III – CHIẾN DỊCH GIẢI THOÁT TÙ CẢI TẠO
Có một thời gian, công an trại thường chỉ mặt chúng tôi và hăm dọa nhiều lần :’’ Nếu bọn Mỹ không chịu bồi thường 3 tỷ 2 th́ các anh sẽ c̣n cải tạo mút mùa.’’. Câu hăm dọa này không làm chúng tôi lo sợ mà, trái lại, làm chúng tôi mừng thầm v́ đoán rằng có thể ở bên ngoài xă hội đang diễn ra một cuộc thương lượng giũa Hoa Kỳ và Việt Cộng để giải thoát chúng tôi khỏi cảnh tù đầy. Cho dù đây chỉ là một hy vọng rất mong manh nhưng chúng tôi cứ bám viú lấy nó như người sắp chết đuối vớ được cọc, để có lư do và can đảm tiếp tục cuộc sống.
Thế rồi, không bao lâu sau, sự ước đoán của chúng tôi được thân nhân vào thăm xác nhận là đúng. Từ đó, trong ḷng chúng tôi, ngày nào cũng như mở hội. Hy vọng được về xum họp với gia đ́nh có nhiều triển vọng trở thành sự thật.
Tôi được trả tự do vào cuối năm 1985, sau 10 năm 4 tháng 10 ngày bị cộng sản bỏ tù. Hội nhập lại vào xă hội bên ngoài, tôi được biết vào năm 1976, Kissinger đă tuyên bố :’’Hoa Kỳ đang chuẩn bị b́nh thường hóa bang giao với Việt Nam ‘’.
Việc b́nh thường hóa bang giao không thành v́ trong cuộc đàm phán ở Paris vào đầu năm 1977 Hà Nội khăng khăng đ̣i Hoa Kỳ phải trả 3250 triệu Mỹ Kim để bồi thường chiến tranh. Lẽ cố nhiên là Hoa Kỳ bác bỏ đ̣i hỏi vô lư đó v́ Hà Nội đă không tôn trọng hiệp định Paris năm 1973.
Nền kinh tế của Việt Nam mỗi ngày một sa sút. Sự vô hiệu của kinh tế hoạch định và t́nh trạng sa lầy trong chiến tranh Campuchia khiến chế độ Hà Nội đứng trên bờ vực thẳm. Trung Cộng đă trở thành thù nghịch c̣n Liên sô th́ cũng đang gặp khó khăn nên không biết nương tựa vào ai. Hoa Kỳ là sinh lộ duy nhất c̣n lại. Làm găng không được, Hà Nội bắt đầu đấu dịu.
Đầu thập niên 1980, cả Phạm văn Đồng lẫn Nguyễn Cơ Thạch đều bắn tiếng là sẽ thả tù cải tạo nếu Hoa Kỳ tiếp nhận. Hà Nội dùng tù cải tạo như phương tiện măc cả để xin viện trợ của Hoa kỳ. Hoa Thịnh Đốn đáp ứng và diễn tiến của chiến dịch giải thoát tù cải tạo được ghi nhận như sau.
Ngày 11-9-1984 ngoại trưởng George Schultz chính thức yêu cầu Hà Nội trả tự do và cho phép các tù nhân chính trị được định cư tại Hoa Kỳ.
Ba tuần sau tổng thống Reagan gủi văn thư chính thức đến các bộ ngoại giao, an sinh và tư pháp về việc thâu nhận những người tù cải tạo Việt Nam. Hoa kỳ đồng ư gặp đại sứ Vơ Đông Giang của Hà Nội tại Nữu Ước. Cuộc đàm phán tiến hành trong bí mật.
Tháng 7 năm 1988 phái đoàn Robert Funseth, phụ tá thứ trưởng ngoại gao Hoa kỳ, đi Hà Nội họp với phụ tá bộ trưởng ngoại giao Việt Cộng Trần Quang Cơ để bàn về việc trả tự do cho tù chính trị và đưa họ đi định cư tại ngoại quốc.
Ngày 30-7-1989, ông Robert Funseth và Vũ Khoan, thứ trưởng ngoại giao Việt Cộng kư kết tại Hà Nội văn kiện về việc định cư tù cải tạo. Qua thỏa hiệp này 3000 tù cải tạo và gia đ́nh đă đến Hoa Kỳ trong những tháng đầu tiên của năm 1990. Chương tŕnh định cư này trù liệu đưa ra nước ngoài 400.000 người th́ 20% đă đến bến tự do năm 1990, 30% năm 1991, 30% năm 1992, 10% năm 1993 và 10% c̣n lại vào những năm kế tiếp. Dựa theo các tài liệu đáng tin cậy người ta cũng được biết là trong số quân nhân VNCH được sang Mỹ định cư sau thời gian cải tạo th́ 61% là cấp úy, 35% là cấp tá và tướng và 4% là viên chức chính phủ.
Con số những người chết trong các trại cải tạo chưa được xác định là bao nhiêu. Tài liệu của Khu Hội Tù Nhân Chính Trị Hawaii, thiết lập ngày 20-4-1993 đưa ra một con số rất thiếu sót là 587 người. Đây chỉ là một phần nhỏ của số ‘’tử vong v́ cải tạo’’ trong thực tế.
Cũng theo một tài liệu khác chưa dầy đủ th́ số trại cải tạo CSVN thiết lập trên toàn quốc sau năm 1975 là 80 trại ( bao gồm cả 2 trại ở các đảo Côn Sơn và Phú Quốc ).
Quyết định của Cộng Sản Việt Nam đưa quân cán chính VNCH đi cải tạo lâu dài sau năm 1975 là một sai lầm trầm trọng. Sau khi chiếm miền Nam, đáng lư ra Hà Nội phải biết lợi dụng thời kỳ vàng son này để ḥa hợp ḥa giải dân tộc và xây dựng tương lai phồn thịnh cho đất nưốc.
Giữa tháng 5-1975, bộ trưởng ngoại giao 5 nước ASEAN họp thường niên tại Kuala Lumpur đă bày tỏ ư muốn thiết lập bang giao với các nước Đông Dương. Trong thông cáo chung ngày 24-7-1975 Phi Luật Tân và Thái Lan minh định rơ là các căn cứ quân sự của nước ngoài trong khu vực chỉ là tam thời và khối SEATO sẽ giải tán. Vào thời gian đó Nhật cũng trù liệu một ngân khoản 1600 triệu Mỹ Kim để giúp 5 nước ASEAN và 3 nước ĐÔNG DƯƠNG xây dựng khu thịnh vượng chung Đông Nam Á. Tiếp theo, tháng 8 năm 1977, Nhật lại kêu gọi sự hợp tác thân hữu giữa các nước trong vùng kể cả Miến Điện, và hứa viện trợ 5 tỷ Mỹ Kim cho kế hoạch phát triển Đông Nam Á tành một khu vực phồn vinh.
Sau khi gia nhập Liên Hiệp Quốc, Việt Nam c̣n được gia nhập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế với một khoản vay mượn đầu tiên là 35 triệu Mỹ Kim. Ngân Hàng Thế Giới cũng xúc tiến kế hoạch giúp đỡ Việt Nam phát triển kinh tế thời hậu chiến. Thừa kế chỗ trống của VNCH, Hà Nội c̣n là hội viên của ngân hàng phát triển Á Châu. Trong bối cảnh đó nếu không có chính sách cải tạo sai lầm th́ nhân dân hai miền Nam Bắc đă cùng dồn nỗ lực vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, thực hiện việc hoà hợp ḥa giải dân tộc để nhanh chóng đưa đất nước đến cảnh phú cường.
Bị Hoa Kỳ giăng bẫy CSVN đă xé bỏ hiệp định Paris và xâm chiếm miền Nam để rồi liền sau đó lại bị Trung Cộng giăng bẫy nhử sang Campuchia và bị sa lầy ở đó.
Hậu qủa của những quyết định mù quáng này là một nước Việt Nam kiệt quệ và tụt hậu, cam tâm làm chư hầu một lúc cho hai thế lực thù địch. Cắt đất dângTrung Quốc để duy tŕ mạng sống chính trị và qùy gối ôm chân Hoa kỳ để kiếm miếng ăn. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc lại có một tḥi kỳ nhục nhă như hiện nay.
Đối với Hoa Kỳ, bỏ rỏi miền Nam Việt Nam trong trận đồ quốc tế để thắng Liên Xô và làm tan ră khối cộng sản là một vấn đề chiến lược. Tiến hành chiến dịch giải thoát tù cải tạo Việt Nam để họ được sang sinh sống và đoàn tụ tại Hoa Kỳ là một vấn đề của lương tâm.
Đứng về phương diện quyền lơi cuả Hiệp Chủng Quốc mà xét th́ trong cả hai việc làm này Hoa Kỳ đều khôn ngoan và thắng lợi.
Nguyễn Cao Quyền
http://ongvove.wordpress.com/2009/05...sts_position=1
Bookmarks