Page 89 of 121 FirstFirst ... 397985868788899091929399 ... LastLast
Results 881 to 890 of 1204

Thread: "Pháp nạn 1963" đang được khởi động lại tại Hải ngoại

  1. #881
    Member
    Join Date
    13-06-2011
    Posts
    4,171
    Quote Originally Posted by Nhân Dân Tự Vệ View Post
    Anh Việt Xưa
    Xin phép anh trích những tấm h́nh anh post lên qua thread Các lá cờ Việt Nam là từ đâu ? (http://www.vietlandnews.net/forum/sh...042#post188042) thêm bằng chứng quốc kỳ cờ đỏ sao vàng "mập" cuả việt Minh cộng Sản xuất phát từ Trung cộng

    Việt cộng nô lệ cho cộng sản quốc tế, ấy thế mà chúng nó cứ oang oang vu khống Giáo Hội công Giáo VN là tay sai Vatican
    Xin anh NDTV cứ tự nhiên, đều là h́nh ảnh VX lượm từ trên Net ..


    Tụi nghiệp cho tuổi trẻ Vn hiện nay bị giáo dục CSHN tuyên truyền nhồi sọ, bị bịt mắt bịt tai chả biết nguồn gốc cờ Sao vàng từ đâu mà ra , lại cũng chả biết lá cờ Vàng Ba sọc đỏ là của QG Vietnam nguyên thuỷ trước khi bầy đàn hcm rủ nhau vào bàn hội nghị Genève 1954 kư chia hai lảnh thổ Việt .(tối ngày chúng cứ nói ṛng rả cờ Vàng là cờ "Riêng" của chế độ NDD và NVT ,thật ra đó là Quốc Kỳ VN có trước hcm sanh ra và hai chế độ VNCH và VNDCCH sanh ra từ hiệp định G-1954 nữa ḱa )


    Last edited by Viet xưa; 27-04-2013 at 11:07 PM.

  2. #882
    Ngụy Tặc
    Khách
    Trong bất kỳ trường hợp Phật giáo gặp hoạn nạn nào, dưới mọi quyền lực tấn công, mọi h́nh thức nào, th́ cũng đều có thể gọi là Pháp nạn. Do những t́nh huống, thời đại khác nhau mà sự phản kháng, đề kháng của Phật Giáo VN cũng khác nhau. Mục đích chỉ duy nhất là mưu t́m phương tiện hữu hiệu nhất để hoằng pháp lợi sinh mà không đi ngược lại tôn chỉ Từ bi-Trí tuệ-Hùng lực trong sứ mạng đồng hành với dân tộc.

    Ở đây, we đang nói về "Pháp nạn 1963", một sự kiện nổi bật trên trang sử cận đại của quê hương. "Pháp nạn 1963" xảy ra dưới bạo quyền ác ôn cuồng tín của nhóm quyền lực gia đ́nh trị Ngô Đ́nh. Những hành xử quyền lực đầy hợm hĩnh, ngạo mạn, gian xảo, dối trá, thâm độc, hiểm ác của anh em gia tộc Ngô Đ́nh đối với các đảng phái, đoàn thể khác của dân tộc; đối với các tín ngưỡng khác của dân tộc mà không phải là Ca-tô Rô-ma Giáo (đặc biệt đối với khối đa số Phật Giáo) đă được phơi bày tràn lan trên các phương tiện truyền thông rồi. Thế nhưng, hậu duệ của gia tộc này, những kẻ một thời "vinh thân ph́ da" dưới ơn mưa móc ban phát bởi chế độ độc tài, gia đ́nh trị Ngô Đ́nh Diệm, những tàn dư của 1 đảng phái phi dân tộc là Cần Lao Công Giáo, vẫn ĺ lợm theo đuổi cái di chúc của lănh tụ "anh minh" quái đản nhất Ngô Đ́nh Diệm là: "Tôi chết, hăy trả thù cho tôi" mà miệt mài t́m đủ mọi cách để bôi bác, chống phá Phật Giáo nhằm đánh tráo lịch sự, chạy tội cho anh em nhà Ngô Đ́nh.

    Điển h́nh ở đây là nhóm "Truyền h́nh Quốc gia Việt Nam" múa mép bởi 3 nhân vật chính: Dương Đại Hải, Liên Thành, Lư Ṭng Bá.

    Trong Pháp nạn 1963, ngài Thích Quảng Đức đă dám lấy thân ḿnh làm đuốc sống hầu thức tĩnh lương tâm của anh em nhà Ngô Đ́nh. Một ngọn đuốc làm rực sáng mọi lương tâm nhân loại, làm rung chuyển tâm thức thế giới, nhưng lại không 1 mảy may gột bớt màn u mê ám chướng phủ dày trên năo trạng của anh em nhà Ngô Đ́nh.

    Hồi Đầu Thị Ngạn.

    Đúng vậy, chỉ cần quay đầu lại, anh em ông Diệm đă thấy được bờ, cập bến an toàn. Đâu đến nỗi cứ đâm đầu chèo ra giữa biển động sóng gió để rồi ôm nhau đi....ṃ tôm!.

    Hồi Đầu Thị Ngạn.

    Đám hậu duệ, tàn dư CLCG có biết nghiệm ra từ bài học lịch sử sống động trên không?

    Mời đọc:

    Ngọn lửa Quảng Đức và biến cố Phật giáo 1963
    dưới cái nh́n của thế giới


    Sau Thế Chiến Thứ II (1939-1945) hàng hóa và vũ khí của Mỹ để cung ứng cho chiến tranh bị tồn đọng rất nhiều. Mỹ thay chân Pháp ở Đông Dương biến miền Nam Việt Nam thành tiền đồn chống Cọng với khẩu hiệu “Để chận đứng sự bành trướng của chủ nghĩa cọng sản tại vùng Đông Nam Á”, nhưng thực tế cũng c̣n để tiêu thụ hết số hàng hoá và khí giới thặng dư. Để thi hành hai mục tiêu then chốt cùng một lúc tại Việt nam, chính phủ Mỹ sẽ chỉ chấp nhận một chính quyền bù nh́n, dễ sai và phục ṭng Mỹ, nghĩa là một chính quyền Công Giáo (v́ Tin Lành c̣n yếu vào thời điểm đó) trong một quốc gia mà số tín đồ của họ chỉ có 5 % dân số.


    Chính sách phản dân chủ ‘Đa số phục tùng thiểu số’ do tay sai bản xứ của Mỹ tại Việt Nam thực hiện, do đó, đă là một trong những nguyên nhân xa và gián tiếp đưa đến vụ tranh đấu Phật Giáo 1963, và Ngọn đuốc Thích Quảng Đức và sáu ngọn đuốc khác* nhằm thức tỉnh chính quyền Ngô Đ́nh Diệm và đánh động lương tâm nhân loại về một thực trạng bất công và bóc lột đè nặng lên thân phận người dân Việt kể từ thời Pháp thuộc kéo dài đến không những với chế độ Ngô Đ́nh Diệm mà c̣n với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, một chính quyền ‘b́nh mới nhưng rượu c̣n nguyên’.


    Phác họa lại vài nét đơn sơ về bối cảnh lịch sử như thế để thấy cuộc tranh đấu của Phật giáo 1963 không phải chỉ được nh́n một cách đơn giản là v́ sự bất công giữa Phật giáo và Kitô giáo (CG và TL) mà nguyên nhân chính, c̣n là, giữa hai tôn giáo mà chính sách của chúng rất khác biệt. Một bên, nói theo ư của Giám Mục Puginier, là cái càng của con cua thực dân** do chế độ tôn giáo độc tài Ngô Đ́nh Diêm nuôi dưỡng và ưu đải, c̣n bên kia là các tín ngưỡng dân tộc chết sống với sự thăng trầm của vận nước bị nhà Ngô đàn áp. Biến cố Phật Giáo 1963 chỉ là một giọt nước làm tràn ly nước đă quá đầy. V́ thế cuộc tranh đấu do Phật Giáo khởi xướng là một cuộc tranh đấu không những của toàn dân miền Nam Việt Nam mà cũng là cuộc tranh đấu của những người yêu chuộng tự do b́nh đẳng công bằng xă hội trên khắp thế giới.

    Với cái nh́n thoáng qua chiều dài lịch sử như thế chúng ta mới biết được nguyên nhân tại sao cuộc tranh đấu nầy lại được toàn dân và thế giới nhiệt liệt ủng hộ mà trong đó có nhiều nhân vật lănh đạo không có cùng một tín ngưỡng với người Phật tử Việt nam và nhiều quốc gia dẫu có chung một khuynh hướng chính trị với chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Chiều hướng ủng hộ tích cực nầy càng mạnh hơn sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự nguyện đem thân làm ngọn đuốc để cảnh tỉnh ḷng người.

    Ngài sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, tỉnh Khánh Ḥa, xuất gia lúc 15 tuổi, tu học tại chùa Linh Mụ Huế. Trước lúc tự thiêu Ngài trú tại chùa Quán Thế Am, Sài G̣n. Sau khi 8 Phật tử bị giết tối ngày 8.5.1963 tại đài phát thanh Huế, và 5 nguyện vọng chính đáng của Phật giáo không được chính quyền Ngô Đ́nh Diệm thỏa thuận, Hoà Thượng Thích Quảng Đức người đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, sau nhiều tuần thiền định để tăng trưởng thêm nội lực, đă tự nguyện hy hiến cuộc đời cho đại nghĩa giữa ngă tư đường Phan Đ́nh Phùng-Lê Văn Duyệt Sài-g̣n sáng ngày 11.6.1963.


    Khác với những lời xuyên tạc của những người bênh vực nhà Ngô, kư giả Nữu Ước Thời Báo (New York Times) David Halberstam đă tường thuật bằng những lời vừa ngạc nhiên vừa kính nể:

    “ Tôi được thấy lại cảnh tượng ấy, nhưng chỉ một lần cũng đă quá đủ. Lửa phủ khắp người; thân từ từ khô lại, đầu cháy nám, không khí bay mùi khét thịt, thân h́nh ch́m trong lửa đỏ thật kinh ngạc. Phía sau, tôi có thể nghe tiếng khóc của những người đang lần lượt kéo đến. Tôi quá xúc động khóc không nên lời, quá bàng hoàng để ghi chép hoặc hỏi vài câu, quá bối rối để suy nghĩ... ch́m trong biển lửa nhưng ngài vẫn bất động, thịt gân không nhúc nhích, không một tiếng rên la, thân ngă xuống, những người đang đứng xung quanh ̣a khóc.”.





    I was to see that sight again, but once was enough. Flames were coming from a human being; his body was slowly withering and shriveling up, his head blackening and charring. In the air was smell of burning human flesh; human being burn surprisingly quickly. Behind me I could hear the sobbing of the Vietnamese who were now gathering. I was too shocked to cry, too confuse to take notes or ask questions, too bewildered to even think... As he burned he never move a muscle, never uttered a sound, his outward composure in sharp contrast to the wailing people around him (quoted by Jollie Hicks): (http://www.uwec.edu/greider/BMRB/cul...t.work/hicksr/ ).

    Những bài tường thuật của Malcolm Browne về cuộc tự thiêu của HT Thích Quảng Đức được hảng thông tấn AP gởi về Mỹ nhanh chóng, và những bức h́nh tự thiêu do ông chụp cũng được hầu hết các tờ báo khắp thế giới đăng lên trang đầu. Từ đó, lần đầu tiên độc giả khắp nơi bắt đầu ṭ ṃ về những ǵ đang xẩy ra tại Việt Nam, một quốc gia xa lạ ở vùng Đông Nam Á.

    ‘Tuy nhiên, thái độ của phái bộ (thông tin) Hoa Kỳ lúc đầu là cố gắng làm giảm cường độ một số các nguồn tin chính thức thường cung cấp cho giới truyền thông. Nhưng đây không phải là một công việc dễ mặc dầu bản doanh của báo giới bị buộc chặt, có nhóm đoàn kết chặt chẻ, và có nhóm lo sợ. Cảnh sát ngầm của chính phủ Diệm lại lén thu băng các cuộc điện đàm của các nhà báo, theo giỏi các máy điện tín, gài người vào các văn pḥng và chạy theo kư giả trên các đường phố. Dẫu vậy, qua việc xử dụng các người thăm viếng, nhân viên hàng không, và ngay cả những cảm t́nh viên quân sự nên giới nhà báo vẫn chuyển đi được các bản tin mà họ chứng kiến. V́ thất bại trong việc điều khiển nguồn cung cấp tin nên chính phủ Kennedy đă phải đưa công việc nầy lên một đơn vị cao hơn.’ (A Reader, The American Experience in Vietnam, edited by Grace Savey, University of Oklahoma Pess, 1989 pp. 112 & 113).

    Làm đủ mọi cách, nhưng cả phái bộ truyền tin của Mỹ và của Việt Nam đă không thể ngăn chận nỗi các tin tức về cuộc tranh đấu của Phật giáo, nhất là sau khi HT Quảng Đức tự thiêu, nên cả thế giới hầu như được biết tường tận về biến cố vĩ đại này.

    a. Quảng Cáo trên New York Times và Washington Post... : Kư giả kiêm nhiếp ảnh gia Malcolm W. Browne viết :


    “Những bức h́nh mà tôi chụp về cái chết của HT. Quảng Đức đă trở thành một sở hữu vật mà người ta gởi đi cùng khắp thế giới. Những bức h́nh đó mang nhiều ư nghĩa tùy theo cái nh́n và mục đích xử dụng của mỗi người.


    Một người quen ở Lisbon gởi thư cho tôi biết rằng những bức h́nh về cái chết của ngài Quảng Đức được thành phần diều hâu bày bán khắp cùng ngơ hẻm. Một nhóm giáo sĩ nỗi tiếng người Mỹ cũng dùng một trong những bức h́nh nầy để tạo sự Chú ư cho những trang quảng cáo của họ trên Nữu Ước Thời Báo (New York Times) và báo Hoa Thịnh Đốn (Washington Post) với hàng chữ “Chúng ta cũng phản đối: We, too, protest”. Sự phản đối của họ là nhắm vào việc người Mỹ ủng hộ chế độ Diệm.”
    Malcolm W. Browne, The New Face Of War, Revised Edition, The Bobbs-Merrill Company, Inc. Indianapolis-New York,1968, Tr. 261-262. Xin xem thêm Christian G. Appy, Patriots The Vietnamese War Remembered From All Sides, tr. 60-65).

    b. Trung Hoa: “H́nh tự thiêu của ngài Quảng Đức được Hoa Lục in ra hằng triệu bản (printed millions of copies). Một trong những bức h́nh đó đă gởi cùng khắp các quốc gia Á-Phi với hàng chữ lớn “Một tăng sĩ Phật Giáo hy sinh thân mạng để chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ-Diệm.”


    H́nh tự thiêu của HT. Quảng Đức cũng là một ấn tượng ảnh hưởng đến ṭa Bạch-ốc. Tôi (Browne) được biết rằng lúc ông Henry Cabot Lodge đến gặp cố Tổng Thống Kennedy về việc được bổ nhiệm chức đại sứ tại Việt Nam, Kennedy cũng đă có một bức h́nh tự thiêu của HT. Quảng Đức trên bàn giấy. Cái chết của ngài Quảng Đức có lẽ là một trong những yếu tố chính để cuối cùng Bộ Ngoại Giao và Toà Bạch-ốc chống đối chính phủ Diệm, đang đổi hướng lịch sử Việt Nam” {...Quang Duc’s death probably was one of the factors that finally turned the State Department and White House against Diem, altering the course of Vietnamese history to some extent} (Malcolm W. Browne, The New Face of War, tr. 263).

    c. Báo Le Monde, Pháp ngày 13.6.64 viết: “Trước hành động tự sát để đấu tranh, kẻ tàn bạo nhất cũng phải chùn bước.” (Minh Không Vũ Văn Mẫu, Sáu Tháng Pháp Nạn 1963, bản Ronéo 1984, tr.320)

    (Xin chèn ké vô đây 1 suy nghĩ của tui là: he he.....Ông Diệm đă không "chùn bước" trước hành động của ngài Quảng Đức, chứng tỏ ông ta thuộc loại "siêu tàn bạo" trong những kẻ mà báo Le Monde gọi là "tàn bạo nhất")- Nguỵ Tặc.

    d. Báo La Gazette de Lausanne tại Thụy sĩ: Viết những lời rất cảm động về cuộc tự thiêu của HT Quảng Đức như sau:


    “Sự hy sinh rất khích động của vị tăng sĩ thiêu sống ngay tại Sài G̣n buộc người ta phải kính trọng. Sự hy sinh v́ Chính Pháp của ông khiến chúng ta liên tưởng tới những người Gia Tô đầu tiên và sự liên tưởng nầy càng làm cho chúng ta cảm thấy oái oăm.” (Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Hồi Kư Chính Trị, Hoa Kỳ 1986, tr. 640).

    e. Báo Journal de Genève: Là một tờ báo khác ở Thụy sĩ có ảnh hưởng lớn trên thế giới nhận định:


    “Người ta có thể tuyên truyền rằng đó chỉ là cuộc nỗi loạn của phe đa số khắc khổ kiếm chuyện v́ chính phủ chỉ là một thiểu số bó kết chặt chẻ với nhau mà bộ tịch lại vênh váo và cứng nhắc. Nhưng việc phải hy sinh v́ Chánh Pháp của Ḥa Thượng Thích Quảng Đức lại cho thấy rằng Phật Giáo Việt Nam đang phải bảo vệ nếp sống và tư tưởng của họ.” (Đỗ Mậu, sách đă dẫn, tr. 641).


    g. Chính Phủ Ngô Đ́nh Diệm: Sau vụ tự thiêu chấn động dư luận của HT. Quảng Đức, Ngô Đ́nh Diệm thực sự bối rối nên ông qui trách người khác thiếu căn cứ:

    “Ông Diệm vu khống nhiếp ảnh gia Browne đă hối lộ các nhà sư Phật giáo để giết một nhà sư đồng nghiệp.”


    Diem’s reaction was to accuse Browne of bribing the Buddhist monks to murder their fellow monk. (Grace Sevy, sách đă dẫn, tr.112).


    Bà Ngô Đ́nh Nhu: Lúc trả lời cuộc phỏng vấn đài truyền h́nh MỸ, kư giả Mecklin viết rằng bà Nhu nói:

    “Tất cả những việc mà Phật Giáo đóng góp cho đất nước từ trước đến nay không có ǵ ngoài việc thiêu sống một nhà sư”... và “Ông Thích Quảng Đức bị chích thuốc và bị cưởng bách thiêu sống, nhưng về sau bà Nhu đă t́m cách từ chối một số các phát biểu thiếu trách nhiệm nầy.”


    All that the Buddhists have done for the country is to barbecue the monk...She claimed that Thích Quảng Đức had been drugged and burned against his will. She later tried to deny having made some of her cynical comments. (Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled, Volum II Vietnam at War, Frederick A. Praeger, Publisher, New York, 1967, tr .1184).

    (Xin chèn ké thêm chút: Phật Giáo có mặt trên đất nước VN hơn 2000 năm. PG đă dấn thân và để lại mấy triều đại huy hoàng cho dân tộc. Vây mà bà Nhu láo lếu “Tất cả những việc mà Phật Giáo đóng góp cho đất nước từ trước đến nay không có ǵ ngoài việc thiêu sống một nhà sư”! Ăn nói kiểu ni mà không bị khẩu nghiệp nó đày cho biết thân mới là lạ.)-Nguỵ Tặc.


    Việc bà Nhu về sau muốn cải chính những phát biểu bồng bột và thiếu suy nghĩ của bà, như ông Buttinger cho biết, cũng đáng để chúng ta cảm phục và quí mến. Tin nầy cũng phù hợp với TIN QUAN TRỌNG SAU ĐÂY:


    Tôi (Bùi Kha) có người quen ở Orange County cho biết, cách đây gần hai mươi năm, ông Ngô Đ́nh Trác, con trai của bà Ngô Đ́nh Nhu ở tại Pháp, cùng với nhà thơ Du Tử Lê đến chùa Việt Nam Los Angeles, California lúc 2 giờ sáng để gặp Hoà Thượng Thích Măn Giác. Ḥa Thượng tiếp đón vui vẻ. Sau khi thắp hương và lễ Phật, ông Ngô Đ́nh Trác thưa rằng “Mạ con biểu con qua gặp Ḥa Thượng và xin Hoà Thượng tŕnh lại với giáo hội Phật Giáo là mẹ con và thay mặt gia đ́nh xin sám hối những lời nói và việc làm trước đây đối với tăng ni và Phật-tử Việt Nam...” Ḥa Thượng Măn Giác rất xúc động, quí mến nghĩa cử của bà Nhu, và an ủi ông Ngô Đ́nh Trác rằng “Lúc đó bà c̣n nhỏ tuổi và không ai cố vấn...” (HT. Thích Măn Giác hiện sống tại Los Angles và nhà thơ Du Tử Lê hiện ở Orange County, California).

    Ông Ngô Đ́nh Nhu: “Ngày 15 tháng 8 một nhà sư khác tự thiêu ở Huế, ba ngày sau đó một ni cô tự thiêu ở Ninh Ḥa (Khánh Ḥa có lẽ đúng hơn, BK). Để phụ hoạ với vợ, ông Ngô Đ́nh Nhu cũng nhẫn tâm giả vờ như không có ǵ hệ trọng:


    “Nếu Phật Giáo muốn có một vụ nướng thịt khác th́ tôi rất vui ḷng cung cấp xăng.”


    On August 15, another monk burned himself at Hue, followed three days later by a nun at Ninh Hoa. Not wishing to lag behind his wife in callousness, Ngo Dinh Nhu soon afterward stated that “if Buddhists want to have another barbecue, I will be glad to supply the gasoline”. (J. Buttinger, Ibid. p. 995).

    Những cuộc tự thiêu đă thức tỉnh thế giới và chấn động lương tâm nhân loại, nhưng ư nghĩa của nó th́ thường bị hiểu lầm và có người cho đó là một vụ tự tử (suiside) không hơn không kém. Để làm sáng rơ ư nghĩa các cuộc tự thiêu của Tăng Ni và Phật Tử năm 1963, tôi xin trích dẫn hai ư kiến của hai tu sĩ sau đây, một Tin Lành một Phật Giáo để làm sáng rơ thêm lịch sử.

    * Mục sư Donald Harrington tại Nữu ước: Trong buổi giảng tại một thính đường ở New York ngày 30.6.63, Mục sư Harrington đă mô tả trung thực chân t́nh và cảm phục việc HT Quảng Đức tự thiêu. Bài giảng đó cũng có đoạn nói lên ư nghĩa đích thực của hành động tự thiêu:



    “Cách đây hơn hai tuần, vào ngày 11.6.63 vị sư tên Thích Quảng Đức đă ngồi theo kiểu tọa thiền trên đường nhựa nóng. Trong tay Người cầm một xâu chuổi 54 hạt và bắt đầu niệm Phật c̣n trên chiếc áo cà sa của Người th́ đă tẩm ướt đầy xăng. Tất cả Tăng Ni lùi lại, kính cẩn, kinh sợ. Khách bộ hành nhận thấy một biến cố phi thường ǵ sắp xẩy ra nên tất cả đều dừng lại chờ đợi.


    Với vẻ yên lặng, b́nh thản trên khuôn mặt, Ngài Quảng Đức niệm lớn: “Nam Mô A Di đàPhật”. Thế rồi Người bật một que diêm và ngọn lửa phừng phực bốc lên phủ kín thân thể nhưng Người không hề rên la hay lay động. Người ngồi thẳng trong mười phút, thân h́nh ch́m trong lửa đỏ, và khi lửa tàn, Người nằm xuống bất động...


    Người ta có thể tự hỏi sự khủng khiếp và niềm phẫn hận nào đă có thể khiến cho một người của “T́nh Thương” của “Ḥa B́nh”, quyết chí tự thiêu?...


    Nếu sự tuyệt vọng hoàn toàn và chán đời cực độ đă đưa con người trên đời nầy đến chỗ tự tử, th́ một lư tưởng cao cả nhất và ḷng yêu đời nồng nàn nhấtmột đôi khi cũng đă sản xuất những người tử đạo quả cảm nhất trong lịch sử...


    Ḥa Thượng Quảng Đức hy sinh đời ḿnh bằng cách tự thiêu để thức tỉnh lương tâm của Tổng Thống Diệm và lưu ư cho toàn thế giới...


    Người đă chịu đựng sự đau đớn của tia lửa hồng đang đốt da thịt nhưng không một lời kêu than. Người gởi mấy lời của Người cho Tổng Thống Diệm, và cho đến nay ông Diệm vẫn chưa chịu nghe hay chú ư. Nhưng dù sao tiếng nói ấy vẫn làtiếng nói của t́nh thương, tiếng nói mà trong thâm tâm của nó chứa đưng sự giải thoát của miền Nam Việt Nam. Người đă để lại một bóng đen sĩ nhục lên sự huy hoàng mà Giáo Hoàng Gioan đă mang lại cho Giáo hội Thiên Chúa. Người đă làm và Người phải làm, cho mỗi người Hoa Kỳ đi t́m linh hồn của Người và cho chính phủ Hoa Kỳ biết rằng, trừ phi chính phủ Sài G̣n thực thi ngay quyền b́nh đẳng tôn giáo cho Phật Giáo đồ và tự do cho dân chúng Việt Nam, tất cả mọi viện trợ của Hoa Kỳ đều phải chấm dứt ngay...


    Ngọn lửa ấy có thể thành một tia hy vọng cho những người từ lâu bị áp bức bởi người ngoại quốc hay bởi ngay chính đồng bào của họ...”
    (Vũ Văn Mẫu, sách đă dẫn, tr.322-324. Xin xem thêm trong cuốn: 1963-2003 Bốn Mươi Năm Nh́n Lại, Giao Điểm 2003, tr.148-160).

    * Ư Kiến của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh:


    “Báo chí gọi đó là một hành động tự tử, nhưng thực chất không phải. Ngay cả đó không phải là một hành động phản đối. Điều mà những vị sư đă viết trong những bức thư để lại trước lúc tự thiêu là nhằm cảnh tỉnh, là để chuyển đổi tâm tư của những nhà cầm quyền, và để kêu gọi thế giới quan tâm đến những nỗi thống khổ triền miên của người dân Việt Nam. Người tự thiêu là để chứng tỏ rằng nguyện vọng mà họ đề cập là rất tối ư quan trọng...Tu sĩ Việt Nam tự thiêu là để nói lên với tất cả sức mạnh và quyết chí rằng tôi có thể chịu đựng sự khổ đau cùng cực nhất để bảo vệ cho đồng bào của tôi...Để bày tỏ ước vọng bằng cách tự thiêu của một người, v́ thế, không phải là một hành động hủy diệt mà là một hành động tạo dựng, đó là, để đau khổ và để chết cho người khác. Như thế, tự thiêu không phải là một hành động tự tử.”


    The press spoke then of suiside, but in the essence, it is not.It is not even a protest. What the monks said in the letters they left before burning themselves aimed only at alarming, at moving the hearts of the oppressors, and at calling the attention of the world to the suffering endured then by Vietnamese. To burn oneself by fire is to prove that what one is saying is of the utmost importance. The Vietnamese monk, by burning himself, says with all his strength and determination that he can endure the greatest of sufferings to protect his people. To express will by burning oneself, therefore, is not to commit an act of destruction but to perform an act of construction, that is, to suffer and to die for the sake of one’s people. This is not suicide.

    Thầy Nhất Hạnh đi xa hơn để giải thích tại sao sự tự thiêu của HT Thích Quảng Đức không phải là một cuộc tự tử, tự tử là trái với lời dạy của Đức Phật:

    “Tự tử là một hành động tự hủy do những nguyên nhân sau đây: (1) thiếu ư chí để sống và gặp những khó khăn; (2) thất bại trong cuộc sống và tuyệt vọng; (3) không muốn sống...Vị tu sĩ tự thiêu (Thích Quảng Đức) không mất nghị lực, không thiếu hy vọng; cũng như không phải không muốn sống. Trái lại, ngài có đầy nghị lực, tràn hy vọng và mong ước một cái ǵ tốt cho tương lai. Ngài không có ư nghĩ tự hủy; nhưng tin vào những hoa trái tốt từ sự tự hy hiến đời ḿnh cho kẻ khác...Tôi tin chắc rằng tất cả các vị sư tự thiêu không muốn những người cai trị chết, nhưng chỉ nhằm thay đổi chính sách của họ. Kẻ thù của chúng ta không phải là con người. Kẻ thù của chúng ta là sự thiếu khoan dung, cuồng tín, độc tài, tham đắm, hận thù và kỳ thị, chúng đang nằm sẵn trong tâm của con người.”


    (Suicide is an act of self-destruction, having as causes the following: (1) lack of courage to live and cope with difficulties; (2) defeat by life and loss of all hope; (3) desire for non exsistence... The monk who burns himself has lost neither courage nor hope; nor does he desire nonexsistence. On the contrary, he is very courageous and hopeful and aspires for something good in the future. He does no think that he is destroying himself; he belives in the good fruition of his act of self-sacrifce for the sake of others ... I believe with all my heart that the monks who burned themselves did not aim at the death of their oppressors but only at a change in their policy. Their enemies are not man. They are intolerance, fanaticism, dictatorship, cupidity, hatred, and discrimination which lie within the heart of man.” (Vietnam: Lotus in a Sea of Fire. Hill and Wang, Inc. New York,1967, pp. 106 &107).


    Sau cuộc bố ráp chùa và bắt tăng ni đêm 20.8 bằng kế hoạch “Nước Lũ” của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, thế giới ngày càng hiểu rơ hơn nguyện vọng chính đáng của Phật Giáo Việt Nam. V́ thế, họ đă lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ Phật Giáo và chỉ trích chính sách kỳ thị bạo ngược của chính phủ Diệm.

    Trong những cá nhân, đoàn thể và quốc gia ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo ta có thể chia làm ba thành phần. Những người khác tín ngưỡng với Phật Giáo, những quốc gia đa phần theo Phật Giáo và những nước tân tiến kỹ thuật. Sau đây là một số trích dẫn.

    1. LM. Lê Quang Oánh***: Từ hồ Than Thở Đà Lạt ngày 12.5.1963, Linh Mục Lê Quang Oánh đại diện khối Giải Sĩ Đồng Tâm, Linh Mục T. Vơ Quang Thiêng, nữ sinh M. Ngọc Lan Hương... gởi thư cho Hoà Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam bày tỏ sự đồng t́nh cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Thư có đoạn viết như sau:

    “Chúng tôi lên án “Tội bất công” đă giết hại đồng bào vô tội. Thật là tàn bạo, dă man, phản dân chủ, phản tự do, phản đạo đức, làm nhục cho quốc thể Việt Nam, một nườc văn hiến trên bốn ngh́n năm lịch sử.


    “Giám quả quyết rằng: “Nhân nghĩa sẽ thắng.”



    2. Vatican: Giáo Hoàng Phao Lồ Đệ Lục cũng đă ba lần lên tiếng về vấn đề Phật Giáo. Ngày 30.8.63 Giáo Hoàng đọc một thông điệp gởi đến nhân dân Việt Nam, nhưng văn thư nầy cũng bị chính quyền Ngô Đ́nh Diệm ngăn cấm không cho phổ biến. Một đoạn trong thông điệp nầy Giáo Hoàng viết như sau:

    “Giáo Hoàng đă biểu lộ sự chú tâm và đau đớn theo dơi các biến cố bi thảm đương dầy ṿ nhân dân Việt Nam và sự lo âu của Giáo Hoàng ngày càng thêm sâu sắc...Giáo Hoàng cầu nguyện để cho tất cả mọi người, trong mối hợp tác khoan dung và trong sự tương kính các quyền tự do chân chính, đoàn kết với nhau để tái lập tương thân và t́nh huynh đệ.”


    Le Pape exprime sa douloureuse préocupation au sujet des tristes évènements qui affigent le cher peuple Viêtnamien, tandis que l’angoisse devient de jour en jour plus profonde et lancinante...Et il fait des voeux que tous, dans une généreuse collaboration et dans un mutual respect des libertés legitimes, unissent pour rétablir la concorde réciproque et la fraternité (Bốn Mươi Năm Nh́n Lại tr.126.

    3. Cao Miên: Sau ngày HT Quảng Đức tự thiêu, ông Trần Văn Được, hội trưởng hội Phật Giáo Việt kiều tại Cao Miên, đă viết thư lên án chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và thỉnh cầu Quốc Trưởng Sihanouk yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp. Sau khi các chùa bị tấn công, tăng ni bị bắt đêm 20.8.63, chính phủ Cao Miên ngày 23.8.63 đă chính thức ra thông cáo kịch liệt lên án chính phủ Việt Nam. Một đoạn trong thông cáo viết:

    “Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt kinh hải khi nhận đươc tin Chính phủ Sài G̣n đă đàn áp dă man tín đồ Phật giáo...Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt hoàn toàn ủng hộ các Tăng Ni Phật tử Việt Nam” (Bốn Mươi Năm Nh́n Lại, sách đă dẫn, p.133).

    Đến ngày 27,8.63, chính phủ Cam Bốt gởi văn thư đoạn giao với Việt Nam bằng những lời lẽ rất nặng nề:

    “..Toàn thể dân tộc Cam Bốt cũng như tất cả các dân tộc khác trên thế giới đều công phẫn và ghê tởm trước những hành động dă man đàn áp Phật Giáo Việt Nam...” (BMNNL, tr . 134).

    4. Tích Lan: Ngọn lữa từ bi hùng tráng Thích Quảng Đức và sự ngược đải Phật tử tại Việt Nam đă khiến bà Sirimavo Bandaranaike, thủ tướng Tích Lan, vô cùng xúc động. Bà kêu gọi các nước theo Phật giáo tại Á châu ủng hộ Tích Lan trong việc yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp vào vấn đề đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam. Ngày 26.8.63 hội nghị Phật Giáo Tích Lan yêu cầu các đoàn thể Phật Giáo trên toàn quốc treo cờ rũ để tang các Phật tử hi sinh v́ tín ngưỡng (BMNNL, tr.136).

  3. #883
    Ngụy Tặc
    Khách
    (tiếp theo)


    5. Miến Điện: Sau ngày các chùa tại Việt nam bị bố ráp, chính phủ Miến Điện càng công phẫn hơn. Báo Guandiantai tại Rangoon, thủ đô Miến Điện, cực lực lên án chính sách bạo ngược của chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Báo viết rằng:

    “Mỹ sẽ lầm khi nghĩ rằng tiếp tục ủng hộ một chính phủ đang ngự trị trên thân xác đau thương của những Phật tử Việt Nam mà có thể giữ được nguyên vẹn t́nh cảm ngoại giao với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á” (BMNNL, tr.138).

    6. Ấn Độ: Nhiều hội Phật Học Ấn yêu cầu thủ tướng Néru can thiệp. Ngày25.8.63, Tổng Thư Kư đảng Quốc Gia Ấn rất công phẫn chế độ Ngô Đ́nh Diệm và cảm nhận nỗi đau thương của tín đồ Phật Giáo Việt Nam:

    “Nhữn gtin tức loan đi từ Sài G̣n đă làm chấn động dư luận tại An Độ, quê hương của Phật Giáo. Những sự tàn bạo mà các đạo hữu Việt Nam là nạn nhân càng làm cho ta phẫn nộ khi nhớ rằng Phật Giáo chủ trương bất bạo động.”(BMNNL, tr.138).

    7. Thái Lan: Ngày 22.8.63 thống chế Sarit Thanarat, thủ tướng Thái Lan, đề nghị triệu tập một hội nghị sơ bộ gồm các nước Phật giáo trước lúc đưa vấn đề Phật Giáo Việt Nam ra Liên Hiệp Quốc. Bốn ngày sau đó Đại tá Mutukhan, Phó giám đốc nha Tôn giáo thuộc bộ Giáo Dục, đă khuyến cáo chính phủ Việt Nam bằng những lời gay gắt và như một tiên tri:

    “V́ đă đàn áp Phật tử Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm sẽ hứngg chịu hết những tai hoạ dưới đủ mọi h́nh thức, hiểu theo giáo lư nhà Phật, kể cả giệt vong và đọa địa ngục...” (BMNNL, p.141).


    8. Đài Loan: Bộ ngoại giao Đài Loan tuyên bố rất lo ngại cuộc khủng hoảng tôn giáo tại Việt Nam và mong mơi chính phủ Việt Nam sớm có giải pháp thích hợp để chấm dứt cuộc khủng hoảng.


    9. Nam Hàn: Đại đức Kapchong, Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo, gởi thư cho chính phủ Việt Nam yêu cầu chấm dứt việc đàn áp Phật tử. Tướng Chang Chung Sơn, nhân viên trong hội đồng Quân nhân cách mạng, đă gởi thư lên án chíng phủ Việt nam đàn áp Phật tử một cách vô nhân đạo.

    10. Nhật Bản: Tổ đ́nh Bổn Nguyệt Tự tổ chức một buổi lễ đại cầu siêu cho cố HT. Quảng Đức và Phật tử Việt Nam hy sinh v́ tín ngưỡng. Mặc dù dè giặt nhưng Thứ trưởng Ngoại giao ông Shigenobu Shima tiếp xúc với Đại sứ Việt Nam tại Nhật để biểu lộ sự lo âu về biến cố Phật Giáo Việt Nam.

    Báo chí và dư luận của các nước Tây Phương rất nhiệt t́nh và ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam.

    11. Báo Le Monde: Được xem là phản ảnh quan điểm của Bộ Ngoại giáo Pháp. Số ra ngày 10.6.63 đă công kích chính phủ Việt Nam bằng những lời lẽ kịch liệt như sau:

    “Biến cố ở Huế đă xẩy ra do sự đàn áp tàn bạo của nhà cầm quyền, và đă là một cơ hội tốt để sự bất măn của nhân dân bộc phát. Sự tranh chấp nầy đă lột trần sự cô lập và thất nhân tâm của một nhóm thiểu số Thiên Chúa Giáo được ưu đải.” (BMNNL, tr.144).


    12. La Croix: Là một nhật báo có nhiều ảnh hưởng trong giới Công Giáo Pháp đăng bài quan điểm chống đối chính sách độc tôn của chính Phủ Ngô Đ́nh Diệm và kêu gọi tín đồ Công Giáo cầu nguyện cho Phật Tử Việt Nam. (Hoành Linh Đỗ Mậu, tr. 640).

    13. Báo New York Times (Nữu Ước Thời Báo): Số ra ngày 8.8.1963 viết:

    “... Chính phủ Hoa Kỳ đă t́m đủ mọi cách để buộc ông Diệm phải giải quyết vấn đề Phật Giáo. Nhưng người ta hết sức kinh ngạc khi nghe bà Ngô Đ́nh Nhu, em dâu của Tổng Thống Diệm, vu khống các lănh tụ Phật giáo là phiến loạn, sát nhân, và áp dụng chiến dịch Cọng sản. Có tin cho biết, chồng bà Nhu, em của Tổng thống Diệm, có thể cầm đầu một cuộc đảo chánh đă làm cho Hoa Kỳ lo ngại. Có nhiều người cho rằng những tin đồn về cuộc đảo chánh như vậy là một phần trong chiến tranh tâm lư chống Phậ giáo, và cũng là một sự hăm dọa đối với Hoa Kỳ.” (BMNNL, tr.147).


    14. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: Liền sau khi các chùa trên toàn miền nam bị tấn công, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phổ biến một tuyên ngôn, có đoạn như sau:

    “Căn cứ vào các tin loan đi từ Sài goon, rơ ràng chính phủ Việt Nam Cọng Ḥa đă có những biện pháp đàn áp nghiêm khắc các lănh tụ Phật giáo Việt Nam. Hành động nầy là một vi phạm trực tiếp của chính phủ Việt Nam vào lời cam kết theo đuổi một chính sách ḥa giải với tín đồ Phật Giáo. Hoa kỳ phiền trách các hành động đàn áp loại nầy.”.


    Text of Statement issued by Department of State, Washington, on August 21: On the basis of information from Saigon, it appears that the Government of the Republic of Vietnam has instituted serious repressive measures against Vietnamese Buddhist leaders. The action represents a direct violation by the Vietnamese Government of assurances that it was pursuing a policy of reconciliation with the Buddhists. The United State deplores repressive action of this nature. (Vũ Văn Mẫu, tr.333).

    15. Liên Hiệp Quốc: Với những h́nh ảnh Phật tử Việt nam bị đàn áp, bắt bớ, tù đày, vu khống bởi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm được đăng tải vào trang nhất của hầu hết các báo khắp thế giới, tổ chức Liên Hiệp Quốc đă không thể làm ngơ, nên ngày 24.9.1963 một phái đoàn đặc biệt được gởi đến Việt Nam để điều tra vụ Phật Giáo. Mặc dầu chính quyền Ngô Đ́nh Diệm không cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc tự do đến những nơi cần thiết để điều tra, nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đă thu thập đủ bằng chứng để kết luận rằng "Phật tử Việt Nam bị chính quyền Ngô Đ́nh Diệm kỳ thị, khủng bố, tra tấn, tù đày, giết hại và cải đạo trong nhiều năm qua."


    Tóm kết, cuộc tranh đấu Phật giáo 1963 không nằm hạn hẹp trong việc đ̣i hỏi sự b́nh đẳng và quyền tự do tôn giáo mà c̣n là một cuộc đ̣i hỏi về công bằng xă hội và quyền được sống an b́nh trong một quốc gia như bao nhiêu quốc gia khác trên thế giới. Cuộc tranh chấp ư thức hệ mà Việt Nam là một bải chiến trường để đọ sức. Khí giới, bom đạn, hàng hoá bị thặng dự sau Thế chiến Thứ hai th́ Việt Nam là một thị trường tốt để tiêu thụ. Người Việt trở thành nạn nhân nhưng được các cường quốc che dấu bằng những danh từ hoa mỹ.V́ thế, cuộc tranh đấu Phật Giáo 63 được toàn dân, toàn quân ủng hộ và thế giới tán đồng. Sự tự hy hiến bi hùng của Bồ Tát Thích Quảng Đức cũng như những ngọn lửa thiêng tiếp nối sau đó là để chính phủ Ngô Đ́nh Diệm tỉnh thức và thế giới lưu tâm. Kết quả là cộng đồng thế giới có lưu tâm nhưng chính phủ Ngô Đ́nh Diệm lại không đếm xĩa nên cuối cùng, chế độ mất ḷng dân và ngược thời đại nầy đă bị sụp đổ..

    Những ngọn lữa thiêng và biến cố 63 đă tạo cơ duyên tốt cho Phật Giáo để chấn hưng và một vận hội mới cho quy tŕnh cách mạng xứ sở, nhưng tất cả đều tùy thuộc vào vận nước, vào thế chính trị quốc tế, vào ư chí của toàn dân và nhất là tùy thuộc vào những con người có lương tâm, trí tuệ và hùng lực của thành phần lănh đạo.



    Bùi Kha

    Đăng ngày 29/10/2007

    Nguồn link: http://www.giaodiemonline.com/noidun...hp?newsid=1674



    --------------------------------------------------------------

    *Thượng Toạ Thích Tiêu Diêu, Đại Đức Thích Thanh Tuệ, ĐĐ Thích Thiện Mỹ, ĐĐ Thích Nguyên Hương, Sư Cô Thích Nữ Diệu Quang và Phật Tử Đặng Thị Ngọc Tuyền.

    ** Giám Mục Puginier nhận định “Không có giáo sĩ và giáo dân th́ người Pháp (rồi đến người Mỹ) như cua bị bẻ găy hết càng” (Sans les missionnaires et les chrétiens, ecrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabs auquels on aurait cassé toutes les pattes).

    ***Tôi chỉ liệt kê một người khác tín ngưỡng tiêu biểu.



    Sách Tham Khảo:

    1. Giao Điểm: 1963-2003 Bốn Mươi Năm Nh́n Lại, Giao Điểm 2003

    2. Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Hồi Kư Chính Trị, Hoa Kỳ 1993

    3.Minh Không Vũ Văn Mẫu, Sáu Tháng Pháp Nạn 1963, bản Ronéo 1984

    4. Appy, Christian G. Patriots The Vietnamese War Remembered From All Sides, New York 2003

    5. Browne, Malcolm W. , The New Face Of War, Revised Edition, The Bobbs-Merrill Company, Inc.Indianapolis-New York,1968

    6. Buttinger, Joseph, Vietnam: A Dragon Embattled, Volum II Vietnam at War, Frederick A. Praeger, Publisher, New York, 1967

    7. Nhat Hanh, Vietnam: Lotus in a Sea of Fire. Hill and Wang, Inc.New York,1967

    8. Savey, Grace, A Reader, The American Experience in Vietnam, edited by Grace Savey, University of Oklahoma Pess,1989

    9. Tucker, Spencer C. Editor Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, 1997-1998

    10. Tuần báo New York Times (Nữu Ước Thời Báo), tháng 6-8.1963

    11. U.S. News & World Report: Tháng 6-8.1963

    12. Tuần báo Time, tháng 6-8.1964

    13. Tuần báo Washington Post tháng 6-8. 1964

    14. http://www.uwec.edu/greider/BMRB/culture/ tudent.work/hicksr/

  4. #884
    Ngụy Tặc
    Khách
    Là Bộ trưởng Ngoại giao tài giỏi của chính quyền Diệm, ông Vũ Văn Mẫu đă phản ứng rất quyết liệt và đánh thẳng vào uy tín của chế độ Ngô Đ́nh Diệm một đ̣n rất ngoạn mục. Ông ta đă cạo đầu, từ chức và đi hành hương Phật tích ở Ấn Độ.

    Trước lúc mất, ông đă không quên để lại tập tài liệu "Sáu tháng Pháp nạn 1963".

    Mời xem điểm sách về cuốn tài liệu trên:

    Sáu tháng Pháp nạn 1963 của Minh Không Vũ Văn Mẫu


    Đây là hồi kư của cố Giáo sư Vũ văn Mẫu (1914-1998) về những diễn biến tại miền Nam Việt Nam từ vụ triệt hạ cờ Phật giáo tại Huế (8/5/1963) đến ngày đảo chính 1/11/1963 lật đổ chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Ông sinh năm 1914 tại Hà Đông, Bắc Việt Nam, tốt nghiệp Thạc sĩ Luật khoa Đại học Paris, Pháp.

    Về nước ông làm giáo sư tại Đại học Luật khoa Sài G̣n và giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao VNCH từ năm 1955 đến 1963. Sau đó ông là Đại sứ tại Anh, Bỉ và Hà Lan từ 1964 đến 1972, trước khi đắc cử vào Thượng nghị viện Sài G̣n, liên danh Hoa Sen. Hồi kư được in Ronéo trong nước vào năm 1984, Giao Điểm in lại năm 2003 tại Hoa kỳ - PO BOX 2188, Garden Grove, CA 92842 - sách dày 505 trang.

    Giáo sư Vũ văn Mẫu đă gây tiếng vang lớn trong và ngoài nước khi cạo trọc đầu và đệ đơn từ chức Bộ trưởng Ngoại giao để phản đối hành động tấn công các chùa đêm 20/8/63 và xin đi hành hương Phật tích tại Ấn Độ.


    Gs Vũ Văn Mẫu (1914-1998), link: http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9...3n_M%E1%BA%ABu

    Trong lời nói đầu , tác giả viết: “Mặc dù báo chí ngoại quốc và quốc nội đă đề cập sâu rộng đến những vấn đề xoay quanh 6 tháng Pháp nạn, nhưng có thể nói rằng một tấm màn bí mật vẫn c̣n bao phủ nhiều biến cố quan trọng và bao nhiêu thắc mắc cùng hoài nghi vẫn c̣n đè trĩu trên ḍng lịch sử…Dân tộc ta đă trăi qua một cơn ác mộng hăi hùng. Chúng ta bị dồn đến bước hiểm nghèo mà may thay đă tránh được không sa vào vực thẳm của sự chia rẽ tôn giáo. Sau phút hiểm họa, toàn dân vẫn đoàn kết, triệu người như một, không phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng. Đó là một điều vinh hạnh cao qúy cho nền văn minh dân tộc đă tiếp nối truyền thống tự ngàn xưa tôn trọng quyền căn bản của con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng. Ghi chép lại các biến cố trong Pháp nạn năm 1963, tác giả không ngoài ư nghĩ nêu lên một vết xe đổ, để bước đường nguy hiểm không c̣n ai dẫm phải trong tương lai”.

