KƯ SỰ TRONG TÙ
ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
Chương 7B / Trại tập trung Nam Hà 2
. Thậm chí, ngay cả con trùn cũng ăn nữa! “Con trùn hổ” lớn bằng ngón tay út, dưới nắng trưa làm ánh lên những màu sắc trên lớp da nhơn nhớt của nó, rạch một đường theo chiều dài con trùn, cạo bỏ tất cả bên trong chỉ c̣n lại lớp da bầy nhầy đem rửa sạch phơi khô, cho vào bếp nướng. Các bạn ấy gọi là “long đất nướng” và xem chừng ăn ngon lắm! Trong “bản ghi nhớ” của tôi có ghi tên các bạn ấy, nhưng tôi nghĩ không nên ghi vào đây v́ hoàn cảnh thiếu ăn!
Theo qui định mà tên Công An “quản giáo” Đội nhà bếp cho biết, “tiêu chuẩn mỗi người tù là 15 kí lô gạo một tháng”, nhưng khi họ cho tù ăn những thứ không phải gạo th́ họ vẫn tính theo trọng lượng của gạo mà thật ra cũng chính họ cho biết, cứ 2.5 kí lô khoai ḿ hay khoai tây mới bằng 1 kí lô gạo. Chúng tôi đâu có kêu với ai được, bởi v́ họ chia chác với nhau và cùng che chắn cho nhau mà!
Họ cấm tuyệt đối về nấu nướng. Nếu bị bắt, có thể bị họ đưa vào khu biệt giam trong trại Nam Hà B mà chung quanh toàn núi rừng bao bọc. Nếu bị biệt giam th́ khẩu phần hằng ngày giảm xuống c̣n một nửa, khi hết hạn biệt giam sẽ bị cấm thăm nuôi và có thể họ cấm luôn nhận quà thông thường là từ 3 đến 6 tháng. Cứ mỗi 3 tháng vợ tôi gởi cho 1 gói quà mà những món chánh là bơ thực vật, đường cát, sữa bột, và lạp xưởng.
Tôi kể quí vị quí bạn nghe về cách tôi nướng lạp xưởng và sử dụng lon sữa bột. Mỗi lần nướng một cái lạp xưởng, tôi dùng chiếc đủa lùa vào trong để dễ cầm và dùng 3 tờ giấy báo kích thước của tạp chí, cuộn lại theo chiều dài, mượn cái quẹt máy (bật lửa) cho vào túi. Ra cửa buồng giam, nh́n qua nh́n lại không thấy tên Công An nào là tôi ba chân bốn cẳng chạy ra đằng sau buồng giam và chui vào cầu tiêu. Bật lửa, châm vào giấy. Tay cầm tờ giấy đang cháy để phía dưới chiếc đủa lạp xưởng. “Năng lượng” của 3 tờ giấy đủ chín cái lạp xưởng, thế là tôi có bữa ăn ngon miệng và cơ thế tiếp nhận được một lượng ca-lô-ri nhỏ nhoi mà cơ thể rất cần.
Có lần vợ tôi gởi cho một xâu lạp xưởng 12 cặp, phải cho vào hai cái lon guigoze để dành ăn, nhưng nó dài quá phải cắt một đoạn mới đậy nắp được. Tôi với anh Cao Văn Phước (Đại Tá Cục Quân Vận) muốn ăn nhưng không biết là nó chín hay sống, v́ thư vợ tôi c̣n bị Công An trực trại giữ để kiểm soát. Lúc ấy chúng tôi bị nhốt vào buồng giam rồi đâu làm sao nướng được. Hai đứa tôi cứ ngắm nghía suy già đoán non, lúc th́ đă hấp rồi lúc th́ chưa. Cuối cùng chúng tôi xem như nó đă chín rồi và cứ thế mà ăn hết 24 đoạn cắt ngắn đó. Ngày hôm sau nhóm trực trại trả thư. Xem thư mới biết là lạp xưởng sống, thế nhưng cái bụng cũng hiền lành không gây khó khăn hay hoạnh hẹ ǵ tôi, mặc dù nó “bị bắt buộc” phải tiếp nhận và thanh toán hơn mười khúc lạp xưởng sống! Kể cũng lạ.
Đến hộp sữa bột. Đó là sữa bột sản xuất từ Liên Xô, chung quanh bằng giấy cứng, màu vàng, cái nắp của nó là miếng kim khí mỏng cũng màu vàng, chỉ bằng một phần ba đường kính cái hộp, v́ mặt trên có miếng kim khí mỏng khác phủ kín hai phần ba miệng hộp. Tôi nh́n cái hộp và nghĩ rằng có thể sử dụng được nó dù chưa biết sử dụng vào việc ǵ. Thế là tôi “nghiên cứu” cái hộp mà “cái lợi” trên miệng sẽ che kín cái ǵ đó có thể giấu bên trong. Măi một lúc là tôi biết cách sử dụng nó. Đó là viết thư, quấn một ṿng tṛn cho nhỏ lại rồi lùa vào trong hộp, ém dần cho những trang thư sát vào vách hộp. Nghĩ được là thực hiện được. Sau khi nhận thấy những trang thư nằm “kín đáo” bên trong, tôi cho sữa bột vào hộp, đậy nắp cẩn thận, trông không khác những cái hộp sữa mang từ nhà thăm nuôi vào trại. Tôi phải trả 2 đồng Việt Nam cộng sản cho chú tù h́nh sự phụ trách dọn dẹp nhà thăm nuôi, đem ra gởi cho mấy chị bạn của vợ tôi đến thăm chồng nhờ mang về Sài G̣n trao lại vợ tôi. Có khi gởi cho anh bạn ra nhà thăm nuôi gặp vợ và gởi chị ấy mang về giùm. Có lần bị hạch hỏi trước khi họ hướng dẫn ra nhà thăm nuôi, anh bạn trả lời là đem sữa ra đó uống. Thế là thoát.
“Họ tuyệt đối cấm nấu” nhưng chúng tôi “không tuyệt đối tuân hành”, nghĩa là chúng tôi vẫn nấu, và đây là cách nấu. Nói cho đúng là nấu nước pha trà, pha cà phê, chớ chưa cả gan đến mức nấu cơm nấu cháo trong buồng giam. Sữa bột guigoze sản xuất từ Ḥa Lan đựng trong cái lon bằng nhôm, mỏng nhưng rất cứng, đem cắt làm hai: Phần dưới làm nồi nấu, phần trên làm ḷ nấu. Phần trên phải đục một hàng lỗ để có không khí vào và năng lượng là cây đèn cầy (đèn sáp). Thường là xin người nhà cho đèn cầy loại lớn, cắt ra từng đoạn vừa với độ cao của “cái ḷ” mini, loại này cung cấp năng lượng nhiều hơn.
Trường hợp không c̣n đèn cầy th́ dùng củi thay thế. Củi là những cây dại chết khô cở như chiếc đủa ăn. Trước khi từ chỗ lao động trở về, lượm những cây dại chết khô đó, bẻ từng đoạn dài chừng gang tay, dùng giây cột quanh hai bắp chân, ghim những que củi vào đó và mang về trại. Nếu bị Công An trực trại xét thấy, họ giật ném bên ngoài kèm theo những lời chửi mắng. “Lời chửi của chúng nó như nước đổ lá môn” thôi mà.
Cái b́nh trà rất nhỏ và uống trà thật đặc, chỉ cần một vài hớp cũng đủ thấm giọng cả đêm, nhất là đêm đông. Nếu không quen uống trà đậm kiểu này mà uống vào buổi tối, có khi cả đêm không ngủ được. Nhưng nếu không uống trà đặc như thế này th́ đâu có đủ nước pha trà loảng cho nhiều người uống. Không biết có phải đây là “cái khó ló cái khôn” hay không, nhưng có điều là thích hợp với hoàn cảnh.
Đến cái cảnh đổi áo quần lấy thức ăn mà tôi là trường hợp điển h́nh. Công An “cai tù” thừa biết tù chính trị chúng tôi có nhiều áo quần dân sự bằng hàng vải ngoại quốc rất tốt, trong khi chúng tôi rất cần chất bột, chất béo, chất ngọt. Thế là đám “cai tù đực lẫn cái” bắt đầu cho “nhập cổng bất hợp pháp” các món hàng sữa đặc có đường, sữa bột, đường cát, để gạ chúng tôi đổi lấy áo quần, rồi “xuất cổng” cũng bất hợp pháp mang lên Hà Nội bán. Cái nghề “khốn nạn” này đă giúp họ phát lên khá nhanh, bởi v́ như cái quần tây của tôi bằng vài nhập cảng từ Australia chỉ đổi được có 1 hộp sữa đặc và 1 kí lô sữa bột. Lần khác một cái quần tây chỉ đổi được 1 hộp sữa đặc và thêm 1 đồng bạc. Chính cái t́nh trạng thiếu ăn này, không chừng tù chính trị chúng tôi dần dần đến chỗ không c̣n cái áo cái quần dân sự nào cả!
Một hôm, khi đổi được hộp sữa đặc trong tay và khi âm thanh ống khóa cửa buồng giam crắc một tiếng, tôi khui hộp sữa đặc, mời anh Bùi Quang Hiền với anh Cao Văn Phước nằm cạnh tôi, cả 3 chúng tôi luân phiên “tu” một lúc là hết sạch. Thoạt nghe có vẻ ly kỳ rồi, nhưng chưa thấm thía ǵ so với anh bạn trẻ Nguyễn Kim Tiếng (Thiếu Úy Cảnh Sát đặc biệt). Sau giờ lam lũ dưới cánh đồng ngập nước, về đến cổng chờ kiểm soát mới được vào trại. Cả Đội ngồi chồm hổm, đám Công An trực trại lục soát từng người từ trước ra sau. Anh Tiếng có mua hộp sữa đặc đang giấu trong người, khi thấy khó thoát khỏi v́ chúng nó xét kỷ quá, anh ta bèn moi cục đá ngay chỗ ngồi rồi ngoáy măi cũng được hai lỗ trên miệng hộp, thế là anh “tu” hết sữa và liệng cái hộp vào sát vách trại, lúc ấy tên Công An xét đến anh:
“Cái hộp này của ai?” Hắn quát với vẻ tức tối.
Ai dại ǵ mà lên tiếng. Hắn lại quát gay gắt hơn:
“Tôi hỏi cái hộp này của ai ném ra đây?”
C̣n 3 Đội “xếp hàng như bầy vịt” đều nh́n vào cổng trại, cứ như không nghe không thấy không biết việc ǵ kể cả lời quát của hắn. Hắn càu nhàu một lúc mới cho vào.
Những Đội làm ruộng dưới đầm lầy mà họ gọi là “vụ chiêm”, thường có những toán trẻ con lẫn người lớn, lén lút giấu gói đường với vài hộp sữa trong người rồi giả dạng như đi bắt cá để đến gần chúng tôi bán vài món lặt vặt ấy. Do vậy mà anh Tiếng mới có hộp sữa trong người, và thật tài t́nh khi “tu” trọn hộp sữa trong nháy mắt.
Cầu cơ.
Nhóm anh em chúng tôi gồm các anh Cao Văn Phước, Ngô Văn Huế, Vũ Tiến Phúc, Cao Nguyên Khoa, Phạm Duy Khang, anh Đàm Quang Yêu, và tôi, bắt đầu chơi “cơ” sau khi vào buồng giam, thường gọi là “cầu cơ”. Thỉnh thoảng có thêm anh Nguyễn Kỳ Nguyện và anh Đặng Văn Hậu. “Cầu cơ” cần có cái bàn và con cơ. “Cơ” phải là mảnh ván ḥm (quan tài) lấy từ cái huyệt mà thân nhân họ đă hốt cốt mới “linh thiêng”. Một hôm anh Khang trong nhóm đào ao nuôi cá dưới đồng, lượm được một mảnh ván mà anh nghĩ là “ván ḥm”, đem về cắt gọt theo h́nh dáng cái cơ. “Bàn cơ” là mảnh giấy có viết đủ các mẫu tự Việt Nam, một hàng số từ 0 đến 9. Ngoài ra c̣n viết nguyên chữ đúng/sai, có/không, tốt/xấu để đỡ phải ráp các mẫu tự. Chúng tôi dùng hai cái mền treo lên để tạo thành cái pḥng kín, tránh sự ŕnh rập của đám Công An tuần tiểu từ cửa sổ nh́n vào. Chúng nó bắt gặp cũng phiền phức lắm.
Hôm đầu tiên, anh Khang “ngồi cơ”, anh Yêu khấn vái gọi hồn. Đại khái th́ anh giới thiệu với hồn ma hồn quỷ rằng:
“Chúng tôi là tù chính trị miền Nam, bị giam tại trại tập trung Nam Hà này, xin thỉnh hồn các vị khuất mặt khuất mày nào đi ngang đây, vui ḷng nhập cơ để chúng tôi nhờ giúp đỡ độ tŕ”.
Anh Phước khều tôi: “Ê! Cơ chạy rồi ḱa”.
Nhưng cơ lại ngừng. Một lúc sau th́ cơ chạy lại, tức là có hồn nào đó nhập vô rồi. Anh Yêu lại lâm râm khấn vái:
“Vị khuất mặt khuất mày nào đă nhập vô cơ xin nhập luôn chớ đừng ngập ngừng, để anh em chúng tôi hỏi đôi điều”.
Tôi phụ trách ráp các mẫu tự mà cơ chỉ vào, và có câu sau đây:
“Tôi tên Thọ, Tiểu Thần phụ trách khu này. Trước kia tôi là công nhân nhà máy dệt Nam Định, chết v́ không có thuốc trị dạ dày (bao tử). Hiện tôi c̣n một vợ và bốn con ở tại Nam Định” (có cho số nhà và tên đường).
“Chúng tôi có thể nhờ ông Thọ cho biết tin tức gia đ́nh ở Sài G̣n được không?”
“Được. Nhưng chờ tôi xin phép Thổ Thần trước”.
Cơ ngưng chạy. Trong tích tắc th́ chạy lại, nhưng là hồn khác:
“Tôi tên Ban, tù h́nh sự, đă chết v́ đói tại Trại Mễ ở Phủ Lư. Hiện tôi là “ma đói”. Các ông có ǵ cho tôi ăn không”.
Tôi lấy cái bánh ngọt và tách nước trà để lên bàn cơ, anh Đàm Quang Yêu mời:
“Chúng tôi mời ma đói ăn bánh uống nước”.
Cơ chạy tới đụng nhẹ vào cái bánh rồi đến chạm vào tách nước, cơ lui lại vị trí chờ. Trong lúc anh Yêu hỏi thêm th́ cơ chạy vội vào các mẫu tự, tôi ráp lại:
“Xin phép các ông tôi đi, v́ ông Tiểu Thần vừa đến ngoài cửa. Ông ấy bắt gặp là tôi bị phạt”.
Trong chớp mắt cơ chạy lại, đó là ông Tiểu Thần:
“Tôi được phép rồi, các ông cần ǵ th́ nói”.
Tôi hỏi trước: “Tôi tên là Hoa …”
Cơ cắt ngang bằng cách chạy vào các mẫu tự:
“Tôi biết tên ông rồi v́ tôi nghe các ông bên cạnh gọi tên ông. Ông nói tiếp”.
“… Tôi có bốn đứa con đi ngoại quốc bằng tàu đă hai tháng nay mà tôi chưa có tin tức. Ông Thọ có thể vào Sài G̣n, đến nhà X12 cư xá Bắc Hải, Phường 25 Quận 10, xem giùm t́nh trạng ở nhà tôi và cho tôi biết tin tức được không?”
“Được. Ông Hoa chờ một chút”.
Khoảng 30 giây sau, cơ chạy lại:
“Không phải như ông nói đâu. Hiện ở nhà ông có bốn đứa con, c̣n một đứa nữa th́ ông Thổ Thần tại đó nói nó đi rồi nhưng chưa đến nơi”.
“Cám ơn Ông Thọ”.
Anh Yêu hỏi: “Làm sao mà ông đi mau vậy?”
“Tôi chỉ là luồng khói nhỏ, thoắt đây thoắt kia, nhưng phải có phép của Thổ Thần mới đi được như vậy. Bây giờ tôi bận, tôi phải đi ngay. Chào các ông”.
Thật ḷng mà nói, tôi không tin vào cơ, nhưng những lời của hồn từ bên kia thế giới xưng là Tiểu Thần đă nói trên bàn cơ vừa rồi làm tôi suy nghĩ măi: “Tin hay không tin?” Thôi th́ chờ tin từ vợ tôi mới đánh giá lời cơ đêm nay.
Tuần lễ sau, chiều thứ bảy, anh Lễ từ nhà thăm nuôi trở vào, đưa cho tôi gói quà của vợ tôi gởi. Vội vàng mở ra, việc đầu tiên là xem thư mà tôi tin là thể nào cũng có trong hộp sữa bột mà chúng tôi dùng để thư bên trong. Và y như rằng, có bốn trang thư bằng giấy “pelure” mỏng. Xem xong, tôi ngẩn ngơ! V́ trong thư có hai chuyện rất buồn: Chuyện thứ nhất. Khi vợ tôi xin giấy phép ở Phường để ra Bắc thăm tôi hồi tháng 05/1979 th́ họ không cấp, vợ tôi nhờ người bạn mua cái giấy phép ở Phường khác. Khi vợ và con tôi từ Nam Định trở về Sài G̣n th́ nhà chúng tôi bị niêm phong, với ḍng chữ “nhà vắng chủ”. Vợ tôi gục đầu vào cửa nhà v́ quá uất ức! Đêm đó, vợ con tôi ngủ bên ngoài cửa nhà. Hôm sau, vợ tôi đến nhờ chị bạn (Chị D.V.D.) có người thân làm trong ṭa án cộng sản can thiệp. Cuối cùng, đám Công An Quận 10 phải gở niêm phong. Dĩ nhiên sự “giúp đỡ” đó theo phương thức “có qua có lại mới toại ḷng nhau”. Đến chuyện thứ hai. Bốn con chúng tôi tưởng đă đi được rồi, nhưng chỉ mấy ngày sau khi tàu rời Vĩnh Long (14/05/1979) là quay về bến. Lư do mà Sở Công An thông báo v́ thời tiết xấu nên tàu quay về, nhưng họ không nói bao giờ th́ đi, cũng không nói ǵ đến số vàng mà họ đă nhận của những người có giấy tờ “người Việt gốc Hoa ghi danh hồi hương”. Từ đó đến nay đă hơn hai tháng, họ vẫn hoàn toàn im lặng, có ai đến hỏi th́ họ trả lời vắn tắt: “Chưa có lệnh cấp trên”. Mọi người biết ḿnh bị Công An cộng sản trấn lột nhưng đâu thể làm ǵ họ được.
Sau khi quay về, đứa con trai lớn chúng tôi vẫn phải “tị nạn” ở quê Ngoại v́ trước đó đă trốn trại lao động.
Vậy th́ lời cơ hoàn toàn đúng nhưng tự thâm tâm tôi vẫn chưa thể tin được, v́ từ trước đến giờ tôi không tin vào tướng số tử vi, huống hồ ǵ lời của “hồn ma bóng quế” từ thế giới vô h́nh nói về những sự kiện trong thế giới hữu h́nh.
Về Công An tổ chức vượt biển, xin mở ngoặc. Năm 2004, trên trang báo Dân Vận của đảng bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Germany, có bài viết về tội ác của cộng sản Việt Nam, trong đó có đoạn nói đến vấn đề vượt biển do Công An tổ chức. Xin trích một đoạn:
“Theo tin tức tiết lộ từ Bộ Công An, chánh phủ cho phép các Sở Công An tổ chức những chuyến vượt biển cho thành phần người Việt gốc Hoa từ tháng 11 năm 1978 với mục đích, vừa đẩy thành phần đó ra khỏi Việt Nam, vừa thu được 7 lượng vàng của mỗi người để bổ sung ngân sách nhà nước. Hành động như vậy, Việt Nam không mang tiếng trục xuất một thành phần tai mắt của Trung Hoa cộng sản, v́ lúc ấy bang giao giữa hai nước cộng sản này đang căng thẳng. Về số vàng thu được từ năm 1978 đến 1982 lên đến 700.000 lượng, nhưng có thật sự vào ngân sách nhà nước hay vào túi riêng của những người quyền thế, chỉ có họ với Trời mới biết thôi. Vàng th́ họ thu khi ghi danh, c̣n bao nhiêu người thoát khỏi Việt Nam th́ không ai biết. Nguồn tin cũng cho biết, trung ương của họ ra lệnh thu mỗi người 3 lượng vàng chớ không phải 7”. Đóng ngoặc.
Tôi gởi hộp sữa bột về lại Sài G̣n với những trang thư bên trong: “(1) An ủi vợ con tôi nên xem đó là bài học kinh nghiệm mà bài học nào cũng có cái giá phải trả. Có điều là giá đó thuộc loại trấn lột. (2) Giữ vững ư định tiếp tục đưa các con ra khỏi Việt Nam khi thấy có thể, v́ không thể để các con sống với cộng sản. (3) Nên chia ra từng một hoặc hai đứa mà đi, để tránh trường hợp tất cả bị tai nạn cùng lúc. Và (4) Có thể nhờ các em trợ giúp tài chánh cho con đi”.
Rồi những đêm sau đó, nhóm chúng tôi tiếp tục chơi cơ. Anh nào cũng nhờ ông Tiểu Thần vào Sài G̣n xem giùm tin tức gia đ́nh. Một đêm, anh Yêu khấn thật lâu cơ mới chạy. Sau một lúc hỏi đáp, mới biết là ông Tiểu Thần bận nên “ma đói” vào cơ:
“Hôm nay tôi ở đây được lâu, các ông có hỏi ǵ tôi không?”
Theo lời anh Yêu, không phải ai ngồi cơ cũng có hồn nhập vào đâu mà phải như thế nào đó thường gọi là “cơ duyên”. Không biết đúng hay không nhưng rơ ràng là anh Vũ Tiến Phúc (Đại Tá Pháo Binh) ngồi cơ th́ nhiều hồn nhập vào cơ. Tôi có thử một lần nhưng phải nửa tiếng đồng hồ mới có hồn nhập vào cơ, lại là hồn ma thôi. Khi hồn nhập vào cơ th́ tôi không thể giữ lại. Tôi muốn thử cho biết bằng cách tôi cố ấn mạnh ngón tay giữa để giữ cơ lại, nhưng cứ như có người đẩy cơ đi. Hai lần tôi cố t́nh kềm cơ lại nhưng không thể được. V́ vậy mà tôi tin là có hồn nhập vào cơ, nhưng vẫn chưa tin hẳn vào lời cơ.
Anh Khang nói:
“Nào, bạn lên nhà ông Xuyên (trại trưởng) xem tụi nó làm ǵ trên đó mà đèn sáng choang vậy”.
“Không được ông Khang ơi. Tụi nó gác dữ lắm, nó không cho tôi vào”.
“Lính cộng sản gác, ăn thua ǵ bạn mà bạn sợ”.
“Tôi nói lính của ông Tiểu Thần gác, chớ tôi đâu có nói lính của ông Xuyên”.
“Vậy th́ anh xuống nhà bếp xem mai chúng nó cho chúng tôi ăn ǵ?”
“Ngày mai các ông ăn bột ḿ luộc, v́ trong kho chỉ có bột ḿ thôi”.
“Hừm. Sao không coi luôn thức ăn?”
“Tôi thấy chỉ có bột ḿ với muối, ngoài ra không có ǵ khác nữa”.
Trong khi chưa có câu hỏi ǵ thêm th́ cơ chạy ṿng ṿng, đột nhiên cơ hỏi:
“Mấy ông có quen với phụ nữ ở đây sao?”
“Phụ nữ ở đâu mà quen? Chúng tôi là tù chính trị trong Nam ra đây, đâu có quen với ai”.
“Tôi thấy có hai cô đang ngồi phía trước ḱa”.
“Bạn ra hỏi giùm hai cô ấy là ai vậy? Và muốn gặp ai?”
“Không xong rồi. Ông Tiểu Thần đang đến, hai cô đó đứng dậy đi rồi. Thôi, tôi đi nghe”.
Ngay sau đó ông Tiểu Thần nhập cơ, và anh Khang hỏi:
“Ông Thọ có biết có người Mỹ nào chết trong trại này không?”
“Có. Tôi biết có hai người”.
“Ông Thọ có thể cho biết vài chi tiết về hai người Mỹ đó không?”
“Không. Tôi chỉ biết hai người đó là sĩ quan”.
“Ông Thọ có thể mời họ đến đây được không?”
“Được. Ông chờ tôi”.
Sau đó cơ chạy lại, nhưng lúc ấy tôi phải chui vào mùng v́ tôi bắt đầu bị cúm, rất khó chịu. Sáng sớm hôm sau, anh Khang thuật tóm tắt như sau:
“Hai sĩ quan Mỹ, một là Thiếu Tá và một là Đại Úy. Cả hai chết tại buồng giam số 1 này. Mồ của hai anh ấy ở sườn núi phía Tây cách trại khoảng 500m đường chim bay. Anh Thiếu Tá ở tiểu bang California, có cho địa chỉ đầy đủ kể cả zipcode. Anh Đại Úy đang buồn v́ vợ anh đă có chồng khác, hai con gái của anh được ṭa giao cho mẹ anh nuôi, v́ vậy mà anh không muốn cho ai biết địa chỉ. Cả hai sĩ quan này đều biết hút thuốc lào, và chết v́ kiệt sức do không đủ dinh dưỡng. Sở dĩ hai anh biết tiếng Việt, v́ khi vào thế giới vô h́nh tại Việt Nam bắt buộc phải học, và hai anh trả lời những câu hỏi cả Việt ngữ lẫn Anh ngữ”
Dần dần chỉ c̣n lại các anh Vũ Tiến Phúc, Cao Nguyên Khoa, với anh Phạm Duy Khang tiếp tục chơi cơ một thời gian khá lâu sau đó. Có anh hỏi những vấn đề chiến lược chiến thuật, về tương lai của Việt Nam, và “những vị” trả lời có “vị” xưng là Bà Chúa Liễu Hạnh, Đức Thánh Trần, có khi là vị thần này vị thánh kia, ..v..v…
Riêng tôi th́ ngưng sau hai tuần tham gia, v́ cảm thấy gai gai trong người làm sao á! Tôi không giải thích được,nhưng rơ ràng có vài đêm trong giấc ngủ cứ như có ai đó đến nói chuyện với tôi, v́ phát âm không rơ nên tôi không hiểu họ nói ǵ. Với lại tôi nghĩ rằng: “Chuyện người ở thế giới vô h́nh nhập vào cơ của thế giới hữu h́nh là có thật, và trả lời những câu hỏi ngay trong cuộc sống là tin được, nhưng về những câu hỏi có tính cách quan trọng dài lâu trong tương lai, khó mà chấp nhận. Bởi lẽ, nếu cơ cung cấp chính xác về chiến lược chiến thuật ở cấp bậc quốc gia quốc tế, th́ ông Tổng Thống chỉ có việc rao truyền trên toàn quốc để t́m mời người “có cơ duyên cao nhất” vào Phủ Tổng Thống ngồi cơ, cầm chắc là Tổng Thống sẽ thành công xuất sắc trên mọi lănh vực sinh hoạt quốc gia, mà không cần đến năm bảy bộ tham mưu đồ sộ với máy móc tinh vi, lúc ấy ngân sách quốc gia lúc nào cũng thặng dư . Vậy là “dân giàu nước mạnh” rồi. Suy cho cùng, nếu sự thể diễn ra như vậy, hà tất phải tốn công tốn của chọn bầu vị Tổng Thống.
Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta có đức tin riêng, nhưng mỗi người có cách riêng của ḿnh khi nh́n về đức tin, trông chờ sự hiện hữu của đức tin.
Vá đường.
Tháng 05/1980, vừa ra khỏi cổng trại th́ tên vơ trang bảo dừng lại:
“Anh Hoa. Anh cử người đến kho lănh dụng cụ đi sửa đường. Từ hôm nay, Đội phụ trách sửa đoạn đường từ nhà thăm nuôi ra đến nhà máy xi măng”.
“Cán bộ có cho xuống đồng mang dụng cụ về trả kho không?”
“Không cần. Cán bộ Vượng (quản giáo) bảo các anh cứ bỏ dưới đó, để nhân viên kho đi t́m mang về”.
Tôi theo tên vơ trang đến kho, hắn bảo tôi:
“Anh vào lănh dụng cụ đi”.
Tôi vào kho, vừa nói mượn dụng cụ là tên giữ kho quát:
“Các anh phải mang số dụng cụ dưới đồng về trả mới được lănh dụng cụ mới”.
Tên vơ trang bước vào:
“Đồng chí cho Đội mượn đi, đồng chí Vượng nói sẽ trả sau, v́ hôm nay phải sửa đường gấp, chậm trễ là có vấn đề đấy”.
Cuối cùng, chúng tôi cũng mượn được dụng dụ cần thiết. Một bên đường là sườn núi với rất nhiều đá dăm, nên chúng tôi không phải khiêng đá từ xa đến, c̣n bên kia là triền đồi xuống cánh đồng chiêm. Qua khỏi nhà thăm nuôi, tên quản giáo bảo Đội dừng lại, hắn hỏi tôi:
“Anh muốn Đội bắt đầu từ nhà máy xi măng vào, hay từ đây ra?”
“Báo cáo cán bộ. Tôi nghĩ là nên bắt đầu từ đây ra, v́ đoạn này nhiều lỗ trũng ḿnh sửa là thấy kết quả ngay”.
Tôi nêu ư kiến như vậy v́ trước mắt, anh em chúng tôi có cơ hội gặp những gia đ́nh bạn bè có thể hỏi thăm tin tức. Thể nào hắn cũng ngăn cấm, nhưng thể nào chúng tôi cũng có cách qua mặt hắn.
“Được. Anh cho Đội bắt đầu từ đây, nhưng nếu anh nào lén phén chui vào nhà thăm nuôi là anh trách nhiệm. Tôi nói trước để mà tránh, tôi mà nổi điên lên khi bắt gặp anh nào vào nhà thăm nuôi th́ mấy anh cũng chẳng ra ǵ đâu. Nghe chưa?”.
Bookmarks