Có lẽ Duy Khang thấy đuối lư trước Gánh nên đă rút lui, không thấy có mặt thường xuyên ở chủ đề này và vắng mặt tại diễn đàn vietland từ 2 ngày nay. NBC vừa t́m thấy một tài liệu khá hay nói về các nhà sư "Phật giáo ấn quang" xin post lên để cùng tham khảo.
Sư Chính Trị Ấn Quang 1954 - 1965
Mark Moyar – Trần Hải dịch
“Sư chính trị: Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam” do Trần Hải dịch từ “Political Monks: The Militant Buddhist Movement During the Vietnam War.” Modern Asian Studies, 38:4 (2004), tr.749-784, của Mark Moyar, tác giả cuốn “Chiến thắng bỏ lỡ” – Triumph Forsaken – The Vietnam War 1954-1965 (Cambridge University Press 2006). Bản dịch tiếng Việt © 2007 talawas.
Sư chính trị: Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam
Tóm lược: Từ tháng Mười Một năm 1963 đến tháng Bảy năm 1965, phong trào Phật tử xuống đường tranh đấu là nguyên nhân chính yếu gây bất ổn chính trị tại Nam Việt Nam. Trong khi các Phật tử xuống đường phát biểu rằng họ đại diện cho đông đảo quần chúng Phật tử và chỉ tranh đấu cho tự do tôn giáo, thực chất họ chỉ gồm một thiểu số nhỏ, không mang tính đại diện, đang t́m cách gây ảnh hưởng về chính trị. Khai thác triệt để những âm mưu đen tối và bạo loạn quần chúng để khuynh đảo chính quyền, những Phật tử cực đoan đă tiến hành một h́nh thức sinh hoạt chính trị trái với truyền thống Phật giáo Việt Nam. Có bằng chứng cho thấy một số Phật tử trong phong trào này làm việc cho cộng sản Việt Nam.
***
Giai đoạn từ cuối năm 1963 đến tháng Bảy năm 1965 đă được chú ư nhiều hơn bất cứ khoảng thời gian nào trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phần lớn là v́ trong giai đoạn này Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson đă quyết định tham chiến trên bộ. Hầu như mọi sử gia của giai đoạn này đều xem sự yếu kém của chính quyền Nam Việt Nam là nguyên nhân trọng yếu dẫn đến sự can thiệp của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ít có sử gia nào phân tích các lư do của sự yếu kém này. Những người có đề cập đến vấn đề này thường cho nguyên nhân sự yếu kém của chính quyền nói chung chỉ là do năng lực kém cỏi và thiếu tinh thần của tầng lớp lănh đạo.(1) Một số nhân vật cầm quyền th́ đúng là những người lănh đạo tồi, nhưng cũng có những người có tư chất lănh đạo tốt. Sự thất bại của những cá nhân có năng lực có nhiều phần do tác động của một ngoại lực: những Phật tử tranh đấu. (2)
Trường phái mạnh nhất của các sử gia về Việt Nam, được gọi là trường phái chính thống, thường viết về những Phật tử này như những nhà tu hành không phải là cộng sản mà chỉ đấu tranh nhằm cải thiện t́nh trạng độc tôn và đàn áp tôn giáo.(3) Trên thực tế, những lănh đạo phong trào Phật tử tranh đấu cố t́nh khuynh đảo mọi chính quyền từ 1963 về sau v́ những lư do không liên quan ǵ đến tự do tôn giáo. Tuyệt đại đa số những cáo buộc về đàn áp tôn giáo mà họ dùng để biện minh cho hoạt động của họ đều là giả dối. Hơn nữa, ít nhất cũng có một vài vị lănh tụ phong trào này đă tự nguyện cộng tác với cộng sản. Ở một mức độ nào đó, phong trào Phật giáo tranh đấu đă tiến hành các hoạt động bí mật, và rất có hiệu quả. Hiếm khi mà một phong trào đối lập có thể gây rối cho nhiều chính quyền một cách có hiệu quả với nguồn lực ít ỏi như thế.
Phần lớn thông tin hiện có về phong trào Phật tử tranh đấu và chính trường Nam Việt Nam đều từ các nguồn ở phương Tây. Kể từ khi Hoa Kỳ bắt đầu dính líu đến Việt Nam năm 1950 cho đến khi kết thúc năm 1975, một số lớn nhân viên chính phủ Hoa Kỳ và phóng viên đă đặt nhiệm sở tại Nam Việt Nam. Đồng minh của Hoa Kỳ từ Châu Âu, nhất là Anh Quốc, cũng đă có nhân viên ngoại giao và phóng viên ở Nam Việt Nam.
Bài báo này chủ yếu dưạ trên các nguồn thông tin từ Hoa Kỳ và Anh Quốc, là hai nguồn phong phú nhất hiện có. Các tài liệu có liên quan của Nam Việt Nam, c̣n gọi là Việt Nam Cộng hoà, hiện đang ở trong tay Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam. Những tài liệu này và những tài liệu tương ứng của Bắc Việt vẫn chưa được công bố cho giới nghiên cứu ngoại quốc. Trong khi Việt Nam đă xuất bản một số tài liệu lịch sử hữu ích từ khi chiến tranh chấm dứt, các tài liệu đó lại không chứa đựng thông tin quan trọng nào liên quan đến những biến động Phật giáo giữa thập niên 1960. Khi những tài liệu đó được cộng bố, sẽ có các thông tin xác đáng về một số vấn đề, nhất là sự can thiệp của Bắc Việt trong phong trào Phật tử tranh đấu. Dẫu vậy, các nguồn thông tin phương Tây, cũng tŕnh bày nhiều khía cạnh của phong trào Phật tử tranh đấu một cách đầy đủ, và cũng khách quan hơn nhiều so với các tài liệu nguồn Việt Nam có thể có.
Các thương nhân và tu sĩ Ấn Độ truyền Phật giáo vào Việt Nam trong thế kỷ đầu của Công nguyên. Tôn giáo này đă nhanh chóng thu nhận được rất đông tín đồ, và nhiều người, dù không xuất gia, cũng theo các nghi lễ và nguyên lư Phật giáo. Nhưng Phật giáo và văn hoá Ấn đă không bao giờ thống trị Việt Nam như ở Cam bốt, Thái, và Miến điện. Nguồn ảnh hưởng chính lúc nào cũng là người Trung Hoa, kẻ đă kiểm soát Việt Nam khi Phật giáo xuất hiện và tiếp tục thống trị cho đến thế kỷ thứ mười. Người Trung Hoa đă gieo rắc sâu xa lư thuyết của Khổng Tử ở Việt Nam và Khổng giáo đă đóng một vai tṛ ưu việt trong lịch sử lâu dài của Việt Nam, cho đến cả thế kỷ hai mươi. Cho dù Phật giáo có ảnh hưởng lớn lao đến đời sống tinh thần của vua chúa và dân dă trong nhiều thời kỳ, các nguyên tắc Khổng giáo vẫn thống trị các mối quan hệ gia đ́nh và chính trị, ngay cả giữa những Phật tử với nhau.(4)
Nam Việt Nam trong thế kỷ hai mươi thường bị gọi nhầm là một đất nước Phật giáo. Trong một đất nước với 15 trrệu dân, có khoảng 3 đến 4 triệu Phật tử và trong số này chỉ khoảng một nửa thực sự hành đạo. Khoảng 4 triệu người cho Khổng giáo là tín ngưỡng cơ bản. Trong những người theo Khổng giáo, một số có liên hệ lỏng lẻo với bên Phật giáo nhưng họ không hề xác định ḿnh là Phật tử theo tổ chức của giáo hội Phật giáo. Trong giao đoạn có xung đột tôn giáo từ 1963 đến 1966, những người đó thường không ủng hộ phong trào Phật tử xuống đường. Một triệu rưỡi công dân Việt Nam theo Công giáo, và khoảng hai triệu rưỡi hay ba triệu theo đạo Cao Đài và Hoà Hảo. Số c̣n lại thờ linh vật hoặc theo đạo Lăo, Tin lành, Ấn Độ giáo, hay Hồi giáo, v.v…(5)
Trong khi có hiện tượng gần như sự phục hưng của Phật giáo trong những năm trước giai đoạn biến động 1963-1966, Phật giáo Việt Nam vẫn c̣n tương đối yếu. Quần chúng Phật tử Việt nam không hề có biểu hiện cuồng nhiệt tôn giáo như giới Phật tử ở các nước Châu Á khác. Trước cuộc bạo động Phật giáo năm 1963, giới sư săi Việt nam hiếm khi chủ động tham gia chính sự quốc gia. Họ và Phật tử dùng tôn giáo của ḿnh để giải quyết những vấn đề tâm linh nội tại, không quan tâm đến việc trần thế của chính quyền. Phật giáo Việt Nam cũng phân chia ra thành nhiều hệ phái mà không có phái nào có cơ cấu tổ chức mạnh và chặt chẽ. Ba miền cuả Việt Nam – Bắc kỳ, Trung kỳ, và Nam kỳ – mỗi miền đều có những nhóm Phật tử cục bộ. Miền Nam Việt Nam bao gồm Nam kỳ và phần nam Trung kỳ, cũng có một số lớn dân di cư đă bỏ Bắc kỳ và phần phía bắc Trung kỳ vào năm 1954. Phật giáo Việt Nam c̣n bị phân chia theo phái Tiểu Thừa (Theravada – Nam Tông) và Đại Thừa (Mahayana – Bắc Tông).(6)
Xung khắc giữa Phật giáo và chính quyền Sài G̣n khởi đầu vào ngày 8 tháng Năm năm 1963, khi 9 thường dân bị chết một cách đầy bí ẩn trong một buổi biểu t́nh của Phật tử ở Huế. Dưới sự lănh đạo của sư Thích Trí Quang, một mhóm Phật tử tổ chức biểu t́nh và nói với báo chí ngoại quốc là chính quyền Diệm đàn áp Phật giáo. Nhóm này sau đó được biết đến với danh xưng “Phật tử tranh đấu”. Diệm từ chối không chịu nhân nhượng và thực thi những cải cách theo yêu cầu của nhóm Phật tử đấu tranh và phía Mỹ. Kết quả là Người Mỹ đă quay lưng lại với Diệm. Vào tháng 10 năm 1963, Toà Đại sứ Mỹ chấp thuận một âm mưu đảo chánh do mấy tướng lănh cao cấp Việt Nam dự mưu, và vào ngày 1 tháng 11, các tướng này lật đổ Diệm và hạ sát ông ta.
Một Hội đồng tướng lănh, do Đại tướng Dương Văn Minh lănh đạo, nắm quyền sau cuộc đảo chánh. Mong t́m sự ủng hộ từ những nhóm chính trị rắc rối nhất, chế độ mới nhanh chóng thả ngay tất cả các sinh viên và Phật tử chống đối bị Diệm cầm tù trước đó. Theo lời cố vấn của Toà Đại sứ Mỹ, các tướng lănh hứa sẽ thực thi những cải cách chính trị Tây phương mà người đă Mỹ thúc đẩy từ lâu, kể cả tự do báo chí và tự do phát biểu chính kiến. Tuy nhiên, mặc dầu đă trả tự do cho những Phật tử tranh đấu và thực thi cải cách, vấn đề Phật tử đă không được hoá giải. Trong tháng đầu tiên của chế độ mới, ba Phật tử đă tự tuẫn để phản đối chính quyền.(7) Đó chính là chiến thuật mà các Phật tử đă dùng để chống Diệm. Chỉ trong bốn tháng sau khi Diệm bị lật đổ, số Phật tử tự tuẫn v́ lư do chính trị c̣n nhiều hơn là trong suốt những năm Diệm làm Tổng thống.
Tướng Minh đă lộ diện là người lănh đạo quốc gia bất tài. Các tướng khác không ai bù đắp cho sự yếu kém của ông ta được và thay vào đó dành nhiều thời gian căi cọ nhau và bắt bớ những người đă ủng hộ Diệm trước đây.(8) Hậu quả của t́nh trạng chính quyền tŕ trệ đă tạo cơ hội cho Việt cộng tăng cường và khai thác tối đa vị thế quân sự của ḿnh.
T́nh trạng bất lực của “chính quyền Hội đồng” này chẳng bao lâu đă làm cả người Mỹ lẫn người Việt hết chịu nổi. Vào cuối tháng Một, tướng Nguyễn Khánh cho người Mỹ biết một số tướng lănh thân Pháp sắp đảo chánh, và họ dự định sau đó sẽ biến Nam Việt Nam trở thành một nước trung lập. Một nước Việt Nam Cộng hoà trung lập sẽ “đặt dấu chấm dứt cho” quan hệ đồng minh với Mỹ và sẽ đi đến thoả hiệp với Bắc Việt. Sự trung thực của tướng Khánh không bao giờ được thẩm định v́ không có chứng cớ. Tướng Khánh cũng phát hoảng v́ sự kém cỏi của Tướng Minh và Hội đồng tướng lănh của ông ta, đồng thời Tướng Khánh cũng cho là ḿnh có thể làm tốt hơn tướng Minh. Hơn nữa, Khánh cũng bực bội về chuyện Hội đồng quân nhân đảo chính do Minh cầm đầu đă giết Diệm v́ Khánh có cảm t́nh với Diệm và v́ các tướng lănh đă hứa sẽ không hại Diệm.(9) Vào ngày 30 tháng Một, được Mỹ hậu thuẫn, Khánh giành chính quyền bằng một cuộc đảo chính không đổ máu. Khánh giam giữ Minh cùng các cộng sự thân cận nhất của ông ta và tự phong ḿnh làm thủ tướng.
Về phương diện lănh đạo quốc gia, Khánh đă tỏ ra có năng lực hơn các vị tiền nhiệm. Tuy nhiên, Khánh lại tiếp tục chính sách thuyên chuyển xoay ṿng các tỉnh và quận trưởng, vốn đă làm suy yếu các chính quyền tiền nhiệm.(10) Khánh đưa vào một số người trước đây ủng hộ Diệm và bị mất chức vào tháng 11 năm 1963. Tái xuất hiện trên chính trường vào thời điểm này là những Phật tử tranh đấu, vào khoảng đầu năm 1964 đă kết hợp thành một tổ chức với tên gọi là “Viện Hoá đạo” do Trí Quang và Tâm Châu đứng đầu. Trí Quang và các sư tranh đấu khác tố cáo một cách vô căn cứ rằng Khánh – vốn là một Phật tử – và chính quyền hầu hết là Phật tử của ông, đang trở lại chính sách bách hại Phật tử của Diệm. V́ thiếu kinh nghiệm và dễ bị đe doạ, Khánh sụp đổ trước áp lực này. Ông ngừng bổ nhiệm những viên chức thân Diệm, sa thải một số đang tại chức, và cầm tù thêm một số người thân Diệm khác. (11)
Việc Khánh nhượng bộ những đ̣i hỏi này đă không giúp ông ta thoát khỏi sự chỉ trích của các Phật tử tranh đấu.(12) Trong khi một số sư lănh đạo trong Viện Hoá đạo và một số Phật tử có uy tín chấp thuận tướng Khánh th́ Trí Quang lại tố cáo Khánh là không cho Phật tử được tự do tôn giáo và cho phép viên chức chính quyền tự do cầm tù Phật tử.(13) Hệt như đă xảy ra trong vụ xung đột giữa Diệm với giới Phật tử, Tướng Khánh càng nhượng bộ, Trí Quang càng đ̣i hỏi nhiều hơn. Không như Diệm, Khánh tiếp tục thoả măn các yêu sách không ngừng nghỉ. Một cách giải thích về thái độ của Khánh là v́ ông ta tin rằng nếu chống đối lại các Phật tử th́ sẽ làm người Mỹ xa lánh, như đă xảy ra với Diệm. Phần khác là do sự ngây thơ và non kém về chính trị của chính bản thân Khánh. Để thoả măn Trí Quang, Khánh buộc quân đội phải cách chức tất cả các linh mục tuyên uư Công giáo.(14) Áp lực từ Trí Quang cũng buộc Khánh phải kết án chung thân khổ sai Đặng Sỹ, một sỹ quan Công giáo có liên quan đến sự cố chết người bí ẩn trong cuộc biểu t́nh ngày 8 tháng Năm năm 1963.(15)
Không như các Phật tử khác, Trí Quang đ̣i tử h́nh em trai của Diệm là Ngô Đ́nh Cẩn, người đang bị chính quyền của Khánh xét xử v́ bị tố giác một số tội. Đưa ra lập luận, sau này sẽ trở thành nền tảng cho hầu như tất cả mọi sự chỉ trích chính quyền, Trí Quang cảnh báo rằng Cẩn phải bị xử tử để chống lại một âm mưu đen tối của người Công giáo, các dư Đảng Cần lao, và những kẻ đă ủng hộ Diệm, nhằm lập lại một chính quyền kiểu Diệm. (16)
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Henry Cabot Lodge đă thỉnh cầu các lănh đạo Nam Việt Nam tha mạng cho Cẩn bằng cách nhắc nhở rằng chính quyền đă không đưa ra được chứng cớ rơ ràng nào về tội của Cẩn.(17) Thủ Tướng Khánh, dẫu vậy, vẫn quyết định làm hài ḷng các Phật tử tranh đấu hơn là người Mỹ, và Khánh đă cho xử tử Cẩn ngày 9 tháng Năm. Nếu không v́ quá sợ sự chống đối của Phật tử th́ Khánh hẳn đă không chọn hướng làm vừa ḷng Phật tử tranh đấu hơn là người Mỹ, cho dù như thế có thể dễ làm mất ḷng người Mỹ và cả Khánh lẫn quốc gia của ông ta không thể trụ được nếu không có sử ủng hộ của người Mỹ.(18)
Đại sứ Lodge đă ủng hộ Trí Quang mạnh mẽ trong năm 1963. Thực ra ngay từ đầu nhiệm kỳ, Lodge đă đề nghị đưa Trí Quang vào thành phần chính phủ nhằm mở rộng nền tảng đại diện của chính phủ. Nhưng đến đầu năm 1964, Lodge đă mất hết thiện cảm với Trí Quang và phong trào tranh đấu. Lodge nhận xét trong mùa xuân năm này, “Tôi cho rằng Phật giáo có thể là một mối nguy hiểm cho chính quyền. Cụ thể, tôi nghĩ rằng Trí Quang, lănh tụ Phật giáo, là kẻ có tiềm năng gây rối. Đă lật đổ được một chính quyền, ông ta có thể muốn làm lại như thế đối với Khánh.” Nhận xét về những lời công kích của Trí Quang đối với Khánh, Lodge lưu ư rằng Trí Quang “đă cho tôi biết là ông ấy không coi Khánh là một ‘Phật tử tốt’ – hẳn có nghĩa là, một Phật tử không theo sự chỉ giáo của Trí Quang.” Một dịp khác, Lodge nói rằng Trí Quang “đầy tham vọng, chống Thiên chúa giáo, đầy hận thù, và chống Khánh ra mặt,” và rằng, “có sự xâm nhập của cộng sản vào tổ chức Phật tử.” Cũng giống như Lodge, nhiều thành viên của ngoại giao đoàn và báo giới trước đây đă ủng hộ Trí Quang và các Phật tử tranh đấu khác trong năm 1963, đến năm 1964 bỗng trở nên nghi ngờ họ.(19)
Từ đầu, nhiều quan sát viên Việt Nam đă tố cáo Trí Quang là một điệp viên cộng sản. Nói chung, các chứng cớ cũng cho thấy quan điểm này là đúng, cho dù không có bằng chứng tuyệt đối. Sinh ra ở miền Bắc, Trí Quang đă phục vụ cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến Pháp-Việt. Anh của Trí Quang là một quan chức trong chính quyền Bắc Việt, một sự thật được chính Trí Quang xác nhận. Khi những cuộc phản đối nổ ra ở Nam Việt Nam, có thông tin cho thấy người anh trai này đă cầm đầu các chương tŕnh hoạt động bí mật của Bắc Việt ở Miền Nam.(20) Trong tháng Sáu năm 1963, Trí Quang thúc đẩy các Phật tử t́m kiếm hậu thuẫn từ phía Việt cộng để chống lại chính quyền của Diệm.(21) Những phương pháp vận động chính trị của Trí Quang gần giống với những phương pháp của cộng sản và tiến bộ hơn hẳn phương pháp của những Phật tử khác. Khi cộng sản chiếm Miền Nam năm 1975, Trí Quang được bố trí một công việc ở Huế và ông ta không có một phát ngôn chống đối nào đối với chế độ, trong khi họ cầm tù rất nhiều sư đă có thành tích tranh đấu.(22)
Trí Quang liên tục tuyên bố ủng hộ cuộc chiến chống cộng sản, cho dù vẫn chỉ trích chính quyền.(23) Hành động của ông, tuy vậy, không phù hợp với lời nói. Hành động của Trí Quang đă gây tác hại lớn cho mọi chính quyền Nam Việt Nam từ năm 1963 đến 1966, và những hành động đó đă có thể huỷ diệt chính quyền nếu rốt cục các lănh đạo quân đội không quyết định chặn đứng Trí Quang. Nếu Trí Quang không phải là một người cộng sản trung kiên, th́ chắc hẳn ông có ảo tưởng ngông cuồng là tự ḿnh có thể ngăn chặn cộng sản sau khi chính quyền Sài G̣n đă sụp đổ.
Vào ngày 5 tháng Tám năm 1964, Mỹ ném bom tàu bè và các căn cứ hải quân Bắc Việt để trả đũa cái gọi là “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” được nêu là có hai vụ tấn công tàu chiến Mỹ trong Vịnh. Tổng thống Lyndon Johnson vận dụng sự kiện này để được Quốc Hội chấp thuận cho phép dùng mọi biện pháp cần thiết ở Đông Nam Á. Tướng Khánh cũng tin rằng thời điểm căng thẳng quốc tế này là một cơ hội tốt cho ông gia tăng quyền lực. Do đó, ông tuyên bố “t́nh trạng khẩn cấp” vào ngày 7 tháng Tám. Khánh ban bố nghị định cho phép cảnh sát cấm biểu t́nh, lục soát nhà cửa bất cứ lúc nào, và bắt giam “những thành phần được xem là nguy hiểm cho an ninh quốc gia.” Chính quyền ban hành lệnh kiểm duyệt và ngăn cản “việc lưu hành những ấn bản, tài liệu, và truyền đơn được xem là nguy hại đến trật tự công cộng.”(24) Khánh cũng soạn thảo một hiến pháp mới, với mục đích gia tăng quyền lực của ḿnh và lấy hết thẩm quyền c̣n lại của Tướng Minh.(25)
Thay v́ củng cố quyền lực của Khánh, những biện pháp đó làm bùng nổ một cơn khủng hoảng chính trị tồi tệ. Tại những cuộc biểu t́nh lớn trong các đô thị, các Phật tử tranh đấu và nhóm sinh viên – phần nhiều bị ảnh hưởng nặng nề từ phía Phật tử tranh đấu – đ̣i Khánh chấm dứt t́nh trạng khẩn cấp và huỷ bỏ hiến pháp mới.(26)
Nhóm Phật tử tuyên bố là có một âm mưu của phe Diệm, liên quan đến các cựu đảng viên Cần lao, Công giáo, và Đảng Đại Việt do các Tướng Khiêm và Thiệu lănh đạo. Những người tranh đấu đă cáo buộc là phe Diệm đă đàn áp Phật tử. Phóng đại ảnh hưởng của Công giáo trong chính quyền của Khánh, Trí Quang nói với các viên chức Mỹ tại toà đại sứ rằng, “Phật tử không thể chấp nhận chính quyền bởi người Công giáo.” Trừ khi ảnh hưởng của những người Công giáo bị loại bỏ,” Trí Quang cảnh cáo, Phật tử “sẽ rút lui khỏi cuộc chiến, để chỉ người Công giáo với sự ủng hộ của Mỹ chống lại Cộng sản.”(27) Những cáo buộc mới về đàn áp tôn giáo này cũng vô căn cứ như những cáo buộc trước. Maxwell Taylor, người vừa thay thế Lodge làm đại sứ Mỹ, nhận xét rằng cái gọi là âm mưu Cần lao-Công giáo-Đại Việt chỉ là “một bóng ma” bởi v́ không có bằng chứng ǵ về việc chính quyền t́m cách ngược đăi Phật tử.(28)
(C̣n tiếp)
Bookmarks