Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
Richard H.Shultz, Jr
P20
Khi Nonam Olson nhận chức chỉ huy NAD mùa xuân 1967, mâu thuẫn này trở nên rơ ràng.3 Ngay lập tức, ông nghi ngờ các điệp vụ có nhiệm vụ bắn ch́m thuyền của đối phương. Khi nhớ lại số tàu thuyền bị ch́m năm 1967, ông nói “tôi tin tưởng chắc chắn là 100 trong số 102 tàu thuyền đó là thuyền đánh cá nhỏ. Tôi không nghĩ là có dân quân vũ trang trên đó để tấn công tàu (chúng tôi). Có một số tàu vũ trang nhỏ, nhưng tôi có thể nói rằng đại đa số thuyền bị bắn ch́m chỉ là thuyền đánh cá”.4 Olson nhớ lại một loại thuyền có thể được coi là mục tiêu quân sự "khi tôi ở đó tôi nghĩ loại duy nhất mà chúng tôi tấn công là thuyền tương đối lớn trên đó có đủ loại vũ khí... ư tôi muốn nói là vũ khí nhỏ. Đó là loại duy nhất mà tôi c̣n nhớ được".5
Pat Carothers, phó chỉ huy của NAD phụ trách hoạt động năm 1966 chỉ ra là thậm chí các thuyền có kích cỡ nhỏ hơn thuyền đánh cá cũng có thể là mục tiêu được phép tấn công bắn ch́m. Đó là các thuyền thúng. Carothers mô tả một chiếc thuyền thúng như sau: "Người ngư dân đan một chiếc thúng sau đó trát nhựa để chống thấm nước và họ sẽ đứng trong thúng đường kính chỉ có 5 feet thôi (1,5m) để đánh cá. Họ để dụng cụ đánh cá dưới chân và sử dụng một mái chèo". Khi hỏi tại sao chiếc thuyền nhỏ như vậy cũng được tính vào số tàu, thuyền hàng năm bị chặn đánh và bắn ch́m, Carothers trả lời các con thuyền đó là một phần của "thống kê".6
Đối với Norman Olson, những việc trên chẳng có ư nghĩa ǵ. Bắn vào thuyền đánh cá, chứ chưa nói đến thuyền thúng, rồi báo cáo là điệp vụ đă ngăn chặn thành công các tàu địch là điều vớ vẩn. Có nhiều khả năng việc này gây hậu quả tiêu cực v́ ngư dân là đối tượng tâm lư chiến chủ yếu của SOG. Tuy nhiên, đối với thuỷ thủ Việt Nam, bắn ch́m thuyền của miền Bắc, kể cả thuyền thúng, là cách để kiếm tiền thưởng. Khi hồi tưởng lại, dường như điều đó thật khó tin. Nhưng theo Olson; "v́ họ được thưởng". Cựu chỉ huy trưởng của NAD chỉ ra điều tưởng như rất rơ ràng, "nếu bạn là một ngư dân b́nh thường và thuyền của bạn bị nổ tung, bạn sẽ không thích ǵ những kẻ từ miền Nam tới và làm điều đó với bạn". Olson nghĩ, đó là việc ngốc nghếch, "nhất là khi bạn đang cố tự hoạ ḿnh là một phần của phong trào Gươm thiêng ái quốc.7
Trên đây là một trong nhiều vấn đề Olson gặp phải. Năm 1968, Olson đóng vai tṛ quan trọng trong việc đề ra quy định mới về can dự, điều chỉnh việc bắn thuyền đánh cá miền Bắc. "Đầu năm 1968, để hỗ trợ hoạt động tâm lư chiến, một số hạn chế được đưa ra cấm phá huỷ các thuyền có chiều dài dưới 10 mét, trừ khi xác định được trên thuyền có chở hàng quân sự hoặc một số lượng lớn hàng hoá hoặc thực phẩm, đồng thời không được tấn công số rơ ràng là thuyền cá".8
Và thuyền thúng cũng thế. Do vậy, số thuyền của đối phương bị SOG phá huỷ trong năm 1968 tụt xuống c̣n 40. Việc xem xét lại quy định can dự đă tạo ra sự khác biệt - nhưng những khuyến khích bằng tiền vẫn giữ nguyên.9
Olson cũng gặp phải vấn đề bên trong OP37. Sếp của SOG, Jack Singlaub nói với ông là NAD cần giữ kỷ luật và phải khắc phục điều đó ngay lập tức. Olson nhớ lại. "Một trong những vấn đề của các hoạt động này là có nhiều quyền hạn. Có cảm tưởng là không có sự kiểm soát".10 Olson nhận được "hướng dẫn rơ ràng từ Singlaub là phải trực tiếp chấn chỉnh. Có một số vấn đề về tinh thần của nhân viên Mỹ và rất nhiều vấn đề về kỷ luật. Do đó phải mất nhiều thời gian chấn chỉnh hơn là tôi nghĩ. Trong 6 tháng đầu tiên ở đó, tôi dành nhiều thời gian chấn chỉnh mọi thứ và tạo ra sự thay đổi đồng thời chuyển một số người gây phức tạp đi nơi khác".11
Olson nhận thấy quan hệ với cơ quan an ninh bờ biển - CSS của Nam Việt Nam - đối tác của OP37 cũng cần phải sửa đổi. Khi đến Đà Nẵng, ông thấy rằng: "chúng tôi không có quan hệ tốt với đối tác - mối quan hệ, theo tôi là cực kỳ quan trọng và tôi dành rất nhiều thời gian để củng cố điều đó với tất cả khả năng của ḿnh và thực sự biến tổ chức của đối tác thành cái bóng của chúng tôi... Nguyên tắc của tôi là quyết định sẽ do tôi và chỉ huy Việt Nam cùng đưa ra và tôi buộc anh ta phải chịu trách nhiệm về mọi chuyện xảy ra trong tổ chức của ḿnh".12 Olson muốn cho CSS cảm giác là họ được tin cậy. "Trách nhiệm của tôi là đảm bảo mối quan hệ với đối tác".13 Olson chấp nhận những khía cạnh tiêu cực về an ninh để thực hiện chính sách của ḿnh.
____________________ ________________
1. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG", (7-1970) Phụ lục C, phần "Hoạt động trên biển", tr. 47.
2. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy 1967", Phụ lục G, tr.III 1-2.
3. Như đă nói ở trên, Olson là dạng lănh đạo mà NAD cần phải có từ lâu. Ông có kinh nghiệm phù hợp. Sau Việt Nam, Olson tiếp tục hoạt động trong chiến tranh đặc biệt và kết thúc sự nghiệp hải quân với chức vụ tham mưu trưởng Bộ chỉ huy hoạt động đặc biệt hỗn hợp (lực lượng Delta) được thành lập sau thất bại giải cứu con tin ở Iran 1980. Delta nhanh chóng trở thành lực lượng phản gián con cưng của Bộ Quốc pḥng. Olson đóng vai tṛ quan trọng vào sự phát triển này.
4, 5. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG", tr.150, 133.
6. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Pat Carothers, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG", tr. 97.
7. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG", tr. 156.
8. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, (7-1970) Phụ lục C, phần “Hoạt động trên biển", tr. 52.
9. MACVSOG, “Lịch sử chỉ huy 1968", Phụ lục F, tr. F-III-A-1.
10. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACV SOG", tr.128.
11, 12, 13. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG",tr 128 - 129, 18.
Vào năm 1968, hoạt động tập kích ven bờ gần như ngừng lại hoàn toàn. Theo Olson, "đó là công việc khó khăn v́ chúng tôi không đưa họ đến đó được".1 Ông quyết định xin phép sử dụng họ ở miền Nam. "Những ǵ tôi muốn là đưa các toán biệt kích ra thực địa và t́m hiểu họ có năng lực làm được ǵ. Qua Singlaub, chúng tôi thu xếp để cử một toán tới đồng bằng và phối hợp với lực lượng cơ động đường sông, một lực lượng hỗn hợp của lục quân và hải quân. Một trong những công việc mà trước đó họ chưa từng làm là đi tiền trạm, tức là đi trinh sát t́m hiểu những ǵ đang diễn ra. V́ vậy chúng tôi cho rằng đây là cơ hội để tiến hành huấn luyện thực tế và có thể giám sát được họ".2 Theo báo cáo năm 1968 của SOG, "những hoạt động này rất có giá trị đối với lực lượng cơ động đường biển... cung cấp tin t́nh báo cho lực lượng này".3
Ngoài hoạt động đường sông, các toán biệt kích được bố trí tại vùng I chiến thuật để "tiến hành hoạt động thực tế chủ yếu là nhằm vào cơ sở của Việt Cộng".4 Mục đích là quấy rối và bắt giữ các thành viên của chính phủ ngầm của Việt Cộng và phá huỷ mạng lưới hậu cần ở vùng ven biển thuộc vùng I - NAD triển khai những hoạt động tương tự ở vùng II (vùng Tây nguyên ở Nam Việt Nam) năm 1968. Trong năm đó, 25 điệp vụ được thực hiện thành công ở vùng I và 22 ở vùng II. Kết quả ở vùng I là "6 V.C. bị giết, 6 bị bắt làm tù binh, thu giữ số lượng lớn tài liệu, tiến hành 11 vụ phục kích và càn quét". Kết quả ở vùng II cũng tương tự.5 Những con số tuy nhỏ bé nhưng đánh dấu sự cải thiện so với các vụ tập kích ở miền Bắc.
Hoạt động chống cơ sở của Việt Cộng chỉ là một phần nhỏ trong kế hoạch phản gián và b́nh định của Mỹ ở Việt Nam dưới sự giám sát của chương tŕnh hỗ trợ phát triển cách mạng và hoạt động dân sự - CORDS. Lănh đạo đầu tiên của CORDS là Robert Komer, phó của Westmoreland. CORDS được thành lập tháng 5-1967 để cải thiện việc b́nh định hoá nông thôn và an ninh ở nông thôn Nam Việt Nam. Nhân viên CORDS được lấy từ quân đội, Bộ Ngoại giao, Cơ quan thông tin Hoa Kỳ, và CIA.
Một mục tiêu của CORDS là phá vỡ cơ sở hạ tầng của Việt Cộng. Hoạt động này được biết đến với các tên "chiến dịch Phượng Hoàng". Việc chỉ đào Phượng Hoàng được giao cho Colby, phó của Komer, người được tái phân công đến Việt Nam sau khi nhận công tác tại Tổng hành dinh CIA. Khi Komer ra đi, Colby thay ông là giám đốc của CORDS. Với nhiệm vụ vô hiệu hóa cán bộ Việt Cộng, Phượng Hoàng trở thành vấn đề gây tranh căi. Những lời tố cáo về việc sử dụng nhục h́nh và ám sát đă dẫn đến nhiều cuộc điều tra của quốc hội. Tại các cuộc điều trần, Colby khăng khăng cho rằng phần lớn trong số 20.000 người Việt Nam bị giết trong chiến dịch Phượng Hoàng là trong giao tranh chứ không phải bị ám sát.6 Những người khác không đồng ư và cuộc tranh luận về chiến dịch này c̣n kéo dài đến tận ngày nay.
Các toán biệt kích trên biển của SOG hoạt động ở miền Nam hiệu quả hơn nhiều so với miền Bắc v́ nhiều lư do. Thứ nhất, các địa bàn do Việt Cộng kiểm soát dễ tiếp cận hơn những nơi mà các toán biệt kích phải đối mặt ở miền Bắc. Ngoài ra, số biệt kích người Việt c̣n được hưởng lợi từ việc giám sát và lănh đạo của Mỹ. Cuối cùng, nếu các toán gặp phải trục trặc sẽ có lực lượng hỗ trợ đến ứng cứu. Nhưng hoạt động ở miền Nam không liên quan ǵ đến các nhiệm vụ ban đầu của OP34A. Thực ra, hoạt động biệt kích của SOG được thực hiện ở Nam Việt Nam phần lớn là do thất bại ở miền Bắc.
Nói tóm lại, vào mùa thu năm 1968, Norman Olson đưa NAD quay lại mục tiêu chính. Từ khía cạnh hoạt động, "157 điệp vụ được thực hiện trong 10 tháng đầu năm 1968. Trong đó, 140 vụ kết thúc thành công, 11 bị huỷ do thời tiết xấu và 6 do tàu trục trặc".7 Tuy nhiên, ông không thể tái tập trung NAD vào các nhiệm vụ trên biển ban đầu - điều đó là không thể được. NAD bị cuốn vào hoạt động hỗ trợ chương tŕnh chiến tranh tâm lư của SOG. Trong khi việc hỗ trợ chiến tranh tâm lư là quan trọng, nó chỉ là một phần của những ǵ các nhà vạch chính sách đầu tiên hy vọng hoạt động trên biển có thể làm được.
Chấm dứt hoạt dộng trên biển chống miền Bắc
Trong khi Norman Olson đang khắc phục nhiều vấn đề của OP37 và đưa OP37 trở lại hoạt động b́nh thường, thành tích của ông bị che khuất bởi quyết định của Washington ghi trong bức điện ngày 1-11-1968 yêu cầu SOG chấm dứt mọi hoạt động dính dáng đến việc đưa người qua biên giới. Đối với bộ phận cố vấn hải quân phối thuộc - NAD, chỉ thị này đồng nghĩa với việc đóng cửa toàn bộ chương tŕnh hoạt động. "Ngày 1-11-1968 mọi hoạt động trên biển bên trên vĩ tuyến 17 bị ngừng lại".8
Sang 1969, t́nh h́nh vẫn giữ nguyên như vậy. Các thuyền viên và toán biệt kích vẫn được duy tŕ, nhưng hoạt động của họ hạn chế ở dưới vĩ tuyến 17. Nhiệm vụ của họ là "tiến hành ngăn chặn ngầm trên biển, thu thập t́nh báo, chiến tranh tâm lư, hoạt động tập kích như phục kích, bắt giữ và quấy rối các địa bàn ven biển do quân đội miền Bắc và Việt Cộng kiểm soát".9 Các hoạt động này "giết 116 VC- bộ đội miền Bắc, bắt giữ 34 VC-Bộ đội, bắt giam 165 đối tượng nghi Việt Cộng, phá huỷ 20 thuyền tam bản, 71 hầm, thu giữ 37 vũ khí, 29 lựu đạn và 8.500 pound (4.000KG) gạo. Ngoài ra, một số lượng lớn tài liệu được thu giữ qua các cuộc tập kích".10 Những con số này đánh dấu sự gia tăng hoạt động, nhưng chỉ là nỗ lực nhỏ bé, chống lại cơ sở hạ tầng của Việt Cộng.
Năm 1970, hoạt động trên biển ở miền Nam duy tŕ ở mức 1969. Yêu cầu phải chuẩn bị sẵn sàng cho các điệp vụ ra Bắc bất kỳ lúc nào vẫn c̣n nguyên hiệu lực, nhưng không một thuỷ thủ đoàn hoặc toán biệt kích nào nhận được lệnh lên đường. Tiêu điểm của OP37 là Việt Nam hoá hoạt động trên biển. Một bản kế hoạch được vạch ra, theo đó vào cuối năm, CSS "có năng lực vạch kế hoạch, phối hợp và thực hiện điệp vự” cũng như "sửa chữa và bảo tŕ tàu và cơ sở vật chất". Việc chuyển giao hoạt động trên biển cho CSS và giải thể NAD được dự kiến vào ngày 1-1-1971 với "6 tháng gia hạn để đảm bảo sự huấn luyện đầy đủ cho số hải quân Nam Việt Nam đến thay thế".11 Tháng 7-1971, CSS tiếp nhận trách nhiệm vạch kế hoạch và thực hiện mọi hoạt động trên biển.
____________________ ____________________
1. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG”, tr.5.
2. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACV SOG”, tr.6.
3, 4, 5. MACVSOG, “Lịch sử chỉ huy 1968”, Phụ lục F, tr.F-III-1-5, F-III-E-1.
6. Xem Willam Colby: "Chiến thắng bị đánh mất" (NewYork, Contemporary Books, 1968.).
7, 8. MACVSOG, “Lịch sử chỉ huy 1968”, Phụ lục, tr.F.III-1-2, F.III-1-3.
9. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy 1969”, Phụ lục, tr.F.III-1-2.
10. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy 1969”, Phụ lục, tr.F-III-1-A/B/C-1.
11. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy 1970”, Phụ lục B tr.B.III-7.
TÁC ĐỘNG CHIẾN LUỢC CỦA HOẠT ĐỘNG TRÊN BIỂN:
HY VỌNG CAO - KẾT QUẢ THẤP
Năm 1964, các nhà vạch chính sách của Washington đặt nhiều hy vọng vào hoạt động ngầm trên biển. Họ tin là hoạt động này sẽ nhanh chóng tác động đến Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông. Các hoạt động tấn công, quấy phá từ ngoài biển được coi là công cụ bí mật chủ yếu để làm Hà Nội chú ư và thuyết phục họ ngừng thúc đẩy chiến tranh ở miền Nam. Thông qua các hoạt động nhằm vào mục tiêu thiết yếu dọc theo bờ biển, Hồ Chí Ḿnh sẽ nhanh chóng hiểu ra là phải trả giá cho hoạt động lật đổ ở miền Nam. Nếu hoạt động đó không chấm dứt, chiến tranh bí mật sẽ được tăng cường. Nhưng Hà Nội không lùi bước.
Những ǵ mà McNamara và các nhà vạch chính sách trông chờ ở hoạt động ngầm trên biển là hoàn toàn phi thực tiễn. Toàn bộ ư tưởng không là cái ǵ khác ngoài sự ảo tưởng, nhất là trong bối cảnh OP37 vấp phải nhiều vấn đề mà phần lớn những trở lực đó không được tháo gỡ. Sự lănh đạo và kiến thức của các chỉ huy của NAD là một ví dụ. Chỉ có Norman Olson đúng là người chỉ huy, c̣n lại cơ quan nhân sự không t́m được một vị chỉ huy nào khác như ông.
Tương tự, chất lượng và động cơ của thuỷ thủ và toán biệt kích người Việt luôn là điều nghi ngại. Đây là vấn đề tồn đọng kéo dài v́ phần lớn số này chỉ v́ tiền. Chế độ tiền thưởng khuyến khích tư tưởng làm thuê và không thể thay thế cho động cơ yêu nước.
Từ khi khởi đầu, quy định về can dự đă ngáng trở việc thực hiện thành công điệp vụ. Sự cản trở lớn nhất, chứ không phải duy nhất, là nhân viên của SOG không được đi kèm theo tàu và các toán biệt kích lên phía Bắc. Điều này gây tác hại chủ yếu đến hiệu quả của toàn bộ hoạt động, nhất là sau khi miền Bắc đă triển khai biện pháp đối phó. Trong khi đó câu trả lời của SOG lại là thu hẹp phạm vi, chỉ c̣n hoạt động trên biển.
Cuối cùng, có vấn đề ḷng tin và hợp tác giữa NAD và CSS. Quan điểm cho rằng đối tác Việt Nam chứa đầy gián điệp ngấm sâu vào mọi bộ phận nghiệp vụ của SOG, kể cả OP37. Theo dự kiến ban đầu hoạt động trên biển của SOG dự kiến là nỗ lực phối hợp chung giữa các nhân viên Mỹ và Nam Việt Nam. Tuy nhiên, mối lo ngại về an ninh và sự thiếu tin cậy làm cho nó nhanh chóng biến thành hai chế độ chỉ huy riêng biệt, trong đó Hoa Kỳ giữ vai tṛ chính. Điều này cũng ảnh hưởng tiêu cực gây tác hại đến các hoạt động.
Bổ sung vào những cản trở trên là sự kỳ vọng của các nhà vạch chính sách. Họ hoàn toàn thoát ly thực tế khi đánh giá quá cao tác động của các hoạt động “găi ghẻ" đối với giới lănh đạo miền Bắc. Washington không hiểu đối thủ của ḿnh ở Hà Nội. Phải làm nhiều hơn là một số hoạt động trên biển mới có thể ảnh hưởng đến tính toán của Hồ Chí Minh.
Ngay cả khi NAD không gặp những cản trở trên, Washington vẫn trông chờ quá nhiều và quá nhanh từ hoạt động trên biển. Chương tŕnh hoạt động trên biển năm 1964 một lần nữa cho thấy các nhân vật cao cấp trong chính quyền Johnson và Kenedy có hiểu biết ít ỏi như thế nào về hoạt động ngầm.
Bookmarks