IV. Những Đặc Điểm Của Giai Đoạn Cải Cách Ruộng Đất 1951-1956 Đưa Đến Chiến Dịch Sửa Sai
Những nỗ lực và những hoạt động của cộng sản nhằm dành giựt quyền lực hoặc từ vai tṛ có quyền lực trong tay để đàn áp quần chúng nhân dân, tất cả đều là những nỗ lực và hoạt động của chiến tranh mặc dầu nhiều khi không có tiếng súng nổ. Đó là cuộc chiến tranh diễn ra từ 1951 tới 1956 phối hợp hai loại đặc điểm nổi bật:
- Những đặc điểm có tính cách chiến tranh phi quy ước
- Những đặc điểm có tính cách Mác-xít Lênin-nít điển h́nh
Nếu ta c̣n nhớ những đặc điểm của chiến tranh phi quy ước trong bài nghiên cứu đầu tiên đại cương về chiến tranh quy ước và phi quy ước, ta sẽ thấy lại những đặc điểm này trong cuộc cải cách ruộng đất của giai đoạn 1951-1956.
1. Dựa vào lực lượng quần chúng
Đây là một đặc điểm điển h́nh của chiến tranh phi quy ước cũng như của chiến dịch Đấu Tranh Chống Phản Động, Đấu Tranh Giảm Tô, Đấu Tranh Cải Cách Ruộng Đất. Để tiêu diệt mầm mống chống đối, Việt cộng đă không sử dụng biện pháp pháp lư, biện pháp hành chánh, hay sử dụng cảnh sát công an, quân đội, mà đă huy động nông dân, bằng cách nhóm Đại Hội Nông Dân, dùng các "đội đấu tố" và "đội cải cách" xâm nhập vào dân để xách động dân, làm như thể nông dân đứng chủ động đ̣i tiêu diệt phản động, tiêu diệt địa chủ. Việt cộng c̣n công khai giải tán hệ thống hành chánh xă trong giai đoạn "đội cải cách" về làng phát động đấu tranh, bề ngoài làm như đề cao quyền lực của nông dân, nhưng thực sự bên trong là gán ghép trách nhiệm cho dân, làm cho bàn tay nông dân có dây máu địa chủ, nghĩa là nếu họ không có chủ động th́ ít ra cũng là kẻ đồng lơa tội ác.Tại sao họ Hồ lại cần có liên minh tội ác đó? Theo sự suy đoán của các hồi chánh viên có liên hệ tới cải cách ruộng đất th́ một trong những lư do có tính cách chiến lược là tương quan lực lượng giữa Đảng và giới địa chủ, phú nông, trung nông và tất cả nông dân hữu sản cho thấy Đảng là thiểu số. Quan niệm dựa vào lực lượng quần chúng vừa là một đặc điểm của chiến tranh phi quy ước lại vừa phù hợp chủ trương cố hữu của cộng sản và kỹ thuật đấu tranh của cộng sản. chủ trương của cộng sản là tiêu diệt tư hữu, tiêu diệt tư sản, tất nhiên phải tiêu diệt địa chủ là những phần tử tư sản "ngoan cố" nhất. Kỹ thuật đấu tranh của cộng sản là "lấy mâu thuẫn giải quyết mâu thuẫn": nghĩa là Tạo ra mâu thuẫn giữa các lực lượng thù địch đẩ các lực lượng này tiêu diệt lẫn nhau và cộng sản ngồi rung đùi hưởng lợi. Đó là chiến lược xúi Ngô đánh Ngụy để ḿnh lấy ngon đất Kinh Châu (Tam Quốc Chí). Áp dụng vào trường hợp đấu tranh cải cách ruộng đất, "lấy mâu thuẫn giải quyết mâu thuẫn" là lấy bần cố nông giải quyết bài toán địa chủ. Nếu dùng biện pháp pháp lư để cải cách ruộng đất như các nước Á Châu khác, Việt cộng phải quốc hữu hóa hoặc mua rẻ ruộng đất của địa chủ rồi chia cho nông dân, như thế đích thân Đảng phải đối phó với khoảng 1 triệu người thuộc thành phần địa chủ phú nông và trung nông, mà trong đó có nhiều người có công với kháng chiến, có uy tín với dân. Tự lực đối phó với khoảng 1 triệu có tư sản, trong khi đảng viên ṇng cốt của Việt cộng lúc đó chưa đầy 500 ngàn người là một việc nguy hiểm.
2. Bất chấp pháp lư, bất chấp quy ước hành chánh
Đây là đặc điểm thứ hai của cộng sản khi áp dụng h́nh thái chiến tranh phi quy ước vào cải cách ruộng đất. Chẳng những Việt cộng không sử dụng các biện pháp pháp lư và các quy ước hành chánh thông thường, mà chúng c̣n trắng trợn vi phạm các nguyên tắc pháp lư và hành chánh được coi là khuôn mẫu để duy tŕ trật tự quốc gia và xă hội của các nước văn minh từ 400 năm qua.
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, qua bài diễn văn đọc ngày 30-10-1956 trong một cuộc họp của Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội, đă nêu lên những vi phạm nguyên tắc pháp lư, trong Cải Cách Ruộng Đất:
a) Nguyên tắc thứ nhất: Không hành phạt các tội đă phạm quá lâu rồi mới bị khám phá v́ khó xác định các bằng chứng buộc tội. Khi buộc tội một người với những bằng chứng hồ đồ, xă hội sẽ tạo ra những tiền lệ bất công làm mất uy tín của cơ chế cầm quyền và gây xáo trộn xă hội. Việt cộng đă vi phạm thô bạo nguyên tắc thư nhất khi mớm cung cho những bần cố nông vu oan gia họa cho nạn nhân Cải Cách Ruộng Đất về những tội đă phạm từ mấy chục năm trước, dựa vào những bằng chứng hồ đồ (như hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân đă tường thuật).
b) Nguyên tắc thứ hai: Theo lời Luật sự Nguyễn Mạnh Tường: Trách nhiệm của phạm nhân th́ chỉ một ḿnh phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung với vợ con, của gia đ́nh", chỉ trong thời đại phong kiến dă man mới có luật tru di tam tộc để trừng phạt bà con họ hàng của người có tội. Nhưng riêng trong chế độ Việt cộng, không những thân nhân của người có tội phải trả nợ máu, mà ngay cả những người không có liên hệ máu mủ ǵ với nhau mà cũng bị chết chùm với nhau v́ mang cái nhăn hiệu chung là địa chủ, phú nông. "Kích tỷ lệ" là một vi phạm thô bạo của nguyên tăc thứ hai về pháp lư.
c) Nguyên tắc thứ ba: Theo luật sư Nguyễn Mạnh Tường là "muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là những kẻ đă mục kích sự phạm pháp và cung khai một cách cụ thể, rơ ràng và chắc chắn. Một nhân chứng thôi cũng chưa đủ, ít ra phải có hai nhân chứng khai phù hợp với nhau, mới được là đáng kể... Khi nêu lên nguyên tắc thứ ba trên đây, có lẽ ông Nguyễn Mạnh Tường muốn ám chỉ những vụ Đấu Giảm Tô như anh Nguyễn Văn Thân thuật lại, ví dụ: "Một cái sẹo cũ v́ bị ngă từ hồi c̣n bé sẽ được tŕnh bày là vết dao chém của địa chủ ác ông... Hoặc nếu một bà lăo rụng hết tóc v́ già hay v́ bệnh hoạn th́ sẽ dùng chứng tích này để tố địa chủ nắm tóc giật đánh", (xem bài trước). Những bằng chứng cần thiết để chứng tỏ vết dao chém tối thiểu là phải tŕnh bày được con dao có vết máu của nạn nhân. V́ bất chấp nguyên tắc thứ ba trên đây, trong giai đoạn "Đấu tranh chống phản động" đội cải cách của Việt cộng đă "mớm cung theo dây chuyền", khiến nhiều nạn nhân đă khai lung tung ra ngoài sự dự liệu của cán bộ Đảng và làm tṛ cười cho đấu trường cải cách, cũng như làm tṛ cười cho lịch sử mai hậu.
d) Nguyên tắc pháp lư thứ tư: "Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho ḿnh, và khi thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là một trọng tội, ṭa phải cử luật sư bào chữa không, cho bị can... Khi điều tra, thẩm vấn, tuyệt đối không được dùng phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ bị cn, mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ dỗ đương sự"...
3. Thủ Tiêu Chế Độ Pháp Trị Chân Chính
Một chế độ pháp trị chân chính phải xác định rơ đâu là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người từ thường dân cho tới người lănh đạo. Việt cộng chẳng những thủ tiêu quyền lợi của người dân qua việc bất chấp các nguyên tắc pháp lư căn bản, mà c̣n lờ luôn trách nhiệm pháp lư của cấp lănh đạo đảng, nhất là họ Hồ, tên chủ mưu trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu. Về điểm này ông Nguyễn Mạnh Tường viết:
..."Trước hết, bức thư của ông Hồ Viết Thắng tự phê b́nh và xin rút lui khỏi Mặt Trận Trung Ương chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi..." "...là một nhà luật học, tôi chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần pháp lư, sự nhận tội lỗi của một người không đủ để quy định trách nhiệm của người ấy...".
Lập luận của ông Nguyễn Mạnh Tường có ư nói rằng:
Thứ nhất: Giải pháp hạ tầng công tác Trường Chinh và sự từ chức của Hồ Viết Thắng chỉ là một giải pháp chính trị, và nếu ngưng ở đó, Việt cộng đă cố t́nh xí xóa trách nhiệm pháp lư đối với các vụ sát nhân có mưu định rơ ràng. Và ông Tường gọi đó là "chính trị lấn áp pháp lư".
Thứ hai: Trách nhiệm của Hồ Viết Thắng có thể rất lớn, có thể rất nhỏ, nghĩa là nếu Hồ Viết Thắng chỉ là một kẻ thừa hành, th́ cần phải truy nguyên ra cái trách nhiệm pháp lư cao chót vót là Trung Ương Đảng và Hồ Chí Minh. Không xác định quyền lợi cùa người dân và trách nhiệm pháp lư của Đảng và nhà nước Việt cộng đă thủ tiêu chế độ pháp trị chân chính. Mà thủ tiêu chế độ pháp trị chân chính là một đặc điểm có tính cách Mác-xít Lênin-nít điển h́nh. Và nó là nguyên nhân của bao xương máu, chết chóc và đau thương diễn ra trên đất Việt Nam từ hơn 30 năm nay.
Bài nghiên cứu này kết thúc một giai đoạn đặc biệt của Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc, và không có nghĩa cuộc cải cách ruộng đất của Việt cộng đă chấm dứt khi ruộng đất được lấy từ địa chủ để chia cho nông dân nghèo. Không! Sau khi chia ruộng cho nông dân nghèo, Việt cộng đă từ từ lấy lại hết tất cả ruộng đất tài sản của họ qua các chiến dịch Tổ Đổi Công, Hợp Tác Xă Cấp Thấp, Hợp Tác Xă Cấp Cao,v.v... song hành với các kế hoạch kinh tế 3 năm, kế hoạch kinh tế 5 năm,v.v.. mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong những bài tới.
Trong phần kết luận của bài này, chúng ta hăy đưa ra một nhận xét về trách nhiệm chính trị và pháp lư của một hành động liên quan đến trật tự công cộng và tính mạng của người dân.
Một người thường dân phạm tội giết người phải chịu trách nhiệm pháp lư cho hành động đó. Nếu việc giết người có chủ mưu, đó là một trọng tội về h́nh sự, và h́nh phạt thường là lấy mạng đền mạng. Một cấp lănh đạo chính trị, nếu giết người có chủ mưu v́ mục đích chính trị th́ phải chịu trách nhiệm về pháp lư, và sau đó c̣n phải chịu thêm trách nhiệm về chính trị. Trách nhiệm pháp lư càng gia tăng gấp bội nếu là tội tàn sát nhiều người với sự dự mưu kỹ càng. Một chế độ, một tập đoàn thống trị phạm tội tàn sát tập thể cả trăm ngàn người cũng phải chịu trách nhiệm chính trị và pháp lư như trường hợp chế độ phát xít Đức, phát xít Ư và quân phiệt Nhật,v.v... Những kẻ lănh đạo, tùy theo trách nhiệm và sự dự mưu đều phải đền tội cả về phương diện chính trị và pháp lư. Trước hết bị tước hết quyền hành chính trị và sau đó lấy mạng đền mạng.
Công lư đă được thi hành tại Đức, tại Ư, tại Nhật, sau Đệ Nhị Thế Chiến, và trật tự quốc gia nhờ đó đă được tái lập tại Đức, tại Ư, tại Nhật. Nhưng cũng kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, v́ Liên Xô không bị trừng phạt về những tội diệt chủng nên các chế độ cộng sản từ Âu sang Á đă thừa kế thủ tiêu nền pháp trị chân chính. Chúng phủi tay chối bỏ mọi trách nhiệm pháp lư đối với tội ác của chúng v́ nhân dân bất lực trước họng súng đàn áp, và v́ công lư không có sức mạnh để thực thi.
Ở Việt Nam, Hồ chí Minh và đảng Việt cộng đă phạm nhiều tội ác chồng chất. Tội tàn sát trong Cải Cách Ruộng Đất chỉ là một trong nhiều tội ác tày đ́nh của chúng trong hơn 30 năm qua. Mỗi lần gặp khó khăn v́ nhân dân ta đấu tranh, chúng lại t́m cách xoa dịu, xí xóa, khi th́ bằng chính sách sửa sai, khi th́ bằng chính sách nới lỏng các biện pháp kềm kẹp kinh tế, khi th́ bằng màn xiệc "đổi mới tư duy". Nhưng luôn luôn có nhiều người bị chúng lường gạt, và mỗi lần như thế, Việt cộng lại chối bỏ được trách nhiệm về tội ác, và trở nên mạnh hơn khi những nhóm người hoặc thế lực ngu xuẩn giúp chúng cơ hội và phương tiện phục hồi sức mạnh để tiếp tục tội ác.
Ngày nay, dân ta đă thức tỉnh, và đă đấu tranh mạnh mẽ buộc Việt cộng phải lănh trách nhiệm đối với tội ác của chúng. Dân ta cương quyết th́ hành động công lư bằng cách lật đổ chế độ Việt cộng và thiết lập một nền pháp trị chân chính, nghĩa là bất cứ tập đoàn nào phản nước hại dân phải chịu trách nhiệm chính trị và pháp lư trước toàn dân, tức là trả lại quyền hành chính trị và chịu sự phán đoán của luật pháp quốc gia. Nhân Dân Việt Nam coi những biện pháp "sửa sai" hoặc "cởi mở" hoặc "đổi mới" hoặc "ḥa giải ḥa hợp" là những tṛ xiệc bịp bợm để bịp những nhóm người ngu xuẩn, hoặc đón gió làm tay sai cho ngoại bang.
C̣n tiếp...
Bookmarks