Quân đội Pháp đă không có khả năng hành quân quan trọng vào Đồng Tháp v́ bốn trở ngại chánh: bùn, muỗi, đỉa và nắng. Mỗi năm Đồng Tháp bị lụt lội gần năm tháng. Vào mùa khô đất vẫn c̣n rất nhiều nơi bùn lầy. Lội bùn với giày nhà binh là một việc vô cùng vất vả. Cây cối ở Đồng Tháp rất thưa thớt, ít t́m được nơi có bóng mát, nắng nóng cháy da mà nguồn nước ngọt lại rất hiếm. Đối với muỗi, dân địa phương quen dùng nóp ngủ nên không thấy trở ngại. Nóp là một bao đệm bàng, loại túi ngủ rất ấm áp lại tránh khỏi bị muỗi cắn, một vật bất ly thân của nông dân và bạn chèo ghe Nam Bộ.
Đỉa Đồng Tháp thường là loại đỉa trâu, rất lớn con, bám vào da rất khó gỡ ra. Thời Kháng chiến, tác giả bài này có biết một nữ sinh đă có can đảm thoát ly gia đ́nh, bỏ học tham gia tranh đấu. Nhưng chị lại có một cái sợ khủng khiếp đến ngất xỉu khi bị đỉa đeo! Những khi liên lạc viên dẫn đường, phải qua các trũng nước sâu, rộng, mọi người đều phải cố sức vượt qua rất mau v́ là vùng trống trải. Nếu bị phi cơ tuần thám phát hiện th́ kể như tàn đời. Một anh bạn đă ra tay nghĩa hiệp t́nh nguyện cơng chị khi phải vượt qua các vũng nước. Cuối cùng là về sau, anh chị đă là bạn đời với nhau!
Toàn khu Đồng Tháp, đến mùa nước lụt lớn, nh́n mênh mông như mặt biển. Nhấp nhô trên mặt, thỉnh thoảng có những nơi cao, có cây cối, bụi rậm, được gọi là các giồng. Mùa nước lớn nơi các giồng là chỗ tụ tập tránh lụt của hằng trăm rắn rít, chuột. Các rắn đủ loại thường quấn nhau thành nuồi trên các cành cây, trông rất dễ sợ. Gặp mùa nước lên, nếu có ghe thuyền th́ chống chèo đi đâu cũng dễ dàng nếu biết rơ phương hướng.
Đến mùa khô, di chuyển trong Đồng Tháp cũng không phải là chuyện dễ nếu không phải là người địa phương biết tránh các vũng bùn lầy, biết len lỏi định hướng theo các giồng quen thuộc. Nhiều nơi trong Đồng Tháp là những đầm sen to lớn giữa thiên nhiên. Có nhiều dịp được di chuyển bằng trực thăng bay trên các đầm sen bạt ngàn này, nhất là vào các buổi sáng sớm hay chiều hôm, mùi hương sen do cánh quạt trực thăng khuấy động đă bay lên ngào ngạt khắp không gian! Lúc c̣n trẻ, mỗi năm người viết bài thường tháp tùng theo các người lớn trong gia đ́nh, bơi xuồng vào các đầm sen để cắt bông sen về làm trà, dùng cho cả năm. Cánh bông sen và gương non được phơi sấy khô để làm trà dùng thường ngày. Riêng nhụy sen vàng được chọn để sấy trên ơ bằng đất nung, dành để cúng trong các buổi lễ lớn. Trà nhụy sen này khi được pha nấu với nước mưa, ngoài hương vị đặc biệt lại c̣n có một màu ửng hồng trông rất đẹp mắt.
Một độc đáo khác thường được thấy ở Đồng Tháp là những nơi có loại “lúa trời.” Đây là những vùng đất thấp, thường ngập nước, có loại lúa mọc từ ḷng đất vươn cao lên khỏi mặt nước, giống như loại lúa nổi. Dân nghèo dùng xuồng nhỏ, thấp, len lỏi vô các bưng có lúa trời, dùng thanh tre dài lùa đập các cộng lúa để hột lúa rụng rớt vô xuồng. Đi đập mót lúa trời cũng là một nguồn sinh sống cho dân cư cùng khổ, không đất canh tác.
Đồng Tháp Mười, như trên đă nói là một vùng đất trũng rộng lớn. Có giả thuyết đă cho rằng có thể nơi đây, khi xưa, là dấu vết cũ của sông Cửu Long. V́ một lư do thiên nhiên nào đó, sông Cửu Long đă bỏ ḷng sông cũ để chảy qua vị trí hiện nay. Hai vùng trũng thiên nhiên rộng lớn là Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau là hai hồ nước để chứa nước sông Cửu vào mùa nước nổi. Đến mùa nước đổ, cá con sanh từ Biển Hồ Tonlé Sap tràn vào hai hồ nước thiên tạo này, lớn lên nhờ rong, rễ non và sanh trưởng nhanh chóng. Đây là một vựa cá trời cho dân miền Nam. Phải có dịp sống ở miền này vào mùa cá linh mới hiểu được cái diễm phúc trời dành cho miền này: Cá linh nổi lền trên mặt nước. Dân chúng chài vớt hay đóng đáy bắt cả hàng tấn cá, lớp ăn tươi, lớp làm mắm, lớp dùng làm phân để bón cây, thuốc lá... v́ ngày trước không có kỹ nghệ ướp lạnh cá hay làm đồ hộp! Đến mùa gió chướng, cá h́nh như có linh tính biết mùa hạn sắp đến nên lại lội ngược ḍng về Tonlé Sap để gây giống mùa năm sau.