    Trong chương Một, tác giả đề cập đến chính sách thiên vị Thiên Chúa giáo của chế độ Ngô Đ́nh Diệm trên phương diện pháp lư và tinh thần (dụ số 10, Hiến pháp 1956) cũng như trong các lĩnh vực hành chính, xă hội và kinh tế (chương tŕnh di cư và định cư, chương tŕnh Dinh diền và Khu trù mật, quốc sách Ấp chiến lược).

    Trong chương Hai, tác giả đă đưa ra những tài liệu khác nhau về vụ triệt hạ cờ Phật giáo tại Huế và thảm sát tại đài Phát thanh Huế đêm 8/5/63, về quan điểm của Tổng Giáo hội Phật giáo Việt Nam được tŕnh bày trong Tâm thư ngày 9/5/1963, bản tuyên ngôn ngày 10/5/63 và các bản Phụ đính; Quan điểm của chính quyền được phản ảnh trong hai tài liệu đề ngày 9/5/1963 trong Thông cáo của Ṭa Hành chính tỉnh Thừa Thiên và bản phúc tŕnh của ông Ngô Ganh, Quản đốc đài Phát thanh Huế. Sau khi phân tích các lời tường thuật của các nhân chứng như Tổng Giám mục Ngô Đ́nh Thục, bác sĩ Erich Wulff, Linh mục Cao Văn Luận (Viện trưởng Viện Đại học Huế), ông Nguyễn khắc Từ, một huynh trưởng Gia đ́nh Phật tử, tác giả đă nêu ra câu hỏi: Đâu là sự thực? Thực sự ai là người có trách nhiệm chính trong việc gây ra vụ thảm sát.

    Tác giả đă đưa ra chứng từ của ông Trần hữu Thế (nguyên Bộ trưởng Giáo dục) về trách nhiệm của TGM Thục như sau:

    “Chính tối hôm Phật đản cũng đă có một bữa tiệc tại nhà Ngô Đ́nh Cẩn với sự hiện diện của TGM Thục, một số bộ trưởng và nhiều nhân vật cao cấp trong chính phủ. Đang giữa bữa ăn th́ Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng và Phó Tỉnh trưởng Đặng Sĩ hốt hoảng xin vào tŕnh bày t́nh h́nh rất căng thẳng v́ mấy ngàn phật tử đang tụ họp trước Đài Phát thanh. V́ phụ trách các vấn đề an ninh, Thiếu tá Đặng Sĩ xin chỉ thị để đối phó.

    Ngô Đ́nh Cẩn ngồi yên không nói ǵ, hay không muốn nói có lẻ v́ đă đoán trước được ư kiến của ông anh Ngô đ́nh Thục thế nào cũng chống đối thái độ ḥa hoăn của ông ta trong vụ này. Sau báo cáo của Đặng Sĩ, TGM Ngô đ́nh Thục đang ăn bổng ngưng lại, giơ tay ra hiệu cho Thiếu tá Đặng Sĩ “Dẹp…!”. Tỉnh trưởng và Phó Tỉnh trưởng lănh chỉ thị lui ra. Sau đó th́ các sự việc xăy ra như bác sĩ Erich Wulff đă tường thuật rơ ràng các điều mắt thấy tai nghe tại chỗ” (tr.215-216).

    Trong chương Ba, tác giả đề cập đến cuộc tranh đấu của Phật giáo và sự thành lập Ủy ban Liên phái, ngọn lửa Bồ tát Thích Quảng Đức và việc kư Thông cáo chung ngày 16/6/63. Về việc này, tác giả cho biết (trang 278-279) : “1 giờ 30 sáng ngày 16/6/63, sau khi bản Thông cáo chung được kư kết, v́ đă lấy chữ kư của Ḥa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đem ngay vào dinh Gia Long để lấy chữ kư của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm th́ một khó khăn bất ngờ khiến ông Nguyễn Ngọc Thơ phải thất vọng. Đọc đi đọc lại bản Thông cáo mà chính ông trước đây đă chấp thuận từng điểm trong mỗi giai đoạn thương thuyết, ông Diệm, chẳng hiểu chuyện ǵ đă xăy ra trong thâm tâm, bổng không chịu kư nữa. Đến 5 giờ sáng, ông Diệm nói với ông Nguyễn Ngọc Thơ cứ để hồ sơ lại rồi về nhà nghỉ.

    Sau khi ông Thơ ra về, trong dinh Gia Long đă có một ‘Hội đồng gia đ́nh’ bàn về vấn đề này gồm có ông Diệm và hai vợ chồng ông Nhu. Cuối cùng, sau khi cả gia đ́nh suy tính kỹ, bà Nhu đă khuyên ông Tổng thống: “Không kư ngang hàng với Ḥa thượng Thích Tịnh Khiết mà kư ngay ở trên góc trái, ngay trang đầu của bản Thông cáo chung và thêm vào một câu trên chữ kư: “Những điều được ghi trong Thông cáo chung này th́ đă được tôi chấp thuận nguyên tắc ngay từ đầu”. Ông Diệm đă nghe theo lời khuyên này và kư ở trang đầu của bản Thông cáo với câu ghi trên.

    Tại sao bà Ngô Đ́nh Nhu lại có quyết định như vậy? Theo ư kiến của bà Nhu, kư ở trên đầu trang là tỏ rằng Tổng thống Diệm ở trên hết. C̣n câu ghi trên đây có hai ư nghĩa: theo nghĩa đen, câu đó tỏ rằng các nguyện vọng của Phật giáo không có chủ đích, v́ đều đă được Tổng thống chấp thuận nguyên tắc ngay từ đầu; nhưng theo nghĩa bóng, th́ bản Thông cáo chung sẽ không được thực thi v́ Tổng thống chỉ chấp nhận nguyên tắc mà thôi. Hậu ư phá hoại việc thi hành bản Thông cáo chung ngày 16/6/1963 đă nẩy ra trong thâm tâm vợ chồng Ngô Đ́nh Nhu ngay từ lúc chữ kư của Tổng thống Diệm trên bản Thông cáo chung c̣n chưa ráo mực”.

    Trong chương Bốn, tác giả đề cập những diễn biến từ lúc bản Thông cáo chung được công bố cho đến vụ tấn công các chùa đêm 20/8/1963 và các hậu quả sau đó. Tác giả cho biết trong Tiết 1, dưới sự điều động của vợ chồng Ngô đ́nh Nhu, nhà cầm quyền đă tổ chức một Tổng hội Phật giáo Cổ sơn môn để chống lại phong trào đấu tranh của phật tử, dùng đoàn thể Thương phế binh giả và Thanh niên Cộng ḥa để yêu cầu duyệt lại bản Thông cáo chung cũng như kế hoạch tiêu diệt Phật giáo đến tận gốc của Ngô Đ́nh Nhu (Kế hoạch Nước Lũ, Kế hoạch đảo chính giả). Trong Tiết 2, tác giả ghi lại hai giai đoạn sôi nổi nhất vào dịp kỷ niệm một tháng ngày Kư Thông cáo chung và lễ Chung thất (49 ngày) của HT.Thích Quảng Đức. Trong tiết 3, tác giả nhắc lại các biến cố tại Huế sau cuộc tự thiêu của TT.Thích Tiêu Diêu, việc các Giáo sư Đại học Huế từ chức để phản đối LM Cao Văn Luận bị cách chức Viện trưởng.

    Thuật lại buổi bàn giao chức vụ cho tân Viện trưởng là ông Trần Hữu Thế, tác giả cho biết (trang 386-387): “Linh mục Cao Văn Luận nói: ‘Lúc này, muốn làm văn hóa đắc lực, người lănh đạo Viện Đại học phải là người có cái THẾ chính trị. Về phương diện này, thiết tưởng không ai hơn ông tân Viện trưởng Trần Hữu Thế, là người như tên đă định, có thế hơn ai hết, vừa có thế của Tổng thống tức là thế của chính phủ, vừa có thế của Tổng Giám mục Huế tức là thế của mấy trăm ngàn giáo dân, Viện Đại học Huế nhờ vậy sẽ có một tương lai vô cùng tốt đẹp!’. Ông Thế mặt tái xanh, nhưng cũng gượng đứng dậy đáp từ cho biết đă cố gắng xây dựng ngay từ khi c̣n làm Bộ trưởng Giáo dục (trước ông Nguyễn Quang Tŕnh)…

    Sau buổi lễ bàn giao, ông Trần Hữu Thế đă thấy bị đặt vào một t́nh thế vô cùng khó khăn. Ông đă nhờ người đưa đi thăm chùa Từ Đàm và đă được chứng kiến tinh thần tranh đấu của phật tử rất cao, ông càng hoảng sợ. Ngày 19/8, khi ông Trần Hữu Thế đến Viện Đại học, tất cả sinh viên đă tề tựu, đứng chờ đợi im lặng trong sân. Bác sĩ Lê Khắc Quyến, đại diện giáo sư Đại học, vào pḥng Viện trưởng đưa cho ông Thế đơn từ chức của các giáo sư Đại học. Sau đó, một đại diện sinh viên tŕnh ông Thế một bức Tâm thư yêu cầu ông Thế từ chối chức vụ tân Viện trưởng Viện Đại học Huế. Ông Thế đáp: “Tôi xin nhận thư này và tôi sẽ chuyển lên cấp trên”. Sau đó, quá hoảng sợ, ông Thế đă muốn rút lui bằng ngơ sau. Nhưng ông Âu Ngọc Hồ, Tổng Thư kư Viện khuyên ông nên đi ngơ trước để giữ thể diện Viện trưởng. Ông đành nghe theo và sinh viên đă rẽ ra để dành đường cho ông rời khỏi Viện. Sau đó, ông Trần Hữu Thế hiểu rơ không thể nào tuân theo lệnh ông Ngô Đ́nh Thục để giữ chức Viện trưởng tại Huế, đă lẻn về Sài g̣n và đến cầu cứu tôi xin chiếu khán xuất ngoại để trở về ngay Manille, không dám lại cáo biệt cả Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm”.

    Sau khi đề cập vụ tấn công chùa Xá lợi và các chùa khác trong đêm 20/8/63, tác giả đă thuật lại phiên họp nội các lúc 5 giờ rưỡi sáng ngày 21/8/63 và quyết định từ chức như sau:

    “Đúng 11 giờ sáng ngày 22/8/63, tại dinh Gia Long đă diễn ra lễ tŕnh ủy nhiệm thư của Đại sứ Anh. Tôi đứng cạnh Tổng thống Diệm trong buổi lễ một cách điềm nhiên, không một ai có thể đoán được sau buổi lễ này, trưa hôm ấy, tôi sẽ cạo đầu và từ chức vào buổi chiều. Tôi đă nhận thấy cần phải từ chức vào ngay chiều ngày 22/8/63, trước khi tân Đại sứ Hoa kỳ Cabot Lodge tới, anh em ông Diệm sẽ xuyên tạc sự thật và tuyên truyền rằng tôi chỉ là một con bài của Mỹ và sự từ chức của tôi là do Mỹ xúi, có tính cách hoàn toàn chính trị chứ không phải v́ vấn đề bảo về đạo Pháp.”

    Tác giả cho biết (trang 408-409): “Từ chức là một quyết định đă đến với tôi từ sáng ngày 21/8, sau buổi họp Hội đồng Nội các. Nhưng tôi đă suy nghĩ về một vấn đề tế nhị: cần từ chức dưới một h́nh thức nào để vượt các khó khăn về sau.

    a. Tổng thống Diệm có rất nhiều cảm t́nh đối với tôi, là nhân viên cũ duy nhất c̣n lại trong chính phủ sau bao nhiêu lần thay đổi nội các trong chín năm vừa qua. Trong cơn khủng khoảng chính trị đang diễn ra vào tháng 8 này, chắc chắn Tổng thống Diệm càng kiếm cách giữ tôi lại để vượt qua những phút khó khăn do vụ tấn công chùa chiền gây ra.

    b. Cần phải t́m một h́nh thức từ chức thế nào để có thể nói rơ lên được mục đích là để bảo vệ Phật pháp và phản đối chính sách kỳ thị và đàn áp Phật giáo. Cần cho dư luận trong nước và dư luận quốc tế không bị Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm lừa dối bằng cách xuyên tạc mục đích của sự từ chức với các mánh khóe gian xảo trăm khôn ngh́n khéo!

    May thay, ngọn lửa thiêng của đạo Pháp soi sáng tâm trí của tôi trong giờ phút nghiêm trọng và gấp rút này, để nh́n thấy ngay h́nh thức từ chức tốt nhất: Chỉ có cách cạo đầu từ chức, đi hành hương tại Ấn Độ để nguyện cầu cho đạo Pháp, cho tự do tín ngưỡng và dân tộc đoàn kết.
    Ba giờ rưỡi chiều, tôi đến tiệm hớt tóc để cạo đầu. Sau khi ở tiệm hớt tóc về bộ, tôi đă thảo đơn từ chức gửi đến Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.”



    GS Vũ Văn Mẫu xuống tóc tranh đấu cho Hoà B́nh, Dân Chủ, Tự Do. Link: tp://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_V%C4%83n_M%E 1%BA%ABu

    Sau khi tiếp các Đại sứ các nước Phật giáo châu Á, tác giả đă họp toàn thể nhân viên trong Bộ Ngoại giao cũng để giải thích về ư nghĩa quyết định từ chức. Tin tác giả cạo đầu từ chức đă bay khắp Sài G̣n như làn gió mạnh. Nguyên cả tối 22/8, nhiều nhân viên cao cấp của chính quyền và ngay chính ông Ngô Đ́nh Diệm đă điện thoại để cố thuyết phục tác giả không từ chức hay ít nhất hoăn vài tháng. Sáng thứ Bảy ngày 24/8, sinh viên hội họp tại trường Luật để tiếp đón tác giả. Vào lúc 9 giờ, Gs Vũ Văn Mẫu vừa bước xuống xe hơi là được sinh viên công kênh lên vai. Trong sân trường Đại học, sinh viên ngồi xúm xít dưới đất để nghe ông nói: “Tôi đến đây với các anh em không nhân danh là Bộ trưởng Ngoại giao v́ chức vụ đó tôi đă chấm dứt bằng cái cạo trọc đầu của tôi rồi. Tôi đến đây nhân danh là một người bạn để cùng với các anh em khơi nguồn lửa thiêng chiến đấu, bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất của con người...” Ngay trưa hôm đó, tác giả đă bị giam lỏng tại nhà và ông Ngô Đ́nh Nhu gọi điện thoại với giọng hằn học và doạ nạt, khuyên nên ở nhà, không được ra trường Luật nữa.

    Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu

    Chiều ngày 26/8, tác giả đă bị chận lại không cho ra phi trường để lấy máy bay sang Ấn Độ hành hương. Sau này tác giả mới biết được lư do như sau (trang 420-421): “Măi đến năm 1964, khi tôi làm Đại sứ Việt Nam tại Anh quốc, tôi có dịp được tiếp Tổng Giám mục Asta – vào năm 1963 giữ chức Khâm Mạng đại diện Ṭa thánh Vatican tại Sài G̣n - Tổng Giám mục mới cho biết những việc đă xảy ra chiều ngày 26/8/63. Nguyên ngày hôm nay đó, biết được tin tôi lên đường, Ngoại giao đoàn đă tới đông đủ tại phi cảng Tân Sơn Nhất để tiễn tôi đi hành hương sang Ấn Độ, nhưng chờ măi đến giờ phi cơ cất cánh mà cũng vẫn không thấy tôi tới, đột nhiên, có một phóng viên ngoại quốc từ Sài G̣n đến phi cảng và cho biết tin tôi bị bắt đưa đi đâu không biết. Ngoại giao đoàn khi đó rất xúc động và đồng ư cử Niên trưởng là ông Viên Tử Kiên (Yuen Tse Kien), Đại sứ của Trung hoa dân quốc, đến gặp Tổng thống Diệm để thỉnh cầu trả lại tự do cho tôi. Khi ấy, TGM Asta đă lanh lẹ đề nghị nhận trách nhiệm tế nhị này thay cho ông Niên trưởng Viên Tử Kiên. Ngoại giao đoàn đồng ư v́ TGM Asta là đại diện của Giáo hoàng, lời thỉnh cầu chắc chắn có hiệu quả hơn đối với một người ngoan đạo như Tổng thống Diệm. TGM Asta đă trở về dinh Gia Long và gặp ngay Tổng thống Diệm. Và chính nhờ cuộc gặp gỡ với TGM Asta, tôi mới hiểu rơ tại sao tôi được trả tự do nhanh chóng như vậy”.

    Sau đó tác giả được loan báo là có thể khởi hành cùng với gia đ́nh sang Ấn độ bằng chuyến máy bay Air France chiều ngày 29/8. Trước khi rời đất nước, tác giả đă đến cáo biệt Tổng thống Diệm và Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu: “Gặp Ngô Đ́nh Nhu, tôi vẫn giữ vẻ thản nhiên, chỉ chào từ biệt mà không nhắc ǵ đến việc cảnh sát đă bắt đưa tôi về trại Lê Văn Duyệt hôm 26/8, nhưng Ngô Đ́nh Nhu đă không dấu được sự ngượng ngập, và chính Nhu đă nói đến vấn đề này, như xin lỗi một cách gián tiếp: ‘Câu chuyện xảy ra hôm 26/8 là do một sự hiểu lầm. Người ta đă báo cáo lên Tổng thống rằng anh xuất ngoại mà không có chiếu khán xuất cảnh’…Trong cuộc yết kiến Tổng thống Diệm, ông Diệm không dấu được sự xúc động, lấy tay áo quẹt mắt rớm lệ và nói: “Xin đừng quên nhau”. Rồi tôi đến chào Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ. Ông Thơ lắc đầu nói, xin đừng quên nhau, ông Già nói chi mà gở vậy! Anh nhớ hôm lễ Song Thất 7/7/63, lễ kỷ niệm ngày ông Diệm về chấp chính, ông Già cũng nói những câu gở không? Tôi cũng chợt nhớ lại câu ông Diệm nói hôm đó làm hai chúng tôi rất ngạc nhiên: “Chẳng lẽ công tŕnh xây dựng trong bao lâu, bỗng chốc biến thành mây khói!” Tôi bắt tay ông Thơ ra về, cả hai ngậm ngùi. Kẻ ở người đi, chưa biết khi nào sẽ có dịp tái ngộ.”

    Ngày 29/8/63, GS Vũ Văn Mẫu đáp chuyến bay Air France tại Tân Sơn Nhất để đi hành hương. Cùng đi chuyến bay này có GS Bửu Hội, được nhân viên chính phủ tiễn đưa sang Mỹ để bênh vực trước Liên hiệp quốc về lập trường của chính phủ Ngô đ́nh Diệm trong vấn đề đàn áp Phật giáo. Một chuyến tàu, hai con đường khác… Tại Ấn độ, GS Vũ văn Mẫu đă được tiếp đón trọng thể và nồng hậu, có các cuộc hội kiến với Tổng thống Ấn độ Radhakrishnan, Thủ tướng Nehru và Bộ trưởng Ngoại giao bà Lakshmi Menon. Sau đó một chương tŕnh hành hương các thánh địa Phật giáo đă được hoạch định như Bénarès, Sarnath, Bodhigaya, Sanchi, Ajanta, Ellora… Tác giả bày tỏ nỗi vui mừng khôn tả khi đến Bồ đề đạo tràng (Bodhigaya) nơi Đức Thế Tôn thành đạo dưới gốc Bồ Đề. Tại đấy, bất ngờ tác giả lại được hạnh ngộ với các Thượng tọa Thích Minh Châu, Thích Thiện Châu và Thích Huyền Vi khi ấy đang ở Ấn độ. (Xin xem bài tường thuật của TT.Thích Thiện Châu được tác giả trích đăng lại trong hồi kư từ trang 428-436 và trang nhà Khuông Việt số 8, Mừng Xuân Giáp Thân phổ biến lại theo địa chỉ www.khuongviet.com).

    Ngày Chủ nhật 15/9/63, sau khi hoàn tất cuộc hành hương, tác giả rời Ấn Độ sang Pháp. Trước khi rời Ấn Độ, tác giả đă gửi thư về cho Tổng thống Diệm xác định dứt khoát quyết tâm từ chức. Nội dung bức thư như sau:

    “New Delhi, ngày 15 tháng 9 năm 1963.

    Vũ Văn Mẫu, Bộ trưởng Ngoại giao hiện nghỉ phép.

    Kính đệ Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa, Sài G̣n.

    Kính thưa Tổng thống, Sau khi đi hành hương chiêm bái các nơi Phật tích ở Ấn Độ và thấu hiểu thêm được đạo lư, chúng tôi trân trọng xin Tổng thống chấp thuận cho chúng tôi từ nay được từ chức. Chúng tôi lúc nào cũng cầu nguyện cho toàn dân được ḥa b́nh và nhất trí đoàn kết. Chúng tôi xin Tổng thống nhận nơi đây ḷng thành kính của chúng tôi.

    Kư tên: Vũ Văn Mẫu”.

    Trong chương 5, tác giả đề cập đến dư luận và ủng hộ của Ṭa thánh Vatican, của các nước theo Phật giáo và các chính phủ Âu Mỹ. Trong chương cuối, tác giả tổng kết như sau (trang 489-491): “Ba nhân tố chính yếu đă đưa chế độ đến sự suy tàn:

    1. Ngô Đ́nh Diệm đă quá nhu nhược trước các hành động thao túng của gia đ́nh, từ Ngô đ́nh Thục đến vợ chồng Ngô đ́nh Nhu và Ngô đ́nh Cẩn, dung túng gia đ́nh lạm dụng quyền thế, bóc lột tài nguyên quốc gia, đàn áp tàn bạo những phần tử yêu nước phản đối các hành vi bất chính.

    2. Ngô Đ́nh Thục quá thiết tha với tham vọng làm Hồng Y giáo chủ và mang ảo vọng muốn biến Việt Nam thành một nước hoàn toàn theo Thiên Chúa giáo.

    3. Vợ chồng Ngô đ́nh Nhu nung nấu tham vọng kế vị Ngô Đ́nh Diệm và không sờn ḷng lùi bước trước bất cứ hành vi và mưu kế tàn bạo nào để thực hiện cho được mưu đồ ấy.

    Thu thập một số tài liệu lịch sử trong vụ Pháp Nạn này, từ nguyên nhân đến quả báo, chúng tôi nhắm một mục đích duy nhất: Nêu lên một cây tiêu để đánh dấu vết xe đổ và tha thiết ước mong – như chúng tôi đă cầu nguyện 20 năm trước tại Bồ Đề đạo tràng trước Đài Kim Cương, nơi đức Thế Tôn thành đạo, rằng trong tương lai không bao giờ c̣n có một chính phủ nào nghĩ đến sự đàn áp tôn giáo, và không bao giờ quốc dân c̣n bị chia rẽ v́ tôn giáo. Tôn trọng các tôn giáo trên căn bản tự do tín ngưỡng và công bằng xă hội là tôn trọng các quyền linh thiêng nhất của con người mà bản tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế của tổ chức Liên hiệp quốc đă xác nhận. Vi phạm vào các quyền này là chà đạp lên nhân phẩm, dấn thân vào con đường phân hóa quốc dân và phản bội lại truyền thống cao quư của dân tộc.

    Bến Nghé, ngày Khánh đản 15/4 năm 2525 Phật lịch (15/5/1984),

    Minh Không Vũ Văn Mẫu”

    Trong lời giới thiệu cuốn Hồi kư, Hoà thượng Thích Măn Giác, Los Angeles, Hoa kỳ viết về Giáo sư Vũ Văn Mẫu như sau: “Trong mắt tôi, ông là một kẻ sĩ khí phách hiếm hoi của miền Nam, một người làm chính trị chân thực và có ḷng, một nhà mô phạm chừng mực và trong sáng, một phật tử hộ Đạo thiết tha. Toàn thể con người đó ảnh hiện trong lời trong chữ của tập sách cuối đời phản ảnh một giai đoạn trầm trọng của sự nghiệp riêng và của đất nước chung.”

    Hoà thượng cũng cho biết thêm rằng, năm 1988, trước khi rời Việt Nam đi Pháp, Giáo sư Vũ Văn Mẫu đă đích thân mang tặng Hoà thượng Thiện Siêu ở chùa Từ Đàm Huế một tập với lời dặn ḍ “xin Chùa tuỳ nghi sử dụng trong việc giữ ǵn và phổ biến tác phẩm nầy cho thế hệ tương lai”.

    Với bản in này được phổ biến rộng răi tại hải ngoại, thiết nghĩ ư nguyện đó của Giáo sư được thực hiện trọn vẹn.

    Xin trân trọng giới thiệu đến quư vị độc giả gần xa.

    Minh Nguyện

  5. #885
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929
    Quote Originally Posted by Ngụy Tặc View Post
    Trong bất kỳ trường hợp Phật giáo gặp hoạn nạn nào, dưới mọi quyền lực tấn công, mọi h́nh thức nào, th́ cũng đều có thể gọi là Pháp nạn. Do những t́nh huống, thời đại khác nhau mà sự phản kháng, đề kháng của Phật Giáo VN cũng khác nhau. Mục đích chỉ duy nhất là mưu t́m phương tiện hữu hiệu nhất để hoằng pháp lợi sinh mà không đi ngược lại tôn chỉ Từ bi-Trí tuệ-Hùng lực trong sứ mạng đồng hành với dân tộc.

    Ở đây, we đang nói về "Pháp nạn 1963", một sự kiện nổi bật trên trang sử cận đại của quê hương. "Pháp nạn 1963" xảy ra dưới bạo quyền ác ôn cuồng tín của nhóm quyền lực gia đ́nh trị Ngô Đ́nh. Những hành xử quyền lực đầy hợm hĩnh, ngạo mạn, gian xảo, dối trá, thâm độc, hiểm ác của anh em gia tộc Ngô Đ́nh đối với các đảng phái, đoàn thể khác của dân tộc; đối với các tín ngưỡng khác của dân tộc mà không phải là Ca-tô Rô-ma Giáo (đặc biệt đối với khối đa số Phật Giáo) đă được phơi bày tràn lan trên các phương tiện truyền thông rồi. Thế nhưng, hậu duệ của gia tộc này, những kẻ một thời "vinh thân ph́ da" dưới ơn mưa móc ban phát bởi chế độ độc tài, gia đ́nh trị Ngô Đ́nh Diệm, những tàn dư của 1 đảng phái phi dân tộc là Cần Lao Công Giáo, vẫn ĺ lợm theo đuổi cái di chúc của lănh tụ "anh minh" quái đản nhất Ngô Đ́nh Diệm là: "Tôi chết, hăy trả thù cho tôi" mà miệt mài t́m đủ mọi cách để bôi bác, chống phá Phật Giáo nhằm đánh tráo lịch sự, chạy tội cho anh em nhà Ngô Đ́nh.

    Điển h́nh ở đây là nhóm "Truyền h́nh Quốc gia Việt Nam" múa mép bởi 3 nhân vật chính: Dương Đại Hải, Liên Thành, Lư Ṭng Bá.

    Trong Pháp nạn 1963, ngài Thích Quảng Đức đă dám lấy thân ḿnh làm đuốc sống hầu thức tĩnh lương tâm của anh em nhà Ngô Đ́nh. Một ngọn đuốc làm rực sáng mọi lương tâm nhân loại, làm rung chuyển tâm thức thế giới, nhưng lại không 1 mảy may gột bớt màn u mê ám chướng phủ dày trên năo trạng của anh em nhà Ngô Đ́nh.

    Hồi Đầu Thị Ngạn.

    Đúng vậy, chỉ cần quay đầu lại, anh em ông Diệm đă thấy được bờ, cập bến an toàn. Đâu đến nỗi cứ đâm đầu chèo ra giữa biển động sóng gió để rồi ôm nhau đi....ṃ tôm!.

    Hồi Đầu Thị Ngạn.

    Đám hậu duệ, tàn dư CLCG có biết nghiệm ra từ bài học lịch sử sống động trên không?

    Mời đọc:

    Ngọn lửa Quảng Đức và biến cố Phật giáo 1963
    dưới cái nh́n của thế giới


    Sau Thế Chiến Thứ II (1939-1945) hàng hóa và vũ khí của Mỹ để cung ứng cho chiến tranh bị tồn đọng rất nhiều. Mỹ thay chân Pháp ở Đông Dương biến miền Nam Việt Nam thành tiền đồn chống Cọng với khẩu hiệu “Để chận đứng sự bành trướng của chủ nghĩa cọng sản tại vùng Đông Nam Á”, nhưng thực tế cũng c̣n để tiêu thụ hết số hàng hoá và khí giới thặng dư. Để thi hành hai mục tiêu then chốt cùng một lúc tại Việt nam, chính phủ Mỹ sẽ chỉ chấp nhận một chính quyền bù nh́n, dễ sai và phục ṭng Mỹ, nghĩa là một chính quyền Công Giáo (v́ Tin Lành c̣n yếu vào thời điểm đó) trong một quốc gia mà số tín đồ của họ chỉ có 5 % dân số.


    Chính sách phản dân chủ ‘Đa số phục tùng thiểu số’ do tay sai bản xứ của Mỹ tại Việt Nam thực hiện, do đó, đă là một trong những nguyên nhân xa và gián tiếp đưa đến vụ tranh đấu Phật Giáo 1963, và Ngọn đuốc Thích Quảng Đức và sáu ngọn đuốc khác* nhằm thức tỉnh chính quyền Ngô Đ́nh Diệm và đánh động lương tâm nhân loại về một thực trạng bất công và bóc lột đè nặng lên thân phận người dân Việt kể từ thời Pháp thuộc kéo dài đến không những với chế độ Ngô Đ́nh Diệm mà c̣n với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, một chính quyền ‘b́nh mới nhưng rượu c̣n nguyên’.


    Phác họa lại vài nét đơn sơ về bối cảnh lịch sử như thế để thấy cuộc tranh đấu của Phật giáo 1963 không phải chỉ được nh́n một cách đơn giản là v́ sự bất công giữa Phật giáo và Kitô giáo (CG và TL) mà nguyên nhân chính, c̣n là, giữa hai tôn giáo mà chính sách của chúng rất khác biệt. Một bên, nói theo ư của Giám Mục Puginier, là cái càng của con cua thực dân** do chế độ tôn giáo độc tài Ngô Đ́nh Diêm nuôi dưỡng và ưu đải, c̣n bên kia là các tín ngưỡng dân tộc chết sống với sự thăng trầm của vận nước bị nhà Ngô đàn áp. Biến cố Phật Giáo 1963 chỉ là một giọt nước làm tràn ly nước đă quá đầy. V́ thế cuộc tranh đấu do Phật Giáo khởi xướng là một cuộc tranh đấu không những của toàn dân miền Nam Việt Nam mà cũng là cuộc tranh đấu của những người yêu chuộng tự do b́nh đẳng công bằng xă hội trên khắp thế giới.

    Với cái nh́n thoáng qua chiều dài lịch sử như thế chúng ta mới biết được nguyên nhân tại sao cuộc tranh đấu nầy lại được toàn dân và thế giới nhiệt liệt ủng hộ mà trong đó có nhiều nhân vật lănh đạo không có cùng một tín ngưỡng với người Phật tử Việt nam và nhiều quốc gia dẫu có chung một khuynh hướng chính trị với chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Chiều hướng ủng hộ tích cực nầy càng mạnh hơn sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự nguyện đem thân làm ngọn đuốc để cảnh tỉnh ḷng người.

    Ngài sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, tỉnh Khánh Ḥa, xuất gia lúc 15 tuổi, tu học tại chùa Linh Mụ Huế. Trước lúc tự thiêu Ngài trú tại chùa Quán Thế Am, Sài G̣n. Sau khi 8 Phật tử bị giết tối ngày 8.5.1963 tại đài phát thanh Huế, và 5 nguyện vọng chính đáng của Phật giáo không được chính quyền Ngô Đ́nh Diệm thỏa thuận, Hoà Thượng Thích Quảng Đức người đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, sau nhiều tuần thiền định để tăng trưởng thêm nội lực, đă tự nguyện hy hiến cuộc đời cho đại nghĩa giữa ngă tư đường Phan Đ́nh Phùng-Lê Văn Duyệt Sài-g̣n sáng ngày 11.6.1963.


