LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
Chuyện Biệt Kích
D
Tháng 7 năm 1962 Bộ trưởng Quốc pḥng Robert Mc Namara triệu tập cuộc họp gồm các quan chức Ngoại giao, Bộ Quốc pḥng và CIA để tranh luận về việc chuyển giao kiểm soát các hoạt động bán vũ trang ở Việt Nam từ tay CIA sang Bộ Quốc pḥng trong chương tŕnh một năm được gọi là "Chiến dịch quay trở lại". Đại tá George C. Morton, chỉ huy trưởng lực lượng yểm trợ quân sự ở Việt Nam thuộc lực lượng chiến tranh đặc biệt đă kêu gọi tăng cường sự can thiệp của lực lượng đặc biệt của Mỹ vào Việt Nam. Đại tá Morton, người đă có một quá tŕnh chỉ đạo ngầm các hoạt động ở Hy Lạp trong những năm 1950, được nh́n nhận như là "một chuyên gia về chiến tranh đặc biệt".
Tháng 9 năm đó, nhóm đặc biệt của Hội đồng An ninh Quốc gia (5412) thông qua kiến nghị ủng hộ ư tưởng của đô đốc Felt trước đây bằng việc đưa ra một khuyến nghị về vai tṛ tác dụng của các tàu phóng ngư lôi và SEALS đối với các hoạt động ngầm chống Bắc Việt. Song những nỗ lực ấy cũng không thể tạo ra vật chất đem lại kết quả ngay tức thời, v́ thiếu tàu ngầm và lính biệt kích.
Sự việc này dược diễn ra trong bối cảnh các hoạt động ngầm chống Bắc Việt không ngừng mở rộng. Đây là nhiệm vụ mà Hội đồng an ninh quốc gia giao cho CIA thực hiện theo chỉ thị NSCID 5412/2 để tiến hành các hoạt động bán vũ trang. Về lư thuyết nó là cơ sở để phát triển các toán gián điệp biệt kích ở trong ḷng địch, ém sẵn lực lượng chờ chiến tranh công khai và là biện pháp cần thiết cho việc mở rộng chiến tranh của Lầu Năm góc. Những kinh nghiệm này được các sĩ quan OSS đúc rút từ chiến tranh thế giới thứ hai ở Châu Âu mà có. Những người đó đang làm việc trong Bộ Quốc pḥng, Bộ Ngoại giao, CIA…
Những kinh nghiệm đó tuy đă được áp dụng trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nhưng thành công c̣n phụ thuộc vào một loạt các yếu tố và hoàn cảnh cụ thể mà người chỉ huy vận dụng nó. Rất nhiều người trong số họ đă trưởng thành lên từ OSS, đó cũng c̣n là những cơ sở để CIA vạch kế hoạch hoạt động sau Đại chiến thế giới thứ hai. Hiển nhiên, có ba điều khác biệt, rất cơ bản cho thấy ư niệm này khó áp dụng ở Việt Nam, đó là:
-Thứ nhất, các toán bán vũ trang đ̣i hỏi sự hỗ trợ rộng lớn của các đồng minh chiến tranh. Ví dụ trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 các toán OSS ở Pháp và các nước bị Đức chiếm đóng chứ không phải ở chính nước Đức. Bắc Việt Nam tất nhiên không phải là nước Pháp.
-Thứ hai, việc làm mất tác dụng của lực lượng phản gián đối phương chống lại các toán biệt kích đă đ̣i hỏi một khả năng phán đoán nhạy bén để biết bằng cách nào và khi nào các lực lượng của đối phương sẽ áp dụng. Trong chiến tranh thế giới thứ 2 việc bắt và kiểm soát các điệp viên Đức được đưa tới nước Anh, cũng như hiểu biết về các kế hoạch hiện tại và tương lai của tổ chức gián điệp đối phương, đă giúp cho việc đảm bảo thành công của các nước Đồng minh trở lại lục địa Châu Âu. Chưa có một bằng chứng xác đáng nào nói rằng điều đó đă xảy ra ở Việt Nam.
-Thứ ba, khả năng ngăn chặn và giải mă của đối phương là vấn để mấu chốt đối với những thành công của các nước Đồng minh chống lại Đức. Ở Việt Nam kết quả quan trọng hàng đầu của hệ thống thông tin t́nh báo quân đội Mỹ gắn liền với các máy phát sóng công suất thấp của Bắc Việt đă không xảy ra cho đến tận mùa xuân năm 1961 khi bộ phận nghiên cứu về điện đài thứ 3 của quân đội Mỹ có mặt ở Sài G̣n. Vài năm sau, một sự may mắn cho phép t́nh báo Mỹ mở được những mật mă tốt nhất của Hà Nội, nhưng đồng thời cũng làm hạn chế cả khả năng của Mỹ trong việc thu thập và giải mă đối với bất kỳ một bức điện nào của Bắc Việt.
