Page 7 of 9 FirstFirst ... 3456789 LastLast
Results 61 to 70 of 88

Thread: Triển Lăm Cải Cách Ruộng Đất : Tưng Bừng Khai Trương , Âm Thầm Đóng Cửa

  1. #61
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    I. Giai Đoạn Đấu Tranh Đẫm Máu


    Giai đoạn này bắt đầu vào khoảng giữa năm 1955 trên toàn thể miền Bắc với những trường hợp sau đây:

    - Khu rừng núi không có cải cách ruộng đất

    - Vùng đồng bằng sông Nhị Hà trước kia chưa có đấu giảm tô, th́ trong giai đoạn này cả hai cuộc "đấu tranh giảm tô" và "đấu tranh Cải Cách Ruộng Đất" được xúc tiến cùng một lượt

    Như đă tŕnh bày trước đây, thể thức đấu tranh cải cách ruộng đất cũng giống như đấu tranh giảm tô, chỉ khác ở mức độ tàn bạo gia tăng và con số nạn nhân cũng gia tăng do sự "càn đi quét lại" và "kích tỷ lệ".

    Điểm căn bản là sau cuộc cải tạo nông nghiệp ruộng đất cũng như gia tài sản nghiệp của địa chủ bị tịch thu và được chia cho nông dân nghèo. Đây chính là cái mồi ngon cuối cùng mà đảng dành cho nông dân suốt trong những giai đoạn đấu tranh đă qua.

    Cuộc đấu tranh cải cách ruộng đất được Trung Ương Đảng giao cho Trường Chinh lănh đạo qua một Trung Ương ủy viên phụ trách là Hồ Viết Thắng; dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất cho mỗi tỉnh và dưới đoàn có các đội cải cách ruộng đất cho mỗi xă. Các đội và đoàn đều trực tiếp nhận lệnh của trung ương mà không cần qua ủy ban hành chánh địa phương. Nguyên tắc chọn lựa các đội viên của đội cải cách ruộng đất phải là những thành phần cốt cán, bần cố nông, là đảng viên trung kiên đă chiến đấu trong bộ đội. Đấy là các đội viên của đợt đầu tiên cải cách ruộng đất. Sau mỗi đợt, lại có một số thành phần cốt cán bần cố nông khác được bồi dưỡng để trở thành đội viên các đợt sau. Do đó càng về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng khốc liệt bởi phần đông đội viên toàn là những người trẻ tuổi, cuồng tín được bồi dưỡng tư tưởng đấu tranh giai cấp để căm thù thật sự; và cũng do đó mà vào năm 1956, đợt Cải Cách Ruộng Đất được phát động lấy tên là đợt Tổng tấn công Điện Biên Phủ đưa số người bị tàn sát lên đến 10 ngàn người, riêng trong đợt này; đội cải cách ruộng đất trở thành một công cụ khủng bố ghê gớm khiến nhân dân đồng thanh coi là "nhất đội nh́ trời" mỗi khi đội về làng.

    Sở dĩ có sự tàn sát ghê gớm như vậy, v́ chiến thuật kích tỷ lệ (nâng tỷ lệ) của Việt cộng. Thí dụ: cứ mỗi xă có 100 gia đ́nh th́ dù đủ hay không đủ, có hay không có, đội cải cách ruộng đất của xă đó phải t́m cho ra ít nhất là 5 gia đ́nh địa chủ (tỷ lệ 5%) nếu hơn càng tốt, và trong số 5 gia đ́nh này phải quy cho được 2 gia đ́nh là cường hào ác bá để xử tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn tỷ lệ sẽ bị phê b́nh là thiếu ư thức đấu tranh giai cấp, công tác kém, v.v....

    Cuộc "phóng tay phát động quần chúng đấu tranh cải cách ruộng đất" c̣n là cơ hội để đảng thực hiện một cuộc thanh trừng quy mô nội bộ Đảng cũng như hàng ngũ kháng chiến, sau khi thực dân Pháp đă bị đánh bại. Và theo chính sự thú nhận của Việt cộng khi có chính sách sửa sai, trong cuộc thanh trừng này có tới 23 ngàn đảng viên trung kiên bị "chết oan" , ngoài ra c̣n bao nhiêu ngàn đảng viên "không trung kiên" bị chết "một cách đích đáng" th́ không thấy có tài liệu chính thức nào của đảng ghi chép cả.

    Khi cuộc cải cách ruộng đất lên tới mức độ tàn bạo nhất, tức là đợt cải cách Điện Biên Phủ, rất nhiều người thuộc thành phần trung nông, tiểu thương bị "kích" lên thành địa chủ phản động và bị đem đấu tố. Thê thảm hơn nữa là những cán bộ cao cấp có công với kháng chiến mà cũng bị kết tội là cường hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân Đảng. Nhân chứng Nguyễn Văn Thân mô tả một cuộc đấu tố chụp mũ như sau:

    ...."Cuộc đấu tố điển h́nh nhất mà tôi được dự là lần đấu ông Nguyễn Văn Đô, bí thư huyện ủy tại Ô Cầu Giấy ngoại thành Hà Nội..." ...."Nạn nhân Nguyễn Văn Đô là bí thư huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng lại bị kết tội là cường hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân Đảng. Chủ tịch đoàn nói rằng ông lợi dụng chức vụ của Đảng hoạt động cho Quốc Dân Đảng. Người đứng kể tội là một nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông Đô. Một cụ già khác lên tố về việc cướp đất ruộng nương và cô con gái của ông lên đấu tố là đă bị ông cưỡng hiếp tất cả là 117 lần, v.v.... Đến khi ông Đô được phép lên phát biểu ư kiến nhận tội, ông đă cứng cỏi trả lời: Ông không phải là Quốc Dân Đảng, ông chỉ làm việc cho Bác cho kháng chiến mà thôi. Ông trả lời cô con gái là: "Thưa bà, bà c̣n quên đấy, tôi đă hiếp cả mẹ bà để đẻ ra bà nữa". Câu trả lời này làm mọi người phải bật cười và làm đấu trường mất vẻ tôn nghiêm, chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu "đả đảo tên Đô ngoan cố" để đàn áp và che lấp tiếng nói của ông này. Sau đó họ không cho ông nói tiếp. Họ nghị án và quyết định xử tử ông ngay tại chỗ. Cuộc đấu này kéo dài từ 5 giờ sáng tới 13 giờ, tức 1 giờ trưa mới xong". (Nguyễn Văn Thân)

    Rất nhiều cựu cán bộ cộng sản có tham dự cuộc cải cách ruộng đất đều thắc mắc không hiểu ẩn ư của Đảng khi thẳng tay triệt hạ chính những cán bộ Đảng cao cấp và trung kiên, và triệt hạ luôn cả cơ cấu tổ chức Đảng ở nông thôn, thay vào đấy bằng những thanh thiếu niên bần cố nông từ 15 tới 18 tuổi. Rất nhiều người thắc mắc không hiểu Đảng vô t́nh hay cố ư giết oan người của Đảng.

    Nhưng nếu người ta có cơ hội nghiên cứu kỹ cuộc cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông, th́ ẩn ư của Đảng trở thành rơ rệt. Đó là chủ trương đấu tranh liên tục trong nội bộ cộng sản bằng những cuộc thanh trừng đẫm máu. Đảng phải luôn luôn đào thải những cán bộ đảng viên cũ không thuộc thành phần vô sản, những người đă lỗi thời, có thể trở thành nguy hiểm cho đảng v́ đă trau dồi những kinh nghiệm đấu tranh, đă có khả năng lănh đạo, có uy tín, nắm vững t́nh h́nh Đảng, quy tụ được thế lực mạnh, và có thể phản Đảng. Thay v́ dùng nghị đ́nh, thông tư, sự vụ lệnh để thải hồi những phần tử này, Đảng đă mượn tay quần chúng nông dân để tiêu diệt cho hết hậu họa. Kết quả là chính nạn nhân của cải cách ruộng đất cũng không biết được thâm ư của "Hồ chủ tịch" và của "Đảng", mà tưởng rằng cấp dưới làm sai, nên có người khi chết c̣n tung hô "Hồ chủ tịch".



    II. Phản Ứng Của Nhân Dân Đưa Đến Quyết Định Sửa Sai

    Mức độ sắt máu của Cải Cách Ruộng Đất đă được chính những tên thợ thơ nô dịch của Việt cộng cổ vơ để nịnh Đảng và nạt dân. Tố Hữu, một cán bộ lạnh đạo văn hóa của Việt cộng miền Bắc viết bằng một giọng khát máu:

    "Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
    Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
    Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung ḷng
    Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít ta lin... bất diệt."

    C̣n Xuân Diệu cũng cuồng say với cuộc đấu tố bằng những vần thơ như sau:


    Địa hào đối lập ra tro
    Lưng chừng phản động đến giờ tan xương
    Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
    Thắp đưốc cho sáng đ́nh làng đêm nay. Lôi cổ bọn nó ra đây
    Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi.

    (trích Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, trang 22 và 23)

    Nhưng những vụ tàn sát của Cuộc Cải Cách Ruộng Đất đă gây xúc động công phẫn mănh liệt ở khắp mọi nơi. Mặc dầu dân chúng chưa vơ trang nổi dậy quy mô, nhưng những vụ phục kích giết cán bộ đấu tố và những vụ chém giết giữa bần cố nông và thân nhân của người bị đấu tố đă xảy ra thường xuyên. Những người bị đẩy đến bước đường cùng đă liều mạng một sống một c̣n với kẻ thù của ḿnh, bất chấp những đe dọa của Đoàn Cải Cách Ruộng Đất.

    Đúng vào lúc đó, Đại Hội Đảng Liên Xô lần thứ 20 đă đem lại một biến cố làm chấn động dư luận thế giới và có ảnh hưởng đến t́nh h́nh Việt cộng miền Bắc. Ngày 20 tháng 2 năm 1956, Krushchev đọc bài diễn văn trong Đại Hội Cộng Đảng, công khai lên án bản chất khát máu của Satalin qua những vụ thủ tiêu hàng vạn đảng viên đối lập đồng thời tiết lộ nhiều tội lỗi khác của Stalin, kể cả tội bắt dân Nga sùng bái cá nhân của Stalin như một vị thánh sống.

    Cũng trong Hội Nghị lần thứ 20, Cộng Đảng Liên Xô đă sửa đổi "chủ thuyết Stalin" bác bỏ chủ trương quá khích của Stalin đ̣i hỏi "Cách mạng phải bạo động và càng tiến tới xă hội chủ nghĩa th́ đấu tranh giai cấp càng quyết liệt".

    Việc hạ bệ Stalin và việc thay đổi đường lối chính sách tại Liên Xô chỉ là một sách lược lừa địch và dụ khị địch. Trên phương diện đối nội, sau khi lật đổ Beria và Malenkov, phe của Krushchev có nhu cầu đánh gục "bọn tàn dư" của khuynh hướng Stalin để củng cố quyền lực cho phe phái của ḿnh, chứ không hề có ư định thực hiện những cải cách dân chủ.

    Trên phương diện đối ngoại, sách lược dụ khị của Krushchev nhằm quảng cáo cho món hàng "sống chung ḥa b́nh", lôi kéo một số quốc gia Á Phi vào một khối trung lập thân cộng gọi là "Phi Liên Kết", đồng thời mở đầu cho giai đoạn "Ḥa Dịu" nhằm ru ngủ các cường quốc Tây phương nhất là Hoa Kỳ, với mục đích chính: Mượn tiền và kỹ thuật Tây phương để phát triển kinh tế và kỹ thuật Liên Xô, tạo nên phong trào đ̣i giảm vũ trang tại các nước Tây phương, trong khi Liên Xô ngấm ngầm sản xuất vũ khí hạch tâm chiến lược nhằm đánh thắng trong một cuộc chiến tranh hạch tâm.

    Với thâm ư như trên, Krushchev phái Nikoyan sang Hà Nội để giải thích cho Hồ Chí Minh và Việt cộng miền Bắc, về nhu cầu sách lược "xét lại". Vào lúc đó, Hồ Chí Minh tâm sự với đàn em rằng "Khí thế của cuộc đấu tranh cải cách ruộng đất đang phừng phừng bốc cháy, không lẽ lại dội một gáo nước lạnh vào đầu cán bộ và anh em nông dân". V́ thế Việt cộng miền Bắc vẫn bít kín không phổ biến "chính sách mới" của Liên Xô. Tuy nhiên đứng trước những phản ứng bạo động của nhân dân, cũng như những bất măn của tầng lớp trí thức đă từng tham gia tích cực ủng hộ Việt Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp, vào tháng 3 năm 1956, Hồ Chí Minh đă phải chuẩn bị kế hoạch dừng tay.

    Những biến cố trên thế giới và phong trào chống đối trong nước liên tiếp đánh mạnh vào uy tín của Hồ Chí Minh và giới đầu lănh Việt cộng. Ngày 26 tháng 5 năm 1956, Mao Trạch Đông công bố chính sách "Bách Gia Tranh Minh, Bách Hoa Tề Phóng" nghĩa là các môn phái tư tưởng được mặc sức phát biểu ư nghĩ của ḿnh như trăm thứ hoa đua nở. Với chính sách mới, giới trí thức Trung Quốc được "mở mồm nói trong phạm vi có sự kiểm soát của Đảng".

    Ngày 28-6-1956 công nhân Ba Lan sát cánh với sinh viên bviểu t́nh ở Poznan chống lại chế độ độc tài và đ̣i Tự Do, cơm áo. Ngày 23-10-1956 công nhân Hung Gia Lợi nổi dậy làm cách mạng ở Budapest khiến Krushchev phải dùng vũ lực đàn áp một cách tàn bạo. Tại Bắc Việt, Hồ Chí Minh cố chờ cho cuộc cải cách ruộng đất kết thúc với đợt Điện Biên Phủ, mới ra lệnh đ́nh chỉ mọi vụ hành quyết địa chủ, và tháng 10-1956 Trung Ương Đảng Việt Cộng ra nghị quyết "sửa sai".

    Chiến dịch sửa sai được bắt đầu bằng các đợt học tập dành cho Đảng viên về nghị quyết của Hội Nghị lần thứ 20 của Cộng Đảng Liên Xô, đồng thời, báo chí của nhà nước giải thích cho quần chúng về sự thay đổi bên Liên xô. Tiếp theo đó Hồ Chí Minh chọn Trường Chinh và Hồ Viết Thắng làm con vật tế thần (Trường Chinh mất chức Tổng Bí Thư Đảng, và Hồ Viết Thắng mất chức Thứ Trưởng phụ trách cải cách ruộng đất). Mười hai ngàn đảng viên c̣n sống sót trong tù v́ bị kết tội là địa chủ đă được thả ra. Trong số này có nhiều người đă bị kết án tử h́nh. Hồ Chí Minh đă khóc lóc và đổ tội cho cấp dưới phạm phải sai lầm. Khả năng tŕnh diễn của họ hồ rất cao khiến nhiều người dân miền Bắc tưởng Hồ khóc thật, và ít nhiều tin vào sự vô trách nhiệm của Hồ.

    Trong Hội Nghị thứ 10 của Trung Ương Đảng, Vơ Nguyên Giáp thay mặt Đảng đọc một bản thú nhận những sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất. Hội nghị Mặt Trận Trung Ương họp để nghiên cứu các sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất và chính sách sửa sai. Sự sửa sai đưa ra để xoa dịu ḷng dân không có nghĩa là chính sách cải cách ruộng đất của Đảng sai lầm, và theo như Vơ Nguyên Giáp nhận định trong bản báo cáo lên Trung Ương Đảng th́ thắng lợi cơ bản của cuộc cải cách ruộng đất là đă đạt được mục tiêu cốt yếu đề ra, đó là đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ. Những sự sai lầm, theo Đảng nhận định, là do sự "quá tay" của cán bộ, ví dụ như:

    - Phủ nhận thành tích kháng chiến của những người bị đấu tố.
    - Không đoàn kết trung nông, liên hiệp phú nông như đă hứa mà lại đẩy họ vào hàng ngũ kẻ thù.
    - Xử tử oan người ngay, đả kích bừa băi, tra tấn đàn áp người vô tội.
    - Xúc phạm tới tôn giáo.
    - Không nhẹ tay với vùng dân thiểu số.

    Hành động "sửa sai" của Việt cộng chỉ là một "sách lược" để đối phó với tâm trạng công phẫn bất măn của nhân dân, tạo một cơ hội để cho sự công phẫn xẹp xuống, và tránh nguy cơ một cuộc nổi loạn trên toàn miền Bắc. Căn bản của cuộc sửa sai là xác nhận chính sách Cải Cách Ruộng Đất vẫn là đường lối lâu dài của Đảng và Nhà Nước Việt cộng. Nếu có những "sai lầm" trong việc thi hành chính sách, th́ đó là lỗi của một vài cá nhân đă "quá tay" làm nhiều người chết oan, và những cá nhân phạm lỗi khiến hàng trăm ngàn người bị chết oan chỉ bị khiển trách một cách tượng trưng, không có ai bị truy tố ra trước ṭa án, không có ai phải đền tội một cách đích đáng. Hồ Chí Minh và giới đầu lănh Việt cộng ngang nhiên coi việc tàn sát giết người là quyền tự nhiên của Đảng, không cần phải thắc mắc, và nếu có giết oan vài chục ngàn người th́ chỉ cần đổ tội cho cấp dưới "lỡ tay", và phủi tay xin lỗi với một thái độ hoan toàn vô trách nhiệm.

    Nhưng quần chúng nhân dân miền Bắc không chấp nhận thái độ đó, và họ đă nắm lấy cơ hội "sửa sai" để vùng lên.



    C̣n tiếp...

  2. #62
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    III. Cuộc Đấu Tranh Tiếp Của Nhân Dân Miền Bắc

    Lợi dụng hành động phủi tay của Hồ Chí Minh khi đổ tội cho cấp dưới đi quá trớn, các nạn nhân c̣n sống sót sau đợt đấu tranh Cải Cách Ruộng Đất đă t́m những cán bộ cải cách để trả thù. T́nh trạng rối loạn được mô tả trong cuốn "Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc" như dưới đây:

    "Sau khi các đảng viên trung kiên được tha từ nhà tù về, được khôi phục công quyền, khôi phục đảng tịch và chức vụ th́ họ t́m ngay đến các "đồng chí" đă "tố sai" để trả thù. Do đó t́nh trạng xung đột, giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của Đảng bị xụp đổ, cán bộ đâm ra hoang mang. Trong dịp này nhà văn Nguyễn Sáng có nói một cách hài hước: "Lạc quan sai; bi quan cũng sai; chỉ có hoang mang mới đúng". Nhân dân được dịp đ̣i lại ruộng nương nhà cửa bị tịch thu.

    Ở nông thôn các đảng viên đi họp phải mang búa theo để "thảo luận" với nhau. Những địa chủ được tha về, thấy t́nh trạng làng xóm như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đ́nh "tiểu tư sản" hồi kháng chiến đă trú ngụ tại nhà ḿnh. Các bần cố nông, chót nghe lời Đảng "tố điêu" nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích-lô và đi ở thuê. V́ vậy nên dân số ở Hà Nội, Nam Định đột nhiên tăng gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, lây cho công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức. Đáp lại vụ nổi loạn của nông dân ở Quỳnh Lưu, thanh niên và công nhân "Nam bộ tập kết" đập phá bót cảnh sát Bờ hồ Hà Nội (bên cạnh ga tầu điện, đầu phố Cầu gỗ)".

    Tại khắp các vùng nông thôn miền Bắc, đâu đâu người ta cũng thấy những vành khăn tang của thân nhân những người bị giết trong cải cách ruộng đất. Cho tới nay, không ai biết được con số chính xác những nạn nhân bị Việt cộng tàn sát. Chỉ có một yếu tố then chốt để giúp người ta ước lượng số nạn nhân đó là yếu tố "kích tỷ lệ" được đề cập ở phần đầu. Với dân số miền Bắc vào giai đoạn 1956 khoảng chừng 20 triệu người tức là vào khoảng 4 triệu gia đ́nh nông dân, ta hăy giả sử 2% gia đ́nh nông dân bị liệt vào giai cấp cường hào địa chủ nằm trong sổ đen của Việt cộng. Qua kỹ thuật "kích tỷ lệ", những tên cán bộ trung kiên trong các đội cải cách đă thực hiện đúng chỉ tiêu bằng cách phát hiện và đem ra giết đủ tỷ lệ tối thiểu là 2% mỗi xă. Như vậy trên toàn miền Bắc, những gia đ́nh nông dân có thể bị giết ít nhất là 80.000 người trong cuộc cải cách ruộng đất nếu các đội cải cách "kích tỷ lệ" theo đúng chỉ tiêu của Đảng đề ra.

    Trong lịch sử Việt Nam, chưa ai nghe thấy có thời kỳ nào lực lượng ngoại bang thống trị đă tàn sát nhân dân một cách lạnh lùng máy móc như vậy. Nỗi căm hờn uất hận của nạn nhân cải cách ruộng đất cùng thân nhân của họ đă lên tới mức cùng cực, nhưng sau khi Hồ Chí Minh đưa ra chính sách sửa sai, th́ chế độ Việt cộng đă thoát khỏi một cuộc nổi loạn bạo động lan rộng v́ một số nguyên nhân chính:

    a) Đa số những người mà tính mệnh bị đe dọa đồng thời là những người có tiềm năng lănh đạo nổi loạn th́ đă chết rồi, c̣n lại một số nhỏ được tha về và được khôi phục lại công quyền, tự coi là ḿnh đă thoát chết trong đường tơ kẽ tóc và cần được yên thân. Mặc dù có một số người liều mạng đi t́m đội cải cách để trả thù, nhưng hầu hết không dám có ư định chống lại kẻ chủ mưu đại gian đại ác là Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động, hoặc là v́ họ tưởng cấp dưới làm sai chính sách Đảng, hoặc v́ họ nh́n ra Hồ Chí Minh và Đảng của họ Hồ quá nguy hiểm và quá mạnh. Nguy hiểm v́ chúng ném đá dấu tay, xúi giai cấp nọ giết giai cấp kia để chúng bảo toàn lực lượng. Mặt khác, chúng quá mạnh v́ có súng đạn trong tay, c̣n họ th́ thân cô thế cô.

    b) Phần đại đa số nông dân c̣n lại là phú nông, trung nông và bần nông th́ như cá nằm trốc thớt. Tuy tính mạng của họ chưa bị đe dọa v́ chưa bị liệt vào hàng cường hào địa chủ nhưng trông gương những vụ đấu tố chụp mũ, họ biết rằng bất cứ ai cũng có thể bị kết tội là "liên quan" hoặc "phản động" ("liên quan" là nói tắt của "liên quan với địa chủ cường hào").

    Vậy, cho dù có nhiều người trong ḷng c̣n căm hận, nhưng ngoài mặt không dám ngo ngoe. Duy có một thành phần trí thức văn nghệ sĩ dám hiên ngang đứng lên chống Đảng và kể tội Đảng. Thành phần này gồm có những nhân vật đă tham gia kháng chiến từ những ngay đầu cho tới khi kháng chiến chống Pháp thành công. Đó là những người đă nằm trong ḷng của cuộc kháng chiến chống Pháp và đă nh́n ra bản chất cộng sản của bọn Hồ Chí Minh. Là những người có tinh thần Quốc Gia, một số những người này đă ngây thơ lựa chọn con đường chống thực dân trước, cho tới khi thành công rồi sẽ thanh toán cộng sản sau (!!!). Một số c̣n lại đă t́m cớ nọ cớ kia để từ từ ngưng hợp tác với Đảng ngay từ trước khi kháng chiến chống Pháp thành công, mặc dầu họ vẫn được mọi người mến chuộng và được coi là giới trí thức và văn nghệ sĩ kháng chiến.

    Là những người nặng ḷng với đất nước, giới trí thức và văn nghệ sĩ kháng chiến về thủ đô đă rất đau ḷng và căm hận chính sách tương tàn của bọn Hồ Chí Minh, và lợi dụng hoàn cảnh thuận lợi khi họ Hồ đề ra chính sách sửa sai, giới trí thức văn nghệ sĩ đă vùng lên đấu tranh, tạo nên một chấn động trong dư luận thế giới sau khi có cuộc nổi dậy của nông dân Quỳnh lưu, Nghệ An.

    Cuộc nổi dậy của nông dân Quỳnh Lưu gây một chấn động lớn v́ nó xảy ra ngay tại tỉnh Nghệ An, quê quán của Hồ Chí Minh, và nó cho thấy ngay đối với nhân dân tỉnh nhà, Hồ Chí Minh là một đứa con vô liêm sỉ bị từ bỏ. Hồ Chí Minh rất căm hận hành động nổi dậy, nên đă dùng các sư đoàn Nam Bộ Tập Kết để đàn áp, giết và đày ải hơn 6.000 nông dân, đồng thời cố t́nh bít kín mọi tin tức liên quan đến cuộc nổi dậy này không lọt ra thế giới bên ngoài.

    Trong khi nông dân Nghệ An nổi dậy dùng gậy gộc, dáo mác đánh Việt cộng th́ văn nghệ sĩ miền Bắc dùng ng̣i bút, đánh Việt cộng bằng những bài văn, những lời thơ sắc như thép:


    Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
    Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
    Sét nổ trên đầu không xô tôi ngă
    Bút giấy tôi, ai cướp giật đi
    Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá
    (Phùng Quán trong bài "Lời mẹ dặn")

    Trong khi thế giới biết rất ít về những chi tiết của cuộc nổi loạn của nông dân Quỳnh Lưu, th́ trái lại những tài liệu của cuộc nổi dậy của văn nghệ sĩ miền Bắc đă được bí mật gởi ra ngoài, bằng giấy trắng mực đen, khiến cho lịch sử văn học đă ghi được đầy đủ chi tiết về nội dung cuộc nổi dậy, những văn nghệ sĩ tham gia và đường lối đấu tranh của giới văn nghệ sĩ miền Bắc, v.v.... Nhờ đó, những văn thi họa phẩm của giai đoạn "Trăm Hoa Đua Nở" trên đất Bắc đă không bị mai một, dù cộng sản t́m cách thủ tiêu, và những tài liệu trên đă đóng góp vào kho tàng văn hóa dân tộc, tiêu biểu cho một trong những giai đoạn văn học phản ảnh trung thực sức đấu tranh dũng mănh của dân tộc.

    C̣n tiếp...

  3. #63
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Nội Dung Cuộc Nổi Dậy
    Của Văn Nghệ Sĩ Và Trí Thức Miền Bắc


    Diễn đàn của giới trí thức văn nghệ sĩ đấu tranh khởi đầu là cuốn sách Giai Phẩm 1956 c̣n gọi là Giai Phẩm Mùa Xuân được xuất bản vào khoảng tháng 3-1956, trước khi có chiến dịch sửa sai . Sau khi Nikoyan sang Hà Nội giải thích chính sách của Liên Xô, đưa đến vụ sửa sai, th́ phong trào nổi dậy đă bùng lên với Giai Phẩm Mùa Thu (29-8-1956) Giai Phẩm Mùa Đông (1956), tờ báo Nhân Văn (liên tiếp trong nhiều số), tờ Đất Mới, tuần báo Trăm Hoa, tờ nhật báo Thời Mới, và ngay cả báo Văn của Đảng. Tuy nhiên, tiêu biểu nhất trong những tài liệu trên là báo Nhân Văn và các quyển Giai Phẩm, cho nên người ta quen gọi phong trào nổi dậy của văn nghệ sĩ là Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm

    Nội dung của Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm là đấu tranh chống chế độ Việt cộng trên hai lănh vực chính:

    - Đường lối chính sách của Đảng
    - Hệ thống lănh đạo của Đảng

    Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm đánh vào đường lối chính sách tức là đánh tận gốc Chủ Nghĩa Cộng Sản, chĩa mũi dùi vào chủ trương giai cấp đấu tranh người bóc lột người, chính sách cải cách ruộng đất, chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại thành thị, đồng thời tấn công vào liên minh giai cấp đấu tranh giữa Việt cộng và Trung Quốc. Một trong những tài liệu quan trọng nhất thuộc loại này là cuốn "Nắng Chiều" của cụ Phan Khôi, gồm nhiều bài bút kư, tạp văn, bị Việt cộng cấm xuất bản, may nhờ có Đoàn Giỏi, một cán bộ Đảng đem ra mổ xẻ phê b́nh trên báo Văn Nghệ của Đảng số 15, xuất bản tháng 8-1958, người ta mới biết về nó. Sau đó, Đoàn Giỏi đă bị phê b́nh kiểm thảo là cố t́nh mổ xẻ chửi bới cụ Phan Khôi nhằm mục đích phổ biến tài liệu chống Đảng. Tội nặng nhất của cụ Phan khôi được phát hiện trong cuốn Nắng Chiều nằm trong các chuyện Nuôi vịt ở miền Nam, "Tiếng Chim", "Thái Văn Thu" và chuyện Ba Ông Vua Càn Long, Quang Trung và Chiêu Thống.

    Trong chuyện "Tiếng Chim", cụ Phan Khôi đă thuật chuyện hai con quạ không dành nhau miếng ăn để ngụ ư mỉa mai vấn đề đấu tranh giai cấp là vấn đề căn bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong chuyện Nuôi vịt ở miền Nam, cụ Phan Khôi thuật lại cách làm việc và cách sống của chủ và người làm thuê đều cực khổ như nhau, đồng thời chủ chẳng những trả công cho thợ mà c̣n chia hoa hồng cho thợ mỗi khi được mùa, vừa có ư ám chỉ rằng cảnh người bóc lột người theo quan niệm đấu tranh giai cấp là không hoàn toàn có thực mà c̣n có ư ám chỉ Đảng bóc lột người hơn những người chủ nuôi vịt. Trong chuyện "Ba Ông Vua", Đoàn Giỏi giải thích rằng cụ Phan có ư ám chỉ "quan hệ ngoại giao giữa Quang Trung và Càn Long ngày xưa không khác ǵ quan hệ hữu nghị giữa ta và Trung Quốc ngày nay, một con cáo và một con sói đồng t́nh vật chết một con dê".(Xem Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, trang 94)

    Ngoài việc đả kích tư tưởng đấu tranh giai cấp, căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm c̣n kêu gọi mọi người đứng lên chống lại chủ nghĩa đó. Trong bài "Tiếng Hát", một vở kịch thơ ngắn, Hoàng Cầm đă cất tiếng kêu gọi qua tiếng hát của Trương Chi:

    Nào người quả phụ trắng khăn tang
    Nào đứa em mồ côi khát sữa
    Nào ai sống nhục chết oan
    Nào ai tan ĺa đôi lứa
    Nghe tiếng hát này...

    để ám chỉ những nạn nhân của cải cách ruộng đất, và tiếp theo đó kêu gọi mọi người hăy theo "Tiếng gọi của trời cao, của đất rộng" quyết "Vượt qua tường đá" của hệ thống kềm kẹp áp bức của Việt cộng.

    Một mặt chống đường lối chủ trương Đấu Tranh Giai Cấp của Đảng, một mặt khác Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm đánh thẳng vào hệ thống lănh đạo Đảng gồm có con người và tổ chức. Về con người lănh đạo, các văn nghệ sĩ đánh từ Hồ Chí Minh trở xuống cho tới các cán bộ cao cấp Trung Ương như Trường Chinh, các cán bộ lănh đạo văn nghệ như Tố Hữu, Hoài thanh, Xuân Diệu mà mọi người gọi là những tên "cai văn nghệ".

    Một nhà thơ trẻ là Lê Đạt đă dám ví Hồ Chí Minh như cái b́nh vôi:

    Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
    Y như một cái b́nh vôi
    Càng sống càng tồi
    Càng sống càng bé lại

    Cụ Phan Khôi c̣n viết bài "Ông B́nh Vôi" trong Giai Phẩm Mùa Thu tập I, với một câu giải thích rằng cái b́nh vôi sống lâu "cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, th́ người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng "Ông". Chẳng những cụ đánh thẳng vào Hồ Chí Minh mà c̣n đánh luôn những bọn văn nô đă tôn thờ sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh nữa. Cụ Phan Khôi c̣n chọc quê Hồ Chí Minh là Ông B́nh Vôi v́ Hồ Chí Minh đă phạm tội tầy đ́nh trong cuộc cải cách ruộng đất, mà c̣n giả đ̣ ù lỳ vô trách nhiệm, phủi tay chối tội và bắt Trường Chinh chịu tội thay cho ḿnh.

    Bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần đă khiến nhà thơ này bị ngồi tù, bị đấu tố và đă dùng lưỡi dao cạo cứa cổ tự tử mà không chết. Trần Dần là nhà văn Đảng viên thuộc giới trẻ trong Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm, đă tham dự trận Điện Biên Phủ, sau đó v́ chống Đảng mà bị đi tù ở Việt Bắc. Tới khi dư luận chống đối của giới trí thức kháng chiến trở nên quá sôi nổi, Trần Dần mới được Việt cộng đưa về miền đồng bằng và bắt đi theo chiến dịch cải cách ruộng đất. Tiếp theo đó xảy ra Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm, Hoàng Cầm là bạn của Trần Dần đă đem in một bài thơ của Trần Dần vốn được viết từ năm 1954 với nội dung đấu tranh chống đối, đồng thời đề nghị Trần Dần viết thêm một đoạn cho có "lập trường tốt" như thế mới được phép xuất bản và đặt tên bài thơ là "Nhất định thắng". Ngay trong phần đầu có tính chất đấu tranh, Trần Dần cũng đánh bằng những đ̣n rất kín khiến Việt cộng dù đem ông ra đấu tố, cũng chỉ bắt bẻ bâng quơ về cách dùng chữ không ổn, "phạm húy". Đọc bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần, người ta phải đặt ḿnh vào khung cảnh 1954 với không khí bàng hoàng của Hiệp Định Genève cắt đôi đất nước, hàng triệu người nông dân miền Bắc hốt hoảng bỏ trốn cộng sản, trong tâm tư họ c̣n hằn vết thương đỏ ḷm của đấu tranh Giảm Tô trước 1954, rồi cảnh gia đ́nh xé đôi v́ người đi Nam kẻ ở lại Bắc (người vợ trẻ của Trần Dần lạc lơng giữa Hà Nội v́ cha mẹ đă di cư), rồi cảnh bộ đội Nam bộ tập kết được sử dụng để đàn áp cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu. Có đặt ḿnh vào hoàn cảnh 1954 người ta mới mường tượng đọc ra được những ẩn ư lên án Hồ Chí Minh chia đôi đất nước bằng cách kư Hiệp Định Genève:

    Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
    Đất hôm nay tầm tă mưa phùn
    Bỗng nhói ngang lưng, máu rỏ xuống bùn
    Lưng tôi có tên nào chém trộm?
    A! Cái lưỡi dao cùn
    Không giết được, mà đau
    Chúng định chém tôi làm hai mảnh
    Ôi cả nước! Nếu mà lưng tôi lạnh
    Hăy nh́n xem có phải vết dao?
    Không đứt được mà đau!
    Lưng Tổ Quốc hôm nay rướm máu.


    Và kế đến là cảnh đát nước miền Bắc ngập trong điêu linh dưới chế độ mới:

    Tôi bước đi
    không thấy phố
    không thấy nhà
    Chỉ thấy mưa sa
    trên màu cờ đỏ....

    Rồi bằng những câu hỏi "buộc tội" đối với trách nhiệm về phong trào di cư, Trần Dần cầm bút chỉ vào Hồ Chí Minh:

    "Họ vẫn ra đi
    Nhưng sao bước ră rời?
    Sao họ khóc? Họ có ǵ thất vọng?"

    Và:

    "Ai dẫn họ đi?
    Ai?
    Dẫn đi đâu? Mà họ khóc măi thôi"

    Và cũng vẫn bằng những câu hỏi làm Việt cộng không trả lời được:

    Ai có lư và ai có lực?
    Ai người tin? Ai kẻ ngă ḷng tin?

    Cuối cùng, Trần Dần phang bốn câu làm cán bộ lănh đạo văn hóa của Việt cộng hết nhịn nổi:

    Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
    Người vẫn thường kinh hoảng trước tương lai
    Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
    Người vẫn vội -
    Người chưa kiên nhẫn mấy.


    Trần Dần bị hạch tội đă dùng danh từ "Người" viết bằng chữ lớn xưa nay được cán bộ Việt cộng dùng để chỉ Hồ Chí Minh với sự tôn sùng tột độ.

    Tuy Trần Dần bị bỏ tù nhưng cán bộ Việt cộng không dám nói đích danh tội phỉ báng Hồ Chí Minh của Trần Dần cũng như của cụ Phan Khôi. Giống như dưới thời đại "cực kỳ phong kiến", riêng việc nhắc tới những lời "khi quân" phỉ báng của người khác cũng đủ là một sự phạm thượng đại nghịch, và không một tên Việt cộng nào dám làm.


    Ngoài việc tấn công tên đầu sỏ của Việt cộng, các văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc c̣n đả kích hệ thống lănh đạo Việt cộng qua tổ chức "Hội các nhà văn", tổ chức Mậu Dịch Quốc Doanh, đồng thời đả kích tính chất phi pháp của cải cách ruộng đất qua bài tham luận của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường mà ta sẽ có dịp đề cập tới trong một đoạn khác.


    Trên đây ta đă tóm lược cuộc đấu tranh tiếp theo của Nhân Dân miền Bắc để chống lại sự phản bội kháng chiến của Hồ Chí Minh và cuộc tàn sát dă man qua Cải Cách Ruộng Đất. Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm tượng trưng cho một cuộc nổi dậy có tổ chức và tư tưởng chỉ đạo quy mô hơn cả. Tuy nhiênnó cũng có nhược điểm quan trọng và đă bị dập tắt sau khi Hồ Chí Minh kư một sắc lệnh ngày 15-12-1956 chính thức hủy bỏ quyền tự do ngôn luận, cấm lưu hành tất cả các nhật báo, tạp chí, sách vở văn nghệ phẩm chống đối.

    Trước khi kư sắc lệnh bịt miệng văn nghệ sĩ, Hồ Chí Minh đă phóng ra một chiến dịch dùng báo chí Đảng chụp mũ tội "gián điệp" của Pháp và của Mỹ lên đầu nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, tổ chức học tập khắp nơi, và cán bộ Đảng thúc đẩy các đoàn thể công nông binh, học sinh và dân Nam bộ tập kết kư kiến nghị tự xưng là "mọi từng lớp nhân dân" đ̣i nhà nước trừng trị nhóm Nhân Văn.

    Sau khi bịt miệng văn nghệ sĩ, Việt cộng chỉ cho phép báo của Đảng múa vơ một ḿnh. Hội văn nghệ của Đảng được chỉ thị cho ra báo Văn. Nhưng múa vơ một ḿnh trong một thời gian, báo Văn trở nên nhạt nhẽo quá khiến ban chủ nhiệm cũng phải cảm thấy nản, và quay ra chống Đảng bằng cách đăng những bài của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Việt cộng bèn đàn áp thẳng tay, bắt 304 văn nghệ sĩ đi chỉnh huấn, sau đó đi "Lao Động Cải Tạo" ở những vùng rừng thiêng nước độc của Việt Bắc. Hành động bịt miệng và đàn áp thẳng tay đối với văn nghệ sĩ đă tạm thời chấm dứt một h́nh thức chống đối trên Mặt Trận Văn Hóa, nhưng chưa chấm dứt phong trào đấu tranh của nhân dân dưới các h́nh thức khác. Cuộc đấu tranh phi quy ước giữa Việt cộng và các tầng lớp nhân dân bị áp bức c̣n đương diễn ra trên Mặt Trận Kinh Tế qua các giai đoạn tiếp theo gồm có công hữu hóa ruộng đất vườn ao, hợp tác xă cấp thấp, hợp tác xă cấp cao,v.v...

    Các cuộc đấu tố của giai đoạn đă qua cho tới năm 1956 mới chỉ là Màn I của tấn kịch cải cách ruộng đất.Giai đoạn đấu tranh từ 1951 đến 1956 đưa tới vụ sửa sai và Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm có một số đặc điểm rất điển h́nh đáng cho ta ghi chép lại đây.

    C̣n tiếp...

  4. #64
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    IV. Những Đặc Điểm Của Giai Đoạn Cải Cách Ruộng Đất 1951-1956 Đưa Đến Chiến Dịch Sửa Sai


    Những nỗ lực và những hoạt động của cộng sản nhằm dành giựt quyền lực hoặc từ vai tṛ có quyền lực trong tay để đàn áp quần chúng nhân dân, tất cả đều là những nỗ lực và hoạt động của chiến tranh mặc dầu nhiều khi không có tiếng súng nổ. Đó là cuộc chiến tranh diễn ra từ 1951 tới 1956 phối hợp hai loại đặc điểm nổi bật:

    - Những đặc điểm có tính cách chiến tranh phi quy ước
    - Những đặc điểm có tính cách Mác-xít Lênin-nít điển h́nh

    Nếu ta c̣n nhớ những đặc điểm của chiến tranh phi quy ước trong bài nghiên cứu đầu tiên đại cương về chiến tranh quy ước và phi quy ước, ta sẽ thấy lại những đặc điểm này trong cuộc cải cách ruộng đất của giai đoạn 1951-1956.

    1. Dựa vào lực lượng quần chúng

    Đây là một đặc điểm điển h́nh của chiến tranh phi quy ước cũng như của chiến dịch Đấu Tranh Chống Phản Động, Đấu Tranh Giảm Tô, Đấu Tranh Cải Cách Ruộng Đất. Để tiêu diệt mầm mống chống đối, Việt cộng đă không sử dụng biện pháp pháp lư, biện pháp hành chánh, hay sử dụng cảnh sát công an, quân đội, mà đă huy động nông dân, bằng cách nhóm Đại Hội Nông Dân, dùng các "đội đấu tố" và "đội cải cách" xâm nhập vào dân để xách động dân, làm như thể nông dân đứng chủ động đ̣i tiêu diệt phản động, tiêu diệt địa chủ. Việt cộng c̣n công khai giải tán hệ thống hành chánh xă trong giai đoạn "đội cải cách" về làng phát động đấu tranh, bề ngoài làm như đề cao quyền lực của nông dân, nhưng thực sự bên trong là gán ghép trách nhiệm cho dân, làm cho bàn tay nông dân có dây máu địa chủ, nghĩa là nếu họ không có chủ động th́ ít ra cũng là kẻ đồng lơa tội ác.Tại sao họ Hồ lại cần có liên minh tội ác đó? Theo sự suy đoán của các hồi chánh viên có liên hệ tới cải cách ruộng đất th́ một trong những lư do có tính cách chiến lược là tương quan lực lượng giữa Đảng và giới địa chủ, phú nông, trung nông và tất cả nông dân hữu sản cho thấy Đảng là thiểu số. Quan niệm dựa vào lực lượng quần chúng vừa là một đặc điểm của chiến tranh phi quy ước lại vừa phù hợp chủ trương cố hữu của cộng sản và kỹ thuật đấu tranh của cộng sản. chủ trương của cộng sản là tiêu diệt tư hữu, tiêu diệt tư sản, tất nhiên phải tiêu diệt địa chủ là những phần tử tư sản "ngoan cố" nhất. Kỹ thuật đấu tranh của cộng sản là "lấy mâu thuẫn giải quyết mâu thuẫn": nghĩa là Tạo ra mâu thuẫn giữa các lực lượng thù địch đẩ các lực lượng này tiêu diệt lẫn nhau và cộng sản ngồi rung đùi hưởng lợi. Đó là chiến lược xúi Ngô đánh Ngụy để ḿnh lấy ngon đất Kinh Châu (Tam Quốc Chí). Áp dụng vào trường hợp đấu tranh cải cách ruộng đất, "lấy mâu thuẫn giải quyết mâu thuẫn" là lấy bần cố nông giải quyết bài toán địa chủ. Nếu dùng biện pháp pháp lư để cải cách ruộng đất như các nước Á Châu khác, Việt cộng phải quốc hữu hóa hoặc mua rẻ ruộng đất của địa chủ rồi chia cho nông dân, như thế đích thân Đảng phải đối phó với khoảng 1 triệu người thuộc thành phần địa chủ phú nông và trung nông, mà trong đó có nhiều người có công với kháng chiến, có uy tín với dân. Tự lực đối phó với khoảng 1 triệu có tư sản, trong khi đảng viên ṇng cốt của Việt cộng lúc đó chưa đầy 500 ngàn người là một việc nguy hiểm.

    2. Bất chấp pháp lư, bất chấp quy ước hành chánh

    Đây là đặc điểm thứ hai của cộng sản khi áp dụng h́nh thái chiến tranh phi quy ước vào cải cách ruộng đất. Chẳng những Việt cộng không sử dụng các biện pháp pháp lư và các quy ước hành chánh thông thường, mà chúng c̣n trắng trợn vi phạm các nguyên tắc pháp lư và hành chánh được coi là khuôn mẫu để duy tŕ trật tự quốc gia và xă hội của các nước văn minh từ 400 năm qua.

    Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, qua bài diễn văn đọc ngày 30-10-1956 trong một cuộc họp của Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội, đă nêu lên những vi phạm nguyên tắc pháp lư, trong Cải Cách Ruộng Đất:

    a) Nguyên tắc thứ nhất: Không hành phạt các tội đă phạm quá lâu rồi mới bị khám phá v́ khó xác định các bằng chứng buộc tội. Khi buộc tội một người với những bằng chứng hồ đồ, xă hội sẽ tạo ra những tiền lệ bất công làm mất uy tín của cơ chế cầm quyền và gây xáo trộn xă hội. Việt cộng đă vi phạm thô bạo nguyên tắc thư nhất khi mớm cung cho những bần cố nông vu oan gia họa cho nạn nhân Cải Cách Ruộng Đất về những tội đă phạm từ mấy chục năm trước, dựa vào những bằng chứng hồ đồ (như hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân đă tường thuật).

    b) Nguyên tắc thứ hai: Theo lời Luật sự Nguyễn Mạnh Tường: Trách nhiệm của phạm nhân th́ chỉ một ḿnh phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung với vợ con, của gia đ́nh", chỉ trong thời đại phong kiến dă man mới có luật tru di tam tộc để trừng phạt bà con họ hàng của người có tội. Nhưng riêng trong chế độ Việt cộng, không những thân nhân của người có tội phải trả nợ máu, mà ngay cả những người không có liên hệ máu mủ ǵ với nhau mà cũng bị chết chùm với nhau v́ mang cái nhăn hiệu chung là địa chủ, phú nông. "Kích tỷ lệ" là một vi phạm thô bạo của nguyên tăc thứ hai về pháp lư.

    c) Nguyên tắc thứ ba: Theo luật sư Nguyễn Mạnh Tường là "muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là những kẻ đă mục kích sự phạm pháp và cung khai một cách cụ thể, rơ ràng và chắc chắn. Một nhân chứng thôi cũng chưa đủ, ít ra phải có hai nhân chứng khai phù hợp với nhau, mới được là đáng kể... Khi nêu lên nguyên tắc thứ ba trên đây, có lẽ ông Nguyễn Mạnh Tường muốn ám chỉ những vụ Đấu Giảm Tô như anh Nguyễn Văn Thân thuật lại, ví dụ: "Một cái sẹo cũ v́ bị ngă từ hồi c̣n bé sẽ được tŕnh bày là vết dao chém của địa chủ ác ông... Hoặc nếu một bà lăo rụng hết tóc v́ già hay v́ bệnh hoạn th́ sẽ dùng chứng tích này để tố địa chủ nắm tóc giật đánh", (xem bài trước). Những bằng chứng cần thiết để chứng tỏ vết dao chém tối thiểu là phải tŕnh bày được con dao có vết máu của nạn nhân. V́ bất chấp nguyên tắc thứ ba trên đây, trong giai đoạn "Đấu tranh chống phản động" đội cải cách của Việt cộng đă "mớm cung theo dây chuyền", khiến nhiều nạn nhân đă khai lung tung ra ngoài sự dự liệu của cán bộ Đảng và làm tṛ cười cho đấu trường cải cách, cũng như làm tṛ cười cho lịch sử mai hậu.

    d) Nguyên tắc pháp lư thứ tư: "Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho ḿnh, và khi thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là một trọng tội, ṭa phải cử luật sư bào chữa không, cho bị can... Khi điều tra, thẩm vấn, tuyệt đối không được dùng phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ bị cn, mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ dỗ đương sự"...

    3. Thủ Tiêu Chế Độ Pháp Trị Chân Chính

    Một chế độ pháp trị chân chính phải xác định rơ đâu là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người từ thường dân cho tới người lănh đạo. Việt cộng chẳng những thủ tiêu quyền lợi của người dân qua việc bất chấp các nguyên tắc pháp lư căn bản, mà c̣n lờ luôn trách nhiệm pháp lư của cấp lănh đạo đảng, nhất là họ Hồ, tên chủ mưu trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu. Về điểm này ông Nguyễn Mạnh Tường viết:


    ..."Trước hết, bức thư của ông Hồ Viết Thắng tự phê b́nh và xin rút lui khỏi Mặt Trận Trung Ương chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi..." "...là một nhà luật học, tôi chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần pháp lư, sự nhận tội lỗi của một người không đủ để quy định trách nhiệm của người ấy...".

    Lập luận của ông Nguyễn Mạnh Tường có ư nói rằng:

    Thứ nhất: Giải pháp hạ tầng công tác Trường Chinh và sự từ chức của Hồ Viết Thắng chỉ là một giải pháp chính trị, và nếu ngưng ở đó, Việt cộng đă cố t́nh xí xóa trách nhiệm pháp lư đối với các vụ sát nhân có mưu định rơ ràng. Và ông Tường gọi đó là "chính trị lấn áp pháp lư".

    Thứ hai: Trách nhiệm của Hồ Viết Thắng có thể rất lớn, có thể rất nhỏ, nghĩa là nếu Hồ Viết Thắng chỉ là một kẻ thừa hành, th́ cần phải truy nguyên ra cái trách nhiệm pháp lư cao chót vót là Trung Ương Đảng và Hồ Chí Minh. Không xác định quyền lợi cùa người dân và trách nhiệm pháp lư của Đảng và nhà nước Việt cộng đă thủ tiêu chế độ pháp trị chân chính. Mà thủ tiêu chế độ pháp trị chân chính là một đặc điểm có tính cách Mác-xít Lênin-nít điển h́nh. Và nó là nguyên nhân của bao xương máu, chết chóc và đau thương diễn ra trên đất Việt Nam từ hơn 30 năm nay.

    Bài nghiên cứu này kết thúc một giai đoạn đặc biệt của Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc, và không có nghĩa cuộc cải cách ruộng đất của Việt cộng đă chấm dứt khi ruộng đất được lấy từ địa chủ để chia cho nông dân nghèo. Không! Sau khi chia ruộng cho nông dân nghèo, Việt cộng đă từ từ lấy lại hết tất cả ruộng đất tài sản của họ qua các chiến dịch Tổ Đổi Công, Hợp Tác Xă Cấp Thấp, Hợp Tác Xă Cấp Cao,v.v... song hành với các kế hoạch kinh tế 3 năm, kế hoạch kinh tế 5 năm,v.v.. mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong những bài tới.

    Trong phần kết luận của bài này, chúng ta hăy đưa ra một nhận xét về trách nhiệm chính trị và pháp lư của một hành động liên quan đến trật tự công cộng và tính mạng của người dân.

    Một người thường dân phạm tội giết người phải chịu trách nhiệm pháp lư cho hành động đó. Nếu việc giết người có chủ mưu, đó là một trọng tội về h́nh sự, và h́nh phạt thường là lấy mạng đền mạng. Một cấp lănh đạo chính trị, nếu giết người có chủ mưu v́ mục đích chính trị th́ phải chịu trách nhiệm về pháp lư, và sau đó c̣n phải chịu thêm trách nhiệm về chính trị. Trách nhiệm pháp lư càng gia tăng gấp bội nếu là tội tàn sát nhiều người với sự dự mưu kỹ càng. Một chế độ, một tập đoàn thống trị phạm tội tàn sát tập thể cả trăm ngàn người cũng phải chịu trách nhiệm chính trị và pháp lư như trường hợp chế độ phát xít Đức, phát xít Ư và quân phiệt Nhật,v.v... Những kẻ lănh đạo, tùy theo trách nhiệm và sự dự mưu đều phải đền tội cả về phương diện chính trị và pháp lư. Trước hết bị tước hết quyền hành chính trị và sau đó lấy mạng đền mạng.

    Công lư đă được thi hành tại Đức, tại Ư, tại Nhật, sau Đệ Nhị Thế Chiến, và trật tự quốc gia nhờ đó đă được tái lập tại Đức, tại Ư, tại Nhật. Nhưng cũng kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, v́ Liên Xô không bị trừng phạt về những tội diệt chủng nên các chế độ cộng sản từ Âu sang Á đă thừa kế thủ tiêu nền pháp trị chân chính. Chúng phủi tay chối bỏ mọi trách nhiệm pháp lư đối với tội ác của chúng v́ nhân dân bất lực trước họng súng đàn áp, và v́ công lư không có sức mạnh để thực thi.

    Ở Việt Nam, Hồ chí Minh và đảng Việt cộng đă phạm nhiều tội ác chồng chất. Tội tàn sát trong Cải Cách Ruộng Đất chỉ là một trong nhiều tội ác tày đ́nh của chúng trong hơn 30 năm qua. Mỗi lần gặp khó khăn v́ nhân dân ta đấu tranh, chúng lại t́m cách xoa dịu, xí xóa, khi th́ bằng chính sách sửa sai, khi th́ bằng chính sách nới lỏng các biện pháp kềm kẹp kinh tế, khi th́ bằng màn xiệc "đổi mới tư duy". Nhưng luôn luôn có nhiều người bị chúng lường gạt, và mỗi lần như thế, Việt cộng lại chối bỏ được trách nhiệm về tội ác, và trở nên mạnh hơn khi những nhóm người hoặc thế lực ngu xuẩn giúp chúng cơ hội và phương tiện phục hồi sức mạnh để tiếp tục tội ác.

    Ngày nay, dân ta đă thức tỉnh, và đă đấu tranh mạnh mẽ buộc Việt cộng phải lănh trách nhiệm đối với tội ác của chúng. Dân ta cương quyết th́ hành động công lư bằng cách lật đổ chế độ Việt cộng và thiết lập một nền pháp trị chân chính, nghĩa là bất cứ tập đoàn nào phản nước hại dân phải chịu trách nhiệm chính trị và pháp lư trước toàn dân, tức là trả lại quyền hành chính trị và chịu sự phán đoán của luật pháp quốc gia. Nhân Dân Việt Nam coi những biện pháp "sửa sai" hoặc "cởi mở" hoặc "đổi mới" hoặc "ḥa giải ḥa hợp" là những tṛ xiệc bịp bợm để bịp những nhóm người ngu xuẩn, hoặc đón gió làm tay sai cho ngoại bang.

    C̣n tiếp...

  5. #65
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    Bài đọc thêm :VÁN CỜ KHAI XUÂN cuả Phùng Cung

    VÁN CỜ KHAI XUÂN
    Tác giả : Phùng Cung – viết năm 1958

    Sáng nay mồng một tết. Trời bỗng đổ mưa rào, sân nổi bong bóng, chừng giập bă trầu th́ ngớt và, chuyển sang lâm thâm nguyên đáng mưa xuân. Tiếng pháo mừng năm mới xa gần không được gịn giă. Hẳn bàn tay thiên nhiên quyết gh́m bằng được cái thời tiết bất kham phải theo đúng luật lệ khi mùa về. Từ cuối tháng chạp, người ta bấm lịch kháo nhau sang năm mới chỉ mỗi ngày mồng một tết là tốt nhất trong tháng, thành ra vội vă nhiều mặt, nhất là việc khai xuân làm ăn cho cả năm.
    Sau bữa cỗ đầu xuân sáng nay đề huề đầm ấm rất nguyên đán của gia đ́nh, riêng ông Ba Thiềng không được hoan hỉ. Trên thửa mặt chữ dụng của ông ưng ửng quấn quưt hai mùi, rượu từ da mặt, hương từ bàn thờ lan toả có mức độ. Ông Ba ngồi thu hai tay trong áo kép nh́n trời, khẽ lắc đầu than phiền một ḿnh: “Năm nay làm ăn khó khăn đây, năm con gà mà!” Ông băn khoăn cho một dự tính cả năm. Ông chặc lưỡi mấy lần, như quyết đáp, như buông trôi rồi đâm ra buồn ngủ. Ông vào buồng, lên giường kéo chăn kín mặt, mang theo mọi suy nghĩ vào giấc ngủ. Chỉ sau một lúc, chừng đun sôi một siêu nước đă có tiếng ông ngáy trầm trầm trong chăn.

    Ông Ba Thiềng là người khôn khéo, phải nói là quá khôn khéo. Xung quanh quí mến ông - bớt đi cái tên cúng cơm, chỉ gọi ông là ông Ba - Vùng này người ta hiểu sự khôn khéo là đạo đức! - Một thứ đạo đúc tân thời? Quư lắm!
    Ông Ba cũng gốc gác người làng Việt này - Cái tên làng khá đẹp! - Làng tựa lưng vào một con đường quan báo, đồng ruộng không nhiều. Hầu hết bà con trong làng quanh năm đ̣n gánh trên vai, chợ xa, chợ gần tảo tần. Cung cách làng Việt na ná làng chợ Dầu - Từ Sơn. Người vợ phải để chồng ngược xuôi vất vả th́ lấy làm xấu hổ thua kém chúng bạn. Bởi vậy các ông chồng chỉ ở nhà trông con, trông nhà, rỗi răi, thậm chí lông nhông cờ bạc c̣ con - Nói là an nhàn sung sướng cũng được, nói là hèn, bám đ̣n gánh vợ cũng chưa sai.

    Làng Việt cũng nhiều phen ly tán v́ nạn vỡ đê, đói kém. Nhất là nạn đói từ khi lính Nhật đặt chân qua tỉnh, qua làng. Dân t́nh đói đứng, đói ngồi lại lâm dịch “nước nóng” - Vùng này người ta kiêng sợ tiếng dịch tả mà gọi trệch như vậy - Làng Việt mười phần chết quá nửa. Nhiều gia đ́nh bồng bế tha phương. Thời buổi thiên hạ đâu đâu cũng nhao lên v́ đói, chạy ṿng quanh như đèn cù. Người làng Việt kéo đi nơi khác th́ người nơi khác kéo đến trú ngụ.
    Vận hội hồi sinh! Người làng Việt ít nhiều gia đ́nh lại lục tục lần về quê cha đất tổ sinh sống. Làng vẫn duy tŕ được cổ lệ, mặc dù hôm nay tất cả mọi gia đ́nh không phải ai cũng đều chôn nhau, cắt rốn ở đây - Một làng mà không ít những giọng nói nặng nhẹ khác nhau.

    Ông Ba dạt đi từ bao giờ, làm ǵ, ở đâu, chẳng mấy ai biết. Người làng Việt chỉ thấy ông Ba bỗng nhiên xuất hiện ở làng từ trước ngày Nhật đảo chính Pháp chừng vài bốn năm. Khi ấy ông Ba đă bước sang tuổi già, nhưng c̣n tráng kiện lắm! Giọng nói của ông hơi lơ lớ hạ phang hoặc mán, Thổ. Người ta ai cũng nghĩ ông Ba có vơ Tàu.

    Nhà của ông Ba kề ngay đường quan báo, dưới bóng mấy cây quếch - một thứ cây lá rậm xanh thẫm, gần như không chịu đổi lá - Tán lá đan chen mát rượi bên cổng làng thẳng lối sang chợ Kiệu. Từ nhà ông đến chợ Kiệu cách nhau quăng nửa tầm mót đái, đi, về. Ông Ba vảy thêm một cái chái làm quán bán hàng, đón lơng những bà con đi chợ hay quên, đón lơng những ngày không có phiên chợ, đón lơng khách văng lai - Nói theo thuật ngữ quân sự nhà ông chốt đúng trọng điểm - Việc làm ăn dựa vào quán hàng, ông chỉ là người cầm cương, không trực tiếp. Ông coi đó là việc của gia đ́nh cũng như bao gia đ́nh khác trong làng. Bản thân ông Ba muốn và đă được xung quanh hiểu ông là người chuộng thanh cao, giản dị.

    Ông Ba thích quảng giao, thích gần gũi mọi người, mến trẻ con nhưng không muốn gần... Hàng bày bán trong quán cũng sơ sài, toàn là hàng khô: ít cân đậu, lạc, vừng, ít quả trứng vịt, và cũng có kẹo th́ phải. Tóm lại không đáng bàn tính. Cái mà ông Ba đáng để tâm là ở những việc khác. Bên trong, ông Ba kê một phản con sớm, chiều pha trà ngồi uống để thêm thanh tâm, phần nào tạo phong cách. Bên bàn trà ông luôn bày sẵn một bàn cờ tướng. Ông thường bày thế chơi một ḿnh. Chủ yếu là để luyện trí, mặt khác để khách văng lai, loại khách ô, nón, râu ria thấy vậy tạt vào nghỉ chân, máu cờ gặp nhau, cùng ông chơi vài ván giao tiếp. Ngoài ra là để dạy cho thằng con út, thằng Văn, sau khi đi học về, sau khi làm xong việc vặt.

    Thằng Văn là một đứa con thông minh, học bao giờ cũng đứng thứ nhất, thứ hai lớp, ít nói. Ông Ba tâm đắc với con lắm! Nó ngoan ngoăn, vâng lời, tôn kính ông là lẽ đương nhiên. Nhưng ông xem ư đôi lúc trên mặt thằng Văn biểu hiện buồn rầu. Phải chăng ông cho đó là cá tính. Thằng Văn mới tuổi mười hai, vào lứa tuổi đang sấc lấc, khác hẳn tụi trẻ trong làng.
    Tụi trẻ trong làng luôn ồn ă dưới bóng quếch, nhất là về mùa hè. Chúng bẻ lá quếch gài thành mũ đội chơi, chúng nhặt hoa quếch đỏ như máu chó, xâu thành ṿng đeo cổ - trông cũng đẹp - Đứa có tiền th́ mua kẹo ăn, đứa không có tiền th́ xin bạn, hoặc đứng xem bạn ăn kẹo. Mũ lá quếch, ṿng hoa quếch cũng trở thành thứ hàng đối lưu với kẹo. Ông Ba luôn khuyên nhủ chúng dăm điều, những là thế này, những là thế kia, nghe có đầu có đuôi lắm! Lời ngon cũng có mà kẹo ngọt cũng có, dần dà trẻ con trong làng đứa nào mới nứt mắt cũng đă biết tiêu tiền. Tất nhiên các ông bố, bà mẹ đều bực ḿnh nhưng chả ai nỡ nghĩ quán hàng nhà ông Ba, bản thân ông Ba đă tạo nên một lớp trẻ chưa sạch máu đầu đă biết đấu khẩu với người lớn, đă ăn cắp; dối trá, mất dạy!...

    Ai là người chịu trách nhiệm cái hậu quả này? - Nói theo cách nói của đồng bào rẻo cao - Khắc nghĩ, khắc biết - khỏi phải nhiều lời.

    Tụi nhóc hầu như đều có tâm lư hướng ngoại - sự răn đe, kèm cặp của cha mẹ đối với chúng - như cây non bị cớm bóng cây to. Lời cha mẹ th́ tai này qua tai kia nhưng lời của người ngoài là chúng ồ ạt làm theo một cách hứng khởi. Chúng quần tụ bên cổng làng, dưới bóng quếch, quanh quán ông Ba. Kể ra cũng vui! Chả mấy đứa sán gần phía bàn cờ, bàn trà bên trong của ông Ba, của người lớn.

    Không có ngày tháng để ghi nhớ sự tụ hội quanh bàn cờ của ông Ba. Nếu nhớ được vào hàng năm là cái kỷ niệm thiết tưởng cũng hay hay - Muốn th́ ngày tháng nào mà chả được, dễ thôi, ông Ba mà phát lời th́ răm rắp ghi nhận - Những lúc ông Ba tiếp cờ với khách văng lai, sự dỗi dăi của đám trai làng men đến, xúm quanh bàn cờ. Họ cũng tập tọng đôi ba nước. Sự cao sang t́m lối nhiễm vào làng ham thích từ lúc nào không biết, nhiều người muốn học. Người muốn theo học có thể gọi là đệ tử được lắm chứ. Chân phương, mộc mạc khai tâm ngón phong lưu: “Mă nhật, tượng điền, xe liền, pháo cách v.v...” lời chỉ bảo của ông Ba, chẳng mấy lúc đă trở thành phổ biến khắp làng Việt. Như dầu loang, như nước lũ, trong làng từ đáo tuế trở lên không mấy ai không biết chơi cờ, thậm chí cả trẻ con cũng nhiều đứa đă sạch cản. Trong làng không ít gia đ́nh đua nhau sắm bàn cờ. Hễ có đám cưới, đám tang, mừng thọ cùng là đám giỗ, vượt thổ, lợp nhà, cứ có cỗ bàn, là có bày bàn cờ. Người ta túm tụm quanh bàn cờ, mách nhau nước đi, nước chiếu đến là náo nhiệt. Ngay cả các bà, các chị trong câu chuyện làm ăn, chợ búa cũng xen cả chuyện cờ, cũng đánh giá người này cao người kia thắp, kẻ hay xe, người giỏi pháo v.v... Làng Việt hôm nay có thể gọi là làng cờ. Tiếng tăm làng Việt, tiếng tăm ông Ba xa, gần đều ngưỡng mộ. Nghe đâu cũng có kẻ dấu mặt buông lời đố kị bài xích nào là ông Ba là một tay cờ gian có hạng, nào là con rơi, con văi không ít và vân vân và v.v... Thực hư thế nào th́ không biết, người làng Việt hầu hết không cần biết. Không v́ thế mà danh ông Ba giảm thơm. Cái xứ này thằng chột đă lên ngôi th́ điều dở cũng có thể chế biến thêm thắt để tạo thành giai thoại!

    Không phải ngẫu nhiên, mà nghiễm nhiên ông Ba Thiềng là người đặt nền móng, là người giữ vai tṛ sáng lập nền kỳ tửu của làng Việt - nối ḍng văn hiến!

    Quán ông Ba th́ chuyện lớn, chuyện nhỏ, chuyện cổ, chuyện kim, chuyện kín, chuyện hở từ làng Việt đến mấy làng lân cận. Thậm chí chuyện xứ Đông xứ Đoài tất tất đều va tai chạm miệng ông Ba...

    Cứ xuân sang, đang độ sung măn của cành đào, tấm bánh, làng Việt lại tổ chức đấu cờ thi tài. Trước ngày đấu cờ, ông Ba đều chọn ngày khai xuân một ván - tất nhiên ông Ba chỉ có thắng - làm điểm tốt cho cả năm. Cái đó đă trở thành bất di, bất dịch. Cũng phải nói thêm rằng ai dám thắng ông?...

    Năm nay, sự thư thái của ông Ba bị chao đảo!

    Trong chăn trùm kín mặt, nhịp ngáy của ông Ba vẫn lúc to, lúc nhỏ, lúc nổi lúc ch́m. Ông mơ ǵ, nghĩ ǵ có thánh biết. Trong gia đ́nh nền nếp không nhiều người này, biết ông đang ngon giấc không ai nỡ nói to, cười to, thậm chí khách đến mừng tuổi biết ông ngủ cũng một niềm tôn trọng lặng lẽ khi đến cũng như lúc cáo từ ra về, ḷng vẫn đầy ắp măn nguyện, đă làm trọn nghi thức cổ truyền.

    Quăng cuối Ngọ, đầu Mùi gia đ́nh bỗng nghe tiếng ông Ba cười to, tiếng cười quen thuộc mỗi khi ông gặp may hoặc có chuyện thật vui. Thằng Văn ngỡ bố mê ngủ. Nó nhảy vào buồng vừa cất tiếng khẽ gọi, ông Ba đă tung chăn, phắt dậy. Mặt mày ông tươi tắn, trông đẹp hơn ngày thường nhiều, biểu lộ một sự khoái trá tột độ. Cả nhà hớn hở vui theo. Cái không khí đầu xuân tràn ngập nhà không đủ chỗ chứa. Trên bàn thờ, ṿng hương khiêm nhường đón chấm than hồng thầm lặng, quấn quưt bên mâm ngũ quả - cơi gia tiên thơm sáng. Ông Ba nhớ lại trong chiêm bao. Ông ngồi tiếp cờ với một khách lạ sang trọng. Cả hai ván ông đều đánh bại đối phương bằng thế pháo lồng, khiến đối phương phải quỳ vái tôn ông là bậc kỳ danh trong thiên hạ. Ông Ba lấy làm sung sướng, sướng từ trong chiêm bao đến khi tỉnh giấc vẫn c̣n dư âm chiến thắng.
    Ông Ba hỏi thằng Văn trong lúc ông ngủ có ai đến không. Thằng Văn kể lại cho ông biết là nhiều người đến chúc tết. Các bác, các anh trong làng đều đến cả, và cũng muốn hỏi ông Ba xem ông định chọn ngày nào để tổ chức hội cờ của làng. Biết ông đang ngủ, ai cũng muốn để ông được no giấc. Ông Ba lắc đầu, trong ḷng hơi bừng bực, để tuột tay mất cả một điều may lớn. Niềm vui trong ông đă bắt đầu tản mạn ít nhiều. Lẽ ra, trong số những người máu cờ, những người chịu học hỏi, hay quấn bên ông, đến mừng tuổi, ông sẽ chọn mặt làm ván khai xuân th́ hay biết bao. Được hầu cờ với ông trong ván khai xuân th́ sướng tỉnh người, số người này đều ước ao như vậy.

    Một lúc sau, ông Ba lại trấn tĩnh nỗi bực. Ông đă khai thông được mắc míu, ông gật gật đầu nói một ḿnh: “Cũng hay! Càng hay!”

    Ông Ba sai thằng Văn lau bàn và quân cờ cho thật sạch sẽ. Tất nhiên thằng Văn nhanh nhảu vâng theo ư ông. Trong đầu thằng Văn cũng gợn một thắc mắc: khách th́ không có mà bố lại sai lau chùi cẩn thận đến vậy. Nó c̣n đang ngậm câu hỏi trong miệng, hai tay bưng bàn cờ đă quá sạch, hướng theo ngón tay của ông Ba, đặt ngay ngắn giữa giường bên cạnh, trên chiếu hoa mới, thơm phức mùi cói. Ông Ba, tay nâng một chén rượu, run run tưới khắp lên bàn và quân cờ, các hàng kẻ, đường ngang, lối dọc, từ dinh tướng đến hai bờ hà lênh láng rượu. Tướng sĩ, ngựa, voi, xe, pháo đều ướt lướt thướt, tắm rượu, tạo một khí thế đằng đằng trước giờ xung trận! Thằng Văn thấy việc làm của bố khác thường chưa hiểu nhưng trong bụng thinh thích. Nó cười. Ông Ba, cũng cười khà khà, tiện tay vứt cho nó chiếc khăn lau ấm chén bên bàn trà lại, lau khô cả bàn, cả quân. Ông Ba không nói, chỉ cười. Ông coi như là tiệc rượu quân trước lúc lên đường để làm nức ḷng ba quân. Tưởng tượng quân tướng, xa mă đang rầm rập nhịp bước dưới quân kỳ!

    Thằng Văn nhả lời khẽ hỏi:
    - Khách nào đến đấy hả bố?

    Ông Ba chưa trả lời, ông kéo vai nó lại gần, tay phải nâng cằm thằng Văn, ông ngắm nh́n kỹ mặt con như chưa nh́n thấy bao giờ. Ông đắc ư, vẫn bàn tay đôn hậu ấy vỗ vỗ nhẹ lên đầu nó:
    - Khách quư là đây chứ c̣n ai nữa!

    ..còn tiếp.

  6. #66
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    VÁN CỜ KHAI XUÂN -tiếp theo và hết.

    Được lời bố, thằng Văn sung sướng, xúc động! Tuy nó không máu cờ, cũng chưa một lần được ngồi tiếp bố, mà chỉ xem bố đánh với những khách văng lai, nó không biết tên. C̣n những chú trong làng mà bố thường ban khen: hay xa, thạo mă, nó cũng coi thường, để bụng. Đường tiến, thoái, ngang dọc của bố, nó đều làu làu. Đă nói nó là đứa trẻ thông minh mà - Cả đến những thế gỡ bí, bẩy, nhử, của bố nó tung thuật ra nhằm đánh bại đối thủ nó cũng không lạ...

    Một ấm trà ướp nhài hảo hạng, ông Ba vừa pha mới nhấp chén đầu, thơm từ miệng qua lưỡi, qua họng thơm ruột thơm gan. Và ông đặt khéo ấm trong vỏ ủ, để lúc nào rót ra chén cũng bóng răy, cũng ngào ngạt. Một điếu bát, thuộc loại gia bảo ông đă dày công t́m kiếm, điếu giống tam khí, quanh điếu có họa tích Hứa Do hay Sào Phủ tẩy nhĩ ǵ ǵ, chỉ riêng ông là sành. Không một gợn hoa, lá phạm diện, thế mới quư báu. Tất nhiên là điếu Tàu. Bên cạnh điếu lúc nào cũng một ngọn đèn Hoa Kỳ, đóm tre khuy túc trực.

    Hai đấu thủ bắt đầu vào cuộc!
    Hai bố con bắt đầu khai xuân!

    Hai bên đối diện, đối nhăn, khoảng cách vừa một tầm tát với, giữa là một bàn cờ. Thật là vui hơn tết! Bàn cờ đóng bằng gỗ xâng chun, thứ gỗ này th́ thời tiết mặc sức đổi thay, không vênh. Vân gỗ lượn lờ như mây bay, như sóng cuốn, duới lớp sơn quang dầu, đường kẻ long khéo son tầu. Quân cờ làm bằng một thứ gỗ giả ngà, nghe nói gỗ này chỉ ở rừng Ai lao Cao miên mới có. Quân nào cũng bóng, mười người th́ chín người tưởng ngà voi thật. Quân đen th́ kẻ chữ đen, quân đỏ th́ kẻ chữ đỏ, chữ hơi luyến triện. Trông quân cờ tựa cái ấn. Cầm vào quân cờ đă thấy sướng tay.

    Rít một hơi thuốc lào, từ từ nhả khói đậm đà mùi Tiên lăng. Trong làng khói đang rập rờn, ông Ba thốt lời:
    - Xin mời khách bày quân! - Ông quên trước mặt ông là thằng Văn - hay có ư rót vui - hay thói quen trân trọng khi đang là đối thủ của ḿnh bất luận là ai?

    Quân tướng đă chỉnh tề đứng từng vị trí. Ông Ba vội xoay bàn cờ giành bên đỏ. Ông Ba vốn rất chuộng cái màu đỏ - vàng son, mật mỡ đă trở thành cửa miệng từ lâu - Ai chả thích. Nhưng với ông Ba lại thích màu đỏ như trẻ em thích kẹo. Ông nghiệm thấy mỗi lần vào cuộc mà nhận bên quân đỏ th́ dù bất kỳ gặp đối thủ xa lạ nào ông cũng thấy có phần vững dạ, tự tin.

    Hai bố con ra quân!

    Ông Ba bắt đầu dẫn giải cho con những điều bổ ích trong việc chơi cờ. Ông Ba cũng chỉ liều lượng trả lời vừa đủ với cái đầu ghi nhận của trẻ con, chứ đi vào bài bản cổ kim th́ chẳng bao giờ nói hết được. Những t́nh tiết hay, dường như ông đă kể với không ít người, mỗi khi ông ngồi vào bàn cờ. Trai làng sán quanh cũng được ghé tai hóng được ít nhiều. Tay ông chuyển quân, miệng ông rót lời khi khoan, khi nhặt. Ông Ba kể rằng: cội nguồn cờ tướng là của Tàu, nó có từ đại cổ, mà vua Đế Thích là bậc thánh giỏi cờ nhất trần gian... Trong sự giải thích thanh cao: cổ, kim, ông chỉ công nhận cầm, kỳ, thi, họa. Họa ông cho là khéo tay, cần mà không cần. Ông thay hoạ bằng tửu. Bốn thứ này các thánh hiền, vua, chúa, các vĩ nhân vén tay áo kinh bang đều rất hâm mộ. Cầm ông không quan tâm, thi ông cũng không ham, ông chỉ ham hai thứ: Kỳ là chính, tửu là phụ, tửu chỉ giúp cho kỳ thêm hưng phấn, và giúp sự tạo phong cách từng lúc, từng chỗ.

    Thằng Văn không hề nói một lời, không nh́n bố, chỉ chăm chắm nh́n bàn cờ. Nó có nghe lời ông Ba hay không, chỉ có nó biết. Nói chính xác là thằng Văn chỉ để ư nhất cái bàn tay cầm quân của ông Ba. Ông Ba cũng muốn trao nốt cho thằng Văn một phương châm chiến lược của ḿnh. Ông cho rằng cờ khi đă vào cuộc ví như cuộc chiến tranh đă bắt đầu tuyên chiến. Khi đă tuyên chiến chỉ được phép nghĩ đến hai điều: thắng hay bại. Có nghĩa được phép làm bất cứ một điều ǵ nhằm bẻ gẫy đối phương, để giành chiến thắng. Nghe nói câu ấy h́nh như của một tướng lĩnh phát-xít. Nhưng nghĩ cho cùng ông Ba thấy có lư và coi đó là một cẩm nang, mặc dù ông Ba cũng là người rất căm ghét phát-xít.

    Cờ quyết thắng được dương cao, đang phần phật trong ḷng ông Ba, sau khi hai đấu thủ mỗi người ra quân theo một lối. Cờ đang đi gần đến thời điểm sát phạt. Ông Ba tuyên bố tạm nghỉ tay. Lúc này, thằng Văn mới ngửng đầu, cặp mắt nó mới buông khỏi bàn cờ và bàn tay của bố.

    Bên ngoài, mưa xuân đă ngắt giọt từ lâu. Trời cũng đă kịp thời thả gió đông non, hây hẩy. Xuân cảnh dậy th́! Thư thái từ chỗ bàn cờ nh́n hắt ra đường thấy bà con đi, lại tấp nập. Quần áo mới, gió đuổi theo lay tà, màu sắc lượn lờ. Cây cỏ cũng được gió lướt đi, lướt lại, biết chào hỏi nhau. Hương khói từ mọi bàn thờ, gom bay lan toả không gian thầm thoảng. Ngoài cánh đồng của hai bên lối sang Chợ Kiệu, các con chó đủ loại, đen, vàng, trắng, vện; nhưng số chó đen nhiều hơn - Ngày tết chủ của chúng dù giàu, dù nghèo đều nổi ḷng kỷ xả, nên chúng được đẹp miếng hơn ngày thường. Chúng phởn, chúng phi ra đồng, chúng quần nhau, chúng tế lên như ngựa, băng băng gội gió. Thiển nghĩ nếu chúa xuân dễ tính hẳn cũng sẵn sàng ghi nhận sự hiện diện của lũ chó má này đang đóng góp thêm vẻ ngoạn mục trong cơi toàn xuân!...

    Trong nhà, tiếng sát quân của hai bố con đang gịn giă. Dinh lũy của hai vị tướng đỏ, tướng đen cùng rung lên, bất an, đang được ẩn nấp sâu trong hai lớp lá chắn quyết tử của sĩ, tượng. Ông Ba, danh thủ không ngờ thằng Văn đă ba lần triệt mất cái thuật pháo lồng của ông, khiến ông băn khoăn về sự may mắn khai xuân - như đang muốn vượt ra ngoài tầm tay. Thằng Văn ngầm có nước hay, mà ông Ba không biết chăng? - Vẻ mặt nó tươi tỉnh háo hức chờ đợi. Ngược lại, lúc này ông Ba lại rất thong thả - Thong thả trong lo lắng đó cũng là một mưu mẹo, cũng là một trong nhiều cẩm nang ông có: “Lấy nhu thắng cương, lấy túy thắng nhu”. Muốn túy thắng nhu là phải cực kỳ khôn ngoan, không phải ai cũng xử dụng đuợc; chẳng những thế mà c̣n phải đúng chỗ đúng lúc. Những lần ông nói trước giàn đệ tử, họ đều há miệng nghe, như bị đưa vào mê hồn trận, chỉ c̣n ngơ ngác và bái phục!

    Ông Ba thư thả đánh mắt qua thế trận của đối phương và cả của ḿnh một lần nữa. Ông ngâm kín trong miệng như ngâm thơ phú, tiếng được, tiếng chăng lọt qua tai thằng Văn: “... Hai xe... Cái ǵ nữa rồi đến... một tốt cũng thành công”. Ông Ba thấy mắt thằng Văn cứ hau háu. Ông Ba không tiếc lời, kịp thời dạy nó một điều quan trọng, một điều cần nó ghi ḷng, tạc dạ:
    - Xem ư con c̣n xốc nổi lắm, c̣n hiếu thắng lắm! mà như vậy là vô cùng nguy hại con ạ! - Ông Ba vừa nói, vừa ḍ xét thái độ thằng Văn có chịu ăn lời không?
    Thằng Văn không nói ǵ ngoài hai tiếng:
    - Vâng ạ!

    Ông Ba, bỗng thẳng thốt ngại ngần - nói là sợ th́ đúng hơn - Sợ bất cứ ai, biết tỏng sự sai phạm cổ, kim mà ḿnh đang dùng nó làm phương châm chiến thắng - “Thắng nhân tâm” - của lối nói một đường làm một nẻo!

    Ông Ba thấy được trên mặt thằng Văn bày ra rơ rệt, không ăn uống lời dạy của ông. Trong cơ thể của ông bắt đầu tự tiết ra tất cả những thói quen khi bí nước, khi bị đối thủ triệt mẹo, ông hay hút thuốc, hay uống nước, đặc biệt là hay găi, găi gọ luôn tay, h́nh như cái ngứa nó chạy ṿng quanh da, thịt, găi chỗ này, ngứa chỗ kia, rấm rứt như chấu cắn. Đang ở cái thế ngồi xếp bằng, ông chuyển ngồi xổm, rồi lại trở về thế ngồi như trước - Ông lại phải dụng mẹo “ngâm quân” - cũng nằm trong triết lư nhu thắng cương - Đến lượt ông đi, ông chỉ cầm quân cờ nhắc lên rồi lại đặt xuống, đặt xuống rồi lại nhắc lên. Cái mẹo này bất đắt dĩ ông mới phải dùng đến. Thường khi gặp khách văng lai đấu cờ, xà vào quán chơi với ông vài ván. Ông Ba ung dung, thư thái đưa khách vào ”bát trận đồ”. Tất cả các mưu mẹo vốn có sẵn, ông sử dụng, điều hành từng mẹo một, vần cho đối thủ đến bải hoải, ră rời, chịu thua, cắp ô, cắp nón lên đường. Vạn nhất gặp khách, thuộc loại đại cao thủ - qua vài nước bằng thước nghề, Ông Ba đă đo được, lượng biết sức ḿnh không địch nổi, ông đành phải chuyển sang thế ngâm quân - Hàng nửa giờ mới đi một nước. Đă là khách văng lai ắt phải có công có việc riêng, th́ giờ đâu mà ngồi được. Họ đành phải bỏ cuộc - coi ḥa. Tóm lại ông Ba bao giờ cũng chỉ có thắng, cùng lắm là hoà.
    Thằng Văn đâu phải khách văng lai. Ông Ba cũng không ngờ nó sắc nước đến như vậy. Ông Ba quyết ngâm, th́ bổn phận nó sẳn sàng chờ đợi. Ông Ba luôn đổi thế ngồi. Cuối cùng ông đă phải ngồi xổm một lần nữa, và c̣n nhổm hẳn người. Ông đă nhổm lên là quyết liệt lắm. Có lẽ thằng Văn không biết. Nó làm sao hiểu nổi sự suy nghĩ sâu kín của ông Ba. Nếu là ngày thường th́ ông đă vui vẻ chịu thua nó một ván để động viên thêm tinh thần nó. Măng mọc cao hơn tre là một điều mong muốn của người làm cha. Nhưng đây là ván cờ khai xuân, không thể chiều, nựng con không đúng lúc. Ông quyết hạ nó bằng được và cũng đồng thời kết hợp giáo dục thêm cho nó một bài học đầu năm. H́nh như ông Ba cũng không thích sự thông minh của thằng Văn như thường ngày. Ông ngâm quân mà ông lại sốt ruột, hơn bao giờ, thậm chí hằn học. Âu cũng là máu me cờ quạt mà thôi!

    Thằng Văn ngồi im, chỉ chờ đợi, hễ thấy ông Ba vừa nhắc quân lên khỏi bàn, nó đă thoắt nhấc quân theo, khiến ông Ba bối rối, ông lại đặt quân xuống tính kỹ thêm kẻo hở nước. Ông Ba bực ḿnh, ông vặc thằng Văn:
    - Làm ǵ mà cứ như là vồ lấy nuốt sống ăn tươi thế? Phải từ tốn! kẻo hối không kịp!
    - Vâng ạ!

    Hai tiếng đáp lại của thằng Văn, cũng không làm dịu ḷng ông Ba - Bằng mọi thuật ông phải xoay cho kỳ được nước pháo lồng. Theo ông mọi nước ăn quân chiếu tướng, ông chỉ máu nhất nước pháo lồng - Kỳ thú! - Pháo lồng bén ngọt tay ông, nó cấp tập công phá, xung sát dữ dội như Quang Trung kéo đại quân vào Thăng Long vậy. Đối thủ, tối mắt, tối mũi, chỉ c̣n cách duy nhất là đầu hàng vô điều kiện! Trên chiếu xuân lúc này, cờ của ông Ba đang lâm vào thế bị ḱm mă, ŕnh pháo.
    Thằng Văn thấy bố đứng dậy, với tay lên đầu bàn thờ, lấy bậm rượu. Ông Ba rót tràn một ly sứ nội phủ. Ông tóp đủ ba tóp, úp ly xuống, mủm mỉn cười. Thằng Văn thấy bố cười cũng mủm mỉm phù họa. Người tinh ư có thể đoán biết ông Ba đă t́m được mẹo mới chuyển bí thành thông, chuyển bại thành thắng. Ông Ba nghĩ trong bụng: “Chuyển bại thành thắng đương nhiên là phải mở đường máu! - Phải sử dụng tà thuật! - A-di-đà-phật” - Cũng là vạn bất đắt dĩ! Ông vững dạ tự tin hơn, ông ngâm lời bất hủ: cầm binh, trong tay chỉ được phép nói hai tiếng: thắng, bại. Ông quờ tay trái kéo điếu rồi vê thuốc lào, không tỏ ra vội vă. Tay phải cầm đóm giúi khéo trúng tim ngọn đèn con đang đẹp lửa. Ngọn đèn bỗng ung khói đầy bóng. Ông Ba “Chậc!” một tiếng nhỏ. Thằng Văn nh́n đèn. Ông Ba liền sai nó đi t́m bao diêm. Nó nhanh nhảu đứng dậy loanh quanh từ bàn thờ xuống bếp, một lúc mới mang bao diêm đến, nó quẹt diêm, tiếp đóm trả lại lửa cho ngọn đèn. Ông Ba hút thuốc xong, lại sai tiếp nó đi xúc ấm - Mặc dù ấm nước vẫn c̣n nguyên cốt, chưa chế nước hai - pha ấm trà mới. Thằng Văn lại cầm ấm bước ra quành phía đầu hồi. Ông Ba không quên nhắc theo cứ nên thong thả, không được hấp tấp, nhất nhỡ lại vỡ toang cái ấm. Vỡ ấm là mất ngay cái dùng đă vậy, vỡ ấm vào ngày đầu xuân là dở lắm, làm việc ǵ trong cái ngày này phải có ư, phải biết mà kiêng cữ. Thằng Văn dẫu là đứa trẻ thông minh, cũng vẫn là cái thông minh của trẻ con. Làm sao nó biết được việc sai bảo hôm nay, nó có một nghĩa riêng. Thằng Văn một mực vâng lời bố, làm việc đều trọn vẹn - Giả sử cái ấm quư kia có bị vỡ th́ đối với ông Ba cũng không phải là dở - Ông Ba đă tận dụng cái khoảnh khắc cần kéo dài, nhờ thời gian phù hộ để thằng Văn khi ngồi lại vào bàn cờ cũng chỉ c̣n mang máng, ngờ ngợ.

    Ông Ba thuốc, nước xong, cuộc đấu lại tiếp tục. Ông Ba cũng đă văn hồi phong độ. Ông đưa tay khoan thai vuốt cḥm râu - không nhiều - không dài - mà từ lúc bắt đầu vào cuộc đến giờ chúng không một lần được bàn tay chủ thể hiện sự tŕu mến. Không khí đầm ấm lại đang hội tụ quanh bàn cờ. Ông Ba mượn giọng ngà ngà muốn thử trí nhớ của con bằng cách đổi lần đi:
    - Đi đi thôi, đến lượt mày con, con ạ!

    Thằng Văn không nói ǵ, chưa chịu chạm tay vào quân cờ. Nó sững sờ, cặp mắt tinh nhanh quét một lượt toàn bàn cờ, rồi lại đưa mắt nh́n lên ông Ba, nó không mang máng, ngờ ngợ ǵ cả. Bản chất nó là đứa trẻ hiếu kính nhưng không thể lấn án nổi sự nghi hoặc. Có lẽ nào quân cờ lại sai lệch chỗ đứng như thế này, nó đang ngần ngừ suy nghĩ, ông Ba lại giục tiếp:
    - Đến lượt đi th́ nhanh lên chứ!
    - Đâu phải lượt của con! Đến lượt bố, bố quên đấy!

    Bị triệt khoé! ông Ba chớp chớp mắt, đầu lúc lắc chậm chập, và chỉnh lại sự quên nhớ:
    - À thế hả! - ông tỏ vẻ dễ tính - thôi cũng được!

    Ư thằng Văn là muốn xếp sắp lại một vài quân về đúng vị trí cũ, ông Ba đă vội nhón quân xe đỏ của ông kéo thẳng vào trước tốt đầu định nêm vào ng̣i pháo... Phải chăng v́ máu ăn thua của nghề chơi, mà quên đối thủ đang là bố, thằng Văn bằng cái giọng bộp chộp của trẻ con nghe hơi hỗn:
    - Bị xe bên này ḱm, quân xe đỏ đă xuất nổi đâu mà đă kéo lên hà rồi!
    Ông Ba đă thấy nóng ran trên mặt, ông nghĩ: mày cương th́ tao nhu. Ông dịu lời ôn tồn:
    - Mày quên rồi con ạ!
    - Quên là thế nào? - Mắt thằng Văn như giội lửa trên tay ông Ba đang cầm quân xe đỏ.
    Ông Ba càng ôn tồn:
    - Xe của bố đă lên hà từ lâu rồi!
    - Lên thế nào được mà lên, ai cho lên mà lên! ( Hay quá !)
    Tay ông Ba run run, vẫn chưa biết đặt quân xe đỏ vào chỗ nào:
    - Theo mày th́ quân xe đỏ này phải đứng ở chỗ nào? Ông Ba nói xong c̣n đang chờ lời của thằng Văn - để biết cách ứng đối.
    Thằng Văn không nói, mắt vẫn thôi miên vào bàn tay trong đó có quân xe đỏ. Ông Ba thở dài:
    - Con hăy b́nh tĩnh nhớ lại mà xem. Bố tưởng cái đầu mày đâu đến nỗi mới nghỉ tay một lát, đă lú lẫn.
    Thằng Văn cắt lời bố, tỏ vẻ giận dữ hơn:
    - Lú lẫn thế nào được, ngay cả quân mă của con, mă giao chân để phá nước pháo lồng, mà tự nhiên mă lại... - Nó dừng lời nh́n lên bố.
    Ông Ba vẫn quyết ḱm hăm sự bực bội:
    - Mày nói ǵ lạ vậy? Tất cả đâu vẫn đấy. Thôi cầm quân mà đi đi thôi!
    Thằng Văn vẫn không chịu cầm quân mà c̣n biểu thị thái độ rất trẻ con, lạu bạu:
    - Con chẳng đi đứng ǵ nữa. Thế này th́ con đánh làm ǵ - Vừa nói, thằng Văn vừa định đứng dậy.
    Sợ thằng Văn bỏ cuộc, ông ba nghĩ: ḿnh càng nhân nhượng, nó càng lấn thêm, không chịu nổi nữa, bằng đôi mắt quắc sáng, của một ông bố bị con xúc phạm - Dẫu sao th́ cũng cứ tạm coi là như thế - Không khí đầm ấm quanh bàn cờ đang muốn di tản. Ông Ba ném lời dữ dằn:
    - Mày ăn nói với bố mày thế à?
    Thằng Văn, vẫn chỉ cúi đầu, im lặng, hai mắt ngước nh́n trộm ông Ba, khiến ông Ba giận dữ hơn, ông nhổm người, trợn mắt, đang tay khoát một cái tát - thằng Văn kịp nánh người tránh cái tát.
    - Thằng mất dạy này! Thằng khốn kiếp này! Mày cho là bố mày ăn gian à?
    Thằng Văn, hoảng hốt định tháo thân, nỗi uất ức thốt ra miệng:
    - C̣n ǵ nữa!...

    Ông Ba như bị ngă từ trên cao xuống, mắt ông tối xầm, ông quờ lấy bàn cờ, dơ lên, thằng Văn nhanh chơn thoát khỏi cửa. Ông Ba quăng theo - không trúng - Thằng Văn phóng thẳng ra đường.

    Ông Ba gầm lên giữa đám quân cờ đỏ, đen vung văi ngổn ngang.

    Mẹ thằng Văn, cùng anh, chị nó đang tṛ chuyện ở dưới bếp, bỗng thấy ầm ầm, đều tất cả chạy lên nhà, đều không biết đầu cuối ra sao, đều ngơ ngác. Không có mặt thằng Văn, chỉ mỗi ông Ba đang lồng lộn trên phản gian giữa như đảo đồng miệng hô hoán: “Bắt thằng bất hiếu về đây! Bắt ngay thằng bất hiếu về đây!...” rồi ông tự đấm ngực “thùm thụp”, mắt đảo một ṿng trên mặt những người đang vây quanh. Vợ ông ôn tồn hỏi ông, t́m hết lời khuyên nhủ, nhưng ông không trả lời, tự ḿnh vật vă thốt lên những tiếng thiểu năo cùng với hơi thở đứt quăng: “Tôi chết mất! Tôi chết mất”. Cả nhà hoảng hốt, im lặng, nhờ trí khôn mách bảo mọi người hiểu được rằng không có ǵ khác ngoài bàn cờ. Bản thân ông Ba, một con người khéo khôn, mưu mẹo, từng trải cũng ư thức được ḿnh đang hành động trong cái ṿng méo khép kín của thành ngữ “cào lồn ăn vạ!” Lời khinh rẻ rất b́nh dân đă tổng kết, chỉ mặt những kẻ cậy quyền lớn tiếng vu cáo - Ông Ba quyết không hạn chế tiến công theo kiểu ấy - không thể nào vô tư được - Vô tư lúc này là đồng nghĩa với thất bại - Thất bại không phải chỉ riêng bản thân hứng chịu!(?) - Mọi người trong nhà vẫn cứ muốn đóng cửa bảo nhau, chín bỏ làm mười, không nên quá giận mất khôn, vạch áo cho người xem lưng. Nhưng không ai dám mở miệng v́ sự khuyên nhủ đối với ông có phần xúc phạm đến sự từng trải đường đời của ông. Vợ ông mới khẽ vỗ vào vai ông, truyền lời t́nh cảm qua bàn tay; tức th́ ông Ba đưa tay hẩy bật tay vợ khỏi vai ngay. Ông Ba rất biết vợ con trong nhà đang lo lắng ǵ, đang sợ cái mặt trái của nơi ở, nó đang ŕnh mở toang trước thiên hạ, hàng xứ những thứ cần đậy điệm. Cái ngă tư: trên xuống, dưới lên, trong ra, ngoài vào khốn nạn này đang ḥng đón bao điều để chê cười. Ông Ba lại cho đây chính là dịp tốt nhờ đó nó phóng thanh mau lẹ những điều ḿnh cần nói, cần cho họ nghe, phải biết đối đầu, biến rủi thành may!

    Tin dữ lan truyền, trong làng, lốc nhốc kéo đến, trai tráng có, đứng tuổi có, tất cả đều là học tṛ, là đệ tử của ông Ba. Sau khi biết rơ sự t́nh, người nào, người nấy nổi giận đùng đùng. Họ gần như đồng thanh buộc tội thằng Văn không phải chỉ đơn giản là bất hiếu, mà là quân phản bội!

    Hành vi phá hoại thành quả, phá hoại nền văn hiến; hạ bệ thánh thần, thiêu đốt danh tiếng của cả làng! Toàn mặt đệ tử cố t́nh khoét sâu, mở rộng vấn đề, cố t́nh dấn thân v́ ông Ba, v́ đại sự. C̣n ông Ba th́ nửa mừng, nửa lo, mừng có đệ tử trung thành, lo thiên hạ, hàng xứ mỏng tai. Chính trực - mười người, trăm người lẽ đâu cả mười, cả trăm đều lầm hết.
    Được một lúc, thời gian không quá một lần đi vệ sinh. Cũng vẫn mấy tay sừng sỏ trong giàn đệ tử đă tóm được thằng Văn, và đang xốc nách nó dẫn về. Chẳng ai biết nó đă hứng được bao nhiêu đ̣n ngầm, mà thấy chân nó bước khụng khiệng, dáng đau đớn, gần như phải kéo lê giữa hai người. Những lời th́ thầm khuyên nhủ bên tai nó nên nhận là ăn cắp nước đi, bố khuyên, chót dại hỗn hào, mất dạy v.v...

    Mẹ thằng Văn nh́n thấy, liền đánh tiếng vào tai chồng: “Nó về đây rồi” Bà ta c̣n ghé tai chồng xin van cho con:
    - Dẫu sao nó cũng là trẻ người non dạ, nó là con ḿnh chứ con ai!
    Tai ông Ba không nghe thấy ǵ hết ngoài bốn tiếng: “Nó về đây rồi!”

    Ông Ba bật dậy như thuở nhỏ gặp được chim sa bẫy. Thằng Văn hiện diện. Ông Ba tóm tóc dằn ngay nó xuống đất. Một chân ông đạp giữ gáy nó, mặt chịn đất. Chiếc xe điếu trúc, có gắn con thạch sùng rễ cây làm dáng, ông nghiến răng ra sức vụt lia lịa, từ vai trở xuống bất luận chỗ nào - Trong khi ấy bên cạnh có tiếng “phải thế mới được!” Mẹ thằng Văn rơm rớm nước mắt khi nh́n thấy nó quặn quẹo dưới bàn chân ông Ba, mắt nó đỏ ướt nh́n mẹ muốn được cầu cứu. Tất cả đều không ai dám can tay ông Ba. Tất cả đều biết can ông Ba lúc này khác nào giội thêm dầu vào lửa.

    Dốc sức, mỏi tay - con thạch sùng đă bay khỏi vị trí cố định - ông Ba mới chịu buông thằng Văn, và không kèm theo một lời giáo dục nào. Thằng Văn bị no đ̣n nhừ tử, tự ôm thân ḿnh lảo đảo xuống bếp. Mẹ nó sót sa, buông theo một lời dằn vặt:
    - Cho mày chết!

    Bà nh́n theo con, âm thầm nghĩ đến sự thưởng phạt, miếng ăn kèm theo ngọn roi - tàn nhẫn, nát ḷng - Bà cứ cảm thấy ḿnh như có can dự một phần trong việc thằng Văn bị đ̣n, - một thứ ân hận vay, không mấy thông minh nhưng đáng quư của tấm ḷng người mẹ - Trái tim to hơn khối óc! Bà ngậm ngùi thương nó vừa mới được ăn bữa cỗ ngon, cả năm ngơm ngọi, nuốt vừa khỏi miệng! Bà kéo vạt áo ngắn cúi đầu lau nước mắt, và luôn miệng ngán ngẩm oán trách: “Chẳng biết ai sinh ra cái thứ cờ bói, làm khổ người ta!”

    Ông Ba lại vào giường kéo chăn phủ kín đầu, im ắng trong thắng lợi, hả dạ trong tối tăm, tỉnh táo trong bản tính, suy nghĩ trong rách rưới. Ông rạch ngược lại trong khoảnh khắc thấy mất mát hơi nhiều. Trước hết là cơ may mở đầu cho cả năm đă vỗ cánh khỏi tầm tay; hoạch định bị phá vỡ có tài thánh cũng không điều chỉnh được! Bao nhiêu mưu thuật ngấm ngầm bị bại lộ và tự trách để mất cảnh giác. Phải chăng bước suy vong đă mở cửa, từ ván cờ này, nó có khả năng tàn phá hết tất cả những ǵ mà cuộc đời đă tích lũy!...

    Ông Ba rùng ḿnh trong chăn ấm, ông hổ thẹn với xa vời mông lung. Cái để người ta quư mến, nay cũng đă bắt đầu de dọa xuống cấp. Ôi! thông minh. Một lưỡi dao sắc, tay điều khiển tùy tiện gây hiểm hoạ! Ông Ba đă hé thấy ánh sáng đang chui vào chăn - ánh sáng nhân t́nh - ông đă vỡ ḷng một bài học phải trả giá khá cao! Cái t́nh cảm cha con được lách theo, khiến ông Ba động ḷng thương con. Thương con lại thấy hổ thẹn về thua cuộc. Sự thua cuộc rộng hơn t́nh thương chăng? Ông Ba cân nhắc, so sánh kiểu nào cũng đều thấy hụt hẫng. Cái chưa cần, hay không cần th́ quá thừa. Cái cần th́ quá thiếu. Tóm lại là sự rủi ra bất hạnh đang bốn mặt vây ŕnh ông. Ông Ba lại “chậc!” lưỡi, thốt “không được phép!” Tinh thần bách chiến, truyền thống bách thắng không cho phép ông chịu thua cuộc, chịu bại trận. Sự vong, bại phải là đối thủ, phải là thằng Văn. Thằng Văn nhừ đ̣n, âu cũng là một bài học cho những kẻ thông minh! Ông Ba phấn chấn hẳn lên trong thắng lợi! Ông Ba vịn vào thắng lợi, mạnh mẽ trong chăn nhỏm dậy. Ông Ba b́nh tĩnh trên gương mặt chữ dụng lấy lại vẻ khoan hoà vốn có - không nhiều - ông Ba lặng lẽ nh́n lên bàn thờ hương vẫn thơm, đèn vẫn sáng. Cả nhà đang chào đón phút lặng yên đang đến, khiến ông Ba vụt nghĩ: “Phải chăng chỉ là cơn ác mộng! - Thực hư xáo trộn!”

    Ông Ba sai lấy rượu, rót uống suông. Qua ly thứ hai, mới ngẩm nghĩ đến lời của một người nào đó, ông đă nghe ở đâu đó: “Thứ cờ Tàu, cờ tướng nó thâm hiểm lắm Cho là thế - dẫu vượt ra ngoài giới hạn máu me - ông Ba vẫn thấy - Cả cuộc đời ḿnh quỳ gối, thờ phụng th́ không thể quay lưng được - Tất cả phải biết chắt lọc lấy điều hay mà dùng, đó vẫn là khôn ngoan nhất!” Ông Ba lại rót rượu tiếp, uống đủ ba ly. Không khí đang đầm ấm lại càng đầm ấm, chưa được đề huề v́ thiếu mặt thằng Văn. Ông sai gọi thằng Văn.

    Thằng Văn đă hiện ra trước cửa. Nh́n thằng Văn ông Ba bỗng thảng thốt - Con ḿnh đẻ ra, ḿnh nuôi nấng mười hai năm, mà như gặp lần đầu - xa lạ, gần gũi tranh chỗ trong cơi ḷng người bố. Ông Ba nh́n nó đứng hơi khum khum, má bên trái nó sưng tím, sây sát, c̣n dính đất. Vai áo nó cũng bên trái, bị con thạch sùng mấu tre xé rách trong trận mưa roi và cũng dính máu. T́nh thâm t́m lối văn hồi. Nước mắt ông Ba rân rấn rồi trào xuống g̣ má, lă chă. Nghĩ ǵ th́ thằng Văn chưa kịp, chỉ thấy bố khóc, th́ nó oà khóc to!

    Trong cơi t́nh cảm sâu nông, t́nh cảm cha con, đối thủ của cuộc chiến, đều thắng lợi và đều thất bại!
    Cả hai nh́n nhau qua nước mắt đằm đ́a, to ra bao nhiêu, mờ đi bấy nhiêu. Nó nói lên đầy đủ giữa thất bại và thắng lợi đối đầu, được chao qua chao lại theo mô h́nh con lắc.
    ____ PHÙNG CUNG ---------

    Rau Cốc - Xuân Đinh Dậu, 1958

  7. #67
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tiếp theo của Bài : Cải Cách Ruộng Đất

    Mục Tiêu Của Hợp Tác Hóa Nông Nghiệp:

    Khống Chế Nông Dân Bắc Việt

    Giai đoạn đấu tố địa chủ và lấy ruộng đất chia lại cho bần cố nông chỉ là màn I của tấn kịch Cải Cách Ruộng Đất.

    Mỗi bần cố nông được chia một mảnh đất nhỏ, một số nồi niêu, xoong chảo, bàn ghế, giường nằm của địa chủ, cuốc xẻng cầy bừa, kể cả chổi cùn, rế rách. Đối với bần cố nông chất phác, đây là một cuộc đổi đời chưa bao giờ họ ngờ tới.

    Trong thời kỳ đấu tố địa chủ, các bần cố nông bị xúi giục, bị áp lực của cán bộ Đảng đi đến chỗ đồng lơa tội ác nhúng tay vào máu địa chủ; nhưng đến giai đoạn sửa sai, họ bị trả thù khiến nhiều người phải bỏ nông thôn chạy ra thành thị đi ở đợ.

    Những người c̣n lại biết rằng số phận của họ khá bấp bênh, tuy nhiên điều mà họ không ngờ nhất là: Cuộc "đổi đời" chỉ cho họ hưởng tài sản chiếm được của địa chủ trong một thời gian rất ngắn. Họ không biết rằng Đảng cho tay này nhưng sẽ lấy lại bằng tay kia với những thủ đoạn tráo trở lừa lọc tinh vi, khiến ngay cả những người khôn ngoan, có kiến thức hoặc có thế lực c̣n không thể ngờ....

    Sau khi đă lợi dụng bần cố nông để đạt mục tiêu chiến lược giai đoạn là đánh gục giai cấp địa chủ, Việt cộng dần dần tước hết tài sản của trung nông kể cả bần cố nông qua chính sách công hữu hóa toàn bộ ruộng đất vườn ao.

    Cuộc cải cách được gọi là "long trời lở đất" ở miền Bắc đă đập nát các giai cấp, các thế lực ở nông thôn. Đối với giai cấp phú nông địa chủ, đó là một kinh nghiệm đẫm máu mà họ nhớ và sợ cho đến suốt đời. Đối với giai cấp trung nông, tuy chưa nếm mùi đau đớn nhục nhă, nhưng họ biết họ chỉ là con cá đang nằm trên thớt. C̣n giới bần cố nông, những người chất phác, chưa có kinh nghiệm lănh đạo, th́ mặc dầu cuộc cải cách ruộng đất ban cho họ một số quyền lợi, họ thừa biết người đứng chủ mưu là Việt cộng. Nhưng họ không thể kết hợp thành một lực lượng nào đáng kể.

    Tóm lại, ở nông thôn không có một lực lượng nào tồn tại để thách thức quyền lực của Đảng. Tất cả chỉ là những cá nhân bị bỏ rơi đơn độc, không nơi nương tựa, trừ bần cố nông được dựa vào Đảng để hưởng một số ưu thế nếu chịu làm tay sai cho Đảng. Khối dân chúng nông thôn hoàn toàn tan ră. Mặc dầu có chiến dịch sửa sai, phục hồi danh dự cho người có công với kháng chiến, nhưng chiến dịch này chỉ cứu được một số người c̣n sống trong tù, chứ không cứu được cả trăm ngàn người đă bị chôn dưới đất. Hơn nữa chiến dịch sửa sai không tái lập giai cấp cũ v́ Việt cộng xác nhận đường lối cải cách ruộng đất là đúng, chỉ có những cá nhân phạm phải sai lầm mà thôi.

    Sau khi chiến dịch sửa sai đă làm xẹp cơn thịnh nộ của quần chúng, Việt cộng phải đối phó với Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm
    . Mặc dầu phong trào này có đường lối quy mô (xem cuốn Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc) nhưng không có tổ chức sâu rộng và không có sức mạnh vũ trang trong tay nên sau một thời gian đă bị Việt cộng đàn áp thẳng cánh.

    Giải quyết được Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm, Việt cộng đă triệt hạ được lực lượng căn bản chống lại đường lối vô sản chuyên chính, chúng bèn tiến hành luôn giai đoạn kế tiếp của Cải Cách Ruộng Đất. Đó là nội dung của bài nghiên cứu kỳ này.

    Kể từ cuối năm 1955 và đầu năm 1956, chính sách ruộng đất ở miền Bắc của Việt cộng đă được lồng vào trong khuôn khổ đường lối công hữu hóa tư sản và tư bản được tiến hành qua nhiều bước liên tiếp nhau, gọi là những "kế hoạch" kinh tế 3 năm hoặc 5 năm. Những kế hoạch kinh tế này nhắm vào hai ngành chính là Nông Nghiệp và Công Nghiệp (Công nghiệp là danh từ Việt cộng để chỉ kỹ nghệ). Ngành Thương Nghiệp sẽ bị Việt cộng bóp chết dần theo đúng chủ trương đường lối Mác-xít không chấp nhận giới thương nhân trung gian trong guồng máy kinh tế cộng sản.

    Trong giai đoạn từ 1959 tới 1970, Việt cộng đă theo đuổi những kế hoạch kinh tế sau đây:

    - Kế hoạch 3 năm lần thứ nhất (1955-1957).
    - Kế hoạch 3 năm lần thứ nh́ (1955-1960.
    - Kế hoạch hoàn thành và chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm (1960-1961).
    - Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
    - Kế hoạch 5 năm lần thứ nh́ (1966-1970).

    Trong khuôn khổ nói trên, đợt Cải Cách Ruộng Đất đưa đến "sửa sai" là một phần căn bản của kế hoạch 3 năm lần thứ nhất. Nó giúp Đảng đánh gục giai cấp địa chủ và nhất là các thành phần chống đối bị coi là nguy hiểm, để dọn đường tiến tới mục tiêu tối hậu là truất hữu toàn bộ ruộng đất tài sản của nông dân sát nhập vào tài sản Nhà Nước. Làm sao cộng sản Việt Nam có thể ăn cướp một cách trắng trợn như vậy mà nông dân lại cam chịu đắng cay, và thế giới bên ngoài hầu như hoàn toàn không biết ǵ hết? Để trả lời câu hỏi trên, ta cần đi lần lượt qua các giai đoạn căn bản của chính sách Công Hữu Hóa Ruộng Đất:

    - Giai đoạn Tổ Đổi Công.
    - Giai đoạn Hợp Tác Xă Cấp Thấp.
    - Giai đoạn Hợp Tác Xă Cấp Cao.

    Ba bước căn bản nói trên được tiến hành nhịp nhàng với các kế hoạch kinh tế 3 năm và 5 năm, nhưng có hai đặc điểm rất quan trọng trong việc Việt cộng thi hành đường lối chính sách mà ta cần nắm vững.

    * Thứ nhất: Việt cộng luôn luôn đặt ra những thí điểm để cho cán bộ học tập kinh nghiệm và dạy lẫn nhau.

    * Thứ hai: Mỗi chính sách, mỗi giai đoạn không nhất thiết phải được tiến hành đều khắp trên toàn miền Bắc, nhưng tùy thuộc vào điều kiện thực tế từng vùng, ví dụ: Chính sách hợp tác xă cấp thấp có thể hoàn thành tại một vùng và đẩy lên hợp tác xă cấp cao, nhưng nếu tại những vùng khác, điều kiện chưa cho phép thực hiện hợp tác xă cấp cao, th́ nông dân vẫn c̣n ở trong hợp tác xă cấp thấp. T́nh trạng này dẫn đến những quy luật không đồng đều cho mỗi vùng, chẳng hạn như tiêu chuẩn lương thực khác nhau, và thuế nông nghiệp cũng khác nhau, cho mỗi vùng.

    C̣n tiếp...

  8. #68
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    I. Giai Đoạn Tổ Đổi Công

    Như đă tŕnh bày, giai đoạn tổ đổi công nằm trong kế hoạch 3 năm lần thứ nhất sau khi kết thúc cuộc đấu tố "long trời lở đất". Mỗi nông dân đều được chia một mảnh đất nhỏ để canh tác, phù hợp với tinh thần tư sản thiên nhiên của con người.

    Trong không khí mới đó, một số đông quần chúng la bần nông đều cảm thấy hân hoan. Việt cộng khơi dậy không khí vui vẻ phấn khởi bằng cách phổ biến thơ văn của các văn nô như hai câu thơ dưới đây:

    Từ đây ta có đất cày
    Con ơi bưng bát cơm đầy nhớ ai
    (văn nô Trần Hữu Thung)


    Không phải tất cả các bần nông đều hăng hái cánh tác trên mảnh đất mới. Có một số bỏ ra thành thị sinh sống, một số khác cần tiền hoặc thiếu nông cụ sản xuất nên bán ruộng đi để làm thuê. Do đó, những người có khả năng mua lại ruộng và có khả năng canh tác trở nên sung túc hơn. Đó là điều Việt cộng kỵ nhất, v́ khi có sự tích lũy tư sản trong tay một số người là có sự suy yếu quyền lực của Việt cộng.

    Nhưng t́nh trạng này không kéo dài v́ Việt cộng tung hàng loạt cán bộ về nông thôn tổ chức nông hội và "Nhóm sản xuất". Một nhóm sản xuất là một tập hợp từ 5 đến 10 hay 15 gia đ́nh giúp nhau sản xuất trong tất cả các công tác nông nghiệp. Nhóm sản xuất là h́nh thức giới thiệu cho "Tổ Đổi Công". Tổ đổi công cũng tương tự như nhóm sản xuất nhưng số gia đ́nh tham gia lớn hơn, từ 25 đến 30 gia đ́nh. Một sự khác biệt quan trọng ở sự giúp đỡ lẫn nhau dựa trên căn bản trao đổi ngày công.

    Để hướng dẫn về tổ đổi công, cán bộ Việt cộng giải thích cho nông dân như sau:

    Một anh nông dân A không có trâu để cày hoặc bừa mảnh đất cho kịp gieo mạ, có thể mượn trâu của anh nông dân B. Khi mạ đă lên, tới lúc cần cấy lúa, anh nông dân B tuy có trâu nhưng không sử dụng vào việc cấy lúa được, mà trong gia đ́nh lại neo người. Vậy anh nông dân B có thể mượn người trong gia đ́nh anh nông dân A để cấy lúa, cũng trên căn bản ngày công.

    Một ngày công của một người cũng tính bằng một ngày công của trâu, và có thể trả bằng lúa, ví dụ 3 kg lúa một ngày công cho người th́ cũng trả như vậy cho trâu. Với tổ đổi công, Đảng ủy xă ấn định một lịch tŕnh theo đó các gia đ́nh trong tổ luân phiên làm giúp nhau, mang cày bừa, cuốc xẻng đi canh tác giúp, hoặc sửa nhà, lợp mái cho các gia đ́nh trong tổ.
    Quan niệm của tổ đổi công đă tạo một ấn tượng tốt trong đầu nông dân, v́ nó đưa ra những tiêu chuẩn đẹp và đề cao tinh thần liên đới hỗ tương. Không những thế, nó c̣n có vẻ hợp lư v́ giúp nông dân giải quyết được t́nh trạng bế tắc khi thiếu phương tiện hoặc nông cụ cánh tác để cho kịp "thời vụ". Ví dụ nếu không kịp có trân để cày bừa th́ không kịp gieo mạ lúc ruộng đang có nước. Nếu lấy sức người để cày bừa sẽ quá lâu, và sau một trận nắng lớn đất khô sẽ không cấy lúa được nữa, và ngôn ngữ Việt cộng gọi là "không kịp thời vụ".

    Ngoài ra, trên phương diện kinh tế, lối làm ăn trong tổ đổi công có các đặc điểm (trên nguyên tắc) như sau:

    - Quyền tư hữu ruộng đất vẫn c̣n được duy tŕ như trước.
    - Quyền làm chủ hoa màu vẫn thuộc về người chủ đất nông dân.
    - Công của ai người ấy hưởng.

    Duy có ba ư niệm mà Việt cộng muốn mớm cho nông dân qua h́nh thức tổ đổi công:

    * Thứ nhất: Nếu có thể sử dụng trâu ḅ, nông cụ của nhau, tại sao không tập trung vào một nơi để sử dụng chung (mở đầu cho giai đoạn hợp tác hóa nông nghiệp).

    * Thứ hai: Trong tổ đổi công, mọi người cùng chung vai làm việc tập trung nhân lực, khiến cho dân quen dần với lối làm ăn tập thể.

    * Thứ ba: Trong tổ đổi công có tổ trưởng, tổ phó, tổ nông hội, tổ thanh niên, tổ chức như công đoàn sau này, có sinh hoạt học tập đôn đốc chủ trương của Đảng, của nhà nước, đặc biệt là chính sách thuế nông nghiệp. Với guồng máy tổ chức này, một mặt Việt cộng gài cán bộ vào làm tai mắt theo dơi hành vi và tư tưởng chính trị của mỗi nông dân, một mặt đôn đốc chuẩn bị dân sản xuất dưới chiêu bài nhân dân làm chủ và Đảng lănh đạo (chưa tới giai đoạn Nhà Nước Quản Lư). Trong mỗi buổi sinh hoạt tổ hoặc sinh hoạt rộng lớn hơn, thành phần Đảng viên thường len lỏi vào chiếm chừng một phần ba, thành phần cảm t́nh viên cũng vào khoảng một phần ba, và đă được Đảng vận động trước để ủng hộ những đề nghị có lợi cho chính sách Đảng. Như vậy bất cứ những nghị quyết nào quan trọng đều được hai phần ba biểu quyết, lợi cho Đảng mà bề ngoài Đảng vẫn khoe khoang là dân chủ v́ dân quyết định mọi việc.

    Trong giai đoạn Tổ Đổi Công, thuế nông nghiệp bắt đầu tăng cao. Ngay ở những vùng đất nghèo nàn cằn cỗi như phía Nam Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, thuế nông nghiệp cũng từ 20% đến 25%, nghĩa là cứ 1000 kg thóc th́ phải nộp tới 250 kg, và số thóc đó phải phơi thật khô và quạt thật sạch. Ở những vùng đất tốt như Thái B́nh Nam Định, thuế nông nghiệp c̣n cao hơn nữa, và nói chung, thuế nông nghiệp có tiêu chuẩn cố định, bất kể thiên tai, hạn hán hoặc lụt lội.

    Việc tiến hành kế hoạch Tổ Đổi Công không đồng loạt và đều khắp trên toàn cơi Bắc Việt, v́ Việt cộng rất dè dặt và tiến hành làm nhiều đợt tại nhiều thí điểm khác nhau. Tại khu Tự Trị Việt Bắc (xem bản đồ) gồm các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, kế hoạch tổ đổi công măi tới năm 1964 mới bắt đầu. Như vậy, cho tới tháng 12-1958 kế hoạch tổ đổi công vẫn chưa thực hiện xong hết trên toàn miền Bắc, chỉ mới có 65% gia đ́nh nông dân tham gia tổ đổi công. Tuy nhiên, tại những nơi mà tổ đổi công tiến triển điều ḥa th́ chế độ hợp tác xă cấp thấp bắt đầu được thí nghiệm.

    Trong giai đoạn tổ đổi công, đời sống nông thôn Bắc Việt tương đối c̣n tạm dễ thở. Mặc dầu có một số cá nhân đi làm thuê, nhưng những gia đ́nh đông người nhờ nhiều nhân công đă sản xuất nhiều, trở nên sung túc, mua thêm trâu cày, mua thêm nông cụ. Những gia đ́nh ít người, tuy sản xuất ít hơn, nhưng v́ ít miệng ăn nên cũng dành dụm được ít tư sản. Đó là hiện tượng "tích lũy tư bản" mà cộng sản không chấp nhận. Thực ra, giai đoạn công hữu hóa đă được hoạch định tiếp theo để giải quyết vấn đề tích lũy tư bản này. Một ích lợi hiển nhiên trong giai đoạn tổ đổi công là Việt cộng đă có cơ hội ước lượng chính xác năng suất trung b́nh của nông dân, để đo lường trước xem tối thiểu có thể bóc lột được của nông dân là bao nhiêu khi bước lên giai đoạn hợp tác xă cấp thấp (danh từ Việt cộng dùng để chỉ thủ đoạn bóc lột này là: "Giải Phóng Sức Sản Xuất").

    +

    Tổ Đổi Công
    Thời điểm
    thực hiện Số Tổ
    Đổi Công Tỷ số gia đ́nh
    tham gia Tài Liệu
    10-1957 72000 24,3% Báo Nhân Dân 3-10-57
    11-1957 8569 29% Báo Nhân Dân 28-11-57
    01-1958 102000
    07-1958 137600 31,6% VNI 15-8-58 (+)
    10-1958 203582 51,1% VNI 23-1-59 (+)
    12-1958 300000 (++) 65% Đài Hà Nội 29-12-58

    Ghi chú:

    (+) VNI: Tạp chí Viet Nam Information xuất bản ở Rangoon
    (++) 300000 tổ đổi công gồm khoảng 2 đến 3 triệu gia đ́nh nông dân

    C̣n tiếp...

  9. #69
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    II. Giai Đoạn Hợp Tác Xă Cấp Thấp

    Trong khi chế độ Tổ Đổi Công chưa hoàn tất đều khắp trên toàn cơi Bắc Việt, th́ vào năm 1958, nghị quyết 14 của Trung Ương Đảng Lao Động Bắc Việt đề ra nhiệm vụ và mục đích của Kế Hoạch 3 Năm lần thứ hai là để "Xây Dựng Nền Kinh Tế Dân Chủ Nhân Dân", khác với nền kinh tế trong giai đoạn Tổ Đổi Công mà Việt cộng gọi là Nền Kinh Tế Dân Tộc Tư Sản.

    Cán bộ Việt cộng tổ chức học tập khắp nơi về nhu cầu phải vượt qua giai đoạn Kinh Tế Dân Tộc: "Cảnh Làm Thuê Cho Chủ" vẫn c̣n, từ đó đưa đến t́nh trạng bất b́nh đẳng, và kềm chế sức sản xuất, vậy phải tiến lên giai đoạn kinh tế dân chủ nhân dân để "giải phóng sức sản xuất và thành lập quan hệ kinh tế b́nh đẳng giữa con người.

    Hệ thống sản xuất mới trong ngành nông nghiệp được gọi là Hợp Tác Xă Cấp Thấp. Cùng lúc với Hợp Tác Xă Cấp Thấp ở nông thôn, có cuộc cải tạo Công Thương Nghiệp Tư Bản Tư Doanh ở thành thị mà ta sẽ nghiên cứu sau này. Mặc dầu từ cuối năm 1957 trong khi các tổ đổi công chưa hoàn tất, một số Hợp Tác Xă Cấp Thấp đă được phát động làm thí điểm, nhưng chính thức vào năm 1958 phong trào Hợp Tác Xă Cấp Thấp mới ra đời, và được thực hiện sớm muộn tùy nơi. Nhất là tại Khu Tự Trị Thái Mèo và ở Việt Bắc như Tuyên Quang, Thái Nguyên v.v..., phong trào hợp tác xă được thực hiện rất muộn v́ Đảng c̣n phải ve vuốt các nhóm thiểu số.

    Khi chế độ Hợp Tác Xă mới ra đời, Việt cộng chưa bắt buộc toàn thể dân chúng phải gia nhập, và phần lớn chỉ có đảng viên, giai cấp bần nông gia nhập trước và được hưởng những ưu quyền như con em được đi học, xă viên được cấp phân bón, nông cụ v...v....

    Những khẩu hiệu trong giai đoạn này là:

    Đảng viên đi trước
    Làng nước đi sau,
    Đoàn viên đầu tàu
    Vào hợp tác xă.

    Việt cộng đă phát động phong trào hợp tác xă một cách rầm rộ như một đại hội, với bích chương, biểu ngữ, chiêng trống, chương tŕnh phát thanh, báo chí, phim ảnh cổ động cho quan niệm hợp tác xă làm ăn,

    "Buôn có bạn, bán có phường
    Làm ăn có xóm có làng mới vui"

    hoặc:

    "Làm ăn riêng lẻ như nghé không đàn
    Có tổ có đoàn, mạnh lắm ai ơi"

    Để diễn tả sức mạnh của lối làm ăn hợp tác, các văn nô nghĩ ra những lời thơ nghe rất phấn khởi và khoái lỗ tai:

    "Nghiêng đồng đổ nước ra sông"

    hay là:

    "Vắt đất ra nước thay trời làm mưa"

    Câu trên ngợi ca cảnh tát nước từ những cánh đồng bị úng nước để cứu cho lúa khỏi chết. Câu dưới tả cảnh tát nước từ sông vào cánh đồng khô cạn để cứu hạn hán. Ngoài ra, hai câu trên c̣n đề cao khả năng "cải tạo thiên nhiên" của lối làm ăn tập thể.


    C̣n tiếp...

  10. #70
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    1. Nguyên Tắc Căn Bản của Hợp Tác Xă Cấp Thấp

    Hợp tác xă cấp thấp có một số khác biệt căn bản so với Tổ Đổi Công.

    Thứ nhất: Trong Hợp tác xă cấp thấp, những xă viên không c̣n làm chủ đất đai và dụng cụ làm ruộng của ḿnh (Việt cộng gọi là "phá vỡ quyền tư hữu tư liệu sản xuất của tư nhân"), những nông dân, sau khi được chia ruộng đất qua cuộc cải cách, được cán bộ tuyên truyền gia nhập hợp tác xă bằng cách nộp hết ruộng đất cho hợp tác xă, nông cụ được tập trung vào một nơi gọi là kho vật liệu.

    Thứ hai: Ban quản trị hợp tác xă gồm những thành phần đảng viên ưu tú mà thôi. Ban quản trị này lănh đạo việc "Phân phối sức kéo" (tức là người và trâu ḅ), phân phối nông cụ thành các đội hoặc tổ sản xuất. Một xă viên sẽ không c̣n làm việc trên mảnh đất cũ của ḿnh, mà sẽ làm trên mảnh ruộng của hợp tác xă.

    Thứ ba: người nông dân sau khi vào hợp tác xă không c̣n làm chủ hoa màu do ḿnh sản xuất, không c̣n gánh thóc về nhà sau mỗi mùa gặt, mà gánh thóc vào kho lẫm của hợp tác xă. Thay v́ hoa màu thu được, người nông dân xă viên được trả lương như một công nhân viên Nhà Nước. Tiêu chuẩn trả lương ra sao là điều ta sẽ nói tới sau.

    Mặc dầu những nguyên tắc trên đi ngược lại tinh thần tư sản cố hữu của người nông dân, nhưng cán bộ Đảng đă vẽ ra trước mắt người dân quê Việt Nam một h́nh ảnh huy hoàng của tương lai: Nhờ hợp tác làm ăn, năng suất sẽ cao hơn trước, và người hưởng lợi trực tiếp là xă viên. Những khẩu hiệu như: "Hợp Tác, cánh đồng năm bảy tấn" trở thành những chỉ tiêu về gia tăng năng suất trong những kế hoạch 3 năm và 5 năm. Ngoài ra cán bộ Đảng c̣n hứa hẹn những tiến bộ kỹ thuật để nâng cao đời sống xă viên như máy cày, máy bơm nước, điện khí hóa nông thôn....

    Nông dân miền Bắc nói chung vốn cầu an và có tinh thần làm ăn theo xóm theo phường, nên ban đầu cũng có nhiều người nghe lời tuyên truyền của Đảng gia nhập hợp tác xă. Có một số ít không gia nhập hợp tác xă v́ lúc này chưa có sự bó buộc. Theo nông dân Lê văn Hùng, th́ tại làng Hàm Cách của anh, thuộc huyện Thành Hà, tỉnh Hải Dương, ban đầu chỉ có 20% nông dân tham gia hợp tác xă cấp thấp. Những nông dân không gia nhập hợp tác xă nghĩ rằng họ có thể làm ăn riêng lẻ được, và Việt cộng cũng tạm để cho họ yên trong giai đoạn đầu.

    Đối với những nông dân gia nhập hợp tác xă, chỉ trong ṿng một thời gian ngắn đă vỡ mộng v́ những thu hoạch mà họ mang về cho gia đ́nh không tương xứng với một phần nhỏ của mồ hôi nước mắt mà họ nhỏ xuống gốc rạ. Họ đă phải đóng góp rất nhiều cho hợp tác xă, nhưng đến cuối mùa họ tổng kết lại th́ thấy phần lớn những đóng góp của họ rơi vào một cái thùng không đáy. Sở dĩ như vậy là v́ sự cách biệt quá xa giữa một bên là chế độ đóng góp (gồm có lao động, thuế, và các quỹ xă hội...), và một bên là chế độ hưởng thụ theo công điểm (ghi công làm việc của mỗi người).

    Chế độ lao động ấn định mức làm việc của mỗi người. Chế độ thuế ấn định bổn phận tài chánh của mỗi công dân. C̣n các quỹ đóng góp th́ trên lư thuyết tượng trưng cho sự để dành hoặc sự đầu tư của nông dân giống như quỹ an sinh xă hội hoặc những quỹ bảo hiểm của các nước tự do. Chế độ công điểm ghi chép số giờ lao động mỗi người đóng góp mỗi ngày để dựa vào đó trả tiền công cho mỗi người.

    Để dễ dàng nh́n thấy sự lợi hại của hợp tác xă, ta hăy đặt lên bàn cân để so sánh sự đóng góp công sức tài vật của nông dân, với những số thù lao mà họ được hưởng.



    C̣n tiếp...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 11-09-2014, 07:09 AM
  2. Kiểu Cách hành xử cấp lănh đạo CHXHCNVN
    By alamit in forum Tin Việt Nam
    Replies: 83
    Last Post: 05-03-2013, 03:20 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 03-08-2011, 08:56 PM
  4. Replies: 13
    Last Post: 18-03-2011, 10:31 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •