Page 85 of 304 FirstFirst ... 357581828384858687888995135185 ... LastLast
Results 841 to 850 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #841
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    Ḍng Sông Định Mệnh - Chương VIII

    HAI NHÁNH SÔNG PHÂN LY



    "Nhất nhật bất kiến như tam thu hề"

    Đă hai hôm nay Thiệu không gặp Yến?

    Chẳng phải là ngày nghỉ, nhưng nh́n đồng hồ thấy kim chỉ gần ba giờ chiều, Thiệu cũng quyết định đi xi-nê. Vừa bước vào cửa rạp chàng đứng sững lại, Yến cũng có mặt trong hàng người nối đuôi chờ lấy vé. Thiệu biết là Yến làm như không trông thấy ḿnh, v́ rơ ràng khuôn mặt nàng càng phụng phịu và môi nàng càng đỏ mọng.

    Đă từ hai hôm nay Thiệu vẫn nghĩ: trong khi chưa có dịp may đẹp đẽ, thà cứ giận nhau mà trọng nhau c̣n hơn làm lành gượng gạo mà rẻ rúng nhau, Thiệu chưa muốn làm lành với Yến trong dịp này, nhưng nghĩ bất chợt hai người gặp nhau ở đây mà cùng quay mặt đi th́ thái độ đó cạn tầu ráo máng quá;

    Chính v́ ở t́nh trạng cơi ḷng bị chia xẻ giữa hai thái độ trái nghịch mà khi tiến lên lời chàng nói với Yến nghe gượng gạo:

    - Yến ra ngoài này chờ, để tôi lấy vé một thể.

    - Thôi cám ơn anh, chẳng cần ạ.

    Đâm lao đành phải theo lao vậy, Thiệu nói:

    - Bức tranh của Yến xong rồi, Yến đến xem nhé.

    - Thôi cám ơn anh, chẳng cần anh ạ.

    Như một bức tranh vẽ hỏng; nét bút đưa vào để chữa làm hỏng thêm, Thiệu thấy giận ḿnh, giận Yến đến cực độ. Chàng đi ra khỏi cửa rạp.

    Rồi mười ngày qua đi nặng nề. Thiệu không gặp Yến. Chàng thấy cơi ḷng hoang vắng và chàng biết Yến cũng chẳng sung sướng ǵ hơn. V́ ḷng kiêu hănh v́ ḷng tự ái cố hữu của con người, Thiệu, yến cũng mắc vào khe răng cưa của định mệnh. Thiệu phải cố gắng lắm mới giữ được cho tờ Người Việt bộ mặt khả ái cũ -kể cả về nội dung lẫn h́nh thức. văn chương, nghệ thuật, nếp sống maàlàm ǵ, khi không c̣n t́nh yêu? Chỉ có t́nh yêu làm đẹp người và người chỉ đẹp trong t́nh yêu. Thiệu thầm trách Yến đă không hiểu rằng mọi sự ở đ̣i đều hư ảo trừ t́nh yêu. Trong t́nh yêu của Thiệu, Yến sẽ đẹp măi, Yến đă dại dột chạy trốn t́nh yêu của Thiệu!

    Hồn Thiệu là một khoảng trời.

    Khoảng trời có một v́ sao đẹp.

    V́ sao đẹp rụng rồi.

    Làm sao nói hết được cái hoang vắng của khoảng trời chợt rụng mất v́ sao đẹp?


    Ngày nào Thiệu cũng đến thăm chị Hoa. Để tự an ủi.

    Nhưng nhiều khi bóng hiền dịu của chị Hoa cũng không an ủi nổi. Có đêm đang ngủ chàng sực thức giấc lắng nghe tiếng ống khói chuyến tầu đêm phụt lên, âm thanh nặng nề như bước đi của một loài ác quỷ đang cố kéo trái đất vào ḷ hủy diệt.

    Dù trái đất có hũy diệt th́ tro bụi của Thiệu cũng phải t́m tro bụi của Yến mà hoà quyện lấy nhau.

    Thiệu muốn hét lên: "Yến ơi không có vũ trụ khách quan, vũ trụ nhuộm đẫm tâm t́nh cá nhân, em thấy không?"

    Ngày thứ mười hai, một tin vui sét đánh đến với Thiệu:chàng nhận đưọc thư toà Đại sứ Pháp cho hay chàng đă được cấp học bổng vào năm thứ ba Trường Mỹ Thuật Paris. Lúc đó vừa là trung tuần tháng Chín. Tính ra chàng chỉ c̣n một tháng trời để sửa soạn giấy tờ, thu xếp công việc, sao cho lên đường kịp ngày nhập học vào khoảng đầu tháng Mười sắp tới.

    Định mệnh đă làm xong công việc của nó, chẳng c̣n sao cứu gỡ được nữa! Bây giờ Thiệu chỉ c̣n nên thuận theo định mệnh mà làm cho cuộc t́nh duyên giữ được vẻ đau thương quyến rũ. Chàng không báo cho Yến vội. Chàng đă có một ư định.

    Từ ngày gặp lại Yến, tuy hai người gần gũi nhau mà Thiệu chưa hề ôm Yến trong ṿng tay bao giờ. Chàng đă ôm các vũ nữ, chàng đă ôm các cô gái thường, nhưng chàng không muốn ôm Yến. Trước đây chàng vẫn thầm nguyện chàng chỉ ôm Yến khi Yến là vợ ḿnh. Chàng sợ việc ôm trước Yến, gần gũi da thịt nàng như vậy sẽ làm mất cái đẹp lư tưởng của mối t́nh chăng? H́nh như khi người đàn bà đă biến thành bản thể của t́nh yêu th́ dù ở tuổi nào, dù đă lăn lộn đến đâu trong trường t́nh, người ta vẫn nén ḷng với thái độ trầm lặng để đứng vừa đủ xa người yêu mà ngắm cho ḷng thêm mê say, hơn là tiến lại quá gần mà ḷng kém thanh tao. Định mệnh đă quyết thế, hai người như hai v́ sao lân cận - chẳng ai là hành tinh của ai - mỗi v́ có một quỹ đạo riêng nếu sát gần lại quá sẽ gây rối loạn cho nhau.

    Suốt hai mươi lăm hôm liền Thiệu đi lo giấy tờ, thu xếp và bàn giao cộng việc ṭa báo, sửa soạn hành trang. Thiệu hết sức tránh không đi qua hiệu bào chế đường Bonard, không cả đi ci né nữa, e bất chợt gặp Yến như hôm nào. Chuyện này Thiệu có tâm sự qua với Tạo. Trước ngày đi hai hôm, Tạo họp các anh em trong ṭa soạn làm tiệc tiễn hành. Đặc biệt hôm đó Tạo ít bông đùa và nh́n Thiệu đôi mắt ưu ái. Thiệu biết không phải Tạo trầm ngâm v́ đôi bạn sắp phải xa nhau hàng năm trời mà v́ Tạo c̣n thông cảm với nỗi buồn của chính Thiệu nữa. Lúc dùng đồ tráng miệng. Thiệu yêu cầu Tạo đờn cho ḿnh nghe. Tạo ngồi ngay vào dương cầm và chơi "Tang ai khúc" (Marche funebre) trong bản đại Hợp Tấu thứ ba của Beethoven. Tiếng đàn dứt, mọi người vỗ tay, Thiệu buồn rầu hỏi Tạo:

    - Sao cậu chơi Marche funèbre của Beethoven. Đă có một nhạc sư phê b́nh: nghe khúc này người ta có cảm tưởng như cùng đám tang đi vào một mầu hồng rực. Tôi nghĩ rằng cậu đương đi vào tương lai mầu hồng của sự nghiệp, nhưng mang theo một cái tang trong ḷng!

    Đôi bạn nắm tay nhau im lặng, niềm thông cảm như ánh sáng biêng biếc của vài v́ sao trên ṿm cao một đêm đông hiu hắt tỏa xuống sưởi ấm cho hai người.

    Ngày cuối cùng là ngày tiệc tiễn hành của chị Hoa. Lần này đến lượt chị Hoa đi Cái Sắn đón anh chị Tín và các cháu. Bữa tiệc khá lớn và vui. Y như lần trước, chị Hoa chỉ ngồi để gắp thức ăn cho Thiệu. Tuy chị không nước mắt chảy quanh, v́ chị biết Thiệu đi lần này là đi du học ở một nước văn minh và khi thành tài Thiệu có một địa vị đáng kể, nhưng thỉnh thoảng chị vẫn nhắc câu: "Sang bên đó đừng chơi bời ǵ cậu nhé, ḿnh đă trưởng thành, giời bắt tội cha mẹ mất sớm ..."

    Chắc là chị có được nghe nhiều chuyện về cung cách ăn chơi tại kinh thành ánh sáng.

    Thiệu khuyên các anh chị đừng ai phải ta tiễn tận trường bay Tân Sơn Nhất làm ǵ, v́ chàng ngủ lại ở đây, sớm mai khi ra đi có đông đủ cả nhà là được rồi. Ư kiến này được chị Hoa nhiệt liệt tán thành. Chị vốn ghét đưa tiễn.

    Chín giờ tối hôm đó Thiệu đến t́m Yến. Chàng cho xe đậu vào góc đường Bonard, đúng chỗ xe đă đậu ngày chàng gặp lại Yến lần đầu. Thiệu thủng thỉnh đi lên. Nụ cười và đôi mắt Yến sáng lên khi nàng vừa nhận ra Thiệu.

    Thiệu nói:

    - Tôi muốn gặp Yến một chút được không?

    Yến vui mừng:

    - Được chứ. Mời anh vào trong nhà.

    Thiệu lắc đầu:

    - Không, xe tôi ở đầu đường, Yến theo tôi tới đó.

    - Nếu vậy, anh chờ tôi vào thay chiếc áo blouse này đă.

    Yến đă thay blouse, nàng mặc một chiếc áo màu cánh chả rực rỡ nhất.

    Khi ra tới đường, Yến hỏi:

    - Anh giận Yến?

    Lần đầu tiên Yến xưng "Yến" thật thân mật với Thiệu.

    Thiệu cười hỏi lại:

    - Hay là Yến giận anh?

    Lần đầu tiên Thiệu xưng "anh " với Yến mà cả hai đều cảm thấy rất tự nhiên.

    Yến nói lại, giọng tinh nghịch:

    - Nhất định anh giận Yến.

    Thiệu đi sát lại hơn, vai Thiệu và vai Yến cố ư dựa vào nhau để cùng tiến bước, Thiệu cúi xuống âu yếm:

    - Nếu hiểu chữ giận theo nghĩa siêu h́nh của nó th́ anh thường xuyên giận Yến, nghĩa là thường xuyên ... yêu Yến.

    Yến ngước mắt nh́n Thiệu rồi cúi xuống không nói. Hai người vừa tới chỗ để xe.

    Thiệu dừng lại trước, hai người đứng dối diện, đôi mắt Yến nh́n Thiệu thoáng vẻ lo lắng. H́nh như linh tính đă cho nàng biết trước sự chẳng lành.- Anh phải đến báo với Yến- Thiệu nói- đến chào Yến th́ đúng hơn, mai anh đi Pháp.

    Thực t́nh lúc đó Yến tưởng nàng khụy xuống:

    - Anh đi Pháp?

    Anh được cấp học bổng sang đó học nốt về Hội Họa.

    - Anh đi mấy năm?

    - Có thể là ba bốn năm, có thể là năm mười năm, bao giờ tự xét ḿnh quả đă thành tài.

    Hai tay Yến nắm lại và nàng cắn môi, không phải để suy nghĩ mà để có đủ nghị lực chịu đựng nhát búa khốc liệt của định mệnh.

    Giây lâu Yến hỏi, giọng lạc hẳn đi khiến Thiệu có cảm tưởng như nghe tiếng đó trong giấc chiêm bao:

    - Chúng ḿnh giận nhau thật ư hở anh?

    - Thật chứ!

    - Kể có thế mà chúng ḿnh giận nhau, vô lư thật.

    - Cuộc đời mà không có những cái vô lư như thế th́ chán chết.

    Yến ngưới nh́n Thiệu trách móc:

    - Yến nghĩ xem anh c̣n biết làm ǵ hơn? Giời c̣n có khi nắng khi mưa huống chi là người. Miễn là bây giờ chúng ta không giận nhau nữa là được rồi. Ấy là tại mai anh đi Pháp, nếu anh c̣n ở đây lẽ cố nhiên chúng ta c̣n giận nhau như thường. Định mệnh muốn thế Yến ạ.

    Giọng Thiệu trầm xuống nữa:

    - Nhưng quả là chúng ta đă yêu nhau thật, điều đó mới cần thiết. Giả sử anh giầu, anh có nhà cao cửa rộng, có ôtô Mỹ th́ gặp nhau, thân nhau, yêu nhau chúng ta vẫn nhiều khi bối rối tự hỏi: chúng ta có yêu nhau thật không, hay là cái giàu sang cái hợm hĩnh của anh đă khêu gợi được cái bất kham ở yến và cả hai cùng có ảo tưởng là đương yêu nhau? Cái nghèo của một trong hai người đă là một thứ cửa hẹp lọc lấy phần tinh túy của t́nh nhau.