Kinh rạch là một phương tiện giao thông rất quan trọng ở miền Nam để chuyển vận hàng hóa. Các kinh đào đă tiếp nối để ghe thuyền có thể giao lưu từ các sông Tiền Giang, Hậu Giang vận chuyển tiếp tế đến thủ đô Sài G̣n. Đối với giới thương hồ, tên các kinh Tháp Mười hay kinh Phong Mỹ, kinh Tổng đốc Lộc từ Rạch Ruộng (Sa Đéc) đến Rạch Bà Bèo (Cai Lậy), kinh 12, kinh Cái Bèo, kinh Bo Bo, kinh Ngang, kinh Chợ Gạo..., các chỗ giáp nước như Thủ Thừa, Ba Cụm, Chợ Đệm... là những tên quen thuộc được nhắc đến hằng ngày trong các câu chuyện làm ăn. Sau Hiệp định Genève năm 1954, các địa danh như Mỹ An, Mỹ Trà, kinh Phong Mỹ... thường được báo chí nhắc đến hằng ngày v́ là nơi tập trung để bộ đội Việt Minh vùng Đồng Tháp được lên tàu tập kết ra Bắc.
Đường bộ giao thông trong Đồng Tháp không có là bao. Thông thường, phần lớn toàn là những đường ṃn chỉ người địa phương mới biết xử dụng. Việc vận tải hàng hóa chỉ nhờ ở các thủy tŕnh, kinh rạch. Trong suốt cuộc chiến, lực lượng quan trọng để bảo vệ an ninh đường thủy là Lực lượng Giang đoàn của Hải Quân.
Thời Pháp và thời Việt Nam Cộng Ḥa, trên các kinh, rạch Đồng Tháp thường có đặt các trạm Thủy lợi, c̣n được gọi là nơi thiết trí “cây đo nước.” Mực nước được ghi mỗi giờ để các chuyên viên điều nghiên, trù liệu việc đào kinh tháo nước phèn. Ḍng nước phải được tính toán trước để trù liệu cho chảy từ chỗ cao đến nơi thấp để tháo nước. Sau ngày 30/4/1975, chánh quyền Xă Hội Chủ Nghĩa đă bắt dân chúng, trí thức, sinh viên đi làm công tác thủy lợi. Họ bắt đào thế nào mà thay v́ tháo phèn lại làm việc trái ngược ở vài nơi, khiến nước mặn tràn vào vườn tược, làm hư hại cây cối mùa màng đang tươi tốt của dân!
Đồng Tháp Mười, giữa Sông Tiền và sông Vàm Cỏ Đông rộng trên 930.000 mẫu, nếu cộng thêm Đồng Cà Mau sẽ là một cánh đồng bất tận ở miền Nam, có tiềm năng kinh tế vĩ đại khi có được chương tŕnh phát triển quy mô. Chỉ tính riêng Đồng Tháp Mười, với gần một triệu mẫu tây đất, nếu được điều nghiên phát triển, th́ nơi đây sẽ nuôi sống được biết là bao dân chúng? Sau ba mươi năm chinh chiến, một chánh quyền thời b́nh, nếu có thực tâm v́ dân v́ nước, th́ đă xây dựng xứ sở để đem lại hạnh phúc thiết thực cho mỗi gia đ́nh. Sau 30 tháng Tư 1975, tương lai đất nước thay v́ được cơ hội vươn lên trong hoàn vũ, lại bị để sa lầy trong một thời gian dài ở Campuchia, uổng phí mấy mươi năm quư báu để có dịp phát triển cơ sở nông nghiệp thiết thực và vững chắc! Nhưng vùng “Phật Địa” bao la trời dành cho miền Nam vẫn c̣n đó, trông chờ muôn vạn bàn tay xây dựng của các thế hệ thanh niên mới, trong một chánh quyền mới.
06/ 2006
BS Trần Nguơn Phiêu, sanh năm 1927, lớn lên ở quê nội Cao Lănh Sa Đéc. Cựu học sinh Petrus Kư và Chasseloup Laubat. Đă tham gia báo Nam Thanh của tổ chức Nam Bộ Thanh Niên Kháng Chiến Đoàn. Tốt nghiệp Y Khoa Bordeaux Pháp. Trước 1975, phục vụ trong Quân Y Hải Quân, nguyên Tổng trưởng Xă Hội. Đă cộng tác với các tập san: Thế kỷ 21, Văn Hóa, Lướt Sóng, Y Tế, tập san Y-Nha-Dược... Đă xuất bản hai tác phẩm: Phan Văn Hùm - Thân thế và Sự nghiệp, Những Ngày Qua.
Nguồn : Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y Hiện Dịch
Bookmarks