàn quốc bầu lên theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín
    2- Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống là bốn (4) năm. Tổng Thống và Phó Tổng Thống có thể được tái cử một lần
    3- Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống chấm dứt đúng mười hai (12) giờ trưa ngày cuối cùng tháng thứ bốn mươi tám (48) kể từ ngày nhậm chức và nhiệm kỳ của tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống bắt đầu từ lức ấy
    4- Cuộc bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống được tổ chức vào ngày chúa nhật bốn (4) tuần lễ trước khi nhiệm kỳ của Tổng Thống tại chức chấm dứt
    ĐIỀU 53
    Được quyền ứng cử Tổng Thống hoạc Phó Tổng Thống những công dân hội đủ các điều kiện sau đây :
    1- Có Việt tịch từ khi mới sanh ra và liên tục cư ngụ trên lănh thổ Việt Nam ít nhất mười (10) năm tính đến ngày bầu cử
    Thời gian công cán và lưu vong chánh trị tại ngoại quốc được kể như thời gian cư ngụ tại nước nhà
    2- Đủ ba mươi lăm (35) tuổi tính đến ngày bầu cử
    3- Được hưởng các quyền công dân
    4- Ở trong t́nh trạng hợp lệ quân dịch
    5- Hội đủ những điều kiện khác dự liệu trong đạo luật bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống
    ĐIỀU 54
    1- Tối cao Pháp viện lập danh sách ứng cử viên, kiểm soát tánh cách hợp thức của cuộc bầu cử và tuyên bố kết quả
    2- Các ứng cử viên được hưởng đồng đều phương tiện trong cuộc vận động tuyển cử
    3- Một đạo luật sẽ qui định thể thức ứng cử và bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống
    ĐIỀU 55
    Khi nhậm chức, Tổng Thống tuyên thệ trước quốc dân với sự chứng kiến của Tối cao Pháp viện và Quốc Hội : “Tôi long trọng tuyên thệ trước quốc dân sẽ bảo vệ Tổ Quốc, tôn trọng Hiến Pháp, phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc và tận lực làm tṛn nhiệm vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa ”
    ĐIỀU 56
    1- Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống có thể chấm dứt trước hạn kỳ trong những trường hợp :
    a- Mệnh chung
    b- Từ chức
    c- Bị truất quyền
    d- Bị bệnh tật trầm trọng và kéo dài không c̣n năng lực để làm tṛn nhiệm vụ. Sự mất năng lực này phải được Quốc Hội xác nhận với đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ sau các cuộc giám định và phản giám định y khoa
    2- Trong trường hợp nhiệm vụ của Tổng Thống chấm dứt trên một (1) năm trước kỳ hạn, Phó Tổng Thống sẽ tạm thời đảm nhiệm chức vụ
    Tổng Thống trong thời hạn ba (3) tháng để tổ chức cuộc bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống cho nhiệm kỳ mới
    3- Trong trường hợp nhiệm vụ Tổng Thống chấm dứt dưới một (1) năm trước kỳ hạn, Phó Tổng Thống sẽ đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống đến hết nhiệm kỳ, ngoại trừ trường hợp Tổng Thống bị truất quyền
    4- Nếu v́ một lư do ǵ Phó Tổng Thống không thể đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện sẽ đảm nhiệm chức vụ này trong thời hạn ba (3) tháng để tổ chức bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống
    ĐIỀU 57
    Tổng Thống ban hành các đạo luật trong thời hạn qui định ở điều 44
    ĐIỀU 58
    1- Tổng Thống bổ nhiệm Thủ Tướng; theo đề nghị của Thủ Tướng, Tổng Thống bổ nhiệm các nhân viên Chánh Phủ
    2- Tổng Thống có quyền cải tổ toàn bộ hay một phần Chánh Phủ, hoặc tự ư, hoặc sau khi có khuyến cáo của Quốc Hội
    ĐIỀU 59
    1- Tổng Thống bổ nhiệm với sự chấp thuận của Thượng Nghị Viện :
    a- Các trưởng nhiệm sở ngoại giao
    b- Viện Trưởng các viện Đại Học
    2- Tổng Thống thay mặt Quốc Gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc, tiếp nhận ủy nhiệm thư của các đại diện ngoại giao
    3- Tổng Thống kư kết và sau khi được Quốc Hội phê chuẩn, ban hành các hiệp ước và hiệp định quốc tế
    ĐIỀU 60
    Tổng Thống là Tổng Tư Lệnh tối cao Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
    ĐIỀU 61
    1- Tổng Tống ban các loại huy chương
    2- Tổng Thống có quyền ân xá và ân giảm h́nh phạt các phạm nhân
    ĐIỀU 62
    1- Tổng Thống hoạch định chánh sách quốc gia
    2- Tổng Thống chủ tọa Hội Đồng Tổng Trưởng
    ĐIỀU 63
    1- Tổng Thống tiếp xúc với Quốc Hội bằng thông điệp. Vào mỗi khóa họp thường lệ và mỗi khi thấy cần, Tổng Thống thông báo cho Quốc Hội biết t́nh h́nh quốc gia và chánh sách đối nội, đối ngoại của Chánh Phủ
    2- Thủ Tướng và các nhân viên Chánh Phủ có thể tham dự các phiên họp của Quốc Hội hoặc của các Uũy Ban để tŕnh bày và giải thích về các vấn đề liên quan đến chánh sách quốc gia và sự thi hành chánh sách quốc gia
    ĐIỀU 64
    1- Trong các trường hợp đặc biệt, Tổng Thống có thể kư sắc luật tuyên bố t́nh trạng báo động, giới nghiêm hay khẩn trương trên một phần hay toàn lănh thổ
    2- Quốc Hội phải được triệu tập chậm nhất mười hai (12) ngày kể từ ngày ban hành sắc luật để phê chuẩn, sửa đổi hoặc bải bỏ
    3- Trong trường hợp Quốc Hội bải bỏ hoặc sửa đổi sắc luật của Tổng Thống, các t́nh trạng đặc biệt đă được ban hành sẽ chấm dứt hoặc thay đổi hiệu lực
    ĐIỀU 65
    Trong t́nh trạng chiến tranh không thể tổ chức bầu cử được, với sự chấp thuận của hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ, Tổng Thống có quyền lưu nhiệm một số các cơ quan dân cử và bổ nhiệm một số tỉnh trưởng
    ĐIỀU 66
    1- Phó Tổng Thống là Chủ tịch hội đồng văn hóa giáo dục, hội đồng kinh tế xă hội và hội đồng các Sắc Tộc thiểu số.
    2- Phó Tổng Thống không thể kiêm nhiệm một chức vụ nào trong Chánh phủ
    ĐIỀU 67
    1- Thủ Tướng điều khiển Chánh Phủ và các cơ cấu hành chánh quốc gia
    2- Thủ Tướng chịu trách nhiệm về sự thi hành chánh sách quốc gia trước Tổng Thống
    ĐIỀU 68
    1- Tổng Thống, Phó Tổng Thống và các nhân viên Chánh Phủ không thể kiêm nhiệm một chức vụ nào thuộc lănh vực tư, dù có thù lao hay không
    2- Trong mọi trường hợp người hôn phối của các vị này không được tham dự các cuộc đấu thầu hoặc kết ước với các cơ quan công quyền
    ĐIỀU 69
    1- Hội Đồng An Ninh Quốc Gia có nhiệm vụ :
    - Nghiên cứ các vấn đề liên quan đến an ninh quốc pḥng
    - Đề nghị các biện pháp thích ứng để duy tŕ an ninh quốc gia
    - Đề nghị tuyên bố t́nh trạng bắo động, giới nghiêm, khẩn trương hoặc chiến tranh
    - Đề nghị tuyên chiến hay nghị ḥa
    2- Tổng Thống là Chủ Tịch Hội Đồng An Ninh Quốc Gia
    ĐIỀU 70
    1- Nguyên tắc địa phương phân quyền được công nhận cho các tập thể địa phương có tư cách pháp nhân như : xă, tỉnh, thị xă và thủ đô
    2- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành nền hành chánh địa phương
    ĐIỀU 71
    1- Các cơ quan quyết định và các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành các tập thể địa phương phân quyền sẽ do cử tri bầu lên theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín
    2- Riêng ở cấp xă, xă trưởng có thể do hội đồng xă bầu lên trong số các hội viên hội đồng xă
    ĐIỀU 72
    Các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành của các tập thể địa phương phân quyền là :
    - Xă trưởng ở cấp xă
    - Tỉnh trưởng ở cấp tỉnh
    - Thị trưởng ở cấp thị xă Đô trưởng ở thủ đô
    ĐIỀU 74
    Chánh Phủ bổ nhiệm bên cạnh các Đô Trưởng, Thị Trưởng, Xă Trưởng hai (2) viên chức có nhiệm vụ phụ tá về hành chánh và an ninh cùng các nhân viên hành chánh khác
    ĐIỀU 75
    Nhân viên các cơ quan quyết nghị và các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành của các tập thể địa phương phân quyền có thể bị Tổng Thống giải nhiệm trong trường hợp vi phạm Hiến Pháp, luật pháp quốc gia hay chánh sách quốc gia.

    CHƯƠNG V: Tư Pháp
    ĐIỀU 76
    1- Quyền Tư Pháp độc lập, được ủy nhiệm cho Tối Cao Pháp Viện và được hành xử bởi các Thẩm Phán xử án
    2- Một đạo kuật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành ngành Tư Pháp
    ĐIỀU 77
    Mọi Ṭa Án phải do một đạo luật thiết lập với một thành phần Thẩm Phán xử án và Thẩm Phán công tố chuyên nghiệp và theo một thủ tục tôn trọng quyền biện hộ
    ĐIỀU 78
    1- Thẩm Phán xử án và Thẩm Phán công tố được phân nhiệm rơ rệt và có qui chế riêng biệt
    2- Thẩm Phán xử án quyết định theo lương tâm và pháp luật dưới sự kiểm soát của Tối Cao Pháp Viện
    3- Thẩm Phán công tố theo dơi sự áp dụng luật pháp để bảo vệ trật tự công cộng dưới sự kiểm soát của Bộ Tư Pháp
    ĐIỀU 79
    Thẩm Phán xử án chỉ có thể bị giải nhiệm trong trường hợp bị kết án, vi phạm kỷ luật hay bất lực về tinh thần hoặc thể chất
    ĐIỀU 80
    1- Tối Cao Pháp Viện gồm từ chín (9) đến mười lăm (15) Thẩm Phán. Tối Cao Pháp Viện do Quốc Hội tuyển chọn và Tổng Thống bổ nhiệm theo một danh sách ba mươi (30) người do Thẩm Phán Đoàn, Công Tố Đoàn và Luật Sư Đoàn bầu lên
    2- Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện phải là những Thẩm Phán hay Luật Sư đă hành nghề ít nhất mười (10) năm trong ngành Tư Pháp
    3- Nhiệm kỳ của Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện là sáu (6) năm
    4- Thành phần cử tri thuộc Thẩm Phán Đoàn, Công Tố Đoàn và Luật Sư Đoàn phải đồng đều
    5- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Tối Cao Pháp Viện
    ĐIỀU 81
    1- Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền giải thích Hiến Pháp, phán quyết về tánh cách hợp hiến hay bất hợp hiến của các đạo luật, sắc luật; tánh cách hợp hiến và hợp pháp của các sắc lệnh, nghị định và quyết định hành chánh
    2- Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền phán quyết về việc giải tán một chánh đảng có chủ trương và hành động chống lại chánh thể Cộng Ḥa
    3- Trong trường hợp này, Tối Cao Pháp Viện sẽ họp khoáng đại toàn viện, các đại diện Lập Pháp hoặc Hành Pháp có thể tham dự để tŕnh bày quan điểm
    4- Những quyết định của Tối Cao Pháp Viện tuyên bố một đạo luật bất hợp hiến hoặc giải tán một chánh đảng phải hội đủ đa số ba phần tư (3/4) tổng số Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện
    ĐIỀU 82
    Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền phán quyết về các vụ thượng tố các bản án chung thẩm
    ĐIỀU 83
    Tối Cao Pháp Viện có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để quản trị ngành Tư Pháp
    ĐIỀU 84
    1- Hội Đồng Thẩm Phán có nhiệm vụ :
    - Đề nghị bổ nhiệm, thăng thưởng, thuyên chuyển và chế tài về kỷ luật các Thẩm Phán xử án
    - Cố vấn Tối Cao Pháp Viện về các vấn đề liên quan đến ngành Tư Pháp
    3- Hội Đồng Thẩm Phán gồm các Thẩm Phán xử án do các Thẩm Phán xử án bầu lên
    4- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng Thẩm Phán

    CHƯƠNG VI: Các Định Chế Đặc Biệt
    Đặc Biệt Pháp Viện
    ĐIỀU 85
    Đặc Biệt Pháp Viện có thẩm quyền truất quyền Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, các Tổng Bộ Trưởng, các Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện và các Giám Sát Viện trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội khác
    ĐIỀU 86
    1- Đặc Biệt Pháp Viện do Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện giữ chức Chánh Thẩm và gồm năm (5) Dân Biểu và năm (5) Nghị Sĩ
    2- KHI Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện là bị can, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện giữ chức Chánh Thẩm
    ĐIỀU 87
    1- Đề nghị khởi tố có viện dẫn lư do phải được quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ kư tên. Quyết định khởi tố phải được đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ biểu quyết chấp thuận
    Riêng đối với Tổng Thống và Phó Tổng Thống đề nghị khởi tố có viện dẫn lư do phải được hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ kư tên Quyết định khởi tố phải được đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ biểu quyết chấp thuận
    2- Đương sự phải đ́nh chỉ nhiệm vụ từ khi Quốc Hội biểu quyết truy tố đến khi Đặc Biệt Pháp Viện phán quyết
    3- Đặc Biệt Pháp Viện phán quyết truất quyền theo đa số ba phần tư (3/4) tổng số nhân viên. Riêng đối với Tổng Thống và Phó Tổng Thống phán quyết truất quyền theo đa số bốn phần năm (4/5) tổng số nhân viên
    4- Đương sự được quyền biện hộ trong mọi giai đoạn của thủ tục truy tố
    5- Sau khi bị truất quyền, đương sự có thể bị truy tố trước các ṭa án có thẩm quyền
    6- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức, điều hành và thủ tục trước Đặc Biệt Pháp Viện
    Giám Sát Viện
    ĐIỀU 88
    Giám Sát Viện có thẩm quyền :
    1- Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay ṭng phạm về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền lợi quốc gia
    2- Thẩm tra kế toán đối với các cơ quan công quyền và hợp doanh
    3- Kiểm kê tài sản các nhân viên các cơ quan công quyền kể cả Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Dân Biểu, Nghị Sỉ, Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện
    4- Riêng đối với Chủ Tịch Giám Sát
    5- Viện và các Giám Sát Viên, việc kiểm kê tài sản do Tối Cao Pháp Viện đảm trách
    ĐIỀU 89
    1- Giám Sát Viện có quyền đề nghị các biện pháp chế tài về kỷ luật đối với nhân viên phạm lỗi hoặc yêu cầu truy tố đương sự ra trước ṭa án có thẩm quyền
    2- Giám Sát Viện có quyền công bố kết quả cuộc điều tra
    ĐIỀU 90
    1- Giám Sát Viện gồm từ chín (9) đến mười tám (18) Giám Sát viên, một phần ba (1/3) do Quốc Hội, một phần ba (1/3) do Tổng Thống và một phần ba (1/3) do Tối Cao Pháp Viện chỉ định
    2- Giám Sát viên được hưởng những quyền hạn và bảo đảm cần thiết để thi hành nhiệm vụ
    ĐIỀU 91
    Giám Sát Viện có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để tổ chức nội bộ và quản trị ngành giám sát.
    Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Giám Sát Viện
    Hội Đồng Quân Lực
    ĐIỀU 92
    1- Hội Đồng Quân Lực cố vấn Tổng Thống về các vấn đề liên quan đến Quân Lực, đặc biệt là việc thăng thưởng, thuyên chuyển và trừng phạt quân nhân các cấp
    2- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng Quân Lực
    Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục
    ĐIỀU 93
    1- Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục có nhiệm vụ cố vấn Chánh Phủ soạn thảo và thực thi chánh sách văn hóa giáo dục
    Một Lâm Viện Quốc Gia sẽ được thành lập
    2- Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục có thể cử đại diện thuyết tŕnh trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ
    3- Các dự luật liên quan đến văn hóa giáo dục có thể được Hội Đồng tham gia ư kiến trước khi Quốc Hội thảo luận
    ĐIỀU 94
    1- Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục gồm :
    - Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định
    - Hai phần ba (2/3) hội viên do các tổ chức văn hóa giáo dục công và tư, các hiệp hội phụ huynh học sinh đề cử
    2- Nhiệm kỳ củ Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục là bốn (4) năm
    3- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục
    Hội Đồng Kinh Tế Xă Hội
    ĐIỀU 95
    1- Hội Đồng Kinh Tế Xă Hội có nhiệm vụ cố vấn chánh phủ về những vấn đề kinh tế và xă hội
    2- Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Đồng Kinh Tế Xă Hội có thể cử đại diện thuyết tŕnh trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ
    3- Các dự luật kinh tế và xă hội có thể được Hội Đồng Kinh Tế Xă Hội tham gia ư kiến trước khi Quốc Hội thảo luận
    ĐIỀU 96
    1- Hội Đồng Kinh Tế Xă Hội gồm :
    - Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định
    - Hai phần ba (2/3) hội viên do các tổ chức công kỹ nghệ, thương mại, nghiệp đoàn, các hiệp hội có tánh cách kinh tế và xă hội đề cử
    2- Nhiệm kỳ Hội Đồng Kinh Tế Xă Hội là bốn (4) năm
    3- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng Kinh Tế Xă Hội
    Hội Đồng các Sắc Tộc
    ĐIỀU 97
    1- Hội Đồng các Sắc Tộc có nhiệm vụ cố vấn chánh phủ về các vấn đề liên quan đến đồng bào thiểu số
    2- Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Đồng các Sắc Tộc có thể cử đại diện thuyết tŕnh trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ
    3- Các dự luật liên quan đến đồng bào thiểu số có thể được Hội Đồng các Sắc Tộc tham gia ư kiến trước khi đưa ra Quốc Hội thảo luận
    ĐIỀU 98
    1- Hội Đồng các Sắc Tộc gồm có :
    - Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định
    - Hai phần ba (2/3) hội viên do các Sắc Tộc Thiểu Số đề cử
    2- Nhiệm kỳ Hội Đồng các Sắc Tộc là bốn (4) năm
    3- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng các Sắc Tộc

    CHƯƠNG VII: Chính Đảng và Đối Lập
    ĐIỀU 99
    1- Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai tṛ thiết yếu trong chế độ dân chủ
    2- Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật định
    ĐIỀU 100
    Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng
    ĐIỀU 101
    Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị
    ĐIỀU 102
    Một đạo luật sẽ ấn định quy chế chánh đảng và đối lập chính trị

    CHƯƠNG V...: Tu Chính Hiến Pháp
    ĐIỀU 103
    1- Tổng Thống, quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu hay quá bán (1/2) tổng số Nghị Sĩ có quyền đề nghị tu chính Hiến Pháp
    2- Đề nghị phải viện dẫn lư do và được đệ nạp tại văn pḥng Thượng Nghị Viện
    ĐIỀU 104
    Một Uũy Ban lưỡng Viện sẽ được thành lập để nghiên cứu về đề nghị tu chính Hiến Pháp và thuyết tŕnh trong những phiên họp khoáng đại lưỡng Viện
    ĐIỀU 105
    Quyết định tu chính Hiến Pháp phải hội đủ hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ
    ĐIỀU 106
    Tổng Thống ban hành đạo luật tu chính Hiến Pháp theo thủ tục quy định ở Điều 44
    ĐIỀU 107
    Không thể huỷ bỏ hoặc tu chính điều một (1) và điều này của Hiến Pháp

    CHƯƠNG IX: Điều khoản Chuyển Tiếp
    ĐIỀU 108
    Hiến Pháp bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày ban hành và Ước Pháp tạm thời ngày mười chín tháng sáu năm một ngàn chín trăm sáu mươi lăm (19.06.1965) đương nhiên hết hiệu lực
    ĐIỀU 109
    Trong thời gian chuyển tiếp, Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một ngàn chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) đại diện Quốc Dân trong phạm vi lập pháp
    1- Soạn thảo và chung quyết :
    - Các đạo luật bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống, Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện
    - Cá đạo luật tổ chức Tối Cao Pháp Viện và Giám Sát Viện
    - Các quy chế chánh đảng và báo chí
    2- Phê chuẩn các Hiệp Ước
    ĐIỀU 110
    Kể từ khi Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức, Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một ngàn chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) đảm nhiệm quyền Lập Pháp cho đến khi Quốc Hội pháp nhiệm một (1) được triệu tập
    ĐIỀU 111
    Trong thời gian chuyển tiếp, Uũy Ban Lănh Đạo Quốc Gia và Uũy Ban Hành Pháp Trung Ương lưu nhiệm cho đến khi Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức
    ĐIỀU 112
    Trong thời gian chuyển tiếp, các Ṭa Aùn hiện hành vẫn tiếp tục hành xử quyền Tư Pháp cho đến khi các định chế Tư Pháp qui định trong Hiến Pháp này được thành lập
    ĐIỀU 113
    Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) sẽ lập danh sách ứng cử viên, kiểm soát tánh cách hợp thức và tuyên bố kết quả cuộc bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1)
    ĐIỀU 114
    Trong nhiệm kỳ đầu tiên, Tổng Thống có thể bổ nhiệm các Tỉnh Trưởng
    ĐIỀU 115
    Cuộc bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống phải được tổ chức chậm nhất sáu (6) tháng kể từ ngày ban hành Hiến Pháp này
    ĐIỀU 116
    Cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Pháp, việc tổ chức Tối Cao Pháp Viện và Giám Sát
    Chủ Tịch Ủy Ban Thảo Hiến
    ĐINH THÀNH CHÂU
    Viện phải được thực hiện chậm nhất là mười hai (12) tháng kể từ ngày Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức
    ĐIỀU 117
    Các cơ cấu khác do Hiến Pháp qui định phải được thiết lập chậm nhất là hai (2) năm kể từ ngày Quốc Hội pháp nhiệm một (1) được thành lập
    Bản Văn Hiến Pháp này đă được Quốc Hội chung quyết trong phiên họp ngày 18 tháng ba năm 1967

    Sài g̣n, ngày 18 tháng 3 năm 1967
    Chủ Tịch Quốc Hội Lập Hiến

    PHAN KHẮC SỬU

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    VNCH - Mở mang kinh tế trong hoàn cảnh chiến tranh
    Thanh Dũng



    Mặc dù chiến cuộc dai dẳng, với các phần tử cộng sản triền miên phá hoại, Miền Nam tự do trong hơn 2 thập kỷ vẫn kịp xiển dương một nền kinh tế riêng, tuy quy mô c̣n khiêm tốn. Khởi sự, thời hậu Pháp thuộc để lại nền kỹ nghệ mang tính tượng trưng, thiếu cơ xưởng nhà máy chính quy lẫn nhân công lành nghề. Nền Đệ Nhất Cộng Hoà, với các quốc sách táo bạo, kêu gọi đầu tư, đă giúp mở mang nhiều ngành kỹ nghệ. Sang Đệ Nhị Cộng Hoà th́ các ngành vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, cùng nhiều dịch vụ lại gặp thời thi triển mạnh mẽ.