    Có hai giọt nước mắt đọng trên mi mắt Yến mà Yến th́ đứng lặng yên như pho tuợng. Thiệu nắm lấy tay Yến:

    - Kiếp sau Yến là vợ anh! Cho đến cái ngày xa xôi đó, anh lúc nào cũng mê say h́nh ảnh em.

    Buông tay Yến ra, Thiệu thấy hai bàn tay nàng bỏ thơng. Yến vẫn không nói ǵ, không nói được ǵ.

    Thiệu mở cửa xe lấy ra bức tranh trao cho Yến, Chàng nói:

    - Thảnh hoặc c̣n nhớ đến anh, em nghĩ đến một người yêu em từ thuở c̣n thơ ấu, yêu tha thiết mà vẫn cố nén ḷng không hôn em để giữ trọn vẹn t́nh lư tưởng. H́nh ảnh của anh đó.

    Thế là thoát, câu nói cuối cùng Thiệu nói xuôi một mạch trơn tru như một ḍng suối lao ḿnh trên một triền đá phẳng.

    Yến vẫn không nói ǵ, không nói được ǵ. Nàng lẳng lặng cầm bức tranh rồi quay đi? Nh́n phía sau, Thiệu thấy hai cánh tay Yến hơi co lên để khung tranh khỏi sát đất. Ánh ngọn đèn đường lọc qua lùm cây đổ xuống bên bờ vai thon chợt rung động của nàng.

    Thiệu không thể đi theo Yến, Thiệu không thể cầm bức tranh đó cho Yến, bởi c̣n gần Yến lúc này chàng e rằng ḿnh sẽ không nén được nỗi lóng xúc động và như vậy - theo ư chàng - hơi lố đối với một người đàn ông.

    Về phần Yến, tuy đi trong bàng hoàng đau đớn mà nàng c̣n kịp nghĩ rằng: Phải, Thiệu chưa hề ôm nàng thật nhưng nàng đă thất thân với Thiệu từ lâu rồi. Cả tâm hồn Yến là của Thiệu, Yến chẳng thể tự chủ mỗi khi bị ch́m ngập trong đôi mắt của Thiệu. Yến đă thừa biết tự bao giờ trong trí tưởng tượng cao khiết và hùng vĩ của người yêu nàng chỉ là một pho tượng khỏa thân.

    Khi bóng Yến đă khuất vào cửa hiệu, Thiệu thở phào một tiếng thật dài, ngước nh́n lùm cây, ngước nh́n bóng đèn rồi phóng tầm mắt lên gặp mấy v́ sao.

    Vừa đóng cửa xe, chàng vừa khép miệng nói khẽ:

    - Có thế ḿnh đi mới yên ḷng. C̣n ǵ buồn hơn khi xuôi ḍng, con sông c̣n phải ngóai cổ lại thắc mắc về một khúc quành.

    Thiệu định sẽ đến thẳng nhà Tạo xem sớm mai có những bạn nào ra Tân Sơn Nhất tiễn ḿnh?

    Từ nay nắng chẳng c̣n chiếu lên con đường mịn nằm nép dưới cầu như người vợ yêu nằm nép dưới cánh tay chồng, mà là thứ nắng vàng lám căng giây tâm t́nh để bắt lấy tiếng sầu từ vạn ngả như lời thơ Huy Cận:

    Ôi, nắng vàng sao mà nhớ nhung

    Có ai đàn lẻ để tơ trùng

    Có ai tiễn biệt nơi xa ấy

    Khiến bước chân đây cũng ngại ngùng

    H́nh như có mùi thơm hoang dại của những đồi hoa sim màu tím, mùi thơm như vùng lên thành tiếng kêu thương bát ngát, rồi quyện lấy người bộ hành trên đường ṃn cho cả hai cùng bớt cô độc. H́nh như có người con gái mặc áo hoa thẫm hễ nói lên là bối rối như ánh trăng trong chậu nước sóng sánh, v́ nàng trong trắng quá, trong trắng như con chim nhỏ kia cất tiếng hót mà chẳng kịp nghe tiếng ḿnh hót. Người con gái áo thẫm nét mặt thật đẹp, mũi dọc dừa thật đẹp, khi miệng cười th́ mắt cũng cười. Nhưng sao cả khuôn mặt đẹp đó bỗng trôi theo ḍng sông mây trắng trên đèo Hải Vân?

    Máy đă nổ d́u dịu. Thiệu vẫn chưa cho xe chạy. Yến bướng bỉnh thế đấy. Không bao giờ chịu khóc trước mặt ai, chỉ khóc một ḿnh. Hay là Thiệu đi thẳng vào cửa hiệu, tới pḥng Yến gơ cửa, Yến đương khóc, Yến sẽ lau vội nước mắt nhưng vẫn c̣n ngấn ướt để Thiệu thấm cho khô. Lau nước mắt cho Yến làm ǵ nhỉ? Lau như vậy là khơi nguồn nước mắt vô tận cho người yêu đáng thương. mai Thiệu đă ra đi sớm rồi mà. Đừng lau ngấn nước mắt đó để tư tưởng của đôi bên gom lại có đủ sức mạnh khơi cho "càng sâu nghĩa bể, càng dài t́nh sông."

    Ôi con sông dài!

    Con sông dài làm sao!

    Con sông dài như chẳng bao giờ gặp biển!

    het chuong VIII
    Last edited by Vân Nương; 05-11-2011 at 06:36 AM.

  2. #842
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Vân Nương nghỉ giải lao chút nhé

    MỘT MẢNH TRỜI HÀ NỘI

    PHAN LẠC TIẾP


    Bác tôi là một người hoạt bát, tướng mạo uy nghi, ăn nói dơng dạc.

    Theo những điều được kể lại th́ bác tôi c̣n là một người có chí khí hơn người.

    Trong cuốn Hữu Bằng Xă Chí của Sơn Trung Đồ Nhật Tân nói về chí khí của bác tôi như sau: “Làm trai thứ nhất khai quốc, thứ nh́ khai mỏ...” Và bác tôi đă khai mỏ than ở Ḥa B́nh, đặt tên là mỏ than Cao Phong.

    Và để tiện đi lại, bác tôi c̣n mở một hăng xe hàng cũng đặt tên là Cao Phong chạy đường Hà Nội - Ḥa B́nh.

    Mỏ than của bác tôi, như được nói lại, rất trúng, khai thác rất tốt. Thấy thế, Tây ỷ thế mạnh chiếm mất mỏ than này. Bác tôi đưa đơn kiện từ Ṭa án Đông Dương, qua Pháp rồi cuối cùng tới Ṭa án Quốc Tế. Cuộc kiện cáo kéo dài bao nhiêu năm, qua nhiêu biến đổi của thời cuộc, đến năm 1949, Ṭa án Quốc Tế xử cho bác tôi thắng kiện, nhưng mỏ than ấy ở Ḥa B́nh đang ch́m đắm trong chiến tranh, và lúc ấy bác tôi đă già.

    Nhận được phán quyết của Ṭa án Quốc Tế, bác tôi sai anh Hai tôi đọc và dịch lại, rồi cười x̣a.

    Vẫn theo sự kể lại, ngoài việc khai mỏ, bác tôi đă mở nhà máy sản xuất trà, hầu cạnh tranh với trà Chính Thái bên Tàu. V́ theo bác tôi biết th́ người Tàu họ mua trà của người Việt ḿnh ở vùng Thái Nguyên, đem về Hà Nội sao tẩm và đóng bao Chính Thái. Họ muốn bán giá nào cũng được. Người ḿnh lại ưa những thứ của Tàu, nên trà của bác tôi không được dân chúng ưa thích, nên cũng thất bại...

    Nhưng, vẫn theo sự kể lại, thuở ấy, đầu thế kỷ này, lúc Tây mới qua, sĩ phu Bắc Hà phân tán. Kẻ th́ nồng nhiệt nêu lẽ Cần Vương, người th́ phát động phong trào Đông Du. Một số người khác th́ tương kế, tựu kế, học ngay cái hay của Tây để mở mang dân sinh, đất nước.

    Thuở ấy, ở Bắc Kỳ người ta nhắc đến việc kinh doanh đường biển của ông Bạch Thái Bưởi, cùng lúc ấy là việc khai mỏ của bác tôi... V́, dù thế nào, giữa một xă hội lạc hậu, chậm tiến, các cụ đă nh́n thấy sự văn minh của Tây, như câu vè thời ấy:

    Thằng Tây nghĩ nó cũng tài

    Chế ra đèn điện thắp hoài năm canh.Thằng Tây nghĩ nó cũng sành

    Chế ra tàu điện chạy quanh phố phường.

    Thật thế, với ngọn dầu lạc lù mù, sánh sao được với đèn điện. Đèn dầu lạc th́ le lói, ra trước gió là tắt. Đèn điện th́ sáng suốt đêm, sáng cả lúc mưa, lúc băo ở giữa trời.

    Đi lại, xưa là đi vơng, đi cáng, phiền hà diệu vợi. Xe hơi ít người có, nhưng dân chúng Hà Thành có xe điện lanh canh chạy khắp phố phường, phải coi là “Tây nó tài” thiệt chứ.

    Tiếc là bác tôi sinh bất phùng thời. Trí th́ có mà thời th́ không.

    Tuy thế, lúc bé, ở làng quê hẻo lánh, gia đ́nh bác tôi là tượng trưng cho cả một sự thành công. Bác tôi buôn bán giàu có Buôn vỏ từ Nam ra Bắc. Làm đại lư sợi Nam Định để bán lại cho một số tỉnh ở Bắc Kỳ. Với dân làng th́ vừa bán chịu sợi để dân làng làm nghề dệt vải. Vải dệt xong lại bán chịu vỏ xó để nhuộm vải thành màu nâu, bán lên mạn ngược và khắp các tỉnh Trung Du.

    Thầy tôi th́ đưa khung cửi máy về làng, cải thiện kỹ thuật dệt vải. Làng tôi các năm 30, 40 phất lên rất nhiều. Nhà ngói xây lên thành nhà Tây hai tầng. Xe đạp nhà nào cũng có mấy chiếc đi lại từ quê ra tỉnh ngày mấy chuyến.

    Lúc ấy th́ bác tôi cho xây lại ngôi từ đường theo kiểu mới, có nhờ kiến trúc sư từ Hà Nội vẽ kiểu. Nhà hai tầng, có hai ban công, từ đó nh́n qua ngọn tre tuốt ra cả Đồng Mát và bao quát khắp làng. Bác tôi cũng cổ xúy đắp lại đường sá và cho lát gạch khắp các lối đi. Nhờ thế từ Hà Nội về quê bác tôi có thể đi xe hơi nhà về tận Ngă Ba

    C̣n tiếp...

  3. #843
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Xe hơi ḥm màu tím, đỗ ở giữa làng, mùi ét-xăng thơm lừng. Trong cái tủ ở pḥng khách, tôi lục được một chồng sách in quảng cáo về các kiểu ô-tô. Tôi c̣n nhớ một câu lục bát thế này:Nào ai muốn sắm ô-tô

    Tốt th́ nhất hiệu Pơ-Giô bấy giờ.Bác tôi th́ hoạt bát và kinh doanh như thế, nhưng lại chỉ có một người con trai độc nhất, mà tất cả chúng tôi được gọi là Anh Trưởng.

    Gọi là “anh”, nhưng anh cũng gần ngang tuổi thầy tôi. Cứ như tôi biết, th́ anh được hai bác tôi cưng chiều hết mực, cho đi học trường Tây, nhưng lại chẳng đỗ đạt ǵ, cả ngày chỉ quanh quẩn với mấy quân cờ tướng, lúc th́ nắn nót một vài bài lưu thủy, hành vân qua cây đàn nguyệt.

    Nhưng cả cờ ca đàn đều làng nhàng, chả có ǵ đặc sắc. Hai bác tôi buồn.

    Khi anh em tôi được sinh ra, cũng như anh lớn của bác Hai tôi nữa đều được bác tôi cưu mang, bác bảo “Đứa nào học được cứ ra sức mà học, bác nuôi”.

    Ư bác tôi mong có con cháu nối cái chí ngang dọc kinh doanh của bác tôi. Trong các con cháu có anh Luông, con bác Hai tôi và anh Hai tôi. Cả hai đều được bác tôi nuôi cho ăn học tại Hà Nội từ bé.

    Lúc tôi học xong lớp dự bị, được ra Hà Nội ở nhà bác tôi là năm 1945. Nhà bác tôi đông, khách khứa buôn bán tấp nập.

    Tôi như lạc vào giữa một rừng người, bơ vơ. Tôi lột bỏ cái áo sa đen, để mặc quần xọc, đi giày ba ta, hoặc dép cao su Con Hổ đi học.

    Chính lúc ấy anh Luông là người để ư đến tôi nhất. Hôm vào lớp học, cô giáo ra một bài luận tả “Hà Nội vào mùa cách mạng”, tôi lúng túng quá. Anh Luông đă giảng cho tôi cách vào bài, cách dàn bài, cách kết luận. Anh bảo, ǵ th́ ǵ, việc ǵ cũng phải có đủ các yếu tố nó xảy ra tại đâu, lúc nào, như thế nào... Như câu thơ “Gà vừa gáy sáng rạng đông”, là tả lúc ngày bắt đáu lúc gà gáy sáng, ở nhà quê tôi đă thu thập được lời chỉ dạy ấy, và bài luận của tôi được cô giáo phê là “khá”

    .Cũng thời gian ấy tôi đă thấy được giữa Hà Nội xa hoa là những người dân từ các tỉnh lũ lượt kéo về và rải rác nằm chết đói ở các hè phố.

    Tôi cũng đă thấy đoàn ngựa cao, to của Nhật tiến vào Hà Nội.

    Rồi là quán Tàu kéo sang. Quân Tàu đi trên xe hơi cắm cờ sao trắng, quân Tàu đi bộ, chân quấn sà cạp quảnh gánh, một bên là súng, một bên là quần áo. Quân Tàu đói, phù thủng, lê lết, thật là hèn.

    Lúc ấy, bọn trẻ con Hà Nội có câu hát, dựa theo điệu của bài Tiến Quân Ca: “Đoàn quân Tàu Ô đi sao mà ốm thế. Bước chân phù lang thang trẽn đường Việt Nam, là sao trắng phấp phới...”.

    Tôi cũng đă thấy những thanh niên Hà Nội nô nức đi biểu t́nh, đông nghẹt ở phố Tràng Tiền, tụ họp trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Tôi cũng đă thấy đoàn quân du kích từ chiến khu tiến về Hà Nội. Và từ đó, dân Hà Nội líu lo bài “Nhớ Chiến Khu”:

    C̣n đâu trên chiến khu trong rừng chiều

    Bên đèo tiếng suối reo, đoàn quân réo...

    Tôi đă thấy quân Pháp từ Hải Pḥng, kéo qua cầu Long Biên tiến vào thủ đô Hà Nội ngày 19 tháng 5 năm 1946.

    Tôi cũng đă thấy những thanh niên Thủ Đô đội mũ ca-lô vàng, gác ở các đầu phố, trong đó có các anh tôi, bạn bè của anh tôi.

    Tôi đă thấy Hà Nội sửa soạn tản cư. Dân Hà Nội đục tường từ nhà nọ sang nhà kia để sửa soạn cho ngày toàn quốc kháng chiến.

    Tôi thấy nhiều quá, và càng lúc càng bị cuốn hút vào những biến động kinh khiếp của chiến tranh. (Các điều ấy tôi đă kể thấp thoáng qua cuốn Quê Nhà, 40 năm trở lại).

    Ở đây tôi nhớ đến anh Luông, con trai độc nhất của bác Hai tôi. Người đă săn sóc chỉ bảo tôi rất chi li khi tôi vừa từ quê ra tỉnh. Và, giờ đây tôi có đôi phút khả năng diễn tả sự việc, phải chăng tôi bắt đầu từ lời chỉ dẫn của anh Luông tôi.

    C̣n tiếp...

  4. #844
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Anh Luông không cao, có lẽ hơi thấp th́ phải. Chân hơi ṿng kiềng. Tóc hơi quăn, nói rất là nhanh, và có cái tật là vừa nói vừa lấy tay ấn vào một lỗ tai rung rung, như anh bị ngứa tai lắm th́ phải.

    Lúc ấy, năm 1945, anh đă có gia đ́nh và đă có hai con, một gái và một trai. Cháu trai có tật nói lắp bắp. Anh làm việc tại Viện Đại học Hà Nội. Lương bổng chắc cũng nh́ nhằng.

    Anh đi làm bằng xe đạp, và chị Luông, vợ anh là một cô hàng guốc ngay ngoài cửa chợ Đồng Xuân. Chị cao, gầy, tuy là con gái Hà Nội thật đấy mà răng vẫn là răng đen.

    Con gái Hà Nội lúc ấy hầu như vẫn chưa lột bỏ hẳn cái áo tứ thân của đồng nội, ăn mặc vẫn nhiều màu nâu hơn là những màu sắc tươi tắn khác, như câu vè lúc ấy:

    Tân thời chả đáng là bao

    Năm xu đôi guốc, một hào đôi hoa.

    Con gái Hà Nội đi guốc. Và chị Luông tôi là cô hàng guốc.

    Phải chăng chị đă đóng góp một cách cụ thể vào vẻ đẹp của con gái Hà Thành.

    Chị ngồi trước một gian hàng nhỏ, la liệt các kiểu guốc đủ kiểu. Đôi guốc gỗ một, gỗ vông, quai da là của đàn ông chân chỉ. Guốc gỗ, sơn then, phẳng đáy vẫn là của đàn ông, loại đàn ông có ăn có học.

    Bên cạnh đó vẫn có các đôi dép da trâu cũ, cho các bà nhà quê. Nhưng phần lớn guốc của chị là guốc cho các cô. Guốc cao gót sơn then đen bóng, quai chéo, đóng bằng cái đinh tán lớn, là guốc cho các bà, các cô tân thời. Một vài đôi guốc gót thật là cao, gót nhọn, người ta bảo “gái nhảy mới đi loại guốc này”.

    Nhưng vui mắt nhất là các đôi guốc cho trẻ con, đủ cỡ, đủ màu. Êm ả như đôi guốc sơn dầu có vẽ h́nh con cá vàng trong ḷng guốc, ấy là guốc cho các cô gái nhỏ, lên bảy, lên mười. Sặc sỡ màu sơn xanh đỏ, quai tím, quai vàng là guốc cho các em c̣n bé, lên ba, lên năm...

    Chị ngồi thoăn thoắt, vừa bán vừa cầm cái búa đóng quai vào guốc.Nhát búa nào cũng chỉ một nhát là đinh lút cán, đinh không cong queo. Chị buông búa, lấy con dao to bản và có h́nh như một quả xoài, chị đưa một đường, phần quai guốc thừa rơi ra ngọt xớt.

    Lúc ấy tôi mới ngoài 10 tuổi, ra cửa hàng của chị để xem chị bán hàng th́ ít mà để chị gọi quà cho ăn th́ nhiều.

    Thấy tôi, chị cười, “ăn bún nhá...” Không để tôi trả lời, chị gọi ngoái ra phía sau, gọi bà bán bún: “Này, cho em tôi một tô bún riêu...” Bát bún riêu cua, loại bát loe miệng, thắt lại ở giữa gọi là bát chiết yêu.

    Những lọn bún nhỏ, trắng ngần cuốn lại với nhau như những quả trứng, một mảng gạch cua màu nâu được múc khéo léo nằm ngay giữa bát, bên cạnh vài miếng cà chua đỏ nấu hơi nhừ. Vài cọng húng xanh ngắt được bày lên. Bát bún bốc khói nghi ngút. Nước bún th́ nóng mà các lọn bún lại lạnh, nên ăn bún vào mùa đông cũng ngon v́ thấy được vị ngọt, nóng và hơi cay của nước canh. Mùa hè nuốt lọn bún lạnh vào thấy mát cả ruột Và hàng bún chả nữa. Những gắp chả được lật qua lật lại. Mỡ nhỏ xuống các miếng than hồng, bốc khói bay thơm lừng...

    Năm 1946, cả Hà Nội tản cư. Chúng tôi có quê, nên về quê lánh nạn.

    Tôi thích lắm. Được trở lại quê nhà sung sướng bao nhiêu. Những hôm trời không có trăng, nh́n về Hà Nội một vùng ánh sáng, mà nhớ đến câu hát một thời “Hà Nội mà cháy khói lửa ngập trời”.

    Chị Luông tôi từ Hà Nội về quê, có đem theo được một số hàng là guốc đủ loại. Tất nhiên, không thiếu hộp đinh, cái búa và con dao h́nh quả xoài.

    Chị đem ra chợ Nửa bày bán. Tết đến, hàng của chị thật đông, bán chưa đến hôm chợ Tết chị đă hết hàng. V́ không có ai làm guốc cung cấp cho chị nữa, chị thu dọn hàng.

    Nhưng năm ấy, năm 1947, Tết đến, dù là Tết kháng chiến làng tôi rộn ràng tiếng guốc của chị Luông tôi. Tôi cũng có một đôi guốc mới. Nhưng sau Tết, sau những đêm liên hoan đón mừng bộ đội, cả vùng lại rộn rịp lo tản cư.

    Người thành thị th́ lặng lẽ “dinh tê” về thành. Cuộc sống mỗi lúc mỗi thêm khắc khổ và lo lắng. Anh Luông tôi th́ ở lại Hà Nội chiến đấu “quyết giữ Hà Nội thủ đô ta”.

    Nhưng mấy tháng sau, anh cũng như các thanh niên thuộc trung đoàn Thủ Đô đă bỏ Hà Nội. Anh Luông tôi đă về lại được quê gặp được vợ con. Anh lại ở ít ngày rồi lại phải “theo anh em đi công tác”.

    Chị Luông tôi và hai con và bà cụ thân sinh ra chị sống giữa làng Nửa mà lo lắng, bơ vơ. Guốc đă bán hết, lấy ǵ mà sống. Một đêm, tôi thấy chị thổi cơm thật khuya, nắm lại. Quần áo buộc lại gọn gàng vào mấy cái bị. Và sáng ra, lúc tôi tỉnh dậy, nhà đă vắng. Tôi biết gia đ́nh chị đă lặng lẽ dinh tê về Hà Nội.

    Gia đ́nh chị đă về Hà Nội, c̣n anh Luông tôi th́ đi biệt tăm. Cuộc chiến mỗi lúc mỗi gần. Rồi Tây về càn quét. Rồi du kích đêm đêm bắc loa kêu gọi mọi người đi đào đường để cho xe tăng địch khỏi đi lại được. Rồi các người khả nghi bị giết.

    Tiếng súng lẻ loi ban đêm. Những ai có máu mặt, có uy tín một chút là sợ hăi, chưa biết khi nào du kích đến bắt đi.

    Một hôm anh Luông tôi ở đâu về, cùng với mấy người bạn nữa. Người th́ có cái sáo, người th́ có cái kèn Harmonica, người th́ có cái đàn Mandoline. Tất cả đều là thanh niên Hà Nội, và trong đó có một chị, tóc cắt ngắn, mặc áo nâu nhưng thắt chẽn ở lưng.

    Họ về, Thầy tôi bảo làm cơm đăi. Ao cá trước nhà, ban sáng cá nổi lên bóp bọt. Lấy cái lưới xúc lên. Con th́ rán, con th́ nấu với khế chua và th́ là. Họ ăn vui lắm.

    Cơm xong, các người khác đi ra đ́nh làng để sửa soạn cho buổi nói chuyện và liên hoan ban tối. Anh Luông tôi ở lại, nằm đắp chăn lên cơn sốt. Cơn sốt xong, anh lại tỉnh như không.

    Thầy tôi gọi anh lên nhà trên, nói với anh điều ǵ đó, tôi không biết. Nh́n vẻ mặt hai người lúc đi ra hiên, tôi chắc là không vui. Thầy tôi vào gian bên, mở tủ ra, lấy lọ thuốc kư ninh màu vàng, đưa cả cho anh và nói: “... ấy là chú thấy thế th́ nói thế. Anh nên suy nghĩ cho kỹ.

    Thời buổi nào th́ cũng lấy nhân nghĩa làm trọng. Chứ cứ như thế này... thôi, chú cho cả lọ thuốc này, cất đi mà dùng. Nhớ là khi phải dùng đến nó th́ nhớ đến lời chú nói mà về...”

    Anh Luông tôi cầm ống thuốc, cất vào túi áo trong “cám ơn chú”, rồi lấy ba lô đi ra đ́nh. Anh đi lặng lẽ, buồn bă, bước những bước lặng lẽ từ cổng trong tới cổng ngoài. Trước khi rẽ mặt ra đường cái, anh dừng lại, ngoảnh lại nh́n tôi, anh đưa tay vẫy vẫy, rồi bước đi.

    Tôi đứng đó rất lâu. Khi nh́n lại, tôi thấy Thầy tôi vẫn đứng ở trước hiên nhà, vẻ mặt lặng lẽ. Không hiểu sao trong tôi lúc ấy bỗng trống vắng thế nào. Và đó là h́nh ảnh cuối cùng tôi có với anh Luông.

    Anh, sau đó, nghe đâu đi vào mặt trận Hạ Lào, và không bao giờ về nữa. Không biết anh có dịp dùng đến các viên thuốc kư ninh quư hiếm mà Thầy tôi đă để dành cho anh?

    Như bao nhiêu thanh niên thời đại, anh Luông đă v́ yêu nước mà ra đi. Bao nhiêu người đă ra đi và chẳng trở về. Làng tôi sau đó phải trải bao nhiêu là cay đắng, tang thương.

    Tôi lớn dần lên và trở ra Hà Nội học lại. Chị Luông tôi lại là bà hàng guốc ở cửa chợ Đồng Xuân.

    Mỗi lần đến thăm chị, tôi không c̣n dám ngồi ăn bún nữa, mà chị cũng chẳng mời nhiều. Chị đă coi tôi là người lớn. Chị khi vắng khách có hỏi tôi: “Từ quê, em có tin ǵ của anh không...” Chị thở dài buồn bă... “Anh đi như thế đă mấy năm.”

    C̣n tiếp...

  5. #845
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Rồi cuộc chia đôi đất nước.

    Bao nhiêu người đi Nam, chị, gia đ́nh chị không đi. Chị chẳng yêu ǵ Cộng Sản cả nhưng chị muốn chờ anh Luông tôi. Chị ở lại. Và chúng tôi đi Nam.

    Thấy chúng tôi đi, gia đ́nh nhà bác tôi đi, chị bồn chồn, chị nói trong nghẹn ngào... “Anh Luông, anh Luông sao mà chẳng có tin tức ǵ vậy... anh có về không?”

    Chị ở lại, những người kháng chiến trở về. Những thanh niên của Hà Nội. Bạn bè của anh tôi lần lượt về. Kẻ c̣n người mất. Nhưng anh Luông tôi th́ không bao giờ về nữa. Anh đă bỏ ḿnh đâu đó trên đường đi Lào.

    Nỗi thất vọng của chị Luông được gửi qua mấy ḍng bưu thiếp vào Nam, rồi thôi. Chị trở thành góa phụ của một chiến sĩ văn hóa đă bỏ ḿnh trong cuộc chiến kháng Pháp.

    Cháu tôi, thằng Khang dù chẳng mong muốn đă được là con của người chiến sĩ đă hy sinh ấy.

    Trong gian khổ và đắng cay, thôi th́ được cái ǵ hay cái đó. Suốt mấy chục năm qua, và qua một cuộc chiến mới, cháu tôi đă lớn lên, cháu đă được những ǵ đă phải làm những điều ǵ?

    Bây giờ, sau hơn 40 năm xa cách, khi cuộc chiến đă tàn, tôi đă trở lại miền Bắc đă thăm lại Hà Nội, thăm lại làng xưa, người cũ.

    Tôi nhớ đến anh Luông. Dù đă được người này, người khác nhắc nhở: “Chú nên ư tứ. Dù ǵ th́ Khang, con anh Luông cũng có chút chức phận, là Đảng viên...”

    Người khác nói: “Giờ th́ khác, đă khá, có lúc buồn lắm. Dăy nhà thờ đấy, chia năm xẻ bảy. Từ cái bát hương đến câu đối, thôi th́ tranh giành, chia chác đến đau cả ruột...”

    Biết thế, tôi vẫn muốn đến thăm chị Luông và Khang. Dù thế nào chị ấy vẫn là chị tôi, Khang vẫn là cháu tôi.

    Gia đ́nh chị ở ngoại ô Hà Nội, trong một khu mà sau khi rẽ từ đường lớn, chúng tôi đi vào những con ngơ nhỏ ngoằn ngoèo bên các ao bèo và rác bẩn. Một căn nhà ngói khá tươm tất, đấy là nhà của Khang.

    Nhà vắng, Khang không có nhà. Anh em tôi đi qua một cái sân nhỏ, vào nhà sau: “Chị Luông ở đây...” Vén bức mành mành lên, mắt tôi hoa lên, chưa nhận được rơ, nhưng tôi nghe có tiếng hỏi: “Ai, ai đấy?” Đúng là tiếng của chị Luông.

    Cùng lúc ấy, mắt tôi đă thuần với vẻ u tối trong căn nhà, chị Luông vén tấm màn nh́n ra. Chúng tôi khựng lại, khựng lại bao lâu tôi không biết. Rồi tôi lên tiếng trước. “Chị Luông, em đây, em từ Mỹ về thăm nhà, đến thăm chị đây...”

    Chị Luông vén làn tóc xơa, mở to mắt rồi kêu lên: “Trời ơi! Em, em về thật à...”

    Chị lần ra mép giường, rồi tiếp tục kêu lên:

    “Trời ơi, sướng quá, phúc đức quá, bao nhiều năm xa cách...”

    Hai anh em tôi kéo cái ghế nhỏ ngồi đối diện với chị. Tôi lấy bao thư, trao chị chút quà.

    Chị cầm lên, nh́n thoáng qua rồi bỏ xuống bên cạnh giường. Chị lại nói: “Trời ơi, phúc đức quá...”, rồi chị bỗng bưng mặt và nức nở.

    Nỗi xúc động của chị ̣a vỡ và tuôn chảy bồi hồi. Một lúc lâu chị buông tay xuống vén lại mái tóc ḷa x̣a. Chị cười, chị nói: “Anh chẳng về, chẳng sống mà về... “

    Rồi chị lại nức nở: “Biết thế tôi đă đi Nam, đă đưa cháu đi Nam...”

    Rồi chị ho sặc sụa, như lộn cả ruột gan lên, và vẫn dàn dụa nước mắt.

    Tôi cầm bàn tay chị. Bàn tay nhăn nheo và sần sùi, khô cứng. Tôi nói từ tốn:

    “Số kiếp cả. Em đă mấy phen tưởng chết. May c̣n sống được...”

    Chị ôm ngực, như cố trấn áp cơn ho, cơn đau. Tóc xơa ra che kín cả mặt.

    Một hồi lâu chị ngồi yên lại và chị nh́n tôi, cười. Nụ cười lệch lạc. Chị bảo: “Thế hôm nay nghỉ à...”

    Tôi hơi choáng váng và băn khoăn thấy chị nói thế. Chị lại nh́n tôi, cười, chị bảo: “Này, ăn bún nhá. Bún mới ra đây. Để chị gọi bún cho em ăn. Bún nhà nhất chợ Đồng Xuẩn đấy...”

    Rồi chị cười hả hả rồi chị ho. Mắt chị lạc thần. Chị lại tiếp tục nói lâm nhâm, tôi nghe câu được, câu chăng...

    “Anh cũng sắp về rồi đấy, em ạ...”

    Anh em tôi lùi ra một chút, và biết là chị vừa mê sảng.

    Giữa lúc ấy th́ Khang về. Khang nhạy vào, vừa hốt hoảng, vừa bỡ ngỡ nh́n chúng tôi, và lễ phép thưa:

    “Thưa hai chú, tới thăm mẹ cháu. Có nghe chú về, cháu chưa lên chào, chú đă đến. Xin chú thứ lỗi cho chúng cháu...”

    Bao nhiêu năm xa cách, đứa nhỏ rụt rè, nói lắp, con của anh Luông tôi, giờ là một vị trung niên râu tóc hơi dài, má cao, da đen nhơm nhớp mồ hôi.

    Khang mời chúng tôi lên nhà. Vừa lúc ấy vợ Khang cũng vừa về đến. Chưa vào đến sân đă thấy tiếng chị tất tả chào. Khang giới thiệu vợ anh với chúng tôi. Qua tuần trà nước, tôi có nói: “Cháu ra sau xem mẹ cháu ra sao. Nhớ là chú có chút quà để trong bao thư trong giường mẹ cháu.” Vợ Khang tất tả đi ngay.

    Một thoáng đă trở lại, trên tay cầm bao thư. Chị nói: “Chú từ bên Mỹ về, xa xôi, tốn kém quá lại c̣n cho mẹ cháu quà…” Tôi đảo mắt lên tường, lác đác một vài cái bằng khen, đỏ ḷe màu cờ. Tôi nh́n lên bàn thờ. Đôi cây nến chơ vơ. H́nh anh Luông tôi ở giữa. Đúng là anh. Tấm h́nh này lúc bé tôi có thấy: Anh mặc áo vest trắng, thắt cà vạt đen, ngồi nghiêng người chồm ra phía ống ảnh, hơi cúi cúi nên mắt ngước lên. Rơ nhất là làn tóc rợn mấy lớp, kiểu của con trai Hà Nội năm chục năm qua.

    Tôi nh́n rất lâu. Tôi muốn thắp một nén hương lên bàn thờ anh, muốn nói với anh vài lời, nhưng không hiểu sao tôi lại ngần ngại, lúc ấy th́ Khang đang cúi xuống rót nước.

    Tôi nh́n thấy cả làn tóc trên mái đầu Khang, tuy có rối và khô nhưng rất giống mái tóc trên tấm ảnh của anh Luông tôi trên bàn thờ.

    Tôi nh́n ra sân. Mảnh sân gạch cũ. Mấy chậu cây khô ít được săn sóc. Và cuối sân là bức tường vôi long lở. Có tiếng con chim sáo thảng thốt ở đầu hồi. Ḷng tôi như lạc đi, như vừa t́m thấy một thời khắc nào xa cũ lắm. Tôi nhớ đến anh Luông quá. Khang cất tiếng mời tuần nước thứ hai. Tôi hỏi qua về gia cảnh. Khang thưa

    “... Dạ th́ nhờ bố cháu mất, chúng cháu cũng được có đôi chút hơn người. Cháu đi làm. Vợ cháu cũng đi làm, lại tranh thủ mở được cửa tiệm nhỏ nên cũng đỡ vất vả…” Anh Cả tôi chen vào “Là hai anh chị đều là Đảng viên nên con cháu gái lại được đi Nga học. Cháu học giỏi lắm, học về văn chương Nga, sắp tốt nghiệp trở về...”



    Mấy hôm sau, vợ chồng Khang lên chỗ tôi tạm trú thăm vợ chồng tôi. Cả hai ăn mặc chỉnh tề. Chồng th́ mặc com-lê cà-vạt. Vợ mặc áo dài. Lúc đến nhà anh Cả tôi, như đă hẹn, tôi đi chơi chưa về kịp, cả hai vợ chồng vẫn ngồi đợi cả giờ.


    Khang cười, nói như có vấp váp, nhưng có đôi chút lôi cuốn, phảng phất giọng nói của anh Luông. Tôi cười và nói: “Thôi th́ gặp nhau thế này đă là quư lắm. Bao năm chiến tranh tàn khốc quá. Sống được là may. Nay lại được gặp nhau, được nh́n nhau thế này... Thôi hăy biết thế...”

    Chúng tôi tiễn vợ chồng Khang ra về. Hai vợ chồng đèo nhau trên chiếc xe gắn máy. Lúc Khang dắt xe ra lề đường, cúi xuống đạp máy, rồi ngẩng lên, lấy tay găi găi vào mái tóc bên tai, giống hệt như anh Luông ngày nào.

    Tôi nh́n ra, Hà Nội buổi chiều, những mái nhà đen thẫm, ngói lô xô, một mảnh trời vàng rực. Một làn gió đâu đó thổi tới thoảng chút hơi lạnh lúc ngày sắp tắt.

    Ḷng tôi bàng hoàng. Tôi nhớ đến anh Luông quá đỗi. Anh nằm xuống ở góc rừng nào. Trong những ngày đau ốm trên đường hành quân, anh chắc đă dùng đến các viên kư ninh mà Thầy tôi đă cho.

    Anh đă nghĩ ǵ, đă nhớ ǵ đến lời căn dặn, anh đă nghĩ ǵ đến vợ con...


    http://saigontimesusa.com/bai/gtqm/m...roihanoi.shtml

  6. #846
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Muợn sân

    Nhắn haily : vào Mảnh Vườn Quê Hương , Tigon chỉ cho cách làm gị ( chả lụa )

    Tigon

  7. #847
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    "Làng Văn" nói ǵ về Phan Lạc Tiếp ?

    Quote Originally Posted by Tigon View Post
    Nhắn haily : vào Mảnh Vườn Quê Hương , Tigon chỉ cho cách làm gị ( chả lụa )

    Tigon
    Nhà văn lăo thành Vơ Phiến nói rằng :

    " Anh đối với thân nhân, với bằng hữu, với đồng bào thật là đầy đặn.
    Những người như thế càng ngày càng hiếm."

    Nhà văn Mặc Thu th́ phát biểu:

    "... văn phong của anh (PLT), bút lực của anh thật chừng mực. Tôi thấy ít ai viết được những t́nh tự về quê hương như anh. Trân trọng đến thế,. Nâng niu đến thế. Giản dị đến thế. Mà cuốn hút đến thế."

    Đó là Vân chỉ trích dẫn ư kiến của hai trong số các nhà văn giới thiệu tác phẩm Một Thời Oan Trái của Anh Phan Lac Tiếp do tổ hợp TIẾNG QUÊ HƯƠNG mới xuất bản.

    C̣n Vân Nương ấy à ? VN cũng mói đọc xong cuốn ấy rồi, chi Tigon ạ. Cảm tưởng y như là bước chân vào tiệm
    Cơm Tám Gị Chả ở phố Huế, Hà Nội. Thấy món nào cũng rất ngon. Hi hi. Tui phải sang bên đó học cách làm gị lụa của chị đấy.
    VN

  8. #848
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    Ḍng Sông Định Mệnh - Chương IX

    ĐÊM TRĂNG THUYỀN VỀ BẾN CŨ

    Yến

    Em chẳng c̣n là Người Yêu, em chính là T́nh Yêu, ai mà giận được T́nh Yêu? Dù nay hay mai dù gần hay xa bao giờ và ở đâu anh vẫn yêu Yến như thuở nào mười sáu tuổi.

    Có lẽ rồi ở đây anh sẽ làm quen với một người đàn bà nào, anh sẽ đi chơi với một người đàn bà nào, anh sẽ yêu một người đàn bà nào, nhưng chắc chắn là anh gần và yêu người đó qua Yến đấy.

    Tại sao h́nh ảnh Yến tràn ngập trong anh đến thế? Anh cũng chẳng hiểu được nữa. Đành cho là tiền duyên nghiệp chướng chứ sao.

    Yêu Yến.


    Đó là lá thư duy nhất Thiệu gửi Yến khi chàng vừa chân ướt chân ráo tới Paris. Trong lá thư này chàng chẳng đề địa chỉ của ḿnh.

    Để làm ǵ - chàng nghĩ - vô ích! Nhận được thư Yến bây giờ cũng bằng thừa. Định mệnh đă như vậy, thuận theo ḍng định mệnh, có khi lại là vươn lên khỏi định mệnh.

    Thiệu đă được giới thiệu với ông giám đốc trường Mỹ Thuật. Chàng đă vào thăm trường ở đường Saint Pères, và trong khi chờ đợi ngày nhập học, chàng đă làm quen được vói một số sinh viên đương lục tục từ các nơi thực tập quay về. Tới đây Thiếu mới rơ, riêng về hai ngành hội họa và điêu khắc các sinh viên hầu như phải làm việc cả mười hai tháng. Ba tháng hè họ đi đây đi đó để hoặc dự các buổi diễn thuyết hoặc vào các viện bảo tàng hoặc đi tới các kinh thành có nhiều di tích lịch sử mà nghiên cứu nghệ thuật của người xưa.

    Tại Quartier Latin, Thiệu cũng như các anh em khác

    thuê được một căn pḥng trên từng thứ bảy. Chàng ăn ở tại Foyer des Beaux Arts, ngay trong trường. Cửa pḥng ăn trông ra mấy hàng bán sách cũ bày theo dọc bờ sông Seine tới cầu Pont-neuf. Nhiều lần Thiệu theo bực cầu Pont-neuf xuống đảo Ile de la Cité, đi về khu vườn hoa nhỏ -Square du Vert Galant - đến ngồi trên bờ đá buông thơng chân nh́n thẳng xuống ḍng sông.

    Đây không có những h́nh ảnh quen thuộc như ở bến đ̣ quê nhà, với quán tranh, khóm chuối bên đê, với con đ̣ ngang tṛng trành theo tay chèo của cô lái. Tuy nhiên cảnh sông nước quê người cũng không kém phần gợi cảm. Nằm dài đây đó là mấy anh ăn mày lăng tử. Trên những chiếc ghế đá, người chăm chú đọc sách, kẻ lơ đăng nh́n theo con tàu nhỏ chở du khách vừa lướt qua, những đợt sóng bị xô mạnh, đuổi nhau đập ùa vào bờ đá toé bọt trắng. Có cảnh người đàn ông cô độc miệng ngậm pipe, chân đi ủng cao, lội xuống buông câu. Có cảnh đầm ấm hơn: trên bờ chồng buông câu, vợ ngồi bên cạnh đan áo, dưới chân là con chó.

    Mùa thu, những cây hạt dẻ dai cao vút trút lá vàng xuống đường ngổn ngang như một quăng đời nghệ sĩ tràn ngập kỷ niệm.

    Có một buổi tối, Thiệu tới ngồi chỗ cũ chiếc tàu nhỏ lướt qua quét ánh sáng đen pha lên đảo để các du khách trên tàu nh́n thấy những cặp nhân t́nh ngồi sát nép đầu lên vai nhau.

    Ánh sáng đó giúp Thiệu thấy ḍng sông Seine lặng lờ bên dưới ... Rồi, vẫn cúi dad-éu, h́nh ảnh lặng lờ ấy như đẩy hồn Thiệu trôi về dĩ văng ngoài ư muốn của chàng. Cũng may, kể từ ngày khai giảng trở đi, Thiệu phải làm việc miên man và chàng muốn làm việc miên man để hồn khỏi bị thâu hút về quá khứ như vậy. Ông giám đốc thoạt có cảm t́nh với chàng như đối với một người học tṛ tốt, rồi chẳng bao lâu ông quư mến chàng như con.

    Chẳng tuần nào là Thiệu không nhận được thư chị Hoa và chẳng lần nào đọc thư chị Hoa xong mà chàng không khỏi mỉm cười, v́ cuối thư nào chị cũng nhắc lại điệp khúc muôn thuở, lời tuy có đổi khác nhưng ư đại khái vẫn là:

    "Cậu nhớ đừng chơi bời cậu nhé, ḿnh đă trưởng thành, giời bắt tội cha mẹ mất sớm ... "

    Tạo cũng viết thư đều như thưa hơn, thường th́ một tháng một lần kèm theo với thư của các anh em khác. Tới lá thư thứ tư, Tạo báo cho chàng biết cửa hiệu bào chế của Yến không c̣n ở đường Bonard nữa. Tạo c̣n ghi thêm rằng đích thân Tạo vào hỏi chủ mới mà chủ mới cũng không biết "bà dược sĩ " dọn đến phố nào.

    Thiệu rất cảm động về cử chỉ chu đáo của Tạo và buồn thấm thía khi nghĩ đến Yến. Yến dời khỏi đường trống lớn? Bóng Yến như dời bỏ một dĩ văng để đi vào một dĩ văng sâu hơn.

    Ba tháng hè cuối niên học, Thiệu cùng các bạn thoạt vào nghiên cứu các trường hội họa trong viện bảo tàng Vienne. Khi trở về chàng có một tập croquis về Vienne: đài kỷ niệm của Mozart, đải kỷ niệm của Strauss, nhà thờ Saint Charles, lâu đài Schonbrunn cùng những cảnh đẹp trong vùng Prateraen bên bờ sông Daunube. Với những tài liệu đó, Thiệu làm được mấy bức sơn dầu mà đường nét, màu sắc đă khiến ông giám đốc phải ngạc nhiên quá đỗi.

    Ông đem chàng đến giới thiệu với một họa sĩ Việt ở Pháp đă lâu năm và có tranh ở viện bảo tàng Le Louvre, giáo sư Hoàng Ph. Giáo sư ở một biệt thự khá rộng tại ngoại vi thành Paris, ông đă tổ chức nơi này vừa là xưởng vẽ vừa là một pḥng triển lăm thường xuyên. Nhờ sự giới thiệu này Thiệu được biết thêm một đồng bào nổi tiếng, đó là một khuyến khích lớn về phương diện tinh thần, thêm nữa giáo sư Hoàng Ph. đă thân ái chỉ dẫn giúp chàng thêm nhiều kinh nghiệm quư báu.

    Tuy niên học mới bắt đầu, c̣n xa ngày măn khóa mà cả ông giám đốc lẫn giáo sư Hoàng Ph đều tin tưởng ở tài nghệ sớm vững trăi của Thiệu, cả hai coi Thiệu như một họa sĩ thực thụ đă ra trường. Một số tác phẩm chọn lọc của chàng trưng bày tại pḥng triển lăm thường xuyên của giáo sư Hoàng Ph, bán được giá cao đến không bao giờ chàng dám ngờ tới. Thế là tuy Thiệu vẫn ở trên lầu gác hẹp từng thứ bảy Quartier Latin (không có thang máy), nhưng đă có "đồng ra đồng vào" để đi Opéra mỗi khi có cuộc tŕnh diễn hoặc nhạc kịch của verdi, Wagner ... hoặc bi kịch, hài kịch cổ điển, hoặc vũ khúc Nga ... Thiệu không chịu bỏ lỡ buổi ḥa nhạc lớn nào, nhất là những buổi do các nhạc sĩ tên tuổi độc tấu dương cầm hay vĩ cầm tại pḥng Pleyel. Mùa hè, nếu có dịp, chàng đi về các tỉnh miền Nam Lyon đổ xuống để xem diễn kịch giữa trời trên những hư trường La Mă cổ. Nếu vào dịp nghỉ mà không tỉnh nào có lịch chàng vẫn rủ bạn rời khỏi Paris cho hả "nhu cầu chuyển dịch." Tới tỉnh nhỏ nào đó, mỗi người bỏ ra năm trăm quan thuê ghế ngồi dưới gốc cây, mua chiếc kem xinh - glaçon - của một cô đầm, hay một gói lạc của một anh Ả Rập, rồi vừa ăn vừa nghe ban nhạc thaàh phố giuưp vui không mất tiền.

    Ở Pháp hồi này, cũng như ở Hà Nội hồi nào, cuộc sống đó chỉ giúp nguồn cảm hứng của chàng thêm phong phú. Có đêm ở ngay Paris, sau khi xem đoàn Folies Bergères biểu diễn chưong tŕnh mới, chàng c̣n la cà vào Moulin Rouge vui với một số bạn. Lúc ra về Thiệu mỉm cười nghỉ đến chị Hoa. Chị Hoa mà ở đây, lại biết chuyện này, thế nào hôm sau chị chẳng đến t́m chàng từ sớm rồi vừa thấm nước mát vừa nói:

    -" Giời bắt tội cha mẹ mất sớm, cậu đă trưởng thành cậu không tu tỉnh, chị chẳng biết làm thế nào..."

    Dịp hè cuối năm học đó nhà trường dự định cho các sinh viên đă tốt nghiệp đi Florence (Tây Ban Nha) nghiên cứu trước một số họa phẩm của Boticelli, Raphael, tượng Pensée của Cellini, tượng Davis khoẻ thân của Michel-Ange, để rồi sau đó đến Barcelon nghe một vị họa sư danh tiếng người Tây Ban Nha thuyết tŕnh về "Sự tiến triển của nến mỹ thuật Ư Đại Lợi từ thời Thượng Cổ tới thời Phục Hưng."

    Trong khoảng một tuần lưu trú ở Florence. Thiệu có ghi được một ít croquis rất gợi cảm: căn nhà của Dante, ngôi nhà thờ lớn của tỉnh Florence với chiếc gác chuông cao hơn trăm thước và nhất là con sông Arno uể oải với hai hàng cây chêne cao vút ở hai bên bờ, cành cây mảnh khảnh nhưng lá cây um tùm đổ bóng xuống ḍng sông. Về tới Pháp, Thiệu ghi ngay lên khung vải những màu sắc thanh tú của ḍng Arno c̣n ủ tươi mát trong tâm hồn chàng. Thiệu đặt cho họa phẩm sơn dầu này một cái tên nửa như dí dỏm nữa như triết lư: "Tiếng Sông Im Lặng." Vẽ xong Thiệu mới tự khám phá ra rằng chàng vẫn có cảm t́nh đặc biệt với những ḍng sông và phải chăng v́ chẳng bao giờ cả, chàng có thể quên được Yến?

    Tất cả sinh viên mỹ thuật vừa măn khóa nghành hội họa cũng như nghành điêu khắc, mỗi người đều mang theo đi Barcelon một tác phẩm của ḿnh để sẽ tổ chức tại đó một cuộc triển lăm bất ngờ, theo sáng kiến của ông giám đốc viện Mỹ Thuật Quốc Gia.

    Sau bài thuyết tŕnh rất giá trị, rất tỉ mỉ của vị giáo sư khả kính người Tây Ban Nha về "Sự tiến triển của nền mỹ thuật Ư Đại Lợi từ Thượng Cổ tới thời Phục Hưng," ông Giám đốc viện Mỹ Thuật Quốc Gia (Pháp) đạt giấy mời vị giáo sư cùng một số quan khách có công, hoặc có thẩm quyền về mọi nghành văn nghệ tại Barcelone, đến Câu Lạc Bộ Pablo dự tiệc trà và tiện thể dự một "cuộc triển lăm bất ngờ."

    "Cuộc triển lăm bất ngờ" đó đă gây được rất nhiều cảm t́nh trong giới sành nghệ thuật Tây Ban Nha.

    Thiêu thấy có một thiếu nữ - chắc là thiếu nữ Tây Ban Nha - dừng lại rất lâu trước bức "Tiếng Sông Im Lặng" của chàng, rồi ghé mắt lại gần chăm chú, chắc hẳn để đọc ḍng chữ Tây Ban Nha ghi bên dưới: El ruido silencioso del rio.( Tiếng im lặng của ḍng sông)

    Cô gái đi xem một vài bức khác gần đấy, rồi lại quay về đứng trước bức họa của Thiệu như để so sánh hoặc khám phá ra một điều ǵ. V́ đứng cách xa quá, Thiệu không rơ khuôn mặt cô gái ra sao, nhưng chỉ nh́n dáng nàng đi, Thiệu cũng đoán trước là nàng đẹp. Thiệu thấy nàng nói lâu với François, anh bạn học về điêu khắc. Bỗng François quay lại ngơ ngác t́m quanh pḥng. Thiệu vờ ngẩng nh́n chăm chú một bức tượng ... Có tiếng giày song song bước lại gần, một của đàn ông một của đàn bà, rồi tiếng François ( nói bằng tiếng Pháp):

    - Ê này Thiệu, xin giới thiệu một senorita mến phục tài anh.

    Thiệu quay lại cúi chào, hôn tay người con gái và nói một trong mấy câu Tây Ban Nha xă giao cửa miệng mà chàng đă viết kỹ từ khi c̣n ở Paris.

    - Senorita, qué encuentre más agradable (Thưa cô, tôi rất hân hạnh được gặp cô!)

    Người con gái mỉm cười trả lời bằng tiếng Pháp:

    - Hân hạnh được gạp anh.

    Mắt Thiệu sáng lên:

    - Trời, cô là người Pháp?

    Vẫn giữ nụ cười khả ái, nàng đáp:

    - Vâng tôi là người Pháp!

    - Nếu thế th́ thật hay - Thiệu nói - không ǵ buồn hơn là đứng bên một người đẹp như cô mà rủi ngôn ngữ bất đồng.

    Ba người cùng cười, rồi François lảng đi chỗ khác. Quả Thiệu đoán không sai, người con gái đẹp lắm. Vóc nàng vừa phải, dáng nàng uyển chuyển, tóc nàng đen chứ không hung và đặc biệt cũng cắt ngắn và chải lật không có đdường ngôi như Yến. Có lẽ v́ tóc nàng giống Yến nên Thiệu thấy thêm mũi nàng cũng dọc dừa giống Yến.

    Thấy nàng mỉm cười nh́n lại, Thiệu giật ḿnh sực nhớ ḿnh đă chăm chú nh́n nàng quá lâu, chàng vội nói:

    - Xin cô tha lỗi, thật t́nh cô có một vẻ đẹp rất gần Á Đông.

    - Cảm ơn anh - nàng nói - tôi tên là Suzanne, Suzanne Tennyson!

    Thiệu hơi ngẩng mặt nh́n xa xa:

    - A ... Suzanne! Phải năm ngoái qua Vienne, vào viện bảo tàng, tôi có được ngắm bức "Suzanne au bain "(nàng Suzanne tắm) của Tintoret;

    Suzanne cười đón câu nói đó:

    - Trời, anh quá khen, tôi đâu có sắc đẹp quyến rũ như nàng Suzanne Do Thái.

    - Tôi là Thiệu, Nguyễn Quang Thiệu, nhưng cô cứ gọi là Thiệu không thôi cho tiện.

    Suzanne chỉ về phía bức tranh:

    - Vâng, bức tranh của anh đẹp lắm, anh Thiệu ạ.

    Hai người tiến lại phía đó, trong khi Suzanne nói tiếp:

    - Vẻ thơ mộng của khúc sông làm tôi nghĩ đến bức "Les baigneuses" ( Những thiếu nữ tắm) của Corot, nhưng màu sắc của anh có cái ǵ lạ lắm, lạ đặc biệt, bây giờ th́ tôi được biết anh là người Á Đông.

    Hai người đă đứng trước bức "Tiếng sông im lặng." Suzanne nghiêng đầu ngắm lại bức tranh, Thiệu nghiêng đầu ngắm lại Suzanne. Tia nh́n của chàng dừng lại ở mớ tóc, tóc của Yến! - chàng nghĩ thầm.

    Vừa lúc đó Suzanne quay lại. Hai người yên lặng nh́n nhau, Suzanne mỉm cười nụ cười vừa như gần gũi vừa như xa xôi, v́ Suzanne nhận thấy Thiệu nh́n ḿnh như nh́n ai. Đă đọc nhiều sách nói về nếp sống, tính t́nh, tín ngưỡng của người Á Đông, Suzanne nghĩ thầm: "Nếu ḿnh không nhầm th́ anh chàng đương t́m ở ḿnh những nét quen thuộc của một người mà anh chàng đă gặp tự kiếp nào." Khi nụ cười trên môi nàng ch́m đi như nắng chiều ch́m xuống chân trời, th́ chính Suzanne cảm thấy đến lượt nàng ch́m vào để rồi trôi nổi b́nh bồng trong cái nh́n của Thiệu.

    Tiệc trà bắt đầu. mọi người sang pḥng bên. Thiệu và Suzanne không rời nhau một bước. Thiệu được biết Suzanne cũng vừa mới sang Barcelone thăm cha mẹ mở cửa hàng bán các dụng cụ về tàu bè ở đây. Suzanne thích cả hoa lẫn nhạc nhưng nàng chuyên về nhạc. Nàng đă theo xong lớp học tám năm về dương cầm tại âm nhạc viện quốc gia Paris và đỗ thứ nh́ trong kỳ thi măn khóa một tháng trước đây. Trong khi tiếp chuyện, Thiệu luôn luôn chăm chú nh́n mớ tóc của nàng. Đúng mớ tóc của Yến!

    Khi chia tay, Suzanne ngỏ ư sẽ đón Thiệu đến thăm cửa hàng, tiện thể giới thiệu với cha mẹ nàng, Thiệu nhận lời. Chiều hôm sau Suzanne tới như đă hẹn trước. Nàng nói v́ thấy Thiệu đă hai năm nay xa gia đ́nh nên muốn mời chàng ở hẳn với gia đ́nh nàng trong một tuần lễ.

    - Tôi đă thưa chuyện với ba, má - lời Suzanne - các người rất lấy làm hân hạnh lần đầu tiên được tiếp đón một họa sĩ Việt Nam trong nhà.

    Thiệu gặp ông giám đốc để xin phép ở lại Barcelone.

    Ông cười hóm hỉnh:

    - Anh có thể ở lại đây suốt đ̣i v́ chuyến đi này là chuyến đi cuối cùng của anh với nhà trường. Anh chỉ cần cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi văn bằng đến cho anh.

    Ba, má Suzanne tiếp đón Thiệu niềm nở ngay bữa cơm chiều hôm đó. Thiệu ngồi vào bàn ăn mà tưỏng như ḿnh đă đến ở gia đ́nh này tự bao lâu rồi. câu chuyện về nước Việt xưa và nay, về nước Pháp hiện giờ, về văn học giữa Âu Châu với Mỹ Châu, về văn hóa giữa Tây phương và Đông phương ... nhóm khởi từ lúc bắt đầu ăn, qua lúc dùng đồ nước, kéo dài cho măi tới mười giờ khuya. Khi câu chuyện vừa tạm dứt, Suzanne lên tiếng:

    - Xin phép ba má, con đưa anh bạn đi xem kinh thành Barcelone.

    - Nên đi chứ - ông bố nói - Barcelone giờ này mới bắt đầu vui.

    Bà mẹ ghé tai Thiệu giải thích thêm:

    - Ở đây ban đêm dân chúng đổ cả ra đường đi khiêu vũ, đi lượn, một giờ khuya c̣n đông.

    Quả nhiên khi Thiệu cùng Suzanne ra tới đường phố th́ người đi tấp nập hơn ban ngày nhiều.

    Suốt hai tiếng đồng hồ đi chơi trên các phố đông của Barcelone, Suzanne luôn miệng giải thích:

    - Anh thấy không ... đàn bà con gái ở đây ăn mặc kín đáo chứ không hở hang như ở mọi nơi.

    Anh thấy không ...

    Con trai ở đây, đúng hơn bất cứ người con trai nào ở đâu mà có ḍng máu Tây Ban Nha chảy trong huyết quản, đều có cái nh́n sắc như vậy. Mấy hôm đầu mới tới đây khi ra phố tôi cứ phải hết sức tránh để khỏi gặp cái nh́n của họ. Sau rồi cũng quen dần.

    Anh thấy không ... người con trai nào trạc mười tám tuổi trở lên đều để tí râu mép. Anh chàng vừa đi qua chúng ta đó tuy cao lớn thế mà chưa đề râu mép là chưa đầy mười tám tuổi đâu.

    Anh thấy không ... càng về khuya dân chúng đổ ra đường càng đông. Nếu anh ở khách sạn, anh sẽ thấy chín giờ sáng người ta mới rục rịch ăn điểm tâm; một, hai giờ chiều mới bắt đầu ăn trưa; tám chín giờ tối mới sửa soạn ăn chiều, ăn xong là bắt đầu cuộc đời ngoài phố.

    Anh từ Paris tới đây bằng xe hỏa chớ ǵ?

    Khi đă qua Toulouse tới biên giới Pháp - Tây Ban Nha và nhất là khi xe đă bắt đầu đi sâu vào rặng Pyrénée th́ hành khách nào là người Tây ban Nha mới lên có thể nhận ra ngay. Anh có biết nhận ra bằng cách nào không?

    Thiệu lắc đầu là không, v́ toa chàng đi là toa đành cho sinh viên mỹ thuật.

    Suzanne bèn giải thích tiếp:

    - Khi c̣i tàu thét lên, chuyển bánh rời ga, người hành khác Tây Ban Nha mới lên làm dấu cầu nguyện để tránh tai ương. Người Tây Ban Nha ngoan đạo lắm nhé chứ không vô thần như các con cháu của Voltaire đâu.

    Anh có thấy không ...

    Thiệu chú ư cứ mỗi lần Suzanne hỏi một câu như vậy để rồi có dịp giải thích thao thao bất tuyệt, nàng thường bất chợt xoay người, ngẩng nh́n chàng khiến những nếp váy x̣a ra, xoay nhịp nhàng thành h́nh ṿng tṛn như đường đi của một hành tinh nghệ sĩ. Tiếng đàn lục huyền cầm thoát ra đâu đây làm gợn da thịt.

    Và rồi cứ mỗi lần nghe Suzanne nói "Anh có thấy không ..." Thiệu tức khắc dừng lại rất kịp thời để tiếp nhận ánh mắt của Suzanne và h́nh ṿng tṛn nhịp nhàng của ... hành tinh nghệ sĩ vô h́nh.

    Mười hai giờ khuya, đường phố chật ních người. Đợi cho dứt một dịp giải thích:" Anh có thấy không ..." Thiệu bèn đề nghị với Suzanne trở về.

    - Không phải tôi sợ mỏi chân - lời Thiệu phân trần - nhưng tôi vừa nhớ ra rằng tại pḥng khách ở nhà có chiếc dương cầm và tự nhiên tôi thấy thèm nghe tiếng đàn của Suzanne vô cùng.

    Suzanne có vẻ ưng ư ... Nàng nghiêng đầu nh́n Thiệu nửa t́nh tứ nửa như muốn xét lại một lần nữa xem lới đó có thực không, rồi nàng gật đầu:

    - Th́ chúng ta về!

    Tới nhà, Thiệu ngồi vào góc pḥng chênh chếch với góc có dương cầm. Suzanne giơ tập nhạc khá dầy thấp thoáng có ḍng chữ lớn Album Chopin và nói:

    - Nghe Chopin anh Thiệu nhé?

    - Được lắm - Thiệu đáp - đêm hôm khuya khoắt nghe Nocturnes của Chopin là phải. Nhưng Suzanne hăy chờ tôi một phút.

    Thiệu về pḥng ḿnh lấy giấy và bút ch́ than rồi trở lại.

    - Anh định vẽ tôi đánh đàn? - Suzanne hỏi.

    Thiệu lắc đầu mỉm cười.

    - Không, tôi vẽ tiếng đàn của cô.

    Thiệu chỉ kịp thoáng nghe tiếng cười của Suzanne th́ sau đó tiềng cười đă ch́m nghỉm ngay trong tiếng đàn xô dồn vừa bắt đầu. Rồi từng chuỗi âm thanh khi nhanh khi khoan, khi trong sáng, khi âm thầm. Khi nỉ non thánh thót, khi rên xiết nghẹn ngào. Có lúc tiếng đàn như những tiếng nấc thưa dần, yếu dần của một người ... không, của một buổi chiều ... không, của một vũ trụ đương hấp hối.

    Đồng hồ điểm hai tiếng ... Suzanne lơ đăng gập tập nhạc quay lại, gương mặt c̣n ngập trong âm thầm và nụ cười muôn vàn xa xôi.

    Hai người nh́n nhau giây lát. Tiếng Suzanne:

    - Anh vừa vẽ vừa nghe nhạc có mệt không?

    - Tôi muốn - Thiệu đáp - đêm nay là đêm đầu tiên ở Bắc Cực để đêm c̣n kéo dài sáu tháng nữa.

    Suzanne bật cười ánh đèn trong căn pḥng như tới lúc đó mới bừng sáng, nàng nói:

    - Nào anh cho tôi xem tôi ra sao nào?

    Thiệu gấp tấm b́a cứng lại, lắc đầu:

    - Không được, tôi đă bảo tôi vẽ tiếng đàn chứ có vẽ Suzanne đâu.

    - Anh không cho xem, tôi giận.

    - Nói đùa vậy chớ tôi định thế này: hôm nay Suzanne chơi Chopin, mai Mozart, một Beethoven v...v... Tôi vẽ. Rồi hôm cuối cùng Suzanne sẽ t́m nhận xem Suzanne nào Chopin, Suzanne nào Mozart, Suzanne nào Beethoven ...

    Suzanne vỗ tay:

    - A, ư kiến anh hay đấy!

    Thiệu chỉ lên đồng hồ/

    - Thôi khuya rồi, chúc Suzanne nhiều mộng đẹp.

    - Cám ơn anh - Suzanne đáp - chúc anh ngủ ngon giấc. Mai chín giờ hăy dậy anh nhé. Cho đúng tác phong Barcelone!

    Rồi kể từ hôm sau, ban ngày Thiệu cùng Suzanne lần lượt đi xem các nhà thờ, các nhà tu cổ xây từ thế kỷ XIV. Có hôm hai người ra khỏi kinh thành đưa nhau tới miền cửa sông Lobrega xem những vết tích tàn phá c̣n sót lại sau cuộc nội chiến giữa các chiến sĩ Cộng Ḥa với quân đội chính phủ khoảng từ năm 1937 đến 19939 là năm Barcelone thất thủ vào tay tướng Franco. Ban đêm hai người dắt nhau gia nhập đám đông hè phố Barcelone và tới đâu họ cũng thấy bị vây bọc bởi tiếng đàn lục huyền cầm gờn gợn, tiếng đàn trong đấy mà đục đấy, như lời nhắn nhủ quyến rũ của ái t́nh. Thường th́ tới mười hai giờ khuya họ đă có mặt trong pḥng khách.

    Và Suzanne đánh đàn. Thiệu vẽ.

    Cách xưng hô của họ đă thân mật lắm.

    Ban ngày, rất nhiều khi chẳng có chuyện ǵ quan trọng, nhưng Thiệu cũng cất tiếng gọi Suzanne "Hélô, ma chère ZiZi" ( ZiZi thân mến đâu!) để được thấy Suzanne hốt hoảng chạy lại sau khi đă đáp : Oui, J arrive! (Vâng em lại đây!)

    Đêm cuối cùng của tuần lễ Suzanne đ̣i xem "những nét vẽ tiếng đàn." hai người đứng gần nhau bên dương cầm. Thiệu tuần tự đặt từng bản croquis một lên giá đàn trước mặt Suzanne để nàng đoán:

    - Dáng mơ màng soải tay xuống cung trầm thế này, đúng là hôm Chopin phải không anh? - Những bông hoa xinh nở trên phím đàn những con bướm xinh đậu trên mái tóc đúng là hôm Mozart phải không anh - Ủa, sao bức này người đánh đàn lại quay lưng vào đàn? Kỳ quặc hơn nữa sao nàng không ngồi vào ghế? Nàng ngả người thế này th́ lẽ ra nàng mất thăng bằng và ngă xuống đất từ lâu rồi.

    Suzanne ngẩng lên, hơi thở nàng ấm má Thiệu:

    - Ủa, sao anh vẽ kỳ quặc vậy?

    Thiệu toan âu yếm nâng cằm Suzanne lên, nhưng sau lại thôi. Chàng chỉ giải thích, giọng vẫn có vẻ đùa, nhưng dễ dàng và khúc triết:

    - Zizi có thấy không ... lúc đó nàng đang chơi bản Valse Le Désir của Beethoven. Chàng họa sĩ nhắm mắt lại nghe tiếng đàn thoạt nhỏ rồi lớn dần, để sau cùng tới một tiếng kêu thất thanh, như người con gái trong đôi tay t́nh nhân thoạt mơn man rồi điên dại. Chàng họa sĩ đâu có vẽ kỳ quặc, người con gái đâu có mất thăng bằng, nàng nằm trong tay người t́nh nhân vô h́nh.

    Ôi chao, đôi mắt Suzanne sáng lên nồng nàn nàng hé miệng kêu: "Trời ơi, " Thiệu chỉ kịp giơ tay đón nàng vừa gieo ḿnh tới. Rất nhanh họ đă đă hôn nhau say sưa và cả hai cùng chịu không biết rằng ai đă định hôn ai trước.

    Sau cái hôn dài đầu tiên đó, Suzanne úp mặt vào ngực Thiệu nói khẻ:

    - Bây giờ người t́nh của nàng không c̣n vô h́nh nữa!

    Giây lâu Suzanne ngẩng lên, nàng nói:

    - Thôi anh lên pḥng nhé.

    Thiệu lẳng lặng đi lên ... rón rén ... khuôn mặt quay về Suzanne, mỉm cười. Với cái mũi Hy Lạp ấy, với mái tóc ấy, Suzanne đúng là Yến!

    Bóng Thiệu đă khuất trên dad-éu cầu thang, Suzanne lơ đăng ấn một phím đàn. Tiếng đàn vang vang ... hồi hộp yếu dần... Chợt tiếng đàn như thổn thức tràn ngập không gian ... Không, tiếng đàn ngừng bặt đă từ lâu. Đó chính là ḷng Suzanne thổn thức và không gian tràn ngập h́nh ảnh Thiệu, chàng họa sĩ Á Đông.

    Đậy nắp đàn lại, Suzanne bước vội vào pḥng như đương rượt theo hạnh phúc, và đóng cửa pḥng lại như để giữ lấy bóng hạnh phúc bên trong. Nàng mỉm cười, nụ cười khoẻ mạnh bồng bột, nhưng khi gục mặt xuống, nàng thấy có những giọt nước mắt làm ướt cánh tay, đồng thời bao nhiêu kiến thức về tính t́nh tập quán Á Đông ùa tới tràn ngập ư nghĩ. Nàng tự nhủ thầm: "Có thể là ḿnh đă yêu Thiệu tự kiếp nào."

    Hôm sau Thiệu chưa về Paris, chàng ở lại Barcelone, Mười ngày sau chàng làm lễ thành hôn với Suzanne tại nhà thờ lớn nhất đường Cervantès.

    Đêm tân hôn, Thiệu và Suzanne ở ngay gian pḥng lầu bên trên pḥng khách.

    - Phải, mớ tóc của Yến! - Vừa lùa tay vào mớ tóc mềm của Suzanne, Thiệu vừa tự nhủ thầm như vậy.

    Thiệu cúi xuống hôn mái tóc mềm của nàng rồi môi vẫn đặt nguyên chỗ đó chàng nói khẽ, nửa như nói với nàng nửa như tâm sự với năm ngón tay:

    - Hồn anh là ḍng sông phân làm năm nhánh, cả năm nhánh cùng lạc lối mất hút trong một khu rừng tơ liễu mà dáng mềm phủ kín cả vũ trụ.

    Suzanne ngẩng đầu lên. Thiệu thấy đôi môi của ḿnh bị đôi môi thắm mọng hút lại. Nhớ đến đôi vai rung động buổi biệt ly đêm nào, bất giác Thiệu ôm gọn Suzanne trong ṿng tay như muốn đem hết sức yêu đương tràn đầy trong ḷng mà gột rửa một vết thương sầu hận.

    Tiếng chàng nồng nàn:

    - Anh yêu em vô cùng!

    Tiếng Suzanne hỏi:

    - Anh nói ǵ?

    Thiệu sực nhớ ḿnh đă nói câu trên bằng tiếng Việt, chàng dịch lại sang tiếng Pháp:

    - Anh yêu em vô cùng!

    Suzanne đă là Yến, Yến đă là Suzanne. Hai người đă đồng hóa vào nhau thành một, nên Thiệu cũng chẳng cần tự vấn xem câu đó chàng nói với Suzanne hay với Yến.

    Và trong phút xúc động nhất của ái ân. Thiệu thấy hồn chàng như cánh buồm no gió của một con thuyền, trong một đêm trăng, bỗng thấy ḿnh trở về bến cũ.

    *** het chuong IX ***

  9. #849
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    Ḍng Sông Định Mệnh - Chương X

    SÔNG ĐĂ RA TỚI BIỂN
    CÓ C̉N KHÚC QUÀNH NÀO ĐÂU


    Đă từ một năm nay Thiệu về nước phụ trách ngành hội họa cho trường Mỹ Thuật Quốc Gia.

    Ngày về nước, ra đón chàng tại trường bay có chị Hoa (chị ghét việc đưa tiễn người đi bao nhiêu, chị lại rất hào hứng trong việc đi đón người về bấy nhiêu), anh Tín, Tạo và một số bạn hữu cũ.

    Tạo nắm chặt tay Thiệu nói:

    - Về nước dù bận đến đâu cậu cũng phải trông coi tờ báo cho tụi này .

    Thiệu vỗ vai Tạo:

    - Đó là bổn phận của tôi, cậu khỏi phải nói.

    Chị Hoa hỏi:

    - Này cậu, thế mợ ấy về sau cậu một tháng thật à?

    Chị bỗng che miệng cười :

    - Chẳng hiểu sau này chị em gặp nhau, gọi mợ ấy là "mợ," mợ ấy có hiểu không.

    Thiệu vui vẻ đáp lời chị:

    - Chị đừng lo, nhà em giỏi tiếng Việt lắm rồi, em đă dạy đủ thứ, chỉ c̣n thiếu cách chửi mất gà v́ xét ra ở Saigon này chị không nuôi gà.

    Chị Hoa cười. Chị nói:

    - Vả lại mợ ấy coi cũng hiền, nhất là bức ảnh cậu gởi về tháng trước, mợ ấy mặc quốc phục Việt Nam trông Á Đông tệ.

    Ngày hôm sau, Thiệu cùng chị Hoa, anh Biên sửa soạn chút ít nhà cửa để Suzanne sẽ đến ở ít ngày trước khi chàng t́m được nhà riêng vừa ư.

    Sở trường của người Tây phương - Thiệu vẫn nghĩ như vậy - là kỹ thuật, sở trường của người Á Đông là đời sống tâm linh. Đứng từ xa mà nh́n, người Tây phương vô cùng thán phục nếp sống bát ngát như khu rừng già của người Á Đông, nhưng khi tiến lại gần, có những mô đất nhỏ án ngữ tầm mắt, che khuất mất rừng. Chỉ cần một tối thiểu kỷ luật, trật tự, sạch gọn của nếp sống bên ngoài là người Á Đông đă san phẳng những mô đất nhỏ cho người Tây phương tiến vào với rừng. Sự cải thiện hợp lư đó không hề làm giảm uy tín sâu sắc và toàn diện của nếp sống Á Đông, trái lại dọn đường cho một niềm cảm thông quư báu. Tây phương đến sẽ mang theo kỹ thuật, sự dung ḥa, sự kết tinh toàn bích giữa Đông với Tây khi đó chỉ c̣n là vấn đề thời gian.

    Một tháng sau Thiệu ra trường bay đón Suzanne. Người đàn bà đó hầu như Việt hóa đến mức tối đa của một người Âu có thể Việt hóa. Từ trên máy bay xuống, nàng mặc y phục Việt Nam, nàng cúi chào anh Tín, chị lớn (mới ở Cái Sắn lên hôm trước), anh Biền, chị Hoa và nói tiếng Việt:

    - Em cám ơn các anh các chị đă ra đón em.

    Chị Hoa nắm lấy tay Suzanne nói bằng giọng đầy thương mến:

    - Trông mợ thật là Việt Nam, chị bằng ḷng lắm, chị bằng ḷng quá !

    Kể từ sau ngay cưới từ Barcelone, Suzanne đă lẫn vào Yến, Thiệu chỉ biết yêu chân thành và trong thâm tâm Thiệu vẫn yên chí rằng chàng yêu có một người. Tiện đường xe lửa, họ đă đi hưởng tuần trăng thật từ Saragosse, tới Madrid. Ở họ thuê du thuyền ngược ḍng sông Ebre rồi tạt vào thăm nhà thờ Notre Dame del Pilar.

    Một buổi tối, hai người cùng leo lên chiếc cầu cổ xây từ thế kỷ XV. Tiếng con sông Ebre ào ạt xoáy cuộn dưới cầu nhắc Thiệu nhớ đến tiếng con sông Đuống đêm nào như tương tư, như thao thức đương lần đường đi t́m ánh trăng mười sáu...

    Ở Madrid họ xem đấu ḅ rừng và không quên vào viện bảo tàng Prado nghiên cứu những họa phẩm của Vélasquez, Murillo, Le Titien, Rubens, Van Dyck...

    Đôi vợ chồng trẻ về tới Paris được mấy ngày th́ xảy ra có đám cháy lớn ở gian bên. Thiệu vội vă đưa Suzanne xuống thang chạy thoát ra đường, chỉ mang theo tập croquis trong đó có bức Suzanne quay lưng vào đàn, ngả người trong cánh tay người t́nh vô h́nh. Sở cứu hỏa tới dập kịp đám cháy; khi lên thang trở về pḥng, Thiệu giở cho Suzanne trông tờ croquis rồi nói:

    - Em xem, anh cầm bằng là cháy hết, nhưng anh không dám để cháy bức này.

    T́nh yêu đơn giản mà thâm trầm của Thiệu nhiều phen làm Suzanne cảm động. Những lúc đó Suzanne thường nói :

    - Em c̣n hời hợt nhiều, em chưa hiểu được người Á Đông lắm. Anh giúp em nhé.

    Có một ngày Chủ nhật hai vợ chồng đưa nhau ra khỏi châu thành Paris, vào các cánh đồng cỏ chơi. Hai lần vô t́nh mở nắp chiếc địa bàn xinh, Thiệu cùng thấy Suzanne có mặt trước hướng kim chỉ nam. Chàng vẫy Suzanne lại rồi nói:

    - Anh có chiếc địa bàn thần, luôn luôn chỉ cho anh biết hướng t́m người yêu.

    Suzanne bá cổ Thiệu, kiễng chân hôn lên môi chàng thật dài rồi mới nói:

    - Anh yêu của em.

    Rồi khi áp má bên ngực chồng, Suzanne c̣n nói tiếp rất nhỏ:

    - T́nh yêu của người Á Đông ! T́nh yêu của người Á Đông !

    Bỗng nàng ngẩng lên:

    - Anh ạ, để nói về tính t́nh kín đáo của người Anh, các dân tộc khác ở Âu Châu thường bảo: "Mỗi người Anh là một ḥn đảo." Với người Á Đông có lẽ nên nói: "Mỗi người tà một vũ trụ," có đúng không anh?

    Thiệu lùa tay vào mái tóc vợ - mái tóc của Yến, bao giờ chàng cũng nghĩ vậy - và âu yếm đáp:

    - Đừng định nghĩa thế nào là người Á Đông, hăy sống với người Á Đông !

    Một số họa sĩ tại nước nhà đương xúc tiến việc tái lập trường Cao Đẳng Mỹ Thuật, có t́m cách liên lạc bằng thư với Thiệu. Thiệu đă cùng họ trao đổi ư kiến, sơ thảo một chương tŕnh bốn năm dung hoà chương tŕnh Pháp và khả năng Việt. V́ biết trước hoàn cảnh nước nhà chưa đủ điều kiện thuận tiện để tổ chức cho toàn thể sinh viên đi thăm các viện bảo tàng Âu Á, chàng đề nghị lập thư viện cho ngành hội họa gồm những pho khảo cứu bách khoa lớn về lịch sử hội họa mọi thời, mọi nơi, mọi họa phái với đầy đủ tranh ảnh, do các nhà xuất bản danh tiếng: Fernand, Nathan, Odé Skira, Hypérion ấn hành. Khi đề nghị được ưng chuẩn, số sách chàng mua đóng chật mười rương gửi về nước .

    Thiệu có dự tính về nước lập Studio riêng để vừa t́m ṭi sáng tác phát triển tài năng, vừa giúp các bạn ở trường Mỹ Thuật đào tạo những tài năng mới, tuy nhiên chàng c̣n ở lại Pháp thêm sáu tháng. Ngày ngày chàng vào viện bảo tàng Le Louvre nghiên cứu một lần nữa các tác phẩm lớn của từng họa phái. Trong thời gian này chàng cùng một số kiều bào có giúp ṭa Đại sứ tổ chức một cuộc triển lăm về mọi ngành mỹ thuật xưa và nay của nước Việt tại hội chợ Paris.

    Một buổi tối, Thiệu vừa ngồi xuống ghế bành bên ḷ sưởi th́ Suzanne đến ngồi gọn trên ḷng, ôm lấy ngang vai chàng, nói bằng một giọng trọ trẹ:

    - Em yêu anh, em về nước Việt Nam với anh chớ ǵ ?

    Thiệu trợn tṛn mắt, ôm gọn lấy Suzanne:

    - Em học tiếng Việt tự bao giờ ?

    Suzanne cười và trả lời bằng tiếng Pháp:

    - Được hơn một tháng rồi và hơn một tháng trường em chỉ học nói riêng có câu đó cho đúng dấu.

    Ngả đầu lên vai Thiệu, Suzanne tiếp:

    - Về Việt Nam em phải nói tiếng Việt Nam mới được.

    Thiệu âu yếm nắm lấy hai cổ tay Suzanne:

    - Em học tiếng Việt chưa đủ, em phải học cả nếp cảm nghĩ của người Việt nữa.

    Từ đấy Thiệu đích thân dạy Suzanne tiếng Việt, kể cho Suzanne nghe về ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích cùng nếp sống người Việt. Suzanne học tấn tới trông thấy, mau hiểu, mau nhớ. V́ nàng thông minh cũng có, nhưng có lẽ v́ nàng yêu Thiệu nhiều hơn.

    Điều đáng buồn cho Thiệu là ở Pháp, Yến lẫn với Suzanne, nhưng khi Thiệu về tới Saigon, Yến bỗng tách khỏi Suzanne để trở thành h́nh ảnh độc lập. Thiệu hồi hộp qua đường Bonard nay đă là đường Lê Lợi, cửa hiệu bào chế không c̣n, người chủ mới mở tiệm bán vải. Ḷng Thiệu tự nhiên hoang vắng như qua chỗ không người. chẳng hiểu giờ đây Yến ở đâu, ra sao ? Cả đêm hôm đó Thiệu không ngủ được. Kỷ niệm chập chờn vây bọc lấy chàng. Thiệu nghĩ đến khúc quành của ḍng sông, cây đa Thạch Sanh, Yến ngă xuống sông, chiếc áo trúc bâu hoen dựa chuối và h́nh ảnh Yến chiều ngày mùng một Tết năm nào chàng vừa mất tuổi mười sáu... Phải ngày đó Yến đẹp đến nỗi Thiệu tự nhiên thấy rầu rĩ cả người . Có lẽ v́ định mệnh phú cho chàng đôi mắt thấy Yến đẹp như một v́ sao nên chàng chẳng bao giờ nắm được Yến v́ - như chàng đă linh cảm - sao với người thường cách biệt .

    Rồi những ngày sóng gió ở Huế... rồi ngày tái ngộ ở hiệu bào chế... rồi ngày biệt ly, Yến quay đi mà không nói, hai vai rung động như cánh bướm non... Tất cả chỉ là giấc mộng qua rất chóng nhưng với biết bao t́nh tiết và mỗi t́nh tiết ướt đẫm hương yêu ngạt ngào

    Suzanne dạy dương cầm tại âm nhạc viện quốc gia và nhận chơi dương cầm vài giờ mỗi tuần tại đài phát thanh. Tiếng Việt giờ đây nàng nói đă sơi lắm. Thiệu thấy tất cả cái hoàn toàn đó chỉ làm nổi bật thêm bất toàn: Làm sao Yến không là vợ chàng ?

    Suzanne càng Việt hóa, câu hỏi trên càng khẩn cấp. Cho đến một ngày kia ngày làm kể kỷ niệm đệ nhất chu niên trường Mỹ Thuật Việt Nam, t́nh cờ nói chuyện với một sinh viên ngành điêu khắc, Thiệu được biết Yến ở Huế. Nàng đă tái giá, chồng nàng hiện là giáo sư Đại Học ngoài đó, nàng đă có thêm một con và mở hiệu bào chế ở một phố đông trông ra bờ sông Hương.

    Như thế chắc là c̣n lâu lắm Thiệu mới gặp Yến. Dịp đó hoặc chàng ra Huế chơi, hoặc Yến vào Saigon có công việc. Về phần Thiệu, chàng thấy hiện chàng chẳng có chút th́ giờ hoặc cơ hội nào để ra Huế. Hơn nữa chàng cũng không muốn ra Huế, v́ c̣n gặp Yến để làm ǵ?

    Vê phần Yến, giả sử nàng có việc vào Saigon liệu nàng có biết chàng đă ở Pháp về dạy tại trường Mỹ Thuật ? Dù nàng biết thế, liệu nàng có biết nơi chàng ở ? Tóm lại vào trường hợp hạn hữu lắm lắm, đôi bên mới có thể bất chợt gặp nhau ngoài đường phố, mà gặp nhau như thế th́ quả cuộc tái ngộ phải do định mệnh run rủi.

    Tái ngộ ? - Phải, dù tái ngộ chẳng để làm ǵ và cũng chẳng thể làm ǵ được hơn, nhưng mỗi khi gợi thầm ư đó trong ḷng, Thiệu thấy hai chữ "Tái ngộ" sao mà đẹp, sao mà rộn ràng nao nao. Tái ngộ để đôi bên nh́n nhau mà nhất định chẳng thấy nhau già, bởi đó là cái nh́n tràn ngập t́nh thuở ban đầu.

    Một đêm kia, Thiệu mơ thấy gặp Yến trên đường Tự Do. Quả nhiên Yến vẫn đẹp "ṃn con mắt" như ngày nào nàng vừa goá chồng và có hai con. Phải chăng tại Thiệu vẫn nh́n Yến - dù là nh́n trong mơ - bằng con mắt thuở ban đầu ? Thiệu cười hiền dịu như vẫn cười với Yến từ xưa đến nay, Yến th́ cúi đầu nghẹn ngào không nói. Thực ra, trong thâm tâm Thiệu thoạt cũng nghẹn ngào, nhưng chàng trấn tĩnh được ngay, v́ chàng tự nhủ:

    - Chà việc ǵ mà phải xao xuyến ! Ḍng sông định mệnh đến đây sắp đổ ra biển rồi, sông đă mở rộng đôi cánh tay nhỏ bé để ôm lấy Mẹ là biển cả, có c̣n khúc quành nào đâu ?

    Ấy tiếng rằng nghĩ thế, nhưng lúc bừng tỉnh dậy ḷng Thiệu c̣n thảng thốt. Tiếng Suzanne thở đều bên cạnh. Thiệu kéo nàng lại gần lùa bàn tay vào mái tóc thơm mềm rồi lặng lẽ đặt môi lên. Suzanne hơi cựa quậy đưa tay ôm quàng lấy người Thiệu, khẽ rụi cằm vào má chàng rồi lại thở đều bên tim chàng. Thiệu vẫn đặt môi lên tóc nàng như vậy rất lâu để tiếp tục nghĩ về Yến, rồi tự nhủ :

    - Dù mai đây gặp nhau, dù hai ba mươi năm nữa, khi cả hai mái tóc đă pha sương, mới gặp nhau, dù ba bốn mươi năm nữa khi cả hai đă da mồi tóc bạc mới gặp nhau, th́ phút đầu vẫn chẳng ai tránh được xao xuyến, và riêng ḿnh, ḿnh sẽ trấn tĩnh từ phút thứ hai trở đi, v́: "Việc ǵ mà phải xao xuyến! Ḍng sông định mệnh đă đổ ra biển rồi, có c̣n khúc quành nào đâu!"

    Một nghi vấn:

    - Ngộ chẳng bao giờ gặp nhau nữa?

    Th́ ta cứ nên rất lạc hậu nhưng cũng rất hợp lư mà tự nhủ rằng: "Kiếp sau em là vợ anh, t́nh chúng ta chân thành, nhất định kiếp sau em là vợ anh !"

    Thiệu dẫn Yến qua vùng khói pháo xanh, gót Yến lướt nhẹ trên xác pháo hồng. Thiệu rót mời Yến uống chén rượu nồng đêm hợp cẩn và pháo tiếp tục nổ làm lung lay các v́ sao :

    "Kiếp sau em làm vợ anh, tỉnh chúng ta chân thành, nhất định kiếp sau em là vợ anh !"


    HET
    Last edited by Vân Nương; 07-11-2011 at 11:14 AM.

  10. #850
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Tác giả có lầm lẫn không ?

    "Suzanne càng Việt hóa, câu hỏi trên càng khẩn cấp. Cho đến một ngày kia ngày làm kể kỷ niệm đệ nhất chu niên trường Mỹ Thuật Việt Nam, t́nh cờ nói chuyện với một sinh viên ngành điêu khắc, Thiệu được biết Yến ở Huế. Nàng đă tái giá, chồng nàng hiện là giáo sư Đại Học ngoài đó, nàng đă có thêm một con và mở hiệu bào chế ở một phố đông trông ra bờ sông Hương. "

    "Nàng đă tái giá " là thế nào ?

    Tigon

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •