Sáng hôm sau, cô đánh thức tôi dậy sớm, dẫn tôi đến một nhà hàng Tây để ăn sáng. Tôi ăn bánh croissant và uống một ly sữa với chocolat. Đây cũng là những món ngon vật lạ, lần đầu tiên được thưởng thức. Mỗi lần được ăn ngon, tôi lại nhớ đến các em tôi. Tôi cảm thấy bồi hồi, nóng bụng, mong sao được về lại Cần Thơ lẹ lẹ, dù ở đó tôi chỉ có hột gà chiên, hoặc cháo với hạt muối mỗi buổi sáng trước khi đi học. Miếng ngon vật lạ không đủ sức quyến rũ tôi, v́ lúc nào tôi cũng nặng t́nh với gia đ́nh
Ăn xong, cô Ba đưa tôi ra bến xe đ̣ lục tỉnh. Má tôi đă đưa tiền để tôi mua giấy xe bận về, những cô Ba vẫn nhét tiền vào túi tôi. Có biểu cất đi để dành “ăn bánh”. Tôi cất tiền chung với lá thơ cô viết cho má tôi vào một túi áo bên trong, rồi lấy kim ghim kỹ để khỏi bị móc túi. Trước khi tôi đi Sài g̣n, mấy chị bà con của tôi căn dặn đủ điều. Nào là phải coi chừng bọn móc túi, nào là phải đề pḥng người ta bỏ thuốc mê …
Trước khi xe chạy, cô Ba dặn tôi nói với má cứ an tâm mà lên Sài g̣n, cô sẽ lo liệu đầy đủ cho gia đ́nh tôi. Cô c̣n thêm:
- Trên Sài g̣n, bạn của ba con, bạn của mấy cậu của con nhiều lắm. Ai cũng sẵn sàng giúp gia đ́nh con.
Cô chờ cho tới khi xe đ̣ của tôi rời bến cô mới bước đi. Nh́n theo cô từ xa, tôi thấy cô vừa đẹp, vừa phúc hậu. Tôi nghe mùi nước hoa và hơi ấm của cô hăy c̣n phảng phất chung quanh tôi .
Khi xe ra khỏi thành phố, tôi bỗng nghe ḷng rộn ră tin vui . Một thứ t́nh cảm làm cho tôi thấy ḿnh mới mẻ, lớn hơn ngày đi Cần Thơ. Tôi biết rồi, v́ tôi đang mang trong túi những tin tốt về cho má tôi.
Cô Ba đă cho cô Ba Trần Giầu biết gia đ́nh tôi sắp dọn lên Sài g̣n. Cô Ba Giầu là má của anh Chánh, tức anh Lưu Công Chánh, bộ đội của tiểu đoàn 307. Khi chúng tôi ở Kim Qui, một anh bộ đội bị đau bao tử phải tạm trú ở nhà tôi để chữa bịnh, đó chính là anh Chánh. Bấy giờ tới lượt Cô Ba Giầu giúp lại gia đ́nh tôi.
Cô Ba Giầu có một cửa tiệm bán quần áo và đồ thêu ở đường Lê Thánh Tôn. Như vậy, khi má tôi lên Sài g̣n là có việc làm ngay. Cô Ba Giầu cho gia đ́nh tôi ở riêng một từng trong căn nhà hai từng của cô ở đường Lê Công Kiều.
V́ nhà nhỏ nên má tôi cho hai chị Kim, Cương ở trọ nhà cô Mỹ Ngọc. Hai chị tôi và Hải Vân được đi học ngay, c̣n tôi phải tạm ở nhà để giữ Hoà B́nh và Minh Tâm. Má tôi viết thơ về Cần Thơ, nhờ d́ Bảy mướn giùm một người giữ em.
Được ở nhà, dù chỉ là tạm thời, tôi mừng thầm trong bụng. Đối với tôi, trên đời này làm ǵ có trường nào vui bằng trường làng Bang Thạch, có thầy nào thương học tṛ bằng thầy giáo Dần. Nghĩ tới chuyện phải đi học trường lạ, đêm nằm tôi thao thức không ngủ được, lật gối cả mấy chục lần, v́ lo sợ ma cũ ăn hiếp ma mới, mà ma này là ma Sài g̣n nữa !
Căn lầu nhỏ, chật chội, nên rất nóng bức. Những buổi trưa ở Sài g̣n, trời nóng hơn Cần Thơ. Tôi thường phải dẫn em qua rạp hát bóng Cathay, vừa để hóng mát vừa coi những h́nh ảnh quảng cáo trên tường.
Mỗi sáng, sau khi cho chúng tôi ăn sáng, đưa Hải Vân tới trường, má tôi xuống lầu một, ngồi may cho tới tối. Rồi sau khi ăn cơm tối, chờ cho chị em tôi đi ngủ hết, má tôi trở xuống lầu một, tiếp tục làm việc. Tôi cũng không biết má tôi đi ngủ lúc mấy giờ. Điều quan trọng là tôi thấy má vui với công việc, lại không bị công an tới làm phiền, và cũng không có người của phe kia tới quấy rầy.
Hạnh phúc của con người là biết ước mơ, và nỗi bất hạnh là nuôi nhiều tham vọng. Tôi có nhiều ước mơ rất b́nh thường khiêm tốn. Tôi ước ao được sống chung với ba má và anh chị em dưới một mái nhà, như những đứa trẻ khác. Nhưng tôi đă phải sống trong một gia đ́nh chia cách, với những giấc mộng dở dang, từ hồi c̣n nhỏ xíu, tôi đă nhận ra rằng những ước mơ có thành sự thật, chỉ có trong chuyện cổ tích thần thoại thôi.
Đêm đêm khi mọi người an giấc, tôi nằm nhớ đến những xóm làng, những căn nhà mà ba má và anh chị em chúng tôi đă sống chung. Một dĩ văng thật êm đềm và ấm cúng. Rồi tôi cố h́nh dung ra đất Bắc, nơi ba tôi và anh Khôi đang sống, và tôi tự hỏi hai người đang làm ǵ lúc này. Nhưng tôi hoàn toàn thất bại trong sự tưởng tượng đó, v́ tôi chưa hề biết đất Bắc ra làm sao, tôi chỉ c̣n nhớ văng vẳng bên tai lời hứa của ba tôi: “Ba đi hai năm, ba về với má và các con”. Cậu Thuỷ của tôi bỏ lại vợ mới cưới hứa với ông bà ngoại là hai năm cậu trở về để ông bà có cháu nội. Cậu hứa với mợ Chín là hai năm nữa hai người sẽ có nhà riêng !
Tôi tin lời hứa của ba tôi, v́ ông là người luôn luôn giữ chữ tín với đứa con nít. Một lần ba tôi đi công tác xa, tôi xin một con két khi ông trở về. Ông đă trả lời nước đôi như sau: “Ba hứa là ba sẽ mua cho con con két, nếu ba gặp người bán, nhưng rủi nếu ba không gặp người bán chim, th́ ba sẽ không biết làm sao”.
Câu trả lời ấy đă làm tôi thất vọng và buồn. Tôi cho rằng ba không muốn mua con két cho tôi. Nhưng về sau, tôi hiểu rằng ba tôi đặt danh dự trên lời hứa.
Trong căn nhà nóng như ḷ lửa đỏ ở đường Lê Công Kiều, trong thâm tâm, tôi bắt đầu nghi ngờ lời hứa của ba tôi. Nhờ những mẩu chuyện người lớn nói với nhau má tôi nghe lỏm, tôi hiểu rằng phe của ba tôi khó có thể trở về trong hai năm. Làn sóng di cư của người Bắc tràn vô Nam nhanh hơn nước lũ. Ai cũng muốn sống tự do. Những tinh hoa từ miền Bắc vô Nam như trăm hoa đua nở.
Mỗi người một sức một tài, chen vai thích cánh với người Nam, làm cho thủ đô Sài g̣n mỗi lúc một thêm phồn thịnh. Người di cư liên kết với ông Diệm để chống lại Hà Nội. Chắc là ba tôi và ông Hồ Chí Minh không lấy miền Nam nhanh như họ mơ tưởng.
Chúng tôi sống trong cái ḷ lửa ở đường Lê Công Kiều được sáu tháng. Má tôi không than thở một lời nào, nhưng tôi biết là rất mệt mỏi. Bà ốm đi, đôi mắt có quầng đen v́ thức khuya dậy sớm. Tôi cũng không nghe tiếng má cười, từ ngày chúng tôi rời khỏi nhà ông bà ngoại. Sự im lặng ấy làm tôi nhớ tiếng nhạc tiếng ca, tiếng đàn và tiếng anh Khôi gơ muỗng.
Quen sống tự lập, má tôi không muốn ở đậu nhà cô Ba Giầu lâu, dù cô rất tử tế với gia đ́nh tôi. Má tôi đă dành dụm đủ tiền để dọn ra ở riêng. Má t́m được một căn nhà ở một xóm đạo. Bà viết thơ cho mợ Bích Lan và chị Hoàng Mai, con của cậu Tư Đức lên ở chung, để khi bà mở lớp dậy may, hai người có thể làm nghề may được.
Những ngày đầu sống trong xóm đạo, tôi rất ngỡ ngàng khó chịu, v́ ai cũng hỏi chúng tôi “có đạo không?”. Phần đông dân ở làng này “có đạo”. Họ không những hănh diện là người “có đạo”, mà c̣n lấy làm vinh dự, v́ vị lănh tụ miền Nam cũng là người “có đạo”.
Má tôi dẫn Hải Vân và tôi đi t́m trường nhà nước, nhưng trường quá xa, lại phải băng qua nhiều đường đông xe cộ qua lại, nên chị em tôi đành phải học ngay ở ngôi trường trong khu nhà thờ Huyện Sĩ. Trường cũng cho học miễn phí một số học sinh nghèo.
Còn tiếp ...
Bookmarks