"Những “nghịch lư” lạ lùng của kinh tế Việt Nam
Tác giả: NGUYỄN HỒNG HẢI
Bài đă được xuất bản.: 26/05/2011 21:30 GMT+7
In
Thảo luận
(VEF.VN) – Kinh tế Việt Nam ẩn chứa những đặc điểm riêng biệt mà cần phải thấu hiểu những đặc thù này mới có thể đưa ra những chính sách kinh tế phù hợp và đạt hiệu quả tốt nhất.
Độc giả Nguyễn Hồng Hải đưa ra một số đặc thù của nền kinh tế Việt Nam mà việc áp dụng các mô h́nh và giải pháp kinh tế như tại các nước phát triển để giải quyết các vấn đề kinh tế vĩ mô sẽ khó đạt được hiệu quả.
Bài viết thể hiện góc nh́n riêng của tác giả. Mọi ư kiến thảo luận xin gửi về vef@vietnamnet.vn hoặc nhập vào hộp phản hồi phía dưới.
1) Số liệu thống kê khó chính xác
Nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt, rất nhiều số liệu kinh tế không thể đo lường. Việt Nam cũng là nước đang phát triển nên các công cụ đo lường, thống kê nền kinh tế c̣n thiếu, các chế độ thông tin, báo cáo c̣n nhiều sơ hở và chưa minh bạch, công tác kiểm tra giám sát tính trung thực của các báo cáo cũng đang ở mức độ thấp.
Do vậy, nếu dựa vào các thông tin thống kê của một cơ quan nhất định nào đó để áp dụng vào các mô h́nh và đưa ra giải pháp th́ có thể không hiệu quả, v́ độ tin cậy và tính chính xác của các con số thống kê tại Việt Nam chưa được bảo đảm. V́ vậy cần phải tham khảo các nguồn thống kê khác nhau, theo các phương pháp thống kê và đo lường, ước lượng khác nhau để cân nhắc đưa vào mô h́nh con số thống kê hợp lư trước khi đưa ra các quyết sách về kinh tế.
2) Giảm giá VND không làm giảm nhập siêu
Kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu, hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn hàng hóa và nguyên vật liệu do trong nước không sản xuất được, sản xuất phần lớn là gia công, khi giảm giá VND th́ theo lư thuyết kinh tế sẽ giảm nhập siêu ( hỗ trợ xuất khẩu và giảm nhập khẩu).
Kinh tế Việt Nam ẩn chứa những đặc điểm riêng biệt mà cần phải thấu hiểu những đặc thù này mới có thể đưa ra những chính sách kinh tế phù hợp và đạt hiệu quả tốt nhất. (Nguồn: BĐTCP)
Tuy nhiên, trên thực tế VND liên tục giảm giá nhưng nhập siêu của VN vẫn không hề giảm mà thậm chí c̣n tăng lên, v́ chúng ta vẫn không thể giảm được nhập hàng hóa và nguyên vật liệu, do trong nước không thể sản xuất được nên dù có chi phí cao hơn vẫn phải nhập, c̣n xuất khẩu cũng không hẳn v́ thế mà rẻ hơn và cạnh tranh hơn v́ nguyên liệu đầu vào cao nên giá xuất khẩu cũng tăng cao. Một số hàng hóa và nguyên vật liệu thô trong nước có thể sản xuất được th́ giá trị lại không cao nên dù có tăng cường xuất khẩu th́ tỷ trọng cũng không đáng kể.
3) Siết chặt tiền tệ không làm giảm lạm phát
Thông thường muốn chống lạm phát th́ một trong những giải pháp phổ biến là siết chặt tiền tệ. Nhưng tại VN giải pháp này dường như không hiệu quả. Khi siết chặt tiền tệ thông thường nâng lăi suất ngân hàng, lượng tiền của dân sẽ tăng cường gửi vào ngân hàng và doanh nghiệp sẽ hạn chế vay, lượng tiền lưu thông hạn chế hơn sẽ có tác dụng làm giảm giá hàng hóa.
Tuy nhiên, tại VN kể cả khi lăi suất huy động tăng cao thậm chí có khi lên tới 20%/năm nhưng tâm lư gửi tiền của người dân vẫn rất ngắn hạn và có thể rút ra khỏi ngân hàng bất cứ lúc nào, các doanh nghiệp tuy có giảm nhu cầu vay vốn nhưng không giảm được nhiều v́ buộc phải duy tŕ hoạt động của doanh nghiệp. Cầu về hàng hóa của người dân cũng giảm không đáng kể v́ cầu lớn nhất về hàng hóa vẫn là những hàng hóa thiết yếu không thể giảm mạnh hơn khi siết chặt tiện tệ.
Ngược lại, việc nâng lăi suất lại gây một tác dụng làm đẩy chi phí sản xuất và có thể gây ra đ́nh đốn sản xuất, lượng hàng hóa sản xuất ra thiết hụt lại càng đẩy lạm phát lên cao. Ngoài ra, lạm phát do tâm lư tại Việt Nam rất lớn, cứ mỗi lần tăng giá năng lượng là một lần tất cả hàng hóa cơ bản khác " té nước theo mưa". Đồng thời giá cả hàng hóa của VN phụ thuộc lớn và giá cả hàng hóa thế giới do rất nhiều hàng hóa, nguyên vật liệu trong nước khôgn sản xuất được, nên siết chặt tiền tệ chưa chắc đă làm giảm lạm phát.
4) Doanh nghiệp hoạt động kém nhưng khó phá sản
Ngoài việc môi trường pháp lư chưa thực sự rơ ràng và thuận lợi cho việc sáp nhập, giải thể và phá sản doanh nghiệp th́ một phần do văn hóa kinh doanh " ngại phá sản" của các doanh nhân do tâm lư không muốn bị coi là người "thất bại". Do vậy, nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả nhưng vẫn cứ duy tŕ đề tồn tại nhưng hoạt động lay lắt, và t́nh trạng kém hiệu quả cứ được kéo dài triền miên, việc cái tổ và đổi mới cũng khó mà thực hiện được.
Khi nền kinh tế có quá nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả như vậy tuy không tạo ra những sự sụp đổ hàng loạt nhưng lại tạo sự một sự ́ ạch rất lớn cho sự phát triển nền kinh tế.
http://vef.vn/2011-05-26-nhung-nghich-ly-la-lung-cua-kinh-te-viet-nam
--------------------------
Phần (1) và phần (4) là của ông ta nhưng (2) và (3) là những bài viết của Dr Trần, câu chữ cũng vậy mặc dù có biến báo đôi chút nhưng vẫn không khó để nhận ra chất văn của Dr_Tran.
Ông có chôm bài th́ cũng nên cảm ơn bằng h́nh thức này hay h́nh thức kia với phe dân chủ chúng tôi chứ hả ông NHH?
Bookmarks