V́ vậy, ư tưởng về một lực lượng ngầm gồm các toán gián điệp đang hoạt động chỉ có thể tồn tại trong suy nghĩ của những người ở Lầu Năm góc cho rằng họ đang tiếp quản cả mạng lưới điệp viên thực thụ. C̣n những quan chức của CIA th́ đă nhận ra rằng các toán đó đang bị vô hiệu hóa, và chính Hà Nội là những người đang kiểm soát các toán gián điệp đó. Họ đang khuyến khích Washington đưa tiếp các toán khác vào, chứng tỏ đó là một ư tưởng rất mơ hồ.
Trần Văn Minh, một trong những người Nam Việt Nam đối lập với Gilbert Layton đă đưa ra những nguyên nhân thất bại khá cụ thể. Anh ta cho rằng, vào thời điểm đó hầu hết các sĩ quan t́nh báo Mỹ đến Việt Nam đều muốn chứng tỏ ḿnh là người có thể đảo ngược t́nh thế một cách nhanh chóng, nhưng họ lại không rnuốn đối mặt với những hậu quả tệ hại do hành động của họ gây ra. Họ muốn ngay từ đầu gây ấn tượng mạnh với cấp trên để được đánh giá tốt về năng lực và phẩm chất công tác.
Cũng như đối với những kết quả trong hoạt động phản gián chúng tôi không có ǵ để nói về ḿnh khi mà những toán gián điệp đầu tiên tung ra miền Bắc không có kết quả. Pḥng 25 là một bộ phận phản gián của chúng tôi và họ làm rất ít việc. Họ quan tâm chủ yếu đến việc điều tra về tiểu sử của những người được tuyển vào lực lượng bí mật. Pḥng 25 có quá ít người so với lực lượng bí mật khổng lồ mà chúng tôi đang gởi đi. Mỗi người trong số họ đều cần có sự điều tra kỹ lưỡng. Bộ Nội vụ của Tổng thống Diệm đă không làm ǵ và Cục t́nh báo Quân đội cũng không làm được ǵ hơn. Cũng như đối với lực lượng cảnh sát, nhiệm vụ chính của họ là giữ ǵn trật tự xă hội mà ngày đó có bao nhiêu cuộc bạo loạn xảy ra.
Layton thừa nhận có khả năng điệp viên của đối phương nằm trong lực lượng an ninh biên giới. Ông ta kể lại cách nh́n nhận của bản thân và kinh nghiệm của trung tâm CIA về các hoạt động "tṛ chơi" điện đài ở Lào:
-Năm 1963, một trong các toán của chúng tôi bị bắt ở Attopeu, cực nam của Lào. Nhân viên điện đài của toán đó chuyển đi một bức điện báo động cho chúng tôi biết rằng anh ta đang bị bắt buộc phải truyền tin dưới sự kiểm soát của đối phương. Những người bắt anh ta là bộ đội giải phóng Lào và các cố vấn Bắc Việt đă táo bạo bắt nhân viên điện đài đó yêu cầu chúng tôi cung cấp đủ lương thực cho cỡ một tiểu đoàn, gấp mười lần số lương thực mà toán đó cần. Điều đó đă giúp chúng tôi xác định ở đó có khoảng một tiểu đoàn. Chúng tôi đă báo cho nhân viên điện đài biết chúng tôi sẽ đến cứu họ. Chúng tôi liền cho máy bay bắn phá vào vị trí mà đối phương đóng quân, và kết quả là toán đó đă trốn thoát đến sân bay Attopeu.
Ông đại sứ Mỹ ở Viên Chăn tỏ ra khó chịu về việc toán biệt kích bị phát hiện, bởi v́ chúng tôi không được phép có mặt ở Lào-sau khi ranh giới Harriman (Harriman line) có hiệu lực vào mùa thu 1962 sau hoà ước Giơneve về Lào được kư kết.
Trong cơ quan của tôi và phần lớn các cơ sở của cục t́nh báo đều phải giả định đă có người của đối phương xâm nhập (trong các đối tác người Nam Việt Nam). Điều này có thể đúng trong hầu hết các trường hợp. Khi tôi bắt đầu tuyển một nhân viên, có người nói: ông không sợ trong số họ có Việt cộng cài vào mà ông phải trả công cho họ à? Tôi nói rằng có khoảng 10%, nhưng tính ra th́ người của chúng tôi đông hơn họ: chín chọi một cơ mà. Người ta giải quyết khả năng này bằng cách kiểm tra các toán biệt kích: họ chỉ được biết những ǵ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ, động viên họ để nếu cần xả thân thực hiện nhiệm vụ mà thôi.
Layton thừa nhận rằng hiệu quả của một chương tŕnh bán quân sự sẽ trở thành vô nghĩa nếu mức độ xâm nhập của đối phương cao hơn nhiều so với dự tính. Về sự có mặt của các chuyên gia phản gián ở cơ quan CIA, Layton b́nh luận: “T́m đâu ra những người như vậy? Chúng tôi được sự giúp đỡ cần thiết đúng lúc, thực ra th́ cũng có vài người nhưng không giúp ǵ được nhiều”.
Dẫu cho trong thực tế có thể không bị xâm nhập đi nữa th́ cũng cần phải giả định là có thể bị xâm nhập và phải tiến hành chống xâm nhập. Đó là phương thức duy nhất có thể làm. Bởi v́ đối phương cũng thành thạo như chúng ta thậm chí họ c̣n thành thạo, khôn khéo hơn chúng ta nhiều lần. Ed Regan nói về giai đoạn chuyển tiếp này theo khía cạnh tác chiến như sau:
- Cơ quan CIA chúng ta vừa làm việc với lực lượng t́nh báo bí mật của ông Diệm lại vừa cố gắng giám sát những kẻ muốn loại bỏ ông Diệm… Năm 1962 sự việc đă trở nên căng thẳng. Ông Diệm bắt đầu kiểm soát các sĩ quan của chúng ta và những mối liên hệ của họ với phái đối lập với ông Diệm… Trên cương vị Tổng thống, ông Diệm không chỉ chống lại Cộng sản và phật tử, mà c̣n phải tranh đấu với các phe phái chính trị khác như Đảng Đại Việt và Việt Nam Quốc dân Đảng nữa.
Ví dụ như Lou Conein có những mối quan hệ với các nhóm như Việt Nam Quốc dân Đảng và thông qua Vọng A Sáng, một chỉ huy cũ của lực lượng người Nùng ở vùng Đông Bắc của Bắc Việt, biết rằng mạng lưới cũ của Sáng đă hoàn toàn bi phá vỡ. Từ những mối liên hệ của chúng tôi với Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt, chúng tôi đề nghị Tổng thống Diệm đưa một số người của Đại Việt ra miền Bắc để xác định xem lực lượng nào c̣n hoạt động ở đó. Đại uư Ngô Thế Linh, sĩ quan phụ trách các hoạt động ở phía Bắc của đại tá Tung có vẻ như nắm được các vấn đề đă cừ một số điệp viên cùng đi với các điệp viên Đại Việt của chúng tôi. Sau đó thông qua nhân viên điện đài chúng tôi được biết rằng Linh đă phân công một điệp viên vào trong nhóm chủ yếu là để theo dơi hoạt động của CIA và Đại Việt. Nhóm đó trong thực tế đă không bao giờ được đưa ra miền Bắc…
Một lần nữa với sự hỗ trợ của Washington để mở rộng hoạt động trên tuyến đường sắt mà chúng tôi đă nêu ra, khoảng cuối năm 1962 Tucker Gougelmann, chỉ huy trưởng căn cứ ở Đà Nẵng, và Cart Jenkins, sĩ quan trù bị của chúng tôi tại trung tâm huấn luyện Hoàng Hoa Thám, đă được bổ sung.
Russ Miller đă ra đi vào mùa xuân 1962 và W.T.Cheney, một người Châu Âu, đến thay. Tôi biết ông ta là một sĩ quan xuất sắc trong những công việc được giao trước đây, nhưng ông ta lại quá thiên về Châu Âu và không hiểu được phải làm thế nào để gần người châu Á. Lúc đó Bill Colby đang ở Tổng hành dinh và ông ta đă bắt đầu luân chuyển các sĩ quan đến khu vực Đông Nam Châu Á để mở rộng kinh nghiệm của họ. Đến bây giờ các hoạt động bán vũ trang đă bộc lộ rơ rằng nó đă bị đối phương xâm nhập vào nhiều hơn là chúng tôi nghĩ. Không một ai trong chúng tôi thuộc lực lượng bí mật đă báo cáo hết những điều mà lẽ ra phải báo cáo các hoạt động xâm nhập đó cho Lầu Năm Góc như chúng tôi đă biết. Đó là một tội lỗi.
Sự cần thiết của cơ quan CIA trong việc theo dơi các lực lượng đối lập với Diệm dẫn đến việc mùa xuân 1962 tôi gặp gỡ một số toán trên và kéo tôi ra khỏi các hoạt động bán vũ trang, trừ việc đi Đà Nẵng để đánh ra Bắc. Larry Jackson lưu lại thêm một thời gian, sau đó ông ta chuyển về Long Thành làm chỉ đạo viên kỹ thuật khi căn cứ này mở cửa lần đầu tiên vào mùa xuân năm đó. Phải giải quyết thế nào trước một thực tế là tất cả các nhóm phái đi đều bị bắt, và một số trong đó đă hợp tác với Bắc Việt?
Regan đă nêu một câu hỏi mà dường như không có câu trả lời:
-Sẽ có lư nếu như đặt câu hỏi phải chăng tổn thất này là ngẫu nhiên hay do đă có sự tính toán trước? Xin nhớ rằng các sắc tộc thiểu số là mối đe doạ lớn đối với Diệm, bởi v́ họ đang đấu tranh dể giành quyền tự quyết và chúng ta đă có những người trong lực lượng đặc biệt của quân đội Mỹ cùng làm việc với họ. Vậy sẽ đem lại quyền lợi cho ai nếu như tất cả họ bị bắt? Tất nhiên là cho Diệm. Nó sẽ là một sự suy đoán khi nói rằng chúng đă được thoả thuận một cách có tính toán.
Nếu như các sĩ quan CIA ở Sài G̣n không phát hiện ra sự xâm nhập của Hà Nội, th́ câu hỏi ở đây là tại sao? William R. Johnson nguyên trưởng trung tâm CIA ở Viễn Đông đă đưa ra lời nhận xét sau:
- Các hoạt động của cơ quan t́nh báo được đưa ra tranh luận ở đây thực sự không có sự kết hợp với bất kỳ công tác phản gián nào và không được phối hợp với bất cứ hoạt động phản gián nào đang được tiến hành ở các bộ phận trong cơ quan t́nh báo hoặc của các bộ phận khác trong chính phủ…
Không có hoạt động phản gián nào để đảm bảo an ninh kể cả các hoạt động chống lại Bắc Việt. Vấn đề an ninh không được coi trọng của trung tâm, hoặc việc xâm nhập của chính phủ Nam Việt Nam. Vào khoảng năm 1965, khi John Hart tiếp nhận trung tâm ở Sài G̣n, ông ta nói với tôi rằng ở đó không có hoạt động phản gián rơ nét-chỉ là "hữu danh vô thực" mà thôi.
Bill Johnson quy kết cho William Colby như là nguyên nhân của vấn đề và miêu tả những khía cạnh hoạt động rời rạc của CIA đang được chuyển giao cho Lầu Năm góc.
Sự thật là các trung tâm và các sĩ quan của chúng ta ở Viễn Đông với các bộ phận nghiên cứu ở Washington đă thổi phồng kết quả việc tuyển lựa bằng bất cứ phương tiện nào, bao gồm các hoạt động tiếp xúc và các điệp viên là những người điều hành được tài trợ với những động cơ chính trị hơn là đă tuyển chọn một cách giấu giếm và kiểm soát sự xâm nhập vào các mục tiêu của đối phương. Việc đảm bảo an ninh cho hoạt động t́nh báo mang tính máy móc như tin tưởng vào các điệp viên có triển vọng, dựa vào kiểm tra tên tuổi của họ qua quá tŕnh hoạt động, thậm chí sử dụng máy kiểm tra nói dối ở địa bàn châu Á là hoàn toàn không thích hợp.
Russess Holmes, nguyên sỹ quan phản gián của CIA, lặp lại những quan điểm tương tự về giai đoạn này:
- Việt Nam không được nh́n nhận như là một sự đe doạ ở mức độ cao về mặt phản gián vào thời điểm đó. Phần lớn những ǵ chúng ta biết về Cộng sản Việt Nam là thông qua người Pháp trong đó có rất ít điều đáng được quan tâm về phản gián thực sự. Dù sao th́ cuối cùng Đông Dương vẫn là của họ.
Liệu có phải các hoạt động của chúng ta đă bị xâm nhập trong suốt cả giai đoạn đó không? Rơ ràng là có. Tại sao? Sự thất bại mới chỉ nhấn mạnh đối với công tác phản gián ở khía cạnh hoạt động bí mật. Sự bất đồng giữa các lực lượng ủng hộ công tác phản gián và chống đối nó mới là mâu thuẫn có tính đối địch trong các hoạt động của CIA ở Việt Nam. Có thể khẳng định rằng các sĩ quan ở pḥng Viễn đông không sốt sắng ǵ trong việc áp dụng các biện pháp chuẩn mực về phản gián. Bởi lẽ những người lănh đạo ở đây thực sự đă không quan tâm tới hoạt động phản gián.
Căn cứ vào thông tin do các điệp viên bán vũ trang (người Việt) cung cấp chúng ta đă tung các toán gián điệp ra miền Bắc vào đầu những năm 1960. Đây là hoạt động chính của pḥng Viễn Đông dưới thời William Colby và thực sự đă bị những người cộng sản phát hiện ngay khi mới bắt đầu. Điều muốn nói là họ đă xâm nhập cả vào miền Nam mà chúng ta không hay biết hoặc vẫn làm ngơ nên phải gánh chịu hậu quả.
Các toán được đánh ra miền Bắc năm 1962 phần lớn là người dân tộc thiểu số được tuyển lựa từ quân đội Nam Việt Nam năm 1961. Số này được tuyển chọn trong nhiều nguồn: họ là những người vượt tuyến từ Bắc vào, những người di cư, những người trước đây sống ở miền Bắc rồi sang sinh sống ở Lào… Tuy nhiên lực lượng để tuyển chọn ngày càng khó kiếm những người tự nguyện tham gia vào các hoạt động xâm nhập của miền Nam chưa kể đến các hoạt động mở rộng qua biên giới sang Lào.
Một điệp viên cũ đă nói về giai đoạn này như sau:
-Tôi không cho rằng không có toán biệt kích nào thành công cả. Thực tế có những toán đă xâm nhập vào và rút ra an toàn, nhưng đó chỉ là những toán có nhiệm vụ hoạt động chớp nhoáng gây rối ở phía Bắc khu vực phi quân sự. C̣n hoạt động trên phạm vi rộng và trong thời gian dài ở các vùng xa th́ hầu như hoàn toàn thất bại. Cũng tương tự như các hoạt động gián điệp. Điều đó thật có ư nghĩa nếu như người ta chịu suy nghĩ nghiêm túc về nó. Những toán đó thực sự đáng lo ngại nhất v́ dễ dàng bị loại khỏi ṿng chiến. C̣n những toán khác không cùng chịu chung số phận th́ lại bị bỏ rơi.
Trần Quốc Hùng một điệp viên cũ cũng nói rơ ư kiến của ḿnh về giai đoạn đó. Khoá đào tạo của anh ta gồm một số môn cơ bản chung, một phần nghe về học thuyết của Đảng Cần lao. Anh ta không được đào tạo về các hoạt động dành riêng đối với miền Bắc. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của anh ta là xâm nhập vào hàng ngũ sinh viên ở Sài G̣n và thu thập thông tin về các hoạt động chống chính quyền Diệm. Từ việc huấn luyện này và qua các hoạt động gián điệp ở Nam Việt Nam, Hùng đă biết rằng tổ chức của bác sĩ Tuyến đă tiến hành công tác t́nh báo chính trị nội bộ song song với hoạt động t́nh báo đối ngoại. Hùng đă kể lại việc xâm nhập của anh ta ở miền Bắc:
-Năm 1962, tôi được chiếc tàu xâm nhập đưa ra miền Bắc . Tôi rời Đà Nẵng và được đưa vào bờ tại tỉnh Hà Tĩnh. Đây là sai với địa điểm định đổ bộ và nơi cần đến. Sau đó tôi ra Hà Nội, tôi luôn lo sợ rằng họ đă biết sự xuất hiện của tôi. Tôi có ấn tượng dễ bị lộ và có cảm giác bị theo dơi ngay từ khi tới Hà Nội. Tôi không biết v́ sao họ lại biết được tôi, nhưng có một cái ǵ đó như là một sự sắp đặt sẵn ở mọi nơi hoặc có kẻ nào đó đă bán đứng chúng tôi giúp cho họ phát hiện được tôi một cách rất nhanh chóng. Họ theo dơi ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên với những linh mục tại một nhà thờ, v́ họ đă từng làm cho Pháp trước 1955.
Willíam Colby, trưởng trung tâm CIA ở thời điểm Hùng được đánh ra miền Bắc đă lập luận rằng: trung tâm CIA ở Sài G̣n đánh giá thấp về khả năng thực tế của những hoạt động đó. Colby giải thích thêm:
-Tôi không biết người Pháp chuyển giao họ thế nào nhưng nếu quả như vậy th́ một số người Việt Nam có thể nghi ngờ đối với người Pháp, bởi v́ họ bị choáng váng về người Pháp. Họ tin rằng người Pháp đang tiến hành một số chính sách ở đó, nhất là Ngô Đ́nh Nhu. Ông ta thường t́m kiếm sự vận động của người Pháp trong một số sự việc. Tất nhiên là ông Diệm rất trung thành với đạo Thiên chúa cùng các linh mục, và tin tưởng rằng có thể dựa vào họ được. Đó là phép thử của ông ta. Và như là kết quả của một số linh mục trong việc tổ chức các nhóm tự vệ thuộc cộng đồng của họ. Điều đó dường như rất có khả năng là người của Diệm sẽ liên hệ với các linh mục Thiên chúa ở ngoài ấy bởi họ có một niềm tin nhất định. Và những người Thiên chúa giáo vẫn bị coi là không được tin cậy dưới chế độ Cộng sản ở Bắc Việt.
Khi được hỏi rằng liệu ngoài đó c̣n những cơ sở của người Pháp vẫn có tác dụng sau 1955 không? Colby đă nhấn mạnh thêm:
-Tôi nghĩ rằng các việc chúng ta đă tiến hành ở miền Bắc đều đă bị tiêu tan. Tôi không muốn nhắc lại là chúng ta đă có bao nhiêu đầu mối ở ngoài ấy. Tôi hoàn toàn tin rằng chúng ta đă không làm được điều đó. Chúng ta có thể có một số ư kiến về sự đồng cảm nếu các bạn đến đấy và tiếp xúc với họ. Điều đó lẽ ra đă không c̣n tồn tại trong cộng đồng những người di cư và mối liên hệ của Diệm đối với cộng đồng Thiên chúa Giáo.
Hùng đă không tán thành. Theo Hùng th́ người Mỹ đă đào tạo cho anh về hoạt động t́nh báo và dựng nên những câu chuyện ngụy trang để sử dụng khi anh ta đến gặp các linh mục ở Hà Nội. Người Mỹ đă chỉ dẫn cho anh ta từng trường hợp một, trong khi người Việt Nam chỉ có nhiệm vụ dịch lại cho anh ta nghe. Hùng nói tiếp:
- Tôi nắm rơ về địa bàn xâm nhập như trong ḷng bàn tay. Qua các chuyến bay trinh sát, các sĩ quan huấn luyện CIA đă treo đầy cả bức tường với các tấm ảnh chụp từ trên không về địa điểm tôi sẽ đổ bộ tới Hà Nội. Chi tiết đến mức không thể tưởng tượng được! Tôi không biết bằng cách nào họ có thể chụp được những tấm ảnh như vậy, nhưng rơ ràng những tấm ảnh ấy là có thực và chi tiết đến mức có thể đếm được từng người ở trên tàu.
H́nh như các điệp viên của chúng tôi đă bị đón lơng trước khi họ được tung vào miền Bắc. Họ luôn luôn được những người ở trên đất liền chờ đón. Nếu có điệp viên nào đó đă vào ra trót lọt th́ ta có thể đặt câu hỏi là liệu đó có phải là họ không cần phải làm ǵ nữa không, v́ đă biết rất rơ mọi điều rồi.
Những người theo đạo Thiên chúa đă thổi phồng lên rằng hệ thống nhà tù của Hà Nội vào những năm 1962 đă giam giữ nhiều người được gọi là lợi dụng đạo Thiên chúa. Một cựu tù nhân đă từng bị giam giữ miêu tả bầu không khí ngột ngạt lúc đó và vai tṛ của ông ta trong việc tạo nên bầu không khí đó. Ông ta ngồi khom lưng nh́n ra một phía và cao giọng kể lể: "Tất nhiên là các anh đúng. Quả thật lúc ấy tôi có mặt ở đó. Đây là một cơn ác mộng. Các anh phải có mặt ở đó th́ mới hiểu hết được”, giọng anh ta vang xa trong khi anh ta ngồi ở mép giường, đôi tay ôm lấy ngực.
Tên của tôi đă có sẵn ở trong danh sách. Tôi bị bắt năm 1955 khi tôi cố gắng vượt qua sông Bến Hải. Họ đă biết rơ tiểu sử của tôi. Không phải chỉ là tôi đă không gắn bó với Nhà nước nên đă bỏ trốn mà c̣n v́ tôi là một linh mục mới vào nghề. Điều đó đă làm cho tôi tự nhiên trở thành kẻ thù của Đảng. Các cán bộ an ninh nhà nước từ Bộ Công an ở Hà Nội đă đến gặp tôi vào năm 1960. Tôi trở lại Hà Nội sau ba năm học tập cải tạo về tội trốn vào Nam. Họ biết tôi có dính líu tới các hoạt động Thiên chúa giáo ở Hà Nội. Họ có thể bắt giam tôi bất cứ lúc nào. Nhưng họ lại ban ơn cho tôi. Họ nói rằng họ chỉ muốn t́m ra ai là kẻ chủ mưu gây rối thôi. Họ nói có những "lực lượng thù địch nước ngoài" đang cố gắng gây hại. Đấy tất nhiên là những phần tử tội phạm đang muốn lợi dụng sự mất ổn định. Họ có nhiều lư do để chứng minh điều ấy. Họ chỉ cần tôi theo dơi sát những ǵ đang xẩy ra. V́ vậy tôi đă làm việc cho họ.
Hàng tháng tôi có một cuộc gặp gỡ với cán bộ an ninh Nhà nước thuộc bộ phận an ninh của Hà Nội, bộ phận chuyên trách theo dơi các nhà thờ Thiên chúa giáo. Chúng tôi gặp nhau trong một khách sạn đối diện cửa ra vào phía Đông cửa ga Hà Nội. Các cuộc gặp gỡ của chúng tôi thường ngắn gọn. Tôi nói cho họ biết tôi đă đi đâu, gặp ai, các linh mục đang làm ǵ, những người dân xứ đạo làm ǵ và nói ǵ.
Sự việc đó diễn ra cho đến năm 1962. Khi Sở công an Hà Nội đă bắt hầu hết các linh mục, tu sĩ theo sắc lệnh tập trung cải tạo. C̣n những người chưa bị bắt th́ tiếp tục bị giám sát. Tôi nói với cán bộ an ninh người mà tôi đă từng tiếp xúc rằng tôi không thể tiếp tục làm việc cho ông ta được nữa. ông ta chỉ mỉm cười và nói rằng tôi sẽ thay đổi ư nghĩ đó. Vài tuần sau họ trở lại gơ cửa pḥng tôi trước khi trời sáng. Họ gồm vài nhân viên cảnh sát, một quan chức địa phương. Tôi bị c̣ng tay và họ kéo tôi ra giữa một ngơ hẹp, họ đọc cho tôi nghe một bản án. Bản tuyên án đó nói rằng tôi bị phát hiện là có tham gia vào các hoạt động phá rối trật tự xă hội và bị bắt giam tại nhà giam của Sở Công an Hà Nội để thực hiện sắc lệnh tập trung cải tạo.
Tôi rất bực ḿnh! Tôi đă cộng tác với họ hơn hai năm và để rồi bị bắt. Những điều tôi làm cho họ là không đáng kể. Thật không có ǵ đáng kể. Tôi muốn nói rằng việc báo cáo tin cho họ chưa làm cho ai bị chết cả.
Giọng của ông ta trầm xuống và im lặng, đôi tay ôm lấy ngang người rồi duỗi ra phía trước, đưa về phía sau như là làm động tác thư giăn. Ông ta nói tiếp sau một hồi suy nghĩ: lệnh bắt tôi không ghi rơ thời hạn giam giữ. Sau đó tôi được biết rơ là 3 năm. Đúng là một tṛ cười. Tôi đă phải lao động khổ cực ở trong tù 15 năm, phần lớn là ở Phong Quang và Tuyên Quang. Tôi ra khỏi tù năm 1977 khi họ bắt đầu trả tự do cho một số linh mục.
Tôi hỏi ông ta: “Ông c̣n nhớ những ǵ về 15 năm đó không?".
"Nhớ?". Ông ta ngừng một lúc. "Nhớ ǵ à? Sự đau đớn..."
Một tháng trước ngày toán REMUS nhảy dù xuống khu vực biên giới Lào-Bắc Việt Nam, toán TOURBILLON được tập trung tại Sài G̣n để chuẩn bị cho nhiệm vụ của toán xâm nhập vào tỉnh Sơn La, về phía đông của toán REMUS. Đại uư Triết đă gặp riêng Vàng A Giong, nhân viên điện đài của toán TOURBILLON để hướng dẫn anh ta việc sử dụng điện đài và giao cho anh ta bộ mă của toán.
Giong nhận thấy bộ mă này cùng dạng với loại mà anh ta đă sử dụng nhiều năm trước đây, đó là loại mă một tầng. Đồng thời anh ta cũng được giao một tín hiệu nhận diện cá nhân, một nhóm năm chữ số, và được chỉ định đưa vào nhóm thứ ba của bức điện. Điều đó sẽ giúp cho Sài G̣n xác nhận được rằng đúng anh ta là người đang đánh bức điện đó.
Đại uư Triết yêu cầu: "Không được ghi lại bất cứ cái ǵ. Anh phải nhớ lấy". Đêm hôm ấy Giong đă ghi lại tín hiệu riêng đó ở ngoài b́a cuốn sổ hướng dẫn sử dụng tín hiệu.
Mấy năm sau, Giong giải thích:
-Các ông phải hiểu cho tôi. Tôi sợ sẽ quên mất… nếu điều đó xảy ra , tôi biết rằng chúng tôi sẽ không bao giờ được tiếp tế bởi v́ tôi không thể chứng minh rằng tôi đang phát đi những bức điện. Tôi không tin vào trí nhớ của tôi. V́ vậy tôi đă ghi lại, chính điều đó đă làm hại tôi và tôi đành để cho điều có hại đó tiếp tục diễn ra.
Tôi tham gia quân đội năm 1960 và được chỉ định vào nhóm quan sát đầu tiên ở Nha Trang. Đó là thời gian đại tá Trần Khắc Kinh (phó của đại tá Tung) bắt đầu đưa các toán xâm nhập vào Lào hợp tác với người H'mông dưới sự chỉ đạo của Vàng Pao. Trong đó có 10 toán của chúng tôi, mỗi toán 15 người. Tôi là nhân viên điện đài của toán số 9. Khoảng năm 1961 tôi đă đánh đi 5 bức điện qua biên giới…
Vào năm 1962 tôi được chuyển về Sài G̣n và tham gia vào toán TOURBILLON làm nhân viên điện đài. Tôi học một khoá huấn luyện một tháng, chủ yếu là gài ḿn và chiến thuật.
Ngô Thế Linh tập hợp chúng tôi lại và nói là chúng tôi sẽ xâm nhập vào tỉnh Sơn La, Bắc Việt Nam. Ông ta giải thích rằng họ đă đưa một toán vào Sơn La năm 1961. Toán đó có tên gọi là CASTER. Toán CASTER đă báo cáo về Sài G̣n là đă đến nơi an toàn và trụ vững được. Trong năm đầu họ đă phát triển được cơ sở và tuyển chọn được nhiều người làm việc cho họ. Nhưng dù sao th́ toán của họ cũng không đủ sức để phát triển cơ sở và huấn luyện cho nên phải điện về Sài G̣n yêu cầu giúp đỡ. Nhiệm vụ của toán chúng tôi là tăng cường cho toán CASTER và huấn luyện cho họ. Đồng thời chúng tôi tiến hành việc trinh sát dọc theo tuyến đường 41 (con đường mà sau này họ đổi tên là đường số 6 chạy từ Sơn La đến Sầm Nưa của Lào) kiêm cả nhiệm vụ phá huỷ 17 chiếc cầu dọc theo đường 6 sau khi chúng tôi đến nơi hoạt động. Tôi không hiểu tại sao họ lại muốn chúng tôi thực hiện một phần nhiệm vụ đó.
Ông Linh nói với chúng tôi rằng không có ǵ đáng ngại. Toán CASTER đang đợi chúng tôi và mọi thứ đều an toàn. Chúng tôi không được biết ǵ hơn về lực lượng của đối phương ở đó và cũng không có ai nói rơ là chúng tôi phải làm ǵ nếu bị bắt. Ông Linh và sĩ quan điện đài của toán Pang chỉ nói rằng không có ǵ phải lo. Toán CASTER đang ở đó, toán CASTER vẫn an toàn, và toán CASTER sẽ bảo vệ cho chúng tôi.
Bây giờ, nh́n lại những ǵ đă xảy ra 32 năm trước đây và những ǵ đang xảy ra thật rơ ràng rằng không một ai ở Tổng hành dinh có ư kiến ǵ về việc chúng tôi phải đương đầu với miền Bắc. Tôi cho rằng chúng ta không có hoạt động t́nh báo thật sự ở ngoài Bắc và chúng ta cũng giống như toán CASTER, thậm chí đă dựa vào những tấm bản đồ cũ kỹ mà người Pháp đă sử dụng trước 1954. Vào năm 1962, mọi thứ đă thay đổi cả rồi. Nhược điểm lớn nhất là không một ai hiểu rơ được kết quả công tác phản gián của Bắc Việt Nam.
Bookmarks