    Đến đầu thập niên 1970, VNCH đón nhận một tin khả quan: việc phát hiện mỏ dầu Bạch Hổ. Theo dự trù của các chuyên gia, Miền Nam sẽ sản xuất ra dầu hoả từ khoảng 20 giàn khoan trễ nhất vào năm 1977, đem về cho quốc gia nguồn ngoại tệ thiết yếu. Tiếc thay, công việc dở dang th́ đại cuộc sụp đổ.

    Vài nét điểm lược

    Như đă nhắc bên trên, ngay từ 1957, VNCH dưới quyền điều hành của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, đă ban hành nhiều kế sách đầu tư mạnh mẽ, nhằm thu hút các nhà kỹ nghệ nội địa lẫn ngoại quốc bỏ vốn làm ăn. Đổi lại, chánh phủ dành cho họ nhiều ưu đăi thuế khoá, giảm lệ phí thuê mướn cơ sở, đất đai... Đây có thể nói là những quyết sách mang tầm chiến lược, tạo cơ hội phát triển chưa từng thấy cho các ngành công nghiệp nhẹ. Để đối chiếu, đến măi 1986, lúc cận kề cơn khánh tận của đường lối "kinh tế xă hội chủ nghĩa", nhà cầm quyền Hà Nội hiện tại mới bắt chước "mở cửa đầu tư", vừa kịp thoát hiểm.

    Ngoài kêu gọi đầu tư, có nhiều chánh sách thời Đệ Nhất Cộng Hoà đă đặt nền móng cho sự bền vững của Miền Nam hơn một thập niên sau: việc thành lập Phủ Tổng Ủy Dinh Điền có thẩm quyền trên những cuộc khai khẩn đất hoang, chánh yếu ở Cao nguyên Trung phần; mở Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia đặt dưới quyền Phó Tổng Thống; xin vào Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế; khuếch trương Quốc Gia Doanh Tế Cuộc, sau đến Trung Tâm Khuếch Trương Kỹ Nghệ, nhằm yểm trợ giới doanh gia mới khởi nghiệp, v.v...



    Trung tâm nguyên tử năng Đà Lạt, hoạt động từ thời Đệ Nhất Cộng Hoà, do kiến trúc sư tài danh Ngô Viết Thụ vẽ mẫu thiết kế.

    Nh́n chung đa phần dân chúng thời đó vẫn sống ở nông thôn, làm nghề nông là chánh. Qua hai lần cải cách ruộng đất, đặc biệt với chương tŕnh "Người Cày Có Ruộng" đầu thập niên 1970, chánh phủ đă chia hằng triệu mẫu ruộng cho nông phu. Đời sống dân chúng cải thiện đáng kể.

    Mặc dù Miền Nam hiếm có những ngành công nghiệp nặng, nhưng tiểu thủ công nghệ phát triển mạnh. Các ngành dệt vải, kim khí điện máy khá xôm tụ. Thương mại và các hoạt động tiểu thương cũng sầm uất. Cần kể thêm thái độ của người dân. Nhiều sản phẩm nội địa được ưa chuộng, chiếm nhiều cảm t́nh như: kem đánh răng "Hynos", xà bông "Cô Ba", bột giặt "Viso"... Điều này cho thấy người tiêu thụ Miền Nam thời đó có tinh thần yểm trợ hàng nội hóa khá cao.

    Một thế mạnh nữa của VNCH là thế hệ trí thức, kỹ sư, cán sự được huấn luyện kỹ lưỡng, làm việc tận tâm. Về mặt này, VNCH hoàn toàn vượt xa các lân bang cùng thời như Thailand, Malaysia, Indonesia, Singapore... Có thống kê cho thấy 3 trong số 4 kỹ sư trong toàn vùng khi đó là công dân Nam Việt Nam.

    Cũng chính nhờ nhân lực dồi dào, khả dụng, mà buổi ban đầu VNCH đón sự bàn giao từ "mẫu quốc" một cách hữu hiệu. Giữa thập niên 1950, đang khi người Pháp bán tín bán nghi, các kỹ sư trẻ của VNCH tiếp nhận rồi... xăn tay áo điều hợp Công Ty Điện Lực CEE một cách trơn tru, bảo đảm điện năng liên tục cho Đô Thành Sài G̣n và nhiều địa phương trọng yếu. Năm 1961, kỹ sư Miền Nam tiếp tục đón nhận nhà máy thủy điện Đa Nhim từ Nhật Bổn. Từ thời này, các chuyên gia Nam Việt Nam cũng đă manh nha dự án khu chế biến lọc dầu Dung Quất ngày nay.

    Nguồn chuyên viên lành nghề, mẫn cán c̣n giúp thực thi các kế hoạch, khai triển nhiều khu kỹ nghệ: Khu Kỹ Nghệ Biên Ḥa, Khu Kỹ Nghệ Phong Dinh... Ngay khi tin vui về mỏ dầu hoả ở Vũng Tàu loan ra, VNCH cũng có đủ chuyên viên để thiết lập ngay Tổng Cục Dầu Hoả.

    Những thành tựu đáng kể

    Trong khoảng 20 năm hiện hữu của VNCH, ngành công nghiệp nhẹ tăng khoảng 250% đến 300%. Kinh tế vẫn chánh yếu đặt trên dịch vụ (chiếm hơn 50% tổng sản lượng quốc gia). Cuối thập niên 1950, VNCH xây xa lộ Biên Hoà ở phía Bắc Sài G̣n, là công tŕnh giao thông công cộng có thể nói tân tiến nhất toàn vùng Đông Nam Á khi đó.

    Về nông nghiệp, nhờ cải tiến kỹ thuật, năm 1973 nông dân thu hoạch gần 5 triệu tấn gạo, gần đủ cho nhu cầu quốc nội. Ước lượng sang 1976 có thặng dư để xuất cảng. Cũng có kế hoạch xuất cảng tôm lên đến 30 triệu Mỹ kim năm 1975, nhưng việc chưa thành th́ cơ đồ đă mất. Ngoài ư nghĩa chánh trị và quân sự -- nhằm cô lập các phần tử cộng sản -- những Khu Dinh Điền/Khu Trù Mật có từ thời Đệ Nhất Cộng Hoà là chiến lược xây dựng nông thôn hữu hiệu. Nhiều gia đ́nh khi đó được cấp đất miễn phí, được yểm trợ thêm lương thực và tài chánh trong ṿng 6 tháng. So sánh với các kế sách này, sau 1975 chương tŕnh "Kinh Tế Mới" thảm khốc v́ đảng cộng sản yểm trợ tối thiểu, lùa dân vô rừng chẳng khác nào... đem con bỏ chợ.



    Xe hơi LaDalat (b́a trái) lăn bánh trước khách sạn Continental, Quận 1 Sài G̣n.

    Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1970, Việt Nam Cộng Ḥa có trên 1,200 cây số đường xe lửa, khoảng 20,000 điện thoại, 50 đài phát thanh và 4 đài truyền h́nh lớn (ở Sài G̣n, Huế, Quy Nhơn và Cần Th&#417....

    Nhiều người từng sống ở Miền Nam trước đây có lẽ vẫn c̣n nhớ chiếc xe La Dalat, biểu tượng của công nghệ xe hơi non trẻ. Vào thời điểm này, sáng lập viên của hăng xe Hyundai (ngày nay cạnh tranh ráo riết với xe Nhật) mới là tiểu thương bên Nam Hàn. Dù lắp ráp với nhiều phụ tùng ngoại quốc, La Dalat vẫn là chiếc xe hơi đầu tiên mang nhăn "Made in Vietnam", mẫu mă của riêng VN, lăn bánh trên đường phố VN. Hăng xe này hoạt động đến năm 1975 rồi cũng lụi tàn theo vận nước.

    Có thể kể thêm nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961, Biên Ḥa) có lúc sản xuất giấy đủ đến 40% nhu cầu nội điạ. Hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex tŕnh làng hơn 13 triệu mét vải hằng năm. Hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên và một ở Thủ Đức cho ra ḷ hơn 540,000 tấn mỗi năm, giảm bớt ít nhiều áp lực nhập cảng vật liệu cho ngành xây dựng đang thời thịnh đạt.



    Trước 1975, có 11 dàn máy tính IBM 360 hiện đại đă được đưa về Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Giáo Dục. Lúc đó, toàn vùng Đông Nam Á chỉ có Singapore sắm được vỏn vẹn... 1 chiếc máy tương tự.

    Kinh tế giữa thời tao loạn

    Đầu thập niên 1970, thu nhập b́nh quân đầu người của VNCH đạt khoảng $150 / năm, vượt xa các lân bang Thái, Ấn "India", Bangladesh, Pakistan... Thời đó, một sĩ quan về nhận đơn vị có mức sống tương đối ổn định, tùy theo đơn vị, lại được cấp nhà riêng trong khu gia binh, đủ gánh vác gia đ́nh. Lương tháng của một tổng trưởng có thể mua được 10 cây vàng.

    Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà phát triển giữa cơn hoành hành của chủ nghĩa cộng sản. Các phần tử cộng sản nằm vùng ưu tiên sách lược khủng bố, thanh trừng, ám sát -- tất cả nhằm làm chậm đà tiến triển của Miền Nam. Với Nga Sô và Trung Cộng chống lưng, Bắc Việt tung hằng chục ngàn cán binh thiếu niên vào chiến trường mỗi năm, núp dưới những cánh rừng già mé Tây rặng Trường Sơn. Chiến cuộc leo thang gây xáo trộn xă hội, bất ổn kinh tế, khiến sản xuất đ́nh trệ. Chánh phủ về sau càng lúc càng phải nhập cảng nhiều hàng tiêu dùng, tạo ảo tưởng xă hội tiêu thụ, là nguồn cơn cho không ít bất măn.

    Chương tŕnh "Cải Cách Điền Địa" là 1 trong những mục tiêu bị cộng sản quấy phá mănh liệt nhất. Đối phương hiểu rằng, nếu cải cách thành công có nghĩa mầm bất măn biến mất trong nông dân -- giới cần lao mà họ nhắm đến và liên lỉ mua chuộc. Những nỗ lực phá rối của địch quân khiến chương tŕnh này tiến triển chậm chạp hơn dự liệu. Không ít cán sự nông thôn bị ám sát. Nhiều nông phu bị cộng sản uy hiếp không dám ra mặt cộng tác với chánh phủ quốc gia...

    Sự phá hoại của các lực lượng cộng sản rơ nét nhất trong trận mùa hè đỏ lửa 1972. Trên 200 cây cầu và đường sá bị huỷ hoại. Ngành cao su thiệt hại 40% doanh số v́ đất đai hoá băi chiến trường. Thêm một vấn nạn kinh tế là ḍng người di tản chạy trốn các cơn pháo kích của chiến binh cộng sản. Hằng triệu nạn nhân chiến tranh trong bao nhiêu năm khiến xă hội phân tán tài nguyên, trong khi nông thôn thiếu người canh tác.

    Gánh nặng chiến tranh khiến hơn một nửa ngân sách quốc gia phải dành cho quốc pḥng. Ngân khố liên tục bị thâm hụt, chưa nói đến dự trữ chiến lược. Một hậu quả nữa là giới tư bản Tây Phương từ từ xa lánh thị trường Miền Nam, quay sang Hongkong, Đài Loan "Taiwan" và các lân bang khác để đầu tư.



    Tuy vậy, chiến tranh cũng tạo ra nhiều công ăn việc làm và vô số ngành dịch vụ phụ thuộc. Nửa triệu quân nhân Hoa Kỳ tiêu xài tại chỗ hằng tỉ Mỹ kim, là nguồn tiền tệ khổng lồ cho các kỹ nghệ nhà hàng, khách sạn, tiệm giặt... Dù Miền Nam thiếu mỏ sắt, các nhà máy cán thép không thiếu nhiên liệu với hàng tấn vỏ đạn, xác chiến xa, súng ống đủ loại... Phế phẩm chiến tranh trở thành nguồn nguyên liệu rẻ tiền cho ngành luyện kim dân sự cũng là một kết quả bất ngờ.

    Giữa đường găy gánh

    Nhu cầu chiến tranh c̣n giúp mở mang mạng lưới đường sá, cầu cống. Nhiều công tŕnh kiến trúc khang trang mở ra rộng khắp xứ sở. Hơn 4,000 cây cầu và hằng chục ngàn cây số đường tráng nhựa. Có ít nhất 4 phi trường lớn đủ sức tiếp nhận phản lực cơ đủ loại: Tân Sơn Nhất, Biên Hoà, Đà Nẵng, Cần Thơ. Những hải cảng chánh mở ra ở Sài G̣n, Cam Ranh, Đà Nẵng, Nha Trang, Rạch Giá.

    Sau 1975, một số công tŕnh này trở thành phế tích, như ở Khu Kỹ Nghệ Biên Ḥa, nơi các cơ sở xi măng, điện tử trở thành nhà hoang. T́nh cảnh bi ai tái lập ở làng đại học Thủ Đức. Đà phát triển của Miền Nam hầu như hoàn toàn đ́nh trệ. Việc xây cất gần như là zero trong suốt 15 năm đầu thời hậu chiến.

    Trên thực tế, đa phần cơ sở hạ tầng VNCH có thể nói c̣n nguyên trạng. Thậm chí chúng trở thành trục xương sống của nền kinh tế Việt Nam kéo dài đến khoảng đầu thập niên 1990. Điều quan trọng hơn nữa là yếu tố con người. Dân chúng Miền Nam, vốn từng quen với nền kinh tế tự do, đă có cách phản kháng âm thầm liên lỉ của riêng họ. Qua bao năm tháng khổ nạn, qua nhiều chiêu áp chế của lề luật xă hội chủ nghĩa, dần dần cách làm ăn của Miền Nam cũ đă làm phá sản hoàn toàn chủ thuyết kinh tế của đảng cộng sản VN. Đây có lẽ cũng là con đường tương lai không xa của quê hương Việt Nam -- với hệ thống cai trị của đảng cộng sản bị đào thải một cách êm thắm -- mở đường cho cuộc cải cách chánh trị rộng răi cho toàn dân Việt.

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU VÀ HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19-1-1974.

    Thềm Sơn Hà

    Mặc dù biến cố Hoàng Sa (HS) đă trải qua 38 năm, nhưng cho đến nay biến cố này vẫn c̣n gây ra nhiều nghi vấn.
    Hầu hết các bài viết và câu trả lời trong các cuộc phỏng vấn đều dựa trên trí nhớ… và theo thời gian nhiều khi không chính xác, các sự kiện rất mâu thuẫn, nếu không t́m được tài liệu c̣n lưu trữ th́ cũng rất khó để t́m ra sự thật.
    V́ vậy không thể đổ lỗi cho một ai khi sau này t́m ra được tài liệu bằng giấy trắng mực đen để kiểm chứng lại.
    Trong tất cả các bài viết, rất ít tài liệu viết về Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Khoảng thời gian gần đây tác giả may mắn t́m thêm một số tài liệu liên quan đến ông, hy vọng sẽ tŕnh bày phần nào về vai tṛ của ông trong biến cố lịch sử này.
    Thềm Sơn Hà

    ------------- o0o -----------------

    Từ lúc Trung Cộng (TC) tuyên bố chủ quyền trên khắp các hải đảo trong vùng biển Đông gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa cho đến ngày 19-1 xảy ra trận hải chiến khốc liệt giữa Hải quân VNCH và hải quân TC . Và tiếp theo vào ngày 20-1-1974, TC đổ quân chiếm trọn HS, Tổng Thống Thiệu (TT Thiệu) chưa một lần xuất hiện trước quần chúng trên đài truyền h́nh, lên tiếng trên đài phát thanh hoặc họp báo để phản đối TC xâm chiếm HS.
    Ông cũng gây ngạc nhiên cho Hoa Kỳ (HK) khi ngay cả trong thông điệp chúc Tết ông cũng không đá động một lời nào về HS. (1)
    Như vậy trong biến cố HS, ông đă làm ǵ? Và đă có những hoạt động nào ?

    1.- Thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ : (2)
    TT Thiệu đă thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ một tuần trước Tết Nguyên Đán ( ngày 22 tháng 1-1974 là ngày mùng một) theo chương tŕnh như sau:
    - Quân Đoàn I :
    Ngày 15-1, TT Thiệu bắt đầu ủy lạo một số đơn vị ngoài mặt trận thuộc tỉnh Quảng Ngải. Vào chiều ngày 15, ông đến Đà Nẵng và dùng cơm tối tại Bộ Chỉ Huy/Tiếp Vận I ở Mỹ Khê.
    Ngày 16-1, lúc 8 giờ sáng TT Thiệu đến Bộ Tư Lệnh/Vùng 1 Duyên Hải (BTL/VIDH). Sau đó ông thăm các chiến sĩ đóng tại phía Bắc đèo Hải Vân.
    - Quân Đoàn II :
    Ngày 17-1, ông đến Quân đoàn II và ghé thăm Trung Đoàn 47 thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh ở Pleiku, đơn vị này đă tham dự cuộc hành quân tái chiếm Plei Kjerang.
    Tiếp theo ông đến tỉnh Quảng Đức, thăm căn cứ Trung Đoàn 45 ở quận Đức Lập là đơn vị đă chiếm lại quận Kiến Đức.
    Trưa ngày 17-1, ông ghé thăm tiền đồn Biệt Động Quân gần Daksong.
    Ngày 18-1, ông chủ tọa lễ măn khóa 27 tại trường Vơ Bị Quốc gia Đà Lạt, trong bài diễn văn, TT Thiệu không đề cập đến Hoàng Sa. Ông nghỉ đêm tại Đà Lạt.
    Trong cùng ngày, theo ĐĐ Trần Văn Chơn TL/HQ :” Trước đó tôi nhận được tin cho biết Tổng Thống tham dự một cuộc lễ măn khóa ở Đà Lạt và Tổng Thống muốn gặp tôi ở trên đó nhưng khi tôi lên gặp th́ Tổng Thống không nói ǵ cả.” (3)
    - Quân Đoàn ... :
    Rời Đà Lạt sáng ngày 19-1, TT Thiệu tiếp tục đi ủy lạo chiến sĩ thuộc Quân Đoàn ... ở An Lộc, Lai Khê. Từ An Khê, trực thăng của ông bay dọc theo quốc lộ 13, về hướng bắc tỉnh Chơn Thành, dọc theo lộ tŕnh, khi thấy một đơn vị Thiết giáp, ông đă ra lệnh trực thăng đáp xuống và tự tay phát quà cho họ, hành động này đă làm các chiến sĩ thiết giáp ngạc nhiên.
    Theo chương tŕnh ông sẽ tiếp tục thăm viếng Quân Đoàn IV (không t́m thấy tài liệu về chuyến thăm viếng QĐIV, có thể v́ biến cố HS nên ông đă hủy b&#7887....

    2.- Các hoạt động liên quan đến biến cố Hoàng Sa:
    2.1.- Thời gian xác định:
    - chiều ngày 15, tại căn cứ BCH/Tiếp Vận I ở Mỹ Khê, Phó Đề Đốc (PĐ&#272... Hồ Văn Kỳ Thoại TL/HQ/V1DH đă tŕnh lên TT Thiệu sự việc phát hiện chiến hạm TC (LTG: thực sụ đây là tàu đánh cá ).
    - Sáng ngày 16-1, ông đến BTL/V1DH, có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐI tháp tùng. Sau khi nghe PĐĐ Thoại thuyết tŕnh, ông đă viết thủ bút chỉ thị biện pháp thi hành cho Tư Lệnh Hải Quân V1DH (TL/HQ/V1DH). (4)
    - Sáng ngày 19-1, từ Đà Lạt ông gọi điện thoại ra Trung Tâm Hành Quân BTL/VIDH (TTHQ/V1DH).
    Theo HQ Đại Úy Lê Văn Thự Trung Tâm Trưởng/TTHQ/VIDH (TTT/TTHQ) th́ sau khi : [“Đại Tá Ngạc chỉ thị cho toán Người nhái và toán Biệt hải đổ bộ lên đảo Quang Ḥa đang có quân TC chiếm đóng để yêu cầu bọn chúng rời khỏi đảo và xem phản ứng của chúng như thế nào. Nhưng khi lực lượng ta tiến vào đảo đă bị chúng nổ súng trước (chúng có công sự chiến đấu) và bên ta có 2 người tử thương. Toán đổ bộ nhận được lịnh rút lui trở về chiến hạm.
    Cũng trong lúc này, từ Đà Lạt Tổng Thống Thiệu gọi điện thoại về TTHQ/VIDH hỏi :”T́nh h́nh Hoàng Sa như thế nào rồi?”
    TL/HQ/VIDH Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trả lời trực tiếp với Tổng Thống Thiệu :
    ”Ta đổ bộ lên đảo có quân TC đă bị chúng bắn trả gây cho ta 2 tử thương” liền theo đó Tổng Thống Thiệu hỏi: ”Như vậy Hải quân đă làm ǵ chưa?”] (5)
    Và ông chấm dứt cuộc điện đàm với TL/VIDH bằng một câu hỏi.
    - 20 tháng 1-1974, TT Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị Ngoại Trưởng (NT) Vương Văn Bắc gọi điện thoại cho Đại Sứ (ĐS) HK Martin để thảo luận về việc xử dụng một số biện pháp ngoại giao như sau:
    1.- thông báo cho Hội Đồng Bảo An và Tổng Thơ Kư Liên Hiệp Quốc nhưng
    chưa có quyết định về việc có cần triệu tập buổi họp của Hội Đồng Bảo An.
    2.- đưa kháng thư lên Tổ chức các quốc gia vùng Đông Nam Á (SEATO).
    3.- đem vấn đề tranh chấp ra trước Toà án quốc tế, nhưng NT Bắc c̣n
    lưỡng lự v́ lo ngại là TC sẽ không chấp nhận quyền xét xử của toà án
    này, ngoài ra ông cũng không chắc là ṭa án sẽ đưa ra phán quyết
    có lợi cho VNCH.
    4.- thông báo các quốc gia kư kết Hiệp định Paris về việc TC tấn công
    HS, v́ theo tinh thần hiệp ước này th́ các nước sẽ tôn trọng sự toàn
    vẹn lănh thổ cuả VNCH, và TC là một trong những nước đă kư tên
    vào hiệp ước này.
    Ngoài ra NT Bắc c̣n cho ĐS Martin biết là TT Thiệu cảm thấy ông cần phải kêu gọi đến sự giúp đở của HK, là người bạn và cũng là đồng minh thân thiết nhất. Ông hy vọng HK sẽ tận lực ủng hộ trong các vận động ngoại giao này. (6)
    - Ngày 21-1, Đại Sứ Martin cho biết là :”… sáng ngày 21 tháng 1, ông nghe tin TT Thiệu đă ra lệnh không quân VN oanh tạc lực lượng TC ở HS. Lệnh này đă được ngưng lại.” (7)
    - ngày 21-1, Đại Sứ Martin trong văn thư gởi về BNG/HK :”.. Tôi hoàn toàn chắc chắn là hành động như vậy sẽ không thể nào xảy ra nếu không có sự chấp thuận của chính Tổng Thống Thiệu, người đă hiện diện tại Đà Nẵng vào thời điểm đó, mặc dù chúng ta có thể cho là, theo ư kiến của của tôi, hành động này được coi là thiếu cân nhắc … “ (8)
    - Ngày 22-1, mùng 1 Tết, TT Thiệu đọc thông điệp chúc Tết đến toàn dân. trong thông điệp này ông không có một lời nào đề cập đến trận hải chiến và cũng không lên tiếng tố cáo TC đă dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa của VNCH. Trong khi đó ông lại nói về đạo luật bầu cử mà quốc hội đă thông qua vào ngày xảy ra trận hải chiến, ngày 19 tháng 1-1974 !!!!
    Đạo luật này cho phép ông và các vị Tổng Thống kế nhiệm được quyền ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba và nhiệm kỳ Tổng Thống sẽ được kéo dài 5 năm thay v́ 4 năm. (1)
    - Ngày 22-1, TT Thiệu gởi thơ cho Tổng Thống HK Richard Nixon để yêu cầu chánh phủ
    Hoa Kỳ “…hết ḷng hỗ trợ về vật chất và chánh trị cần thiết…” mặc dù Đại Sứ Martin đă ngăn cản. (9)
    (Thay v́ viết phúc thư trực tiếp đến Tổng Thống Thiệu, Tổng Thống Nixon đă gởi điện văn cho Đại Sứ Martin khoảng 3 tuần sau đó và chỉ thị ông đến gặp thẳng Tổng Thống Thiệu để diễn đạt lại nội dung của bản phúc đáp.) (10)
    - Sáng ngày 22 tháng 1, nguồn tin từ dinh độc lập cho hay là chánh phủ VN cảm thấy bắt buộc phải mở cuộc hành quân cứu cấp không/hải để t́m kiếm những người có thể sống sót trên biển. (11)
    2.2.- Thời gian không xác định:
    1.- Cựu Ngoại Trưởng VNCH Vương Văn Bắc đă viết:
    a.- ” ….tôi cần minh xác là Bộ Ngoại Giao cũng như cá nhân tôi không hề được Tổng Thống……. tham khảo ư kiến hay thông báo diễn tiến vế các vấn đề quân sự, các cuộc hành quân…… (trước trận hải chiến).
    b.- “… tôi c̣n nhớ có tham gia một phiên họp cấp cao ở miền duyên hải Trung phần để thảo luận về vụ Hoàng Sa, sau khi quần đảo nầy đă bị Trung Cộng cưỡng đoạt. Tôi nhớ trong phiên họp nầy có mặt Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tướng Cao Văn Viên và mấy vị khác mà ngày nay tôi không c̣n nhớ rơ tính danh…” (12)
    2.- HQ Đại Tá Đỗ Kiểm :
    “Ngay lập tức sau trận chiến Kiếm đă phải bay ra Phan Rang để thuyết tŕnh trong chuyến đi nghỉ mát của Tổng Thống Thiệu. Ông không dám nói với TT Thiệu là Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó /HQ đă bỏ lỡ trận hải chiến duy nhất trong lịch sử hải quân hiện đại, tuy nhiên ông đă đề cập đến việc không có sự yễm trợ của lực lượng không quân. Cuộc thuyết tŕnh đă diễn ra dưới bóng mát của một vọng lầu bằng gạch được xây ngay trên băi biển, trong lúc các người trong gia đ́nh của ông Thiệu đi qua đi lại, t́m khăn tắm hoặc thuốc lá.
    " Đại Tá Kiểm đừng lo", Thiệu xoa dịu, "chúng tôi sẽ cho anh chiếc tàu khác.” (13)

    NHẬN XÉT

    Cho đến nay vẫn c̣n nghi vấn về lệnh khai hỏa trong trận hải chiến HS. Theo PĐĐ Thoại th́ ông là người trực tiếp ra lệnh khai hỏa dựa trên thủ bút của TT Thiệu viết cho ông ngày 16-1 khi TT Thiệu đến thăm VIDH. Nhưng trong bài viết ‘Trận hải chiến Hoàng Sa và nước mắt của vị Tư Lệnh Hải Quân’ của HQ Đ/Úy Lê Văn Thự phổ biến trên www.hqvnch.net vào tháng 12-2008 (như đă dẫn chứng đoạn trên) th́ PĐĐ Thoại đă ra lệnh khai hỏa ngay sau khi TT Thiệu chấm dứt cuộc điện đàm.
    Để t́m câu trả lời về lệnh khai hỏa trong ngày 19-1, bài viết sẽ phân tích về chỉ thị của TT Thiệu và nhận xét về cuộc điện đàm giữa TT Thiệu và TL/V1DH.
    1.- Phân tích về chỉ thị của TT Thiệu viết cho PĐĐ Thoại
    Trong cuốn sách “Can trường trong chiến bại” PĐĐ Thoại viết về hoạt động của HQ 16 trong ngày 16-1 (chính xác là ngày 15-1): ”Sáng ngày 16, chiến hạm HQ 16 khi đến nơi vùng đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam, báo cáo rằng có một số tàu đánh cá chạy về hướng Bắc và đồng thời khi người nhái của Hải Quân Việt Nam đổ bộ để thám sát các đảo Duncan và Drummond th́ đụng ngay một toán quân nhân Trung Cộng………… (trang 155)
    Và sau đó trong ngày 17-1 (chính xác là ngày 16-1) , PĐĐ Thoại viết tiếp :” Trong đêm t́nh h́nh yên lặng. Sáng ngày 17-1, tuần dương hạm HQ 16 báo cáo là hai tàu đánh cá Trung Cộng không tuân lịnh của chiến hạm Việt Nam ra khỏi lănh hải Việt Nam.
    Ngoài ra chiến hạm HQ 16 báo cáo sự xuất hiện của hai tàu chở quân của Trung Cộng đến gần đảo và trên bờ có cắm nhiều cờ Trung Cộng. Trung tá Thự cho một toán đổ bộ gồm một trung úy và mười bốn đoàn viên của chiến hạm trang bị M79 và súng cá nhân lên bờ bằng xuồng cao su để nhổ hết cờ Trung Cộng và thay bằng cờ Việt Nam. Khi lên bờ toán này gặp nhiều người Trung Hoa nhưng không rơ là ngư phủ hay binh sĩ tuy nhiên toán đổ bộ được chỉ thị không được bắn trước trừ khi phải tự vệ….. (trang 156)
    Đúng 8 giờ sáng ngày hôm sau, tổng thống và phái đoàn ………….đến bộ tư lịnh Vùng 1 Duyên Hải bằng xe…………….. Tôi nhấn mạnh việc chiến hạm Việt Nam cố gắng mời chiến hạm Trung Cộng rời khỏi lănh hải một cách ôn ḥa nhưng t́nh h́nh trong 24 gị qua cho thấy Trung Cộng có ư định khiêu khích.”
    Đoạn viết trên của PĐĐ Thoại đă cho thấy những diễn tiến dồn dập kể từ lúc HQ 16 đến HS vào lúc sáng ngày 15-1 cho đến khi TT Thiệu đến BTL/V1DH lúc 8 giờ sáng ngày hôm sau 16-1 và ông đă tŕnh bày với TT Thiệu :”….Tôi nhấn mạnh việc chiến hạm Việt Nam cố gắng mời chiến hạm Trung Cộng rời khỏi lănh hải một cách ôn ḥa nhưng t́nh h́nh trong 24 giờ qua cho thấy Trung Cộng có ư định khiêu khích.“ (4) (trang 157&158).
    Diễn tiến và thời gian qua báo cáo của PĐĐ Thoại :
    a.- Diễn tiến : khi TT Thiệu đến vùng I, lúc bấy giờ báo cáo từ HQ 16 là chỉ có 1 tàu đánh cá TC mà thôi. (PĐĐ Thoại báo cáo cho TT Thiệu là 2 chiến hạm TC, trong khi ông báo cáo cho TL/HQ là 2 tàu đánh cá có vơ trang và trong bài phỏng vấn với Tuyết Mai th́ ông trả lời “Chỉ thị của Tổng Thống là mời các ngư thuyền cũng như chiến hạm lạ ra khỏi lănh hải của chúng ta. Lúc đó tôi cũng chưa chắc những chiến hạm hiện diện đó là của Trung Cộng”.) (14)
    Thực tế như tác giả đă chứng minh trong bài viết “Kế hoạch cưỡng chiếm Hoàng Sa tháng 1-1974 của Trung Cộng” (15) là từ chiều ngày 15-1 cho đến sáng ngày 16-1 lúc TT Thiệu đến V1DH vẫn chỉ có một tàu đánh cá mang số 402 có treo cờ TC đă được HQ 16 phát hiện vào chiều ngày hôm trước 15-1.
    :” Lúc 5 giờ chiều ngày 15 tháng 1, chiến hạm HQ 16 của HQVN neo ở hướng đông đảo Cam Tuyền cách bờ 100m đă phát hiện tàu TC neo phiá ngoài đảo Cam Tuyền thuộc quần đảo HS, cách bờ 100m. Tàu TC là loại tàu đánh cá khoảng 100 tấn, trang bị một số antenna. Trên đảo Cam Tuyền có cờ TC. HQ 16 ra hiệu yêu cầu tàu TC rời khỏi khu vực nhưng không có phản ứng.” (15)
    Công điện dẫn chứng trên đă xác nhận một cách đầy đủ và rơ ràng thời gian, vị trí, loại tàu, quốc tịch và hoạt động của tàu đánh cá khi bị HQ 16 phát hiện và báo cáo về BTL/V1DH.
    b.- Thời gian : HQ 16 báo cáo phát hiện tàu đánh cá TC về TTHQ/V1DH khoảng 5 giờ chiều ngày 15-1. Đến 8 giờ sáng ngày 16-1, TT Thiệu đến BTL/V1DH như vậy chỉ sai biệt trong ṿng 15 giờ (khác với 24 giờ cách biệt như PĐĐ Thoại đă viết) và theo Đ/Úy Đào Dân sau khi phát hiện, HQ 16 đă dùng loa phóng thanh phát tiếng Trung Hoa để yêu cầu họ rời khỏi hải phận VN cho đến khi trời tối, HQ 16 phải vận chuyển ra xa để giữ an toàn cho chiến hạm. (16)
    Nhận Xét:
    Thực sự ngoài PĐĐ Thoại, cho đến nay không ai biết được là ông đă tŕnh bày những ǵ với TT Thiệu và thủ bút của TT Thiệu đă chỉ thị cho ông ra sao. Nhưng theo PĐĐ Thoại, sáng ngày 16-1, sau khi nghe ông thuyết tŕnh, TT Thiệu đă viết thủ bút chỉ thị ông:
    ”Thứ nhứt là t́m đủ mọi cách ôn ḥa mời các chiến hạm Trung Cộng ra khỏi lănh hải VNCH.
    Thứ hai, nếu họ không thi hành th́ được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố th́ toàn quyền xử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn của lănh thổ VNCH .(4)
    Đề Đốc Trần Văn Chơn TL/HQ trả lời cuộc phỏng vấn là: “Khi ông Thoại báo cáo cho tôi về vấn đề HS, ông không báo cáo là có tàu binh của Trung Quốc mà chỉ nói là có hai chiếc tàu đánh cá có gắn súng đại liên thôi.” th́ ông đă trả lời một cách ngắn gọn :” Tôi liền ra lịnh cho Đô Đốc Thoại đuổi 2 tàu đánh cá Trung Quốc ra khỏi hải phận của ta, nếu nó không nghe th́ lôi nó giải giao về Đà Nẵng” (3 trang 324).
    V́ theo ông, TL/V1DH đă điện tŕnh lên ông là: ”Tổng Thống ra lệnh cho Đô Đốc Thoại phải giữ vững Hoàng Sa và đuổi tàu Trung Cộng ra khỏi hải phận” (16)
    Chỉ thị của TT Thiệu và của ĐĐ Chơn không khác nhau lắm và đây cũng chỉ là phản ứng thông thường mà các vị Tư Lệnh vùng duyên hải vẫn thường xuyên ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc thi hành mỗi khi phát hiện tàu thuyền ngoại quốc xâm phạm lănh hải VNCH. (trong rất nhiều trường hợp, tại vùng biển Phú Quốc thuộc V4DH, chiến hạm hải quân đă sử dụng vũ khí để bắt giữ tàu đánh cá Thái Lan vi phạm hải phận).
    Có lẽ đối với TT Thiệu đây là trường hợp đơn giản, chỉ cần thẫm quyền V1DH giải quyết, do vậy ông đă chỉ thị TL/HQ/V1DH thi hành. Dĩ nhiên là một vị tướng lănh thâm niên, nếu nhận thức t́nh thế nghiêm trọng người mà ông ra chỉ thị phải là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng thay v́ PĐĐ Thoại.
    Về phần BTL/HQ, sau khi nhận công điện báo cáo phát hiện tàu TC từ V1DH, BTL/HQ đă không có chỉ thị khẩn cấp và đă không điều động cấp thời chiến hạm nào ra V1DH để trợ lực với HQ 16, điều này phải được hiểu đây chỉ là trường hợp vi phạm lănh hải rất thường xảy ra và sự hiện diện của HQ 16 cũng quá đủ để đối đầu với một tàu đánh cá của TC. Có lẽ PĐĐ Thoại cũng hiểu chỉ thị của TT Thiệu là chỉ để đối phó cấp thời đuổi tàu TC ra khỏi hải phận. Do vậy ông rất e dè sử dụng biện pháp mạnh.
    Sự dè dặt trong việc sử dụng biện pháp cứng rắn đối phó với lực lượng TC hiện diện trong khu vực nhóm Nguyệt Thiềm đă được ghi nhận qua sự kiện các chiến hạm VN chưa hề nhận được lịnh sử dụng vũ khí, kể cả vũ khí cá nhân, ngay khi tàu đánh cá và chiến hạm địch khiêu khích bằng cách vận chuyển đâm ngang mũi hoặc quá gần chiến hạm ta. Theo lời PĐĐ Thoại th́ ông luôn nhấn mạnh tới điểm xử dụng biện pháp ôn ḥa để mời tàu đánh cá và chiến hạm TC ra khỏi lănh hải VNCH từ ngày 15-1 đến sáng ngày 19-1. Và cũng chính v́ sự dè dặt này mà 2 tàu đánh cá TC 402 và 407 vẫn tự do hoạt động trong nhóm Nguyệt Thiềm và đă thực hiện công tác hướng dẫn và đổ quân chiếm trọn 3 đảo c̣n lại là Cam Tuyền, Hoàng Sa và Vĩnh Lạc trong ngày 20-1. (15)
    Khi lực lượng Người Nhái và Biệt hải đổ bộ lên đảo Quang Ḥa, cùng lúc TC cũng đổ bộ khoảng 2 đại đội lên hướng Đông Bắc, đưa đến sự nguy hiểm và bất lợi cho lực lượng ta, các chiến hạm vẫn không nhận được lịnh tác xạ lên bờ để dọn đường và yễm trợ cho lực lượng đổ bộ cũng như khi TC tác xạ vào lực lượng đổ bộ gây cho ta tử thương 2 người và bị thương 3 người, Đại Tá Ngạc phải ra lịnh triệt thoái, phiá bên ta vẫn bất động.
    PĐĐ Thoại trả lời câu hỏi số 5 của UBHS (3) :” Không ai nghĩ ra sẽ có một cuộc hải chiến, kể cả Tổng Thống Thiệu”. Có lẽ ư nghĩ này đă hạn chế ông sử dụng vũ lực ngay cả trong thời gian đầu khi HQ 16 phát hiện tàu đánh cá 402, và chắc ông cũng hiểu rơ là chỉ thị của TT Thiệu viết cho ông không phải ủy quyền cho ông ra lệnh khai hỏa để khởi đầu một cuộc hải chiến mà hậu quả không thể nào lường.
    Như vậy th́ động lực nào đă thúc đẩy PĐĐ Thoại phải ra lịnh khai hỏa ? Có phải chăng là cú điện thoại mà TT Thiệu đă gọi vào TTHQ/V1DH vào sáng ngày 19-1 như Đại Úy Lê Văn Thự đă viết trong tham khảo (4).
    2.-Nhận xét về sự xác thực của cuộc đàm thoại giữa TT Thiệu và PĐĐ Thoại.
    Như đă dẫn chứng phần trên, chỉ thị của TT Thiệu và ĐĐ Chơn để đối phó với tàu đánh cá số 402 phát hiện trong chiều ngày 15-1 và chiếc số 407 vào trưa ngày 16-1 gần khu vực đảo Cam Tuyền đă không được V1DH chỉ thị cho HQ16 và HQ 4 (đến HS vào trưa ngày 17-1) thi hành. (1)
    Như vậy có thể nào TL/V1DH lại có thể đơn phương ra lệnh nổ súng vào chiến hạm TC dẫn đến trận hải chiến với kết quả là mất trọn cả nhóm Nguyệt Thiềm, nếu như không có một chỉ thị nào khác hơn là câu hỏi ‘Như vậy Hải quân đă làm ǵ chưa?’ của TT Thiệu tù Đà Lạt gọi điện thoại vào TTHQ/V1DH trước khi ông lên đường tiếp tục ủy lạo chiến sĩ tại Vùng 3 Chiến Thuật.
    Điều này chứng tỏ là câu hỏi ngắn gọn của TT Thiệu đă được PĐĐ Thoại hiểu như là một mệnh lệnh, bắt buộc ông phải có phản ứng cứng rắn để đáp lại việc TC đă nổ súng vào lực lượng ta. Như vậy, câu hỏi có tích cách lịch sử này cần phải được cứu xét để xác định sự xác thực của cú điện thoại và nội dung của cuộc điện đàm.
    Điểm nghi vấn được đặt ra ở đây là PĐĐ Thoại đă không đề cập đến cú điện thoại này trong sách hoặc trong bất cứ một cuộc phỏng vấn nào từ trước đến nay. Và người độc nhất tiết lộ về chi tiết này là HQ Đại Úy Lê Văn Thự trong bài viết “Trận hải chiến HS và nước mắt của vị Tư Lịnh HQ” đă được phổ biến hạn chế trong số bạn hữu tại tiểu bang Oklahoma vào năm 1997. Bài này đă được ông viết lại và tái đăng trong http://hqvnch.net/default.asp?id=1267&lstid=135 tháng 12-2008.
    HQ Đại Úy Thự giữ chức vụ Trung Tâm Trưởng/TTHQ/VIDH từ tháng 10-1973 cho đến khi QĐI thất thủ và nhiệm vụ của TTT/TTHQ là nhận và thi hành chỉ thị thượng cấp trong việc điều động các đơn vị trực thuộc, tiếp nhận báo cáo từ các đơn vị trực thuộc, liên lạc các TTHQ quân binh chủng trong vùng trách nhiệm….. Trong ngày 19-1, ông đă có mặt từ sáng cho đến chiều trong TTHQ. Theo ông th́ hệ thống liên lạc trong TTHQ (máy truyền tin và điện thoại) khi nhận và phát th́ tất cả những người có mặt trong trung tâm đều nghe rơ.
    Qua bài viết của Đ/Úy Thự, TT Thiệu đă chấm dứt cuộc điện đàm bằng một câu hỏi ”Như vậy Hải quân đă làm ǵ chưa?” và từ câu hỏi ngắn gọn này của TT Thiệu đă được PĐĐ Thoại hiểu như là một mệnh lệnh, bắt buộc ông phải có phản ứng cứng rắn để đáp lại việc TC đă nổ súng vào lực lượng ta và Đô Đốc Thoại không c̣n phản ứng nào khác hơn là quyết định ra lệnh khai hỏa.”
    HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê viết trong HSTT “ hồi 08:35H, bên bờ phía Tây Nam đảo Duncan, Trung Cộng bắt đầu nổ súng tấn công trung đội Hải Kích. Ngay phút đầu tiên, ta tử thương 2 và bị thương 3. Hải kích phải rút về b́a san hô v́ địch quá mạnh. Hồi 08:50H, Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải chỉ thị chiến hạm bắn tối đa vào đảo; đồng thời, nếu cần, triệt hạ luôn chiến hạm địch” (16)
    Và theo tài liệu từ phiá HK th́ PĐĐ Thoại ra lịnh khai hỏa vào lúc 08:50H các chiến hạm HQVN đă nhận được lịnh tác xạ vào đảo trong lúc triệt thoái toán Người nhái và Biệt hải về tàu nhưng không giao chiến với tàu TC (VNN SHIPS WERE ORDERED TO SHELL ISLAND WHILE EXTRACTING TROOPS, BUT NOT TO ENGAGE THE PRC SHIPS.)(17)
    Hai tài liệu dẫn chứng trên đă cho thấy sự trùng hợp về thời gian và mục tiêu của lệnh khai hỏa chỉ có một điểm khác là bài viết của Đại Tá Khuê có thêm câu “… đồng thời, nếu cần, triệt hạ luôn chiến hạm địch”
    Theo Đại Tá Khuê th́ TC bắt đầu nổ súng vào lực lượng ta vào lúc 08:35H. Như vậy câu hỏi đặt ra ở đây là nếu dựa vào thủ bút của TT Thiệu th́ TL/V1DH phải ra lệnh phản pháo ngay vào giờ phút này khi địch nổ súng gây thương vong về phía ta, không cần phải chờ đến 15 phút sau mới quyết định ra lệnh khai hỏa.
    Điều này cho thấy là ông vẫn c̣n ngần ngại trong quyết định sử dụng vũ lực để đối đầu với TC và ông chỉ ra lệnh khai hỏa sau khi đă có một sự hối thúc nào đó từ cấp thẫm quyền cao cấp hơn và thẫm quyền này không ai khác hơn là TT Thiệu qua câu hỏi chấm dứt cuộc điện đàm.
    Do vậy có thể xác định thời gian TT Thiệu từ Đà Lạt gọi vào TTHQ/V1DH là trong khoảng từ 08:35H đến 08:45H sáng ngày 19-1-1974.
    Đại Tá Ngạc cũng đă diển tả tương tự tuy thời gian sai biệt nhau 40 phút:” Việc thất-bại đổ-bộ được báo-cáo ngay về Bộ-Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải và chừng ít phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) th́ đích thân Tư-lệnh HQ VNCH hay Tư-lệnh Vùng I duyên-hải ra lệnh vắn-tắt có hai chữ: "khai-hỏa" bằng bạch-văn cho Hải-đoàn đặc-nhiệm và không có chi-tiết ǵ khác hơn.”
    Điểm cần ghi nhận là từ sau trận hải chiến HS cho đến khi mất miền Trung, PĐĐ Thoại TL/HQ/VIDH vẫn c̣n tại chức. Như vậy là dưới mắt TT Thiệu, TL/V1DH đă thi hành đúng chỉ thị của ông khi ra lệnh khai hỏa.
    Có điều hơi khó hiểu là để trả lời cho câu hỏi :” Với tư cách là Tư Lệnh Chiến Trường, Đô Đốc có dự trù là nếu trong trường hợp đổ bộ lên đảo Quang Ḥa không thành công, Đô Đốc sẽ rút toán Hải Kích về tàu, chỉ thị chiến hạm quay lại đổ bộ toán Người Nhái và Hải Kích lên tăng cường 3 đảo c̣n lại ở hướng Tây là Vĩnh Lạc (Money), Cam Tuyền (Robert) và Hoàng Sa (Pattle). Như vậy ta vẫn c̣n quân pḥng thủ trên các đảo c̣n lại và vẫn c̣n 4 chiến hạm làm thành tuyến ngăn chận từ Hoàng Sa đến Quang Ḥa trong khi chờ đợi những diễn tiến mới về chính trị, ngoại giao…?” [(2) câu hỏi số 13, trang 354)], PĐĐ Thoại đă không cho là ông phải thi hành lệnh của TT Thiệu như những lần trước mà ông lại trả lời :”Chỉ có nhựt kư của Trung Tâm Hành Quân Vùng 1 Duyên Hải mới trả lời được câu này.”
    Có phải chính ông cũng đă dự trù hành động như câu hỏi nêu trên, nhưng TT Thiệu v́ tự ái dân tộc, căm phẩn trước kẻ thù truyền kiếp TC đă ngang nhiên xâm phạm lănh thổ và nổ súng giết chết binh sĩ ta đă vội vàng đặt câu hỏi để kết thúc cuộc điện đàm như là một mệnh lệnh buộc ĐĐ Thoại không c̣n cách chọn lựa nào khác hơn là phải ra lệnh khai hỏa.
    Và biết đâu nếu như không có cú điện thoại của TT Thiệu, ngày nay Việt Nam vẫn c̣n giữ lại các đảo phiá Tây nhóm Nguyệt Thiềm của quần đảo Hoàng Sa và TC sẽ bớt hung hăn hơn trong vùng Biển Đông.
    Xác nhận TT Thiệu đă ra lệnh khai hỏa từ phiá HK:
    1.- Đại Sứ Martin.(xem ‘Các hoạt động liên quan đến biến cố Hoàng Sa’ ở phần trên)
    2.- Indochina resource center, Washington,D.C. FEB 1, 1974 : ’báo cáo cho là chính TT Thiệu đă ra lệnh khai hỏa những phát súng đầu tiên vào Trung Cộng ở Hoàng Sa.’
    3.- Kư giả Phil McCombs thuộc báo Washington Post ở Sài G̣n viện dẫn nguồn tin từ các giới chức thẫm quyền HQVN cho biết là chính TT Thiệu đă ra lệnh chiến hạm VN khai hỏa trước, sau khi các chiến hạm TC khiêu khích các chiến hạm VN trong vùng (18)

    Phân tích về nhận định của cựu Bí thư Hoàng Đức Nhă về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong biến cố Hoàng Sa.
    Gần đây trong ngày 23 tháng 9, trên www.bbc.co.uk có đăng bài phỏng vấn với tựa đề :“Cựu bí thư Hoàng Đức Nhă nói về di sản của cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Nguyễn Văn Thiệu và "bi kịch" mất Hoàng Sa.” nội dung như sau:
    Hoa Kỳ "không thông báo" cho chính quyền Việt Nam Cộng ḥa:"Sao Hoa Kỳ thấy như vậy với bao nhiêu phương tiện quan sát điện tử, thấy sự di chuyển của hạm đội Trung Quốc lại không cho phía Việt Nam Cộng ḥa biết."
    Ông Nhă cho biết ông và Tổng thống Thiệu đă "không tin" khi nghe đại sứ Hoa Kỳ lúc đó, ông Graham Martin nói rằng phía Hoa Kỳ "không thể thấy được".
    Ông Hoàng Đức Nhã nói ông đã chất vấn Đại sứ Martin Ông Nhă khẳng định ông Thiệu đă ngay lập tức chỉ đạo chính quyền, ngoại giao và quân đội Việt Nam Cộng ḥa phản đối hành động "xâm lăng" khi hạm đội của Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa.
    Trong một công bố với tư cách của người làm chứng, ông Hoàng Đức Nhă thuật lại, dưới sự chỉ đạo của Tổng thống Thiệu, ông đă "gọi điện cho đại sứ Hoa Kỳ" và chất vấn v́ sao rằng chuyện một hạm đội di chuyển mà người Mỹ "không thấy" thì quả là khó tin.”
    Trong đoạn phát biểu này, ông Nhă không nói rơ thời gian là lúc nào. Nhưng qua câu :”… phản đối hành động “xâm lăng” khi hạm đội của Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa.” có thể suy ra là ông Thiệu đă chỉ thị cho ông Nhă trong hoặc sau ngày 20-1, sau khi lực lượng HQVN đă rút về Đà Nẵng trong ngày 19-1 và TC đă đưa lực lượng Hải Lục và Không quân tiến chiếm trọn vẹn quần đảo HS trong ngày 20-1-1974.
    Hầu hết tài liệu viết về trận hải chiến HS đă chứng tỏ là trước và trong lúc xảy ra trận hải chiến, lực lượng TC tham dự gồm có 4 chiếm hạm tương đương hộ tống hạm Nhật Tảo HQ 10, 2 tàu đánh cá và 1 hoặc 2 tàu đổ bộ. Sau khi các chiến hạm ta rời vùng, lúc 12 giờ 12 phút có thêm 2 chiến hạm khác đến tăng cường đánh ch́m HQ 10. (19)
    Viên chức dân sự Gerald Kosh thuộc ṭa Tổng lănh sự HK tại Đà Nẵng đă cho biết là trong khuya vào lúc 03:30H ngày 21-1, ông đă được đưa xuống tàu rời đảo HS và trên đường di chuyển ông đă nhận dạng 18 chiến hạm TC hiện diện trong vùng (20). Như vậy sự kiện TC đưa lực lượng hùng hậu để chiếm HS là chuyện có thật và điều này cũng dễ hiểu v́ họ đă dự trù là với một lực lượng như thế , TT Thiệu sẽ phải cân nhắc cẩn thận trước khi có ư định sử dụng vũ lực để tái chiếm HS.
    Có điều là TT Thiệu chất vấn HK để làm ǵ khi mọi chuyện đă an bài, th́ dù HK có thông báo đi nữa cũng làm sao đổi ngược lại t́nh thế một khi VNCH đă không có kế hoạch nào để đối đầu với sách lược của TC kể từ lúc đầu và làm sao có khả năng quân sự để tái chiếm HS một khi HK đă nhất quyết không can dự !
    Thật là trớ trêu khi từ ngày 11-1 cho đến ngày 19-1, không tài liệu nào chứng tỏ là chánh phủ VNCH đă có bất cứ lần tiếp xúc nào với phiá HK, ngoại trừ ĐS Martin trong ngày 17-1 đă gặp NT Vương Văn Bắc để cho biết về lập trường của HK và đề nghị với VNCH phương thức hành xử . Nhưng đến khi mất HS th́ lại trách HK không thông báo về sự di chuyển của hạm đội TC.
    Ví thử HK có thông báo th́ TT Thiệu sẽ đối phó cách nào. Ngay cả dự định gởi F-5 ra oanh tạc HS trong ngày 21-1 cũng phải hủy bỏ th́ ông c̣n cách ǵ khác hơn ? (21)
    Và làm cách nào để giải thích lư do từ khi ông “giao khoán” trách nhiệm đối đầu với lực lượng TC cho TL/V1DH không có một tài liệu nào chứng tỏ là ông đă có sự quan tâm và theo dơi đến t́nh h́nh HS, khi gặp TL/HQ Trần Văn Chơn tại Đà Lạt trong chiều ngày 18-1, ông cũng không hỏi han ǵ đến những diễn tiến ngoài HS.
    Sáng ngày 19-1 khi được tin cuộc đổ bộ lên đảo Quang Ḥa thất bại, TC đă nổ súng gây thương vong cho lực lượng ta, ông vẫn thản nhiên tiếp tục chương tŕnh thăm viếng chiến sĩ tại Quân đoàn 3. Sau khi mất HS, ông mới bắt đầu lo ngại Trường Sa sẽ là mục tiêu sắp tới của TC. Do vậy, ông đă làm HK ngạc nhiên khi chỉ khoảng 10 ngày sau đó vào ngày 31-1, ông ra lệnh cho HQ/VNCH tiến chiếm thêm 5 đảo ỏ Trường Sa. (22). Đây có thể nói là quyết định rất mạo hiểm vào lúc bấy giờ nhưng lại là một quyết định rất sáng suốt v́ đă góp phần vào việc cũng cố và duy tŕ chủ quyền của nước Việt Nam trên hầu hết vùng Trường Sa cho đến ngày nay. Tiếc thay, phải chi ông có mối ưu tư ở HS kể từ lúc phát hiện tàu đánh cá TC cắm cờ trên đảo Cam Tuyền hoặc sớm hơn vài năm trước, có lẽ TC không quá lộng hành ở Biển Đông như ngày hôm nay
    Để kết luận, có thể nói khuyết điểm lớn nhất của TT Thiệu trong biến cố Hoàng Sa là ông đă không tiên liệu âm mưu chiếm đoạt HS của TC v́ vậy ông đă không chỉ đạo các cấp lănh đạo dân sự và quân sự dự trù kế hoạch đối phó và phối hợp phương thức hành động.
    Và cũng như tất cả những người Việt Nam yêu nước, ông đă căm phẩn khi TC không những xâm phạm lănh thổ nước ta mà chúng c̣n nổ súng gây tử vong cho chiến sĩ ta, do vậy ông đă nóng ḷng vội vàng đặt câu hỏi “như vậy hải quân đă làm ǵ chưa?” không có ư nghĩa nào khác hơn là chúng đă bắn ḿnh trước các anh c̣n chờ ǵ nữa, và ĐĐ Thoại đă hiểu ư của TT Thiệu, lệnh khai hỏa đă được ban hành và đă dẫn đến kết quả quần đảo HS hoàn toàn thuộc về TC.

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    Việt Nam Cộng Ḥa – Quốc Gia trẻ trung của Đông Nam Á
    by Sài G̣n - Ḥn Ngọc Viễn Đông



    Nhà nước Việt Nam Cộng Hoà ra đời không bao lâu sau khi nền đô hộ thực dân của người Pháp kết liễu tại Đông Dương vào giữa thập niên 1950. Từ đó đến ngày 30-4-1975, trên phần lănh thổ miền Nam Việt Nam, nhiều người Việt đă chung tay gầy dựng nên một xă hội năng động, cầu tiến chưa từng thấy trước nay. Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi không nhắc về cuộc chiến giữ ǵn bờ cơi quân lực VNCH, cũng không chủ ư làm các phép so sánh đối chiếu với những nước lân bang trong cùng thời gian. Chỉ xin mời bạn cùng điểm qua vài cột mốc với ít nhiều ư nghĩa, có thể là các ghi nhận sơ khởi về những đóng góp khả quan, hữu ích của VNCH trong ḍng lịch sử Việt.



    Đường Nguyễn Huệ và toà Đô Chính năm 1960





    Thành công trước hết của VNCH cần phải kể có lẽ là nỗ lực đón nhận gần 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư sau Hiệp định Geneva 1954. Ghi nhận th́ dễ dàng, nhưng ngay cả với một cường quốc như Hoa Kỳ ngày nay, việc tái định cư, ổn định đời sống về mọi mặt (nhà ở, công ăn việc làm, y tế, giáo dục…) cho cả triệu dân là một thách thức ghê gớm. Chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm có công lớn trong sứ mạng này. Có lẽ không ǵ ngạc nhiên khi nhiều gia đ́nh người Bắc di cư đến nay vẫn dành nhiều ưu ái cho vị tổng thống đầu tiên của VNCH.





    Người ta nhận xét người Việt ở miền Nam thường hào sảng và… hào hoa. Đặc điểm này dường như cũng đúng với chế độ VNCH. Mặc dù trong khung cảnh chiến tranh điêu linh, miền Nam Việt Nam vẫn kịp khai triển một nền văn hoá nghệ thuật độc đáo, đậm chất Việt, cách riêng trong các ngành văn chương, âm nhạc, hội hoạ… Có hai lư do lớn góp phần thúc đẩy sự viên măn này: công việc giáo dục nhân bản, và một nền báo chí tự do. Cả miền Nam thời đó có khoảng 50 tờ nhật báo và hằng trăm tạp chí lớn nhỏ đủ loại, tạo sân chơi cho nhiều tài năng trẻ mặc sức tung hoành. Chính trong môi trường này, dưới thời VNCH rất nhiều tác phẩm quư đă ra đời, vẫn c̣n chỗ đứng đến ngày nay. Có hằng trăm, thậm hằng ngàn tên tuổi thành danh vào lúc tuổi đời chỉ ngoài đôi mươi, điều sau này hiếm gặp lại.



    Thiếu nữ Việt Nam Cộng Hoà



    Sự có mặt của người Mỹ và các nước bạn đồng minh, cùng nhu cầu chiến cuộc, giúp VNCH có một mạng lưới đường xá, cầu cống, và các công tŕnh kiến trúc khang trang, rộng khắp xứ sở. Hệ thống hạ tầng cơ sở này hầu như c̣n nguyên trạng, trở thành trục xương sống của nền kinh tế Việt Nam kéo dài đến sau này, khoảng đầu thập niên 1990.







    Kinh tế nước Việt Nam thời hậu chiến rập khuôn mô h́nh Nga Sô cũ, khiến đời sống dân chúng cơ cực bần hàn, dẫn đến quyết định “cải tổ”, “mở cửa”, và thu hút “đầu tư” năm 1986. Nh́n lại, các nhà hoạch định kinh tế của VNCH đă đi trước đó đến 30 năm. Từ 1957, chánh phủ VNCH đă ban hành nhiều chánh sách mạnh mẽ, kêu gọi đầu tư ngoại quốc lẫn tư nhân, giúp canh tân mở mang nước nhà. Chính nhờ những quyết sách nhạy bén này, trong 20 năm kế tiếp, miền Nam Việt Nam trong thế vô vàn khó khăn, vẫn nỗ lực xiển dương một nền công nghệ riêng tuy quy mô c̣n khiêm tốn. Ta có thể nhắc những cái tên lừng lẫy của một thời như: Khu kỹ nghệ Biên Ḥa, Khu kỹ nghệ An Ḥa, Khu kỹ nghệ Phong Đ́nh, nhà máy giấy Cogido An Hảo, các xưởng dệt Vinatexco và Vimytex, nhà máy thủy tinh Khánh Hội, hai nhà máy xi măng Hà Tiên và Thủ Đức… VNCH cũng kịp xây đập thủy điện Đa Nhim từ đầu thập niên 1960, là một trong những lư do giúp phát triển mạng lưới điện lên ít nhất 10 lần. Kỹ nghệ dầu hoả cũng manh nha đầu thập niên 1970 với hăng Mobil của Mỹ chuẩn bị khai thác dầu tại giàn khoan Bạch Hổ ngoài khơi Vũng Tàu.







    Một thành quả khá độc đáo khác, thường được nhiều người nhắc nhở, là sản phẩm xe hơi “La Dalat”. Khởi thuỷ là một cơ xưởng của Citroen mở từ năm 1936. Đến đầu thập niên 1970, hăng này gọi là “Citroen Xe Hơi Công Ty”, đóng nhiều phiên bản xe La Dalat khác nhau, mở cửa hoạt động đến năm 1975. Ngày nay, vẫn có nhiều người chơi xe cổ sưu tập các xe La Dalat này, đặc biệt ở Sài G̣n. Chiếc xe tí hon, đơn giản, song ít nhiều gợi niềm hoài cảm, và hănh diện cho người miền Nam một thuở, đă bước vào kỹ nghệ đóng xe hơi từ rất sớm.






    Một điểm son đặc biệt thời VNCH là chương tŕnh “Người Cày Có Ruộng” khởi sự năm 1970. Đây là tương phản lớn với cuộc “cải cách ruộng đất” đẫm máu ở miền Bắc với chánh sách cộng sản. Ở miền Nam Việt Nam, chánh phủ VNCH nghĩ ra cách bán công khố phiếu, lấy tiền đó mua lại ruộng đất của điền chủ, rồi đem chia cho nông dân miễn phí. Chương tŕnh này giúp khoảng bốn triệu nông dân có đất ruộng riêng, đời sống được cải thiện đáng kể. Nhiều học giả sau này đánh giá “Người Cày Có Ruộng” là một trong những chương tŕnh cải cách điền địa quy mô, mang nhiều tham vọng, và thực thi hiệu quả nhất tại một quốc gia thuộc thế giới thứ ba.





    Trong những thành tựu này, có thể nói, không ǵ sánh bằng nền giáo dục VNCH. Tuy non trẻ, ảnh hưởng của nó c̣n kéo dài, vị ngọt của nó c̣n thấm đẫm theo nhiều thế hệ người Việt ở hải ngoại lẫn quốc nội sau này. VNCH là một trong những quốc gia đưa giáo dục vào chính hiến pháp, bảo đảm công dân được học hành miễn phí, và nền đại học không bị chi phối bởi chánh trị. Giáo dục thời VNCH chú trọng các yếu tố nhân bản, dân tộc, và khai phóng.

    Có thể kể vài con số ước lượng sơ khởi vào đầu thập niên 1970. VNCH có 2.5 triệu học tṛ tiểu học, trên nửa triệu học tṛ trung học, và hơn 100 ngàn sinh viên đại học. Trên cả nước, số người biết đọc / viết chiếm khoảng 70% dân số. Ngành giáo dục VNCH có đến 3 máy chấm bài thi trắc nghiệm điện tử IBM thế hệ đầu của Mỹ. Lúc đó Singapore mới có 1 máy, và ở VN hơn ba mươi năm sau mới biết sử dụng trở lại.





    VNCH có hệ thống trường học cả công lẫn tư rất mạnh, ở mọi cấp học. Nhiều trường c̣n lưu danh đến ngày nay như: Viện Đại học Sài G̣n, Viện Đại học Huế, Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Vạn Hạnh, Viện Đại học Minh Đức, Học viện Quốc gia Hành chánh, trường Quốc gia Âm nhạc, trung học Pétrus Kư, Chu Văn An, Gia Long, Quốc Học (Hu&#7871..., Nguyễn Đ́nh Chiểu (Mỹ Tho), Lasan Taberd, Regina Pacis, Regina Mundi, Bác ái, v.v…



    Những nhân tài trẻ măng của một thời…



    Tuy chỉ hiện diện trong khoảng 20 năm ngắn ngủi, nước Việt Nam Cộng Hoà cũng kịp ghi lại nhiều dấu ấn. Các chánh phủ VNCH, ở thời đệ Nhất và đệ Nhị Cộng hoà, dù đối diện vô vàn thách thức, dù phải đương đầu với vơ lực xâm lăng của chủ nghĩa cộng sản từ phương bắc, vẫn đủ sức điều hành một xứ sở với gần 20 triệu người một cách hiệu quả trong chừng mực có thể. Với các thành tựu điểm qua trong bài này, ở những lănh vực kỹ nghệ, giáo dục, văn hoá… VNCH đóng góp một cái nền, một cái khung chắc chắn. Sự ảnh hưởng của nó lên cách tổ chức, ư thức, và đời sống người Việt về sau này sẽ cần thêm thời gian để người ta nhận biết rơ. Thời VNCH cũng tạo ra một lớp người mới, có tri thức, chánh trực, hết ḷng phụng sự quốc gia. Chỉ tiếc rằng sau một cơn biến động, đa phần trong số họ không có cơ hội giúp phục hưng xứ sở, thậm chí c̣n phải hứng chịu nhiều sự trả thù ác hiểm. Thế cho nên, dù đă thôi tồn tại 36 năm rồi, VNCH vẫn c̣n được nhiều người nhắc nhở, nửa như niềm hănh diện chưa phôi phai, nửa như nỗi lưu luyến dịu dàng, về một thời thanh xuân cũ, về cái buổi ban đầu trẻ trung nhiều hứa hẹn… Và có lẽ, từ nỗi nhớ nhung nhẹ nhàng này của nhiều người Việt, sẽ bật ra những tia hy vọng, hướng về một tương lai khác hơn, về sự phục sinh của các giá trị đẹp, và sự rơ ràng ṣng phẳng với nhiều sự thật lịch sử c̣n ẩn khuất.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 18
    Last Post: 15-09-2011, 03:27 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 28-07-2011, 12:19 AM
  3. Replies: 9
    Last Post: 08-04-2011, 04:20 PM
  4. Phu nhân tổng thống VNCH -Nguyễn văn Thiệu
    By dangcongsan in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 47
    Last Post: 14-01-2011, 06:46 AM
  5. Replies: 2
    Last Post: 27-10-2010, 03:19 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •