Hoa Cúc và Đao Kiếm
Lư Anh
Cuối Đệ nhị Thế chiến (1944), theo yêu cầu của Cơ quan Thăm ḍ Chiến tranh (Office of War Information) trực thuộc chính phủ Hoa Kỳ, nhà nhân loại học Hoa Kỳ Ruth Benedict dựa vào lư luận các loại h́nh văn hóa, vận dụng Văn hóa Nhân chủng học (Cultural anthropology) để viết những bản báo cáo tổng hợp nghiên cứu tâm sinh lư con người Nhật Bản khi sắp trở thành kẻ chiến bại. Nội dung chính của các báo cáo là phân tích những đức tính tốt đẹp của dân xứ Phù Tang, nhưng cũng nhắc đến tội ác của binh lính Nhật Bản tại những nước chúng xâm lược. Sau khi hoàn thành những báo cáo nói trên, năm 1946, bà Ruth Benedict sắp xếp lại in thành sách với tên gọi là Hoa Cúc và Đao Kiếm (The Chrysanthemum and the Sword).
Ruth Benedict (June 05/06/1887 – 17/09/1948), tên khai sinh là Ruth Fulton, là một nữ học giả Hoa Kỳ hiếm có đầu thế kỷ thứ 20. Chịu ảnh hưởng của Franz Boas, bà cùng Edward Sapir đề ra thuyết H́nh thức Văn hóa (Cultural Configuration). Theo bà, văn hóa cũng như con người, có những loại h́nh và đặc trưng giống nhau. Khi c̣n là sinh viên, Ruth Benedict chuyên nghiên cứu văn học Anh Quốc. Bà từng viết nhiều tác phẩm với lời văn thâm thúy, miêu tả tỉ mỉ. Ruth Benedict c̣n có biệt tài làm thơ. Trong các tác phẩm của bà, nổi tiếng nhất là 2 cuốn Mô h́nh Văn hóa (Patterns of Culture) và Hoa Cúc và Đao Kiếm. Mặc dù đă có nhiều người đưa ra những luận điểm thay thế học thuyết của học giả Ruth Benedict, nhiều nhà nhân loại học và lịch sử vẫn coi trọng những điều bà nêu ra trong tác phẩm của ḿnh.
Trong thời gian viết các báo cáo, nữ học giả Ruth Benedict không hề bước chân tới Nhật Bản, cũng không biết tiếng Nhật. Bà chỉ dựa vào những cuốn sách tiếng Âu Mỹ viết về t́nh h́nh chính trị, xă hội Nhật Bản và các tác phẩm văn học cũng như phim ảnh nói về xứ sở Phù Tang, viết ra những báo cáo chính xác về con người và t́nh h́nh chính trị, xă hội nước Nhật trước và sau khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc, khiến cho nhiều học giả Hoa Kỳ và thế giới khâm phục, có người c̣n ca tụng bà là Học giả Nhật Bản. Sau khi Hoa Cúc và Đao Kiếm ra mắt độc giả, lập tức được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, xuất bản hàng chục triệu cuốn.
Nhiều người khi nói đến tác phẩm này đă đặt câu hỏi: Tại sao tác phẩm lại lấy tên Hoa Cúc và Đao Kiếm? Nội dung của nó như thế nào?
Học giả Ruth Benedict cho biết: Xét về tính văn hóa, từ xa xưa, người Nhật đă xem hoa cúc là biểu tượng quan trọng mang những ư nghĩa đặc biệt tiêu biểu cho những ǵ đẹp đẽ và cao thượng như tính người, lương tâm và sự dạy bảo tốt đẹp của người Nhật Bản. Tác phẩm này tuy viết về những đức tính tốt đẹp của người Nhật Bản, nhưng lại viết trước khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc, không thể không nhắc đến tội ác của binh lính Nhật Bản. Trong Đệ nhị Thế chiến, khi xâm lược một số nước Châu Á, binh lính Nhật Bản tàn sát người dân bản xứ, đốt nhà giết người vô cùng dă man. Trước ngày đầu hàng đồng minh, khi bị tấn công, binh lính Nhật không những dùng đao kiếm tự đâm chết ḿnh, c̣n cưỡng bức dân chúng những nơi ḿnh đóng quân phải chết theo. Bởi vậy mới đặt tên cuốn sách là Hoa Cúc và Đao Kiếm.
Hoa cúc đối với người Nhật
Cúc là loài hoa đại diện cho mùa thu ở Nhật Bản. Xét về tính văn hóa, từ xa xưa, người Nhật đă xem hoa cúc là biểu tượng quan trọng mang những ư nghĩa đặc biệt. Hằng năm, trong hai tháng 10 và 11, Hội chợ Triển lăm Hoa Cúc Kik-ka-ten được tổ chức ở nhiều nơi trên toàn nước Nhật. Hội chợ triển lăm hoa là cơ hội để những người trồng hoa cúc tranh tài với nhau qua sự đánh giá, b́nh chọn của ban giám khảo. Những cuộc triển lăm hoa cúc được tổ chức thường xuyên để mọi người cùng b́nh phẩm, chọn ra các giống hoa đẹp nhất. Đó cũng là động lực thúc đẩy nghề trồng hoa cúc ở Nhật Bản ngày càng phát triển.
Loài hoa cúc được chú ư nhiều nhất ở xứ sở Phù Tang là Atsu-mono, c̣n được biết đến với tên gọi Hậu vật cúc. Nó thuộc loại cúc cánh to. Mỗi bông có khoảng 300 cánh. Các cánh hoa ở dạng h́nh cong hướng lên phía trên, được xếp tuần tự lên nhau tạo thành một đóa hoa to tṛn, đầy đặn thể hiện cho sự phúc hậu.
Bên cạnh Hậu vật cúc, hội chợ triển lăm Kik-ka-ten c̣n có các loài cúc khác: Hoa cúc Kuda-mono hay c̣n gọi là Quản vật cúc, là loại cúc cánh hoa dài và thanh mảnh trông như những chiếc ống nhỏ. Ichi-monji giku là giống cúc chỉ có từ 14 đến 16 cánh hoa nhưng mỗi cánh có kích thước khá to và rộng. Trong khi đó, cúc Edo giku có h́nh dáng và màu sắc của cánh hoa thay đổi liên tục theo từng giai đoạn trưởng thành của hoa. Cúc Saga giku có cánh hoa dài, thẳng và mảnh. H́nh dáng độc đáo của cánh hoa giúp saga giku trở nên rất nổi tiếng. Choji-giku (Đinh Tử cúc) là loài cúc có dáng vẻ rất đáng yêu. Nó là sự kết hợp giữa những cánh hoa rộng làm nền cho tràng hoa ở giữa.
Vào thời Heian, thế kỷ thứ 8, hoa cúc được xem là loài hoa cao quư, tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp và sống lâu trăm tuổi. Chúng chỉ xuất hiện trong cung đ́nh và các gia đ́nh quư tộc.
Giới quư tộc thời kỳ này có thói quen trồng hoa cúc trong vườn nhà để cầu mong thịnh vượng, sống lâu trăm tuổi và ḷng hiếu thảo của con cái. Vào thế kỷ thứ 9, Hoàng gia Nhật Bản khởi xướng lễ hội trưng bày hoa cúc Kiku no Sekku. Lễ hội này diễn ra vào ngày 09/09 mỗi năm, đến tận bây giờ vẫn c̣n duy tŕ.
Đối với người Nhật, hoa văn h́nh hoa cúc trở nên rất phổ biến và rất được ưa chuộng. Chúng là h́nh ảnh không thể thiếu để tô điểm cho những chiếc kimono truyền thống.
Thiên hoàng Go-Toba trị v́ Nhật Bản dưới thời Kama-kura (1192 – 1333), đă sử dụng hoa cúc làm hoa văn trang trí các vật dụng ông ưa thích. Bằng chứng là các nhà nghiên cứu đă t́m thấy h́nh hoa cúc khắc trên thanh kiếm Takana của Thiên hoàng Go-Toba họ đă khai quật được.
Vào thời Chiến quốc Sengoku giữa thế kỷ thứ 15, rất nhiều phù hiệu hoa cúc với h́nh dáng khác nhau được lănh chúa các địa phương và ḍng dơi quư tộc dùng làm vật biểu trưng riêng. Đến thời Edo, thế kỷ thứ 17, hoa cúc được trồng phổ biến trong dân chúng và trở thành loài hoa rất được người Nhật ưa chuộng.
Kể từ thời kỳ Kama-kura, h́nh ảnh hoa cúc 16 cánh được sử dụng làm con dấu của Thiên hoàng và Hoàng thất. Cho đến nay, hoa cúc vẫn được xem là biểu tượng quan trọng của Hoàng gia Nhật Bản. Quốc huy Nhật Bản hiện nay là h́nh hoa cúc 16 cánh. Trên trang b́a tấm giấy thông hành của nước Nhật ngày nay cũng in h́nh hoa cúc.
Trồng và lai tạo hoa cúc từ lâu đă mang lại danh tiếng cho kỹ thuật làm vườn Nhật Bản. Ngoài mục đích trang trí làm đẹp, hoa cúc c̣n được người Nhật dùng làm nguyên liệu chế biến món ăn và là đề tài cho sự sáng tạo trong ẩm thực. Hoa cúc là h́nh ảnh không thể thiếu trong thế giới bánh ngọt wagashi bốn mùa nổi tiếng của người Nhật. Vào mùa thu hằng năm, các cửa hàng chủ yếu phục vụ các loại bánh ngọt h́nh hoa cúc dùng trong tiệc trà. Kiểu bánh wagashi có lịch sử 1.000 năm này thể hiện ước nguyện “sống lâu trăm tuổi” của người Nhật Bản.
Giá trị hiện thực của “Hoa Cúc và Đao Kiếm”
Người Nhật Bản tôn sùng Thiên hoàng. Trước khi xảy ra Đệ nhị Thế chiến, Thiên hoàng từng nói, Nhật Bản cần xâm chiếm các nước Châu Á để mở rộng không gian tồn tại của người dân nước ḿnh. Từ đó Nhật Bản đưa quân đi xâm lược nhiều nước ở Châu Á, trở thành đồng minh của phát xít Đức, Ư, do Adolf Hitler và Benito Mussolini cầm đầu trong Đệ nhị Thế chiến.
Sau khi quân đội Hoa Kỳ theo lệnh của TT Harry S Truman ném 2 quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki trong hai ngày 06/08/1945 và 09/08/1945, Nhật hoàng nói, quân đội Hoa Kỳ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản, dân chúng thương vong quá nhiều, không thể tiếp tục gây chiến nữa, đành phải đầu hàng đồng minh. Sau khi đầu hàng, những người lính Nhật lập tức lấy lại tính người đă mất đi từ ngày ra trận, trở thành những con người lương thiện như xưa.
Nhà nhân chủng học Ruth Benedict dựa vào ư thức tập thể của người Nhật Bản và sự thống trị của Nhật hoàng, phân tích tỉ mỉ trong tác phẩm Hoa Cúc và Đao Kiếm, sau đó đề nghị chính phủ Hoa Kỳ: Sau Đệ nhị Thế chiến, muốn khống chế Nhật Bản, muốn nó trở thành một nước yêu chuộng ḥa b́nh, cần duy tŕ sự thống trị của chế độ Nhật hoàng đă có từ mấy ngàn năm nay. Sau những trận phản công dữ dội của quân đội Hoa Kỳ, Nhật Bản bị tàn phá dữ dội, nhiều thứ sụp đổ, địa vị của Nhật hoàng vẫn c̣n tồn tại.
Hơn nửa thế kỷ sau (1945 – 2012), nh́n lại t́nh h́nh Nhật Bản trong mấy chục năm qua và hiện nay, chúng ta thấy những lời đề nghị của nữ học giả Ruth Benedict không sai chút nào. Sau một thời gian hàn gắn vết thương chiến tranh bị tàn phá vào cuối Đệ nhị Thế chiến, Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ. Được đánh giá là một cường quốc kinh tế, có nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu, tính theo tổng sản phẩm nội địa cũng như sức mua tương đương, chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Những năm gần đây, do thiên tai tàn phá, t́nh h́nh chính trị không ổn định, mới xuống hàng thứ ba, sau Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn là nước đứng thứ 5 trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư cho quốc pḥng; xếp thứ 4 thế giới về xuất khẩu và đứng thứ 6 thế giới về nhập khẩu.
Nhật Bản là thành viên đóng góp nhiều cho Liên Hiệp Quốc, đồng thời là thành viên của G8, G4 và APEC, cũng là quốc gia giúp đỡ kinh tế cho nhiều nước trên thế giới. Sau Đệ nhị Thế chiến, từ khi nhà khoa học Yukawa Hideki đoạt giải Nobel Vật Lư 1949 về đề tài Dự đoán sự tồn tại của các hạt meson trên cơ sở lư thuyết về các lực hạt nhân, tính đến nay Nhật Bản đă có 18 người đoạt giải Nobel, đứng đầu các nước Châu Á …
TB Online
Bookmarks