Ghe Thuyền ĐBSCL : Nét đẹp văn hoá độc đáo
Đi liền với h́nh ảnh sông nước là các h́nh ảnh: chiếc ghe, con đ̣, con cá, con cua, cần câu, đăng, đó, ṇ… Đây là h́nh ảnh mà ta thường gặp trong ca dao dân ca Nam bộ. Ngay cả việc trông ngóng người yêu, người Nam bộ cũng mượn h́nh ảnh chiếc ghe để nói lên nỗi ḷng của ḿnh, nói lên sự trông ngóng, khấp khởi chờ mong người yêu đến thăm ḿnh:
Ghe ai đỏ mũi xanh lườn,
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em.
Ở đây người con gái nhận dạng chiếc ghe của người yêu ḿnh. Chiếc ghe của người yêu cô có đặc điểm: “đỏ mũi, xanh lườn” nên khi thấy chiếc ghe có đặc điểm này th́ cô gái mừng thầm, đinh ninh là ghe của người yêu xuống thăm ḿnh. Nhưng cô gái ở đây vẫn cẩn trọng, không hấp tấp vội vă. V́ cả vùng sông nước này có biết bao chiếc ghe có cùng đặc điểm đó, không khéo sẽ bị hớ. Nên cô gái mới đặt lời ướm hỏi. Từ “phải” là một từ để hỏi nhưng ở đây là dạng hỏi tu từ. Không cần người đáp. Hỏi để rào trước đón sau mà thôi. Có phải th́ hăy đến nơi hẹn, hăy thẳng nơi mà đến. C̣n không phải th́
chỉ việc đi ngang qua. Câu ca dao này c̣n có một dị bản khác:
Ghe ai nhỏ mũi trảng lườn,
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em.
Chiếc ghe cũng là h́nh ảnh của cuộc sống thương hồ, trên đó có chức năng như một ngôi nhà di động. Phía sau là cuộc sống sinh hoạt của cả gia đ́nh. Phía trước là dùng để chất hàng hóa bán. Cứ thế, chiếc ghe vào từng con kinh, con rạch, hết nơi này đến nơi khác. Hết hàng th́ quay ra chợ bổ hàng rồi đi bán tiếp. Con người cũng sống trôi nổi cùng chiếc ghe. Nhưng đôi khi chiếc ghe chở hàng chỉ có người chồng đảm nhận. Vợ con ở nhà, người chồng đi buôn bán xa, vài ba ngày mới về một lần. Cho nên trông chồng cũng là h́nh ảnh chiếc ghe và nhớ chiếc ghe cũng là nhớ chồng:
Ghe lui khỏi vịnh, em thọ bịnh liền,
Không tin anh hỏi xóm giềng mà coi.
V́ cuộc sống mưu sinh mà vợ chồng phải xa cách, vắng nhau bao ngày là bao nỗi ḷng nhung nhớ. Về nhà chưa được bao lâu, lửa nồng chưa ấm anh đă vội ra đi. Nhưng v́ cuộc sống không thể khác được nên ghe người chồng vừa đi th́ người vợ cũng vừa “thọ bịnh”. Quả là một tấm t́nh son sắt, thủy chung.
Hay giữa một đêm trăng thanh gió mát, một chiếc xuồng câu đang lờ lững giữa ḍng, bắt gặp chiếc xuồng của cô gái chở hàng bông ra chợ đang chèo tới ở phía sau anh ta liền buông mấy lời chọc ghẹo:
Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi,
Kẻo giông khói đèn bờ bụi tối tăm.
Cách chọc ghẹo của chàng trai ở đây rất có lư, đồng thời thể hiện được sự quan tâm lo lắng của ḿnh. Giữa trời nước bao la mà chỉ có một ḿnh cô gái chèo ghe chở hàng ra chợ. Anh lo lắng cho cô gái bảo cô chèo mau lên, anh đợi, nếu không giông đến thổi tắt đèn mà cô th́ có môt ḿnh biết phải làm sao. Cô gái cũng cảm thấy ấm ḷng khi giữa đêm khuya thanh vắng mà lại có người quan tâm đến ḿnh, nên cô cũng ḥ đáp lại:
Nhứt nhựt tiểu thân chứ nhà của anh đâu mà em không biết,
Chứ gặp anh giữa đường, cái quyết chí mà thương anh.
Có khi họ nên duyên cũng từ đó.
Nhưng đôi khi cũng có vài anh chàng miệt vườn v́ bản chất quá thật thà, nghỉ sao nói vậy :
Nước Tân Ba chảy qua Vàm Cú
Thấy em chèo cặp vú muốn hun
Chiếc ghe, chiếc xuồng, ḍng sông cũng là những h́nh ảnh được người dân Nam bộ gởi gắm vào đó những nỗi niềm tâm sự, những cảm nhận của cuộc đời, than thân trách phận, nói lên cuộc sống nghèo khó của ḿnh:
Không xuồng nên phải lội sông,
Đói ḷng nên phải ăn ṛng bè môn.
Như đă nói, Nam bộ có hê thống sông ng̣i chằng chịt cho nên phương tiện đi lại của cư dân nơi đây trước kia chủ yếu là ghe, xuồng. Ghe, xuồng là chân đi là phương tiện vận chuyển chủ yếu, nên dù nghèo thiếu đến đâu người ta cũng cố dành dụm sắm cho ḿnh một chiếc xuồng để làm phương tiện đi lại. Tác giả của câu ca dao này có lẽ do quá nghèo túng, nghèo đến nỗi không có chiếc xuồng để đi, mọi việc di chuyển chỉ bằng cách lội sông. Mà không có xuồng cũng có nghĩa là thiếu phương tiện đánh bắt, mà thiếu phương tiện đánh bắt th́ làm sao có nhiều cá, tôm cho được. Mà không có nhiều cá, tôm có nghĩa là không có tiền nên phải ăn ” ṛng bè môn”.
B́m bịp kêu nước lớn anh ơi !
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.
Đây cũng là lời than, than cho việc buôn bán ế ẩm. Không có người mua nên phải chèo măi, chèo đến mỏi mêt mà vẫn không bán được hàng. B́m bịp là loài chim rất quen thuộc ở Nam bộ, hễ nó kêu là nước lớn, cho nên tiếng b́m bịp kêu cũng là lời dự báo cho con nước sắp lên. Ngoài ra tiếng b́m bịp cũng là dùng để chỉ thời gian, thời gian của con nước lớn, nước ṛng, cũng là thời gian trong ngày. Lời than của cô gái ở đây phải chăng ngụ ư trong từng tiếng kêu của con b́m bịp. B́m bịp kêu nước lớn rồi nước ṛng, rồi b́m bịp kêu : nước lớn… cứ thế hết ngày mà bán buôn chẳng được ǵ. Sự ngao ngán của cô gái phải chăng là thế.
Dời chưn bước xuống ghe buôn,
Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu.
Lại một tâm trạng buồn cho những kiếp thương hồ. Bước xuống ghe buồn cũng đồng nghĩa với việc xa nhà, phải đối mặt với cuộc sống cô đơn, một ḿnh ḿnh đối diện với sông nước đêm đen. Ngoài ra trong chuyến đi này, không biết buôn bán ra sao, lời lăi thế nào. Nhưng trên hết là nỗi nhớ nhà da diết, nhớ vợ, nhớ con… c̣n buồn nào hơn nỗi buồn chia ly. Ở đây tác giả so sánh nỗi ḷng của ḿnh với sóng nước. Sóng có bao nhiêu gợn th́ ḷng ḿnh cũng buồn bấy nhiêu, nhưng gợn sóng là vô vàn, không sao đếm được. Cho nên tấm ḷng của họ nhớ nhà, đau đáu chờ mong, buồn man mác cũng bấy nhiêu, không sao nói hết được.
Bên cạnh đó h́nh ảnh của cầu ván, cầu tre, các phương tiện đánh bắt cũng được người dân ở đây mượn làm phương tiện để nói lên nỗi ḷng của ḿnh:
Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập gh́nh khó đi. Cầu tre, cầu ván là hai h́nh ảnh rất quen thuộc đối với người dân Nam bộ. Nó thường được bắc qua những con kinh, con rạch, sông nhỏ. Ở đây, người phụ nữ mở đầu bằng một h́nh ảnh rất quen thuộc này như là một lời tâm sự của ḿnh đối với con về t́nh mẫu tử thiêng liêng. Có thể người phụ nữ này đă bị chồng phụ bạc nên cô rất đau buồn, coi như là mất tất cả, cô chẳng c̣n thiết sống nữa. nhưng may c̣n được đứa con, nó là nguồn an ủi vô giá đối với cô, níu chân cô lại trên cơi đời này. V́ vậy, mọi t́nh yêu cô đều dành cho nó, xem như là nguồn an ủi duy nhất trong cuôc đời ḿnh.
Ví dầu mẹ chẳng có chi,
Chỉ con với mẹ chẳng khi nào ṃn.
Không chỉ là lời than thân trách phận, không chỉ là t́nh mẫu tử bao la, lời tỏ t́nh dễ thương, sông nước Nam bộ c̣n phản ánh những nếp sinh hoạt, những buổi lao động hết sức đời thường của họ. Thể hiện được một cuộc sống đơn sơ, giản dị nhưng đầm ấm t́nh người, t́nh mẹ con, vợ chồng:
Cha chài mẹ lưới con câu,
Chàng rể đóng đáy, con dâu ngồi ṇ.
Đây là một bức tranh sinh hoạt đời thường, đầm ấm không khí gia đ́nh ở Nam bộ gắn chặt cuộc sống của ḿnh với sông nước bao la. Không ai nạnh ai, mỗi người một việc, từ cha, mẹ đến rể dâu ai cũng phải lao động, lao động với một tinh thần hăng say, yêu thích, thể hiện được sự đoàn kết thương yêu lẫn nhau giữa các thành viên trong một gia đ́nh.
Hay:
Chiều chiều ông Lữ đi câu,
Bà Lữ đi xúc con dâu đi ṃ.
Cảnh mẹ chồng nàng dâu từ xưa đến nay thiên hạ đă nói nhiều. Nhưng ở đây, ta thấy: mẹ chồng nàng dâu hết sức “ăn ư”, mặc dù không nói ra, nhưng qua cảnh sinh hoạt ta vẫn thấy được nàng dâu và mẹ chồng rất hợp ư với nhau, ngay cả cha chồng cũng thế. Cả nhà cùng lao động, không khí gia đ́nh thật đầm ấm vui tươi.
Sông nước là một đặc trưng không thể thiếu của Nam bộ, mà gắn liền với sông nước là ghe, xuồng, lưới, câu, ḥ, cầu tre, cầu ván… tất cả đă trở thành rất quen thuôc với người dân Nam bộ. Cho nên trong ca dao dân ca Nam bộ, để bộc lộ tâm trạng của ḿnh th́ người dân nơi đây thường mượn các h́nh ảnh quen thuộc này để ví von, nhằm bộc lộ những ǵ ḿnh muốn nói, bởi tất cả đó đă trở thành thị hiếu của người dân nơi đây.
Cùng nằm trong cái nôi văn hóa của quê hương, đất nước, ca dao dân ca Nam bộ đă mang đến cho kho tàng văn học dân gian những vần ca dao ngọt ngào, t́nh tứ. Ca dao dân ca Nam bộ là sản phẩm của sự suy tư, cảm xúc, sự trải nghiệm của con người, là tiếng nói của người Việt Nam, đặc biệt là của nguời dân vùng đồng bằng Nam bộ, góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc.
Bookmarks