    Khác với những lời xuyên tạc của những người bênh vực nhà Ngô, kư giả Nữu Ước Thời Báo (New York Times) David Halberstam đă tường thuật bằng những lời vừa ngạc nhiên vừa kính nể:

    “ Tôi được thấy lại cảnh tượng ấy, nhưng chỉ một lần cũng đă quá đủ. Lửa phủ khắp người; thân từ từ khô lại, đầu cháy nám, không khí bay mùi khét thịt, thân h́nh ch́m trong lửa đỏ thật kinh ngạc. Phía sau, tôi có thể nghe tiếng khóc của những người đang lần lượt kéo đến. Tôi quá xúc động khóc không nên lời, quá bàng hoàng để ghi chép hoặc hỏi vài câu, quá bối rối để suy nghĩ... ch́m trong biển lửa nhưng ngài vẫn bất động, thịt gân không nhúc nhích, không một tiếng rên la, thân ngă xuống, những người đang đứng xung quanh ̣a khóc.”.





    I was to see that sight again, but once was enough. Flames were coming from a human being; his body was slowly withering and shriveling up, his head blackening and charring. In the air was smell of burning human flesh; human being burn surprisingly quickly. Behind me I could hear the sobbing of the Vietnamese who were now gathering. I was too shocked to cry, too confuse to take notes or ask questions, too bewildered to even think... As he burned he never move a muscle, never uttered a sound, his outward composure in sharp contrast to the wailing people around him (quoted by Jollie Hicks): (http://www.uwec.edu/greider/BMRB/cul...t.work/hicksr/ ).

    Những bài tường thuật của Malcolm Browne về cuộc tự thiêu của HT Thích Quảng Đức được hảng thông tấn AP gởi về Mỹ nhanh chóng, và những bức h́nh tự thiêu do ông chụp cũng được hầu hết các tờ báo khắp thế giới đăng lên trang đầu. Từ đó, lần đầu tiên độc giả khắp nơi bắt đầu ṭ ṃ về những ǵ đang xẩy ra tại Việt Nam, một quốc gia xa lạ ở vùng Đông Nam Á.

    ‘Tuy nhiên, thái độ của phái bộ (thông tin) Hoa Kỳ lúc đầu là cố gắng làm giảm cường độ một số các nguồn tin chính thức thường cung cấp cho giới truyền thông. Nhưng đây không phải là một công việc dễ mặc dầu bản doanh của báo giới bị buộc chặt, có nhóm đoàn kết chặt chẻ, và có nhóm lo sợ. Cảnh sát ngầm của chính phủ Diệm lại lén thu băng các cuộc điện đàm của các nhà báo, theo giỏi các máy điện tín, gài người vào các văn pḥng và chạy theo kư giả trên các đường phố. Dẫu vậy, qua việc xử dụng các người thăm viếng, nhân viên hàng không, và ngay cả những cảm t́nh viên quân sự nên giới nhà báo vẫn chuyển đi được các bản tin mà họ chứng kiến. V́ thất bại trong việc điều khiển nguồn cung cấp tin nên chính phủ Kennedy đă phải đưa công việc nầy lên một đơn vị cao hơn.’ (A Reader, The American Experience in Vietnam, edited by Grace Savey, University of Oklahoma Pess, 1989 pp. 112 & 113).

    Làm đủ mọi cách, nhưng cả phái bộ truyền tin của Mỹ và của Việt Nam đă không thể ngăn chận nỗi các tin tức về cuộc tranh đấu của Phật giáo, nhất là sau khi HT Quảng Đức tự thiêu, nên cả thế giới hầu như được biết tường tận về biến cố vĩ đại này.

    a. Quảng Cáo trên New York Times và Washington Post... : Kư giả kiêm nhiếp ảnh gia Malcolm W. Browne viết :


    “Những bức h́nh mà tôi chụp về cái chết của HT. Quảng Đức đă trở thành một sở hữu vật mà người ta gởi đi cùng khắp thế giới. Những bức h́nh đó mang nhiều ư nghĩa tùy theo cái nh́n và mục đích xử dụng của mỗi người.


    Một người quen ở Lisbon gởi thư cho tôi biết rằng những bức h́nh về cái chết của ngài Quảng Đức được thành phần diều hâu bày bán khắp cùng ngơ hẻm. Một nhóm giáo sĩ nỗi tiếng người Mỹ cũng dùng một trong những bức h́nh nầy để tạo sự Chú ư cho những trang quảng cáo của họ trên Nữu Ước Thời Báo (New York Times) và báo Hoa Thịnh Đốn (Washington Post) với hàng chữ “Chúng ta cũng phản đối: We, too, protest”. Sự phản đối của họ là nhắm vào việc người Mỹ ủng hộ chế độ Diệm.”
    Malcolm W. Browne, The New Face Of War, Revised Edition, The Bobbs-Merrill Company, Inc. Indianapolis-New York,1968, Tr. 261-262. Xin xem thêm Christian G. Appy, Patriots The Vietnamese War Remembered From All Sides, tr. 60-65).

    b. Trung Hoa: “H́nh tự thiêu của ngài Quảng Đức được Hoa Lục in ra hằng triệu bản (printed millions of copies). Một trong những bức h́nh đó đă gởi cùng khắp các quốc gia Á-Phi với hàng chữ lớn “Một tăng sĩ Phật Giáo hy sinh thân mạng để chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ-Diệm.”


    H́nh tự thiêu của HT. Quảng Đức cũng là một ấn tượng ảnh hưởng đến ṭa Bạch-ốc. Tôi (Browne) được biết rằng lúc ông Henry Cabot Lodge đến gặp cố Tổng Thống Kennedy về việc được bổ nhiệm chức đại sứ tại Việt Nam, Kennedy cũng đă có một bức h́nh tự thiêu của HT. Quảng Đức trên bàn giấy. Cái chết của ngài Quảng Đức có lẽ là một trong những yếu tố chính để cuối cùng Bộ Ngoại Giao và Toà Bạch-ốc chống đối chính phủ Diệm, đang đổi hướng lịch sử Việt Nam” {...Quang Duc’s death probably was one of the factors that finally turned the State Department and White House against Diem, altering the course of Vietnamese history to some extent} (Malcolm W. Browne, The New Face of War, tr. 263).

    c. Báo Le Monde, Pháp ngày 13.6.64 viết: “Trước hành động tự sát để đấu tranh, kẻ tàn bạo nhất cũng phải chùn bước.” (Minh Không Vũ Văn Mẫu, Sáu Tháng Pháp Nạn 1963, bản Ronéo 1984, tr.320)

    (Xin chèn ké vô đây 1 suy nghĩ của tui là: he he.....Ông Diệm đă không "chùn bước" trước hành động của ngài Quảng Đức, chứng tỏ ông ta thuộc loại "siêu tàn bạo" trong những kẻ mà báo Le Monde gọi là "tàn bạo nhất")- Nguỵ Tặc.

    d. Báo La Gazette de Lausanne tại Thụy sĩ: Viết những lời rất cảm động về cuộc tự thiêu của HT Quảng Đức như sau:


    “Sự hy sinh rất khích động của vị tăng sĩ thiêu sống ngay tại Sài G̣n buộc người ta phải kính trọng. Sự hy sinh v́ Chính Pháp của ông khiến chúng ta liên tưởng tới những người Gia Tô đầu tiên và sự liên tưởng nầy càng làm cho chúng ta cảm thấy oái oăm.” (Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Hồi Kư Chính Trị, Hoa Kỳ 1986, tr. 640).

    e. Báo Journal de Genève: Là một tờ báo khác ở Thụy sĩ có ảnh hưởng lớn trên thế giới nhận định:


    “Người ta có thể tuyên truyền rằng đó chỉ là cuộc nỗi loạn của phe đa số khắc khổ kiếm chuyện v́ chính phủ chỉ là một thiểu số bó kết chặt chẻ với nhau mà bộ tịch lại vênh váo và cứng nhắc. Nhưng việc phải hy sinh v́ Chánh Pháp của Ḥa Thượng Thích Quảng Đức lại cho thấy rằng Phật Giáo Việt Nam đang phải bảo vệ nếp sống và tư tưởng của họ.” (Đỗ Mậu, sách đă dẫn, tr. 641).


    g. Chính Phủ Ngô Đ́nh Diệm: Sau vụ tự thiêu chấn động dư luận của HT. Quảng Đức, Ngô Đ́nh Diệm thực sự bối rối nên ông qui trách người khác thiếu căn cứ:

    “Ông Diệm vu khống nhiếp ảnh gia Browne đă hối lộ các nhà sư Phật giáo để giết một nhà sư đồng nghiệp.”


    Diem’s reaction was to accuse Browne of bribing the Buddhist monks to murder their fellow monk. (Grace Sevy, sách đă dẫn, tr.112).


    Bà Ngô Đ́nh Nhu: Lúc trả lời cuộc phỏng vấn đài truyền h́nh MỸ, kư giả Mecklin viết rằng bà Nhu nói:

    “Tất cả những việc mà Phật Giáo đóng góp cho đất nước từ trước đến nay không có ǵ ngoài việc thiêu sống một nhà sư”... và “Ông Thích Quảng Đức bị chích thuốc và bị cưởng bách thiêu sống, nhưng về sau bà Nhu đă t́m cách từ chối một số các phát biểu thiếu trách nhiệm nầy.”


    All that the Buddhists have done for the country is to barbecue the monk...She claimed that Thích Quảng Đức had been drugged and burned against his will. She later tried to deny having made some of her cynical comments. (Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled, Volum II Vietnam at War, Frederick A. Praeger, Publisher, New York, 1967, tr .1184).

    (Xin chèn ké thêm chút: Phật Giáo có mặt trên đất nước VN hơn 2000 năm. PG đă dấn thân và để lại mấy triều đại huy hoàng cho dân tộc. Vây mà bà Nhu láo lếu “Tất cả những việc mà Phật Giáo đóng góp cho đất nước từ trước đến nay không có ǵ ngoài việc thiêu sống một nhà sư”! Ăn nói kiểu ni mà không bị khẩu nghiệp nó đày cho biết thân mới là lạ.)-Nguỵ Tặc.


    Việc bà Nhu về sau muốn cải chính những phát biểu bồng bột và thiếu suy nghĩ của bà, như ông Buttinger cho biết, cũng đáng để chúng ta cảm phục và quí mến. Tin nầy cũng phù hợp với TIN QUAN TRỌNG SAU ĐÂY:


    Tôi (Bùi Kha) có người quen ở Orange County cho biết, cách đây gần hai mươi năm, ông Ngô Đ́nh Trác, con trai của bà Ngô Đ́nh Nhu ở tại Pháp, cùng với nhà thơ Du Tử Lê đến chùa Việt Nam Los Angeles, California lúc 2 giờ sáng để gặp Hoà Thượng Thích Măn Giác. Ḥa Thượng tiếp đón vui vẻ. Sau khi thắp hương và lễ Phật, ông Ngô Đ́nh Trác thưa rằng “Mạ con biểu con qua gặp Ḥa Thượng và xin Hoà Thượng tŕnh lại với giáo hội Phật Giáo là mẹ con và thay mặt gia đ́nh xin sám hối những lời nói và việc làm trước đây đối với tăng ni và Phật-tử Việt Nam...” Ḥa Thượng Măn Giác rất xúc động, quí mến nghĩa cử của bà Nhu, và an ủi ông Ngô Đ́nh Trác rằng “Lúc đó bà c̣n nhỏ tuổi và không ai cố vấn...” (HT. Thích Măn Giác hiện sống tại Los Angles và nhà thơ Du Tử Lê hiện ở Orange County, California).

    Ông Ngô Đ́nh Nhu: “Ngày 15 tháng 8 một nhà sư khác tự thiêu ở Huế, ba ngày sau đó một ni cô tự thiêu ở Ninh Ḥa (Khánh Ḥa có lẽ đúng hơn, BK). Để phụ hoạ với vợ, ông Ngô Đ́nh Nhu cũng nhẫn tâm giả vờ như không có ǵ hệ trọng:


    “Nếu Phật Giáo muốn có một vụ nướng thịt khác th́ tôi rất vui ḷng cung cấp xăng.”


    On August 15, another monk burned himself at Hue, followed three days later by a nun at Ninh Hoa. Not wishing to lag behind his wife in callousness, Ngo Dinh Nhu soon afterward stated that “if Buddhists want to have another barbecue, I will be glad to supply the gasoline”. (J. Buttinger, Ibid. p. 995).

    Những cuộc tự thiêu đă thức tỉnh thế giới và chấn động lương tâm nhân loại, nhưng ư nghĩa của nó th́ thường bị hiểu lầm và có người cho đó là một vụ tự tử (suiside) không hơn không kém. Để làm sáng rơ ư nghĩa các cuộc tự thiêu của Tăng Ni và Phật Tử năm 1963, tôi xin trích dẫn hai ư kiến của hai tu sĩ sau đây, một Tin Lành một Phật Giáo để làm sáng rơ thêm lịch sử.

    * Mục sư Donald Harrington tại Nữu ước: Trong buổi giảng tại một thính đường ở New York ngày 30.6.63, Mục sư Harrington đă mô tả trung thực chân t́nh và cảm phục việc HT Quảng Đức tự thiêu. Bài giảng đó cũng có đoạn nói lên ư nghĩa đích thực của hành động tự thiêu:



    “Cách đây hơn hai tuần, vào ngày 11.6.63 vị sư tên Thích Quảng Đức đă ngồi theo kiểu tọa thiền trên đường nhựa nóng. Trong tay Người cầm một xâu chuổi 54 hạt và bắt đầu niệm Phật c̣n trên chiếc áo cà sa của Người th́ đă tẩm ướt đầy xăng. Tất cả Tăng Ni lùi lại, kính cẩn, kinh sợ. Khách bộ hành nhận thấy một biến cố phi thường ǵ sắp xẩy ra nên tất cả đều dừng lại chờ đợi.


    Với vẻ yên lặng, b́nh thản trên khuôn mặt, Ngài Quảng Đức niệm lớn: “Nam Mô A Di đàPhật”. Thế rồi Người bật một que diêm và ngọn lửa phừng phực bốc lên phủ kín thân thể nhưng Người không hề rên la hay lay động. Người ngồi thẳng trong mười phút, thân h́nh ch́m trong lửa đỏ, và khi lửa tàn, Người nằm xuống bất động...


    Người ta có thể tự hỏi sự khủng khiếp và niềm phẫn hận nào đă có thể khiến cho một người của “T́nh Thương” của “Ḥa B́nh”, quyết chí tự thiêu?...


    Nếu sự tuyệt vọng hoàn toàn và chán đời cực độ đă đưa con người trên đời nầy đến chỗ tự tử, th́ một lư tưởng cao cả nhất và ḷng yêu đời nồng nàn nhấtmột đôi khi cũng đă sản xuất những người tử đạo quả cảm nhất trong lịch sử...


    Ḥa Thượng Quảng Đức hy sinh đời ḿnh bằng cách tự thiêu để thức tỉnh lương tâm của Tổng Thống Diệm và lưu ư cho toàn thế giới...


    Người đă chịu đựng sự đau đớn của tia lửa hồng đang đốt da thịt nhưng không một lời kêu than. Người gởi mấy lời của Người cho Tổng Thống Diệm, và cho đến nay ông Diệm vẫn chưa chịu nghe hay chú ư. Nhưng dù sao tiếng nói ấy vẫn làtiếng nói của t́nh thương, tiếng nói mà trong thâm tâm của nó chứa đưng sự giải thoát của miền Nam Việt Nam. Người đă để lại một bóng đen sĩ nhục lên sự huy hoàng mà Giáo Hoàng Gioan đă mang lại cho Giáo hội Thiên Chúa. Người đă làm và Người phải làm, cho mỗi người Hoa Kỳ đi t́m linh hồn của Người và cho chính phủ Hoa Kỳ biết rằng, trừ phi chính phủ Sài G̣n thực thi ngay quyền b́nh đẳng tôn giáo cho Phật Giáo đồ và tự do cho dân chúng Việt Nam, tất cả mọi viện trợ của Hoa Kỳ đều phải chấm dứt ngay...


    Ngọn lửa ấy có thể thành một tia hy vọng cho những người từ lâu bị áp bức bởi người ngoại quốc hay bởi ngay chính đồng bào của họ...”
    (Vũ Văn Mẫu, sách đă dẫn, tr.322-324. Xin xem thêm trong cuốn: 1963-2003 Bốn Mươi Năm Nh́n Lại, Giao Điểm 2003, tr.148-160).

    * Ư Kiến của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh:


    “Báo chí gọi đó là một hành động tự tử, nhưng thực chất không phải. Ngay cả đó không phải là một hành động phản đối. Điều mà những vị sư đă viết trong những bức thư để lại trước lúc tự thiêu là nhằm cảnh tỉnh, là để chuyển đổi tâm tư của những nhà cầm quyền, và để kêu gọi thế giới quan tâm đến những nỗi thống khổ triền miên của người dân Việt Nam. Người tự thiêu là để chứng tỏ rằng nguyện vọng mà họ đề cập là rất tối ư quan trọng...Tu sĩ Việt Nam tự thiêu là để nói lên với tất cả sức mạnh và quyết chí rằng tôi có thể chịu đựng sự khổ đau cùng cực nhất để bảo vệ cho đồng bào của tôi...Để bày tỏ ước vọng bằng cách tự thiêu của một người, v́ thế, không phải là một hành động hủy diệt mà là một hành động tạo dựng, đó là, để đau khổ và để chết cho người khác. Như thế, tự thiêu không phải là một hành động tự tử.”


    The press spoke then of suiside, but in the essence, it is not.It is not even a protest. What the monks said in the letters they left before burning themselves aimed only at alarming, at moving the hearts of the oppressors, and at calling the attention of the world to the suffering endured then by Vietnamese. To burn oneself by fire is to prove that what one is saying is of the utmost importance. The Vietnamese monk, by burning himself, says with all his strength and determination that he can endure the greatest of sufferings to protect his people. To express will by burning oneself, therefore, is not to commit an act of destruction but to perform an act of construction, that is, to suffer and to die for the sake of one’s people. This is not suicide.

    Thầy Nhất Hạnh đi xa hơn để giải thích tại sao sự tự thiêu của HT Thích Quảng Đức không phải là một cuộc tự tử, tự tử là trái với lời dạy của Đức Phật:

    “Tự tử là một hành động tự hủy do những nguyên nhân sau đây: (1) thiếu ư chí để sống và gặp những khó khăn; (2) thất bại trong cuộc sống và tuyệt vọng; (3) không muốn sống...Vị tu sĩ tự thiêu (Thích Quảng Đức) không mất nghị lực, không thiếu hy vọng; cũng như không phải không muốn sống. Trái lại, ngài có đầy nghị lực, tràn hy vọng và mong ước một cái ǵ tốt cho tương lai. Ngài không có ư nghĩ tự hủy; nhưng tin vào những hoa trái tốt từ sự tự hy hiến đời ḿnh cho kẻ khác...Tôi tin chắc rằng tất cả các vị sư tự thiêu không muốn những người cai trị chết, nhưng chỉ nhằm thay đổi chính sách của họ. Kẻ thù của chúng ta không phải là con người. Kẻ thù của chúng ta là sự thiếu khoan dung, cuồng tín, độc tài, tham đắm, hận thù và kỳ thị, chúng đang nằm sẵn trong tâm của con người.”


    (Suicide is an act of self-destruction, having as causes the following: (1) lack of courage to live and cope with difficulties; (2) defeat by life and loss of all hope; (3) desire for non exsistence... The monk who burns himself has lost neither courage nor hope; nor does he desire nonexsistence. On the contrary, he is very courageous and hopeful and aspires for something good in the future. He does no think that he is destroying himself; he belives in the good fruition of his act of self-sacrifce for the sake of others ... I believe with all my heart that the monks who burned themselves did not aim at the death of their oppressors but only at a change in their policy. Their enemies are not man. They are intolerance, fanaticism, dictatorship, cupidity, hatred, and discrimination which lie within the heart of man.” (Vietnam: Lotus in a Sea of Fire. Hill and Wang, Inc. New York,1967, pp. 106 &107).


    Sau cuộc bố ráp chùa và bắt tăng ni đêm 20.8 bằng kế hoạch “Nước Lũ” của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, thế giới ngày càng hiểu rơ hơn nguyện vọng chính đáng của Phật Giáo Việt Nam. V́ thế, họ đă lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ Phật Giáo và chỉ trích chính sách kỳ thị bạo ngược của chính phủ Diệm.

    Trong những cá nhân, đoàn thể và quốc gia ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo ta có thể chia làm ba thành phần. Những người khác tín ngưỡng với Phật Giáo, những quốc gia đa phần theo Phật Giáo và những nước tân tiến kỹ thuật. Sau đây là một số trích dẫn.

    1. LM. Lê Quang Oánh***: Từ hồ Than Thở Đà Lạt ngày 12.5.1963, Linh Mục Lê Quang Oánh đại diện khối Giải Sĩ Đồng Tâm, Linh Mục T. Vơ Quang Thiêng, nữ sinh M. Ngọc Lan Hương... gởi thư cho Hoà Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam bày tỏ sự đồng t́nh cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Thư có đoạn viết như sau:

    “Chúng tôi lên án “Tội bất công” đă giết hại đồng bào vô tội. Thật là tàn bạo, dă man, phản dân chủ, phản tự do, phản đạo đức, làm nhục cho quốc thể Việt Nam, một nườc văn hiến trên bốn ngh́n năm lịch sử.


    “Giám quả quyết rằng: “Nhân nghĩa sẽ thắng.”



    2. Vatican: Giáo Hoàng Phao Lồ Đệ Lục cũng đă ba lần lên tiếng về vấn đề Phật Giáo. Ngày 30.8.63 Giáo Hoàng đọc một thông điệp gởi đến nhân dân Việt Nam, nhưng văn thư nầy cũng bị chính quyền Ngô Đ́nh Diệm ngăn cấm không cho phổ biến. Một đoạn trong thông điệp nầy Giáo Hoàng viết như sau:

    “Giáo Hoàng đă biểu lộ sự chú tâm và đau đớn theo dơi các biến cố bi thảm đương dầy ṿ nhân dân Việt Nam và sự lo âu của Giáo Hoàng ngày càng thêm sâu sắc...Giáo Hoàng cầu nguyện để cho tất cả mọi người, trong mối hợp tác khoan dung và trong sự tương kính các quyền tự do chân chính, đoàn kết với nhau để tái lập tương thân và t́nh huynh đệ.”


    Le Pape exprime sa douloureuse préocupation au sujet des tristes évènements qui affigent le cher peuple Viêtnamien, tandis que l’angoisse devient de jour en jour plus profonde et lancinante...Et il fait des voeux que tous, dans une généreuse collaboration et dans un mutual respect des libertés legitimes, unissent pour rétablir la concorde réciproque et la fraternité (Bốn Mươi Năm Nh́n Lại tr.126.

    3. Cao Miên: Sau ngày HT Quảng Đức tự thiêu, ông Trần Văn Được, hội trưởng hội Phật Giáo Việt kiều tại Cao Miên, đă viết thư lên án chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và thỉnh cầu Quốc Trưởng Sihanouk yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp. Sau khi các chùa bị tấn công, tăng ni bị bắt đêm 20.8.63, chính phủ Cao Miên ngày 23.8.63 đă chính thức ra thông cáo kịch liệt lên án chính phủ Việt Nam. Một đoạn trong thông cáo viết:

    “Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt kinh hải khi nhận đươc tin Chính phủ Sài G̣n đă đàn áp dă man tín đồ Phật giáo...Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt hoàn toàn ủng hộ các Tăng Ni Phật tử Việt Nam” (Bốn Mươi Năm Nh́n Lại, sách đă dẫn, p.133).

    Đến ngày 27,8.63, chính phủ Cam Bốt gởi văn thư đoạn giao với Việt Nam bằng những lời lẽ rất nặng nề:

    “..Toàn thể dân tộc Cam Bốt cũng như tất cả các dân tộc khác trên thế giới đều công phẫn và ghê tởm trước những hành động dă man đàn áp Phật Giáo Việt Nam...” (BMNNL, tr . 134).

    4. Tích Lan: Ngọn lữa từ bi hùng tráng Thích Quảng Đức và sự ngược đải Phật tử tại Việt Nam đă khiến bà Sirimavo Bandaranaike, thủ tướng Tích Lan, vô cùng xúc động. Bà kêu gọi các nước theo Phật giáo tại Á châu ủng hộ Tích Lan trong việc yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp vào vấn đề đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam. Ngày 26.8.63 hội nghị Phật Giáo Tích Lan yêu cầu các đoàn thể Phật Giáo trên toàn quốc treo cờ rũ để tang các Phật tử hi sinh v́ tín ngưỡng (BMNNL, tr.136).

    BỌN VIỆT GIAN GIAO ĐIỂM -TAY SAI CỦA TRUNG CỘNG - NÚP DƯỚI DANH NGHĨA BÊNH VỰC PHẬT GIÁO VÀ VĂN HOÁ DÂN TỘC TAM GIÁO ĐỒNG QUY ĐỂ PHỈ BÁNG VATICAN VÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM..CỐ GẮNG CHO LẮM CŨNG VÔ ÍCH
    HOÀN TOÀN KHÔNG MỘT CÔNG DÂN VN YÊU NƯỚC NÀO NGHE LỜI BỌN BÂY ĐỂ LẬT ĐỔ MỘT GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VN VẪN ĐANG PHỤC TÙNG VATICAN ĐỂ LẬP RA MỘT GIÁO HỘI QUỐC DOANH PHỤC TÙNG ĐẢNG CỘNG SẢN VN THEO MẪU MỰC CỦA TÀU CỘNG .

    MÀ VẪN CHỈ CÓ NHỮNG NGƯỜI YÊU NƯỚC VN CHỐNG LẠI BỌN CỘNG SẢN VN ĐANG LÀM TAY SAI CHO TRUNG CỘNG



  6. #886
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929
    Quote Originally Posted by Ngụy Tặc View Post
    Là Bộ trưởng Ngoại giao tài giỏi của chính quyền Diệm, ông Vũ Văn Mẫu đă phản ứng rất quyết liệt và đánh thẳng vào uy tín của chế độ Ngô Đ́nh Diệm một đ̣n rất ngoạn mục. Ông ta đă cạo đầu, từ chức và đi hành hương Phật tích ở Ấn Độ.

    Trước lúc mất, ông đă không quên để lại tập tài liệu "Sáu tháng Pháp nạn 1963".

    Mời xem điểm sách về cuốn tài liệu trên:

    Sáu tháng Pháp nạn 1963 của Minh Không Vũ Văn Mẫu


    Đây là hồi kư của cố Giáo sư Vũ văn Mẫu (1914-1998) về những diễn biến tại miền Nam Việt Nam từ vụ triệt hạ cờ Phật giáo tại Huế (8/5/1963) đến ngày đảo chính 1/11/1963 lật đổ chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Ông sinh năm 1914 tại Hà Đông, Bắc Việt Nam, tốt nghiệp Thạc sĩ Luật khoa Đại học Paris, Pháp.

    Về nước ông làm giáo sư tại Đại học Luật khoa Sài G̣n và giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao VNCH từ năm 1955 đến 1963. Sau đó ông là Đại sứ tại Anh, Bỉ và Hà Lan từ 1964 đến 1972, trước khi đắc cử vào Thượng nghị viện Sài G̣n, liên danh Hoa Sen. Hồi kư được in Ronéo trong nước vào năm 1984, Giao Điểm in lại năm 2003 tại Hoa kỳ - PO BOX 2188, Garden Grove, CA 92842 - sách dày 505 trang.

    Giáo sư Vũ văn Mẫu đă gây tiếng vang lớn trong và ngoài nước khi cạo trọc đầu và đệ đơn từ chức Bộ trưởng Ngoại giao để phản đối hành động tấn công các chùa đêm 20/8/63 và xin đi hành hương Phật tích tại Ấn Độ.


    Gs Vũ Văn Mẫu (1914-1998), link: http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9...3n_M%E1%BA%ABu

    Trong lời nói đầu , tác giả viết: “Mặc dù báo chí ngoại quốc và quốc nội đă đề cập sâu rộng đến những vấn đề xoay quanh 6 tháng Pháp nạn, nhưng có thể nói rằng một tấm màn bí mật vẫn c̣n bao phủ nhiều biến cố quan trọng và bao nhiêu thắc mắc cùng hoài nghi vẫn c̣n đè trĩu trên ḍng lịch sử…Dân tộc ta đă trăi qua một cơn ác mộng hăi hùng. Chúng ta bị dồn đến bước hiểm nghèo mà may thay đă tránh được không sa vào vực thẳm của sự chia rẽ tôn giáo. Sau phút hiểm họa, toàn dân vẫn đoàn kết, triệu người như một, không phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng. Đó là một điều vinh hạnh cao qúy cho nền văn minh dân tộc đă tiếp nối truyền thống tự ngàn xưa tôn trọng quyền căn bản của con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng. Ghi chép lại các biến cố trong Pháp nạn năm 1963, tác giả không ngoài ư nghĩ nêu lên một vết xe đổ, để bước đường nguy hiểm không c̣n ai dẫm phải trong tương lai”.

    Trong chương Một, tác giả đề cập đến chính sách thiên vị Thiên Chúa giáo của chế độ Ngô Đ́nh Diệm trên phương diện pháp lư và tinh thần (dụ số 10, Hiến pháp 1956) cũng như trong các lĩnh vực hành chính, xă hội và kinh tế (chương tŕnh di cư và định cư, chương tŕnh Dinh diền và Khu trù mật, quốc sách Ấp chiến lược).

    Trong chương Hai, tác giả đă đưa ra những tài liệu khác nhau về vụ triệt hạ cờ Phật giáo tại Huế và thảm sát tại đài Phát thanh Huế đêm 8/5/63, về quan điểm của Tổng Giáo hội Phật giáo Việt Nam được tŕnh bày trong Tâm thư ngày 9/5/1963, bản tuyên ngôn ngày 10/5/63 và các bản Phụ đính; Quan điểm của chính quyền được phản ảnh trong hai tài liệu đề ngày 9/5/1963 trong Thông cáo của Ṭa Hành chính tỉnh Thừa Thiên và bản phúc tŕnh của ông Ngô Ganh, Quản đốc đài Phát thanh Huế. Sau khi phân tích các lời tường thuật của các nhân chứng như Tổng Giám mục Ngô Đ́nh Thục, bác sĩ Erich Wulff, Linh mục Cao Văn Luận (Viện trưởng Viện Đại học Huế), ông Nguyễn khắc Từ, một huynh trưởng Gia đ́nh Phật tử, tác giả đă nêu ra câu hỏi: Đâu là sự thực? Thực sự ai là người có trách nhiệm chính trong việc gây ra vụ thảm sát.

    Tác giả đă đưa ra chứng từ của ông Trần hữu Thế (nguyên Bộ trưởng Giáo dục) về trách nhiệm của TGM Thục như sau:

    “Chính tối hôm Phật đản cũng đă có một bữa tiệc tại nhà Ngô Đ́nh Cẩn với sự hiện diện của TGM Thục, một số bộ trưởng và nhiều nhân vật cao cấp trong chính phủ. Đang giữa bữa ăn th́ Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng và Phó Tỉnh trưởng Đặng Sĩ hốt hoảng xin vào tŕnh bày t́nh h́nh rất căng thẳng v́ mấy ngàn phật tử đang tụ họp trước Đài Phát thanh. V́ phụ trách các vấn đề an ninh, Thiếu tá Đặng Sĩ xin chỉ thị để đối phó.

    Ngô Đ́nh Cẩn ngồi yên không nói ǵ, hay không muốn nói có lẻ v́ đă đoán trước được ư kiến của ông anh Ngô đ́nh Thục thế nào cũng chống đối thái độ ḥa hoăn của ông ta trong vụ này. Sau báo cáo của Đặng Sĩ, TGM Ngô đ́nh Thục đang ăn bổng ngưng lại, giơ tay ra hiệu cho Thiếu tá Đặng Sĩ “Dẹp…!”. Tỉnh trưởng và Phó Tỉnh trưởng lănh chỉ thị lui ra. Sau đó th́ các sự việc xăy ra như bác sĩ Erich Wulff đă tường thuật rơ ràng các điều mắt thấy tai nghe tại chỗ” (tr.215-216).

    Trong chương Ba, tác giả đề cập đến cuộc tranh đấu của Phật giáo và sự thành lập Ủy ban Liên phái, ngọn lửa Bồ tát Thích Quảng Đức và việc kư Thông cáo chung ngày 16/6/63. Về việc này, tác giả cho biết (trang 278-279) : “1 giờ 30 sáng ngày 16/6/63, sau khi bản Thông cáo chung được kư kết, v́ đă lấy chữ kư của Ḥa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đem ngay vào dinh Gia Long để lấy chữ kư của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm th́ một khó khăn bất ngờ khiến ông Nguyễn Ngọc Thơ phải thất vọng. Đọc đi đọc lại bản Thông cáo mà chính ông trước đây đă chấp thuận từng điểm trong mỗi giai đoạn thương thuyết, ông Diệm, chẳng hiểu chuyện ǵ đă xăy ra trong thâm tâm, bổng không chịu kư nữa. Đến 5 giờ sáng, ông Diệm nói với ông Nguyễn Ngọc Thơ cứ để hồ sơ lại rồi về nhà nghỉ.

    Sau khi ông Thơ ra về, trong dinh Gia Long đă có một ‘Hội đồng gia đ́nh’ bàn về vấn đề này gồm có ông Diệm và hai vợ chồng ông Nhu. Cuối cùng, sau khi cả gia đ́nh suy tính kỹ, bà Nhu đă khuyên ông Tổng thống: “Không kư ngang hàng với Ḥa thượng Thích Tịnh Khiết mà kư ngay ở trên góc trái, ngay trang đầu của bản Thông cáo chung và thêm vào một câu trên chữ kư: “Những điều được ghi trong Thông cáo chung này th́ đă được tôi chấp thuận nguyên tắc ngay từ đầu”. Ông Diệm đă nghe theo lời khuyên này và kư ở trang đầu của bản Thông cáo với câu ghi trên.

    Tại sao bà Ngô Đ́nh Nhu lại có quyết định như vậy? Theo ư kiến của bà Nhu, kư ở trên đầu trang là tỏ rằng Tổng thống Diệm ở trên hết. C̣n câu ghi trên đây có hai ư nghĩa: theo nghĩa đen, câu đó tỏ rằng các nguyện vọng của Phật giáo không có chủ đích, v́ đều đă được Tổng thống chấp thuận nguyên tắc ngay từ đầu; nhưng theo nghĩa bóng, th́ bản Thông cáo chung sẽ không được thực thi v́ Tổng thống chỉ chấp nhận nguyên tắc mà thôi. Hậu ư phá hoại việc thi hành bản Thông cáo chung ngày 16/6/1963 đă nẩy ra trong thâm tâm vợ chồng Ngô Đ́nh Nhu ngay từ lúc chữ kư của Tổng thống Diệm trên bản Thông cáo chung c̣n chưa ráo mực”.

    Trong chương Bốn, tác giả đề cập những diễn biến từ lúc bản Thông cáo chung được công bố cho đến vụ tấn công các chùa đêm 20/8/1963 và các hậu quả sau đó. Tác giả cho biết trong Tiết 1, dưới sự điều động của vợ chồng Ngô đ́nh Nhu, nhà cầm quyền đă tổ chức một Tổng hội Phật giáo Cổ sơn môn để chống lại phong trào đấu tranh của phật tử, dùng đoàn thể Thương phế binh giả và Thanh niên Cộng ḥa để yêu cầu duyệt lại bản Thông cáo chung cũng như kế hoạch tiêu diệt Phật giáo đến tận gốc của Ngô Đ́nh Nhu (Kế hoạch Nước Lũ, Kế hoạch đảo chính giả). Trong Tiết 2, tác giả ghi lại hai giai đoạn sôi nổi nhất vào dịp kỷ niệm một tháng ngày Kư Thông cáo chung và lễ Chung thất (49 ngày) của HT.Thích Quảng Đức. Trong tiết 3, tác giả nhắc lại các biến cố tại Huế sau cuộc tự thiêu của TT.Thích Tiêu Diêu, việc các Giáo sư Đại học Huế từ chức để phản đối LM Cao Văn Luận bị cách chức Viện trưởng.

    Thuật lại buổi bàn giao chức vụ cho tân Viện trưởng là ông Trần Hữu Thế, tác giả cho biết (trang 386-387): “Linh mục Cao Văn Luận nói: ‘Lúc này, muốn làm văn hóa đắc lực, người lănh đạo Viện Đại học phải là người có cái THẾ chính trị. Về phương diện này, thiết tưởng không ai hơn ông tân Viện trưởng Trần Hữu Thế, là người như tên đă định, có thế hơn ai hết, vừa có thế của Tổng thống tức là thế của chính phủ, vừa có thế của Tổng Giám mục Huế tức là thế của mấy trăm ngàn giáo dân, Viện Đại học Huế nhờ vậy sẽ có một tương lai vô cùng tốt đẹp!’. Ông Thế mặt tái xanh, nhưng cũng gượng đứng dậy đáp từ cho biết đă cố gắng xây dựng ngay từ khi c̣n làm Bộ trưởng Giáo dục (trước ông Nguyễn Quang Tŕnh)…

    Sau buổi lễ bàn giao, ông Trần Hữu Thế đă thấy bị đặt vào một t́nh thế vô cùng khó khăn. Ông đă nhờ người đưa đi thăm chùa Từ Đàm và đă được chứng kiến tinh thần tranh đấu của phật tử rất cao, ông càng hoảng sợ. Ngày 19/8, khi ông Trần Hữu Thế đến Viện Đại học, tất cả sinh viên đă tề tựu, đứng chờ đợi im lặng trong sân. Bác sĩ Lê Khắc Quyến, đại diện giáo sư Đại học, vào pḥng Viện trưởng đưa cho ông Thế đơn từ chức của các giáo sư Đại học. Sau đó, một đại diện sinh viên tŕnh ông Thế một bức Tâm thư yêu cầu ông Thế từ chối chức vụ tân Viện trưởng Viện Đại học Huế. Ông Thế đáp: “Tôi xin nhận thư này và tôi sẽ chuyển lên cấp trên”. Sau đó, quá hoảng sợ, ông Thế đă muốn rút lui bằng ngơ sau. Nhưng ông Âu Ngọc Hồ, Tổng Thư kư Viện khuyên ông nên đi ngơ trước để giữ thể diện Viện trưởng. Ông đành nghe theo và sinh viên đă rẽ ra để dành đường cho ông rời khỏi Viện. Sau đó, ông Trần Hữu Thế hiểu rơ không thể nào tuân theo lệnh ông Ngô Đ́nh Thục để giữ chức Viện trưởng tại Huế, đă lẻn về Sài g̣n và đến cầu cứu tôi xin chiếu khán xuất ngoại để trở về ngay Manille, không dám lại cáo biệt cả Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm”.

    Sau khi đề cập vụ tấn công chùa Xá lợi và các chùa khác trong đêm 20/8/63, tác giả đă thuật lại phiên họp nội các lúc 5 giờ rưỡi sáng ngày 21/8/63 và quyết định từ chức như sau:

    “Đúng 11 giờ sáng ngày 22/8/63, tại dinh Gia Long đă diễn ra lễ tŕnh ủy nhiệm thư của Đại sứ Anh. Tôi đứng cạnh Tổng thống Diệm trong buổi lễ một cách điềm nhiên, không một ai có thể đoán được sau buổi lễ này, trưa hôm ấy, tôi sẽ cạo đầu và từ chức vào buổi chiều. Tôi đă nhận thấy cần phải từ chức vào ngay chiều ngày 22/8/63, trước khi tân Đại sứ Hoa kỳ Cabot Lodge tới, anh em ông Diệm sẽ xuyên tạc sự thật và tuyên truyền rằng tôi chỉ là một con bài của Mỹ và sự từ chức của tôi là do Mỹ xúi, có tính cách hoàn toàn chính trị chứ không phải v́ vấn đề bảo về đạo Pháp.”

    Tác giả cho biết (trang 408-409): “Từ chức là một quyết định đă đến với tôi từ sáng ngày 21/8, sau buổi họp Hội đồng Nội các. Nhưng tôi đă suy nghĩ về một vấn đề tế nhị: cần từ chức dưới một h́nh thức nào để vượt các khó khăn về sau.

    a. Tổng thống Diệm có rất nhiều cảm t́nh đối với tôi, là nhân viên cũ duy nhất c̣n lại trong chính phủ sau bao nhiêu lần thay đổi nội các trong chín năm vừa qua. Trong cơn khủng khoảng chính trị đang diễn ra vào tháng 8 này, chắc chắn Tổng thống Diệm càng kiếm cách giữ tôi lại để vượt qua những phút khó khăn do vụ tấn công chùa chiền gây ra.

    b. Cần phải t́m một h́nh thức từ chức thế nào để có thể nói rơ lên được mục đích là để bảo vệ Phật pháp và phản đối chính sách kỳ thị và đàn áp Phật giáo. Cần cho dư luận trong nước và dư luận quốc tế không bị Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm lừa dối bằng cách xuyên tạc mục đích của sự từ chức với các mánh khóe gian xảo trăm khôn ngh́n khéo!

    May thay, ngọn lửa thiêng của đạo Pháp soi sáng tâm trí của tôi trong giờ phút nghiêm trọng và gấp rút này, để nh́n thấy ngay h́nh thức từ chức tốt nhất: Chỉ có cách cạo đầu từ chức, đi hành hương tại Ấn Độ để nguyện cầu cho đạo Pháp, cho tự do tín ngưỡng và dân tộc đoàn kết.
    Ba giờ rưỡi chiều, tôi đến tiệm hớt tóc để cạo đầu. Sau khi ở tiệm hớt tóc về bộ, tôi đă thảo đơn từ chức gửi đến Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.”



    GS Vũ Văn Mẫu xuống tóc tranh đấu cho Hoà B́nh, Dân Chủ, Tự Do. Link: tp://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_V%C4%83n_M%E 1%BA%ABu

    Sau khi tiếp các Đại sứ các nước Phật giáo châu Á, tác giả đă họp toàn thể nhân viên trong Bộ Ngoại giao cũng để giải thích về ư nghĩa quyết định từ chức. Tin tác giả cạo đầu từ chức đă bay khắp Sài G̣n như làn gió mạnh. Nguyên cả tối 22/8, nhiều nhân viên cao cấp của chính quyền và ngay chính ông Ngô Đ́nh Diệm đă điện thoại để cố thuyết phục tác giả không từ chức hay ít nhất hoăn vài tháng. Sáng thứ Bảy ngày 24/8, sinh viên hội họp tại trường Luật để tiếp đón tác giả. Vào lúc 9 giờ, Gs Vũ Văn Mẫu vừa bước xuống xe hơi là được sinh viên công kênh lên vai. Trong sân trường Đại học, sinh viên ngồi xúm xít dưới đất để nghe ông nói: “Tôi đến đây với các anh em không nhân danh là Bộ trưởng Ngoại giao v́ chức vụ đó tôi đă chấm dứt bằng cái cạo trọc đầu của tôi rồi. Tôi đến đây nhân danh là một người bạn để cùng với các anh em khơi nguồn lửa thiêng chiến đấu, bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất của con người...” Ngay trưa hôm đó, tác giả đă bị giam lỏng tại nhà và ông Ngô Đ́nh Nhu gọi điện thoại với giọng hằn học và doạ nạt, khuyên nên ở nhà, không được ra trường Luật nữa.

    Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu

    Chiều ngày 26/8, tác giả đă bị chận lại không cho ra phi trường để lấy máy bay sang Ấn Độ hành hương. Sau này tác giả mới biết được lư do như sau (trang 420-421): “Măi đến năm 1964, khi tôi làm Đại sứ Việt Nam tại Anh quốc, tôi có dịp được tiếp Tổng Giám mục Asta – vào năm 1963 giữ chức Khâm Mạng đại diện Ṭa thánh Vatican tại Sài G̣n - Tổng Giám mục mới cho biết những việc đă xảy ra chiều ngày 26/8/63. Nguyên ngày hôm nay đó, biết được tin tôi lên đường, Ngoại giao đoàn đă tới đông đủ tại phi cảng Tân Sơn Nhất để tiễn tôi đi hành hương sang Ấn Độ, nhưng chờ măi đến giờ phi cơ cất cánh mà cũng vẫn không thấy tôi tới, đột nhiên, có một phóng viên ngoại quốc từ Sài G̣n đến phi cảng và cho biết tin tôi bị bắt đưa đi đâu không biết. Ngoại giao đoàn khi đó rất xúc động và đồng ư cử Niên trưởng là ông Viên Tử Kiên (Yuen Tse Kien), Đại sứ của Trung hoa dân quốc, đến gặp Tổng thống Diệm để thỉnh cầu trả lại tự do cho tôi. Khi ấy, TGM Asta đă lanh lẹ đề nghị nhận trách nhiệm tế nhị này thay cho ông Niên trưởng Viên Tử Kiên. Ngoại giao đoàn đồng ư v́ TGM Asta là đại diện của Giáo hoàng, lời thỉnh cầu chắc chắn có hiệu quả hơn đối với một người ngoan đạo như Tổng thống Diệm. TGM Asta đă trở về dinh Gia Long và gặp ngay Tổng thống Diệm. Và chính nhờ cuộc gặp gỡ với TGM Asta, tôi mới hiểu rơ tại sao tôi được trả tự do nhanh chóng như vậy”.

    Sau đó tác giả được loan báo là có thể khởi hành cùng với gia đ́nh sang Ấn độ bằng chuyến máy bay Air France chiều ngày 29/8. Trước khi rời đất nước, tác giả đă đến cáo biệt Tổng thống Diệm và Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu: “Gặp Ngô Đ́nh Nhu, tôi vẫn giữ vẻ thản nhiên, chỉ chào từ biệt mà không nhắc ǵ đến việc cảnh sát đă bắt đưa tôi về trại Lê Văn Duyệt hôm 26/8, nhưng Ngô Đ́nh Nhu đă không dấu được sự ngượng ngập, và chính Nhu đă nói đến vấn đề này, như xin lỗi một cách gián tiếp: ‘Câu chuyện xảy ra hôm 26/8 là do một sự hiểu lầm. Người ta đă báo cáo lên Tổng thống rằng anh xuất ngoại mà không có chiếu khán xuất cảnh’…Trong cuộc yết kiến Tổng thống Diệm, ông Diệm không dấu được sự xúc động, lấy tay áo quẹt mắt rớm lệ và nói: “Xin đừng quên nhau”. Rồi tôi đến chào Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ. Ông Thơ lắc đầu nói, xin đừng quên nhau, ông Già nói chi mà gở vậy! Anh nhớ hôm lễ Song Thất 7/7/63, lễ kỷ niệm ngày ông Diệm về chấp chính, ông Già cũng nói những câu gở không? Tôi cũng chợt nhớ lại câu ông Diệm nói hôm đó làm hai chúng tôi rất ngạc nhiên: “Chẳng lẽ công tŕnh xây dựng trong bao lâu, bỗng chốc biến thành mây khói!” Tôi bắt tay ông Thơ ra về, cả hai ngậm ngùi. Kẻ ở người đi, chưa biết khi nào sẽ có dịp tái ngộ.”

    Ngày 29/8/63, GS Vũ Văn Mẫu đáp chuyến bay Air France tại Tân Sơn Nhất để đi hành hương. Cùng đi chuyến bay này có GS Bửu Hội, được nhân viên chính phủ tiễn đưa sang Mỹ để bênh vực trước Liên hiệp quốc về lập trường của chính phủ Ngô đ́nh Diệm trong vấn đề đàn áp Phật giáo. Một chuyến tàu, hai con đường khác… Tại Ấn độ, GS Vũ văn Mẫu đă được tiếp đón trọng thể và nồng hậu, có các cuộc hội kiến với Tổng thống Ấn độ Radhakrishnan, Thủ tướng Nehru và Bộ trưởng Ngoại giao bà Lakshmi Menon. Sau đó một chương tŕnh hành hương các thánh địa Phật giáo đă được hoạch định như Bénarès, Sarnath, Bodhigaya, Sanchi, Ajanta, Ellora… Tác giả bày tỏ nỗi vui mừng khôn tả khi đến Bồ đề đạo tràng (Bodhigaya) nơi Đức Thế Tôn thành đạo dưới gốc Bồ Đề. Tại đấy, bất ngờ tác giả lại được hạnh ngộ với các Thượng tọa Thích Minh Châu, Thích Thiện Châu và Thích Huyền Vi khi ấy đang ở Ấn độ. (Xin xem bài tường thuật của TT.Thích Thiện Châu được tác giả trích đăng lại trong hồi kư từ trang 428-436 và trang nhà Khuông Việt số 8, Mừng Xuân Giáp Thân phổ biến lại theo địa chỉ www.khuongviet.com).

    Ngày Chủ nhật 15/9/63, sau khi hoàn tất cuộc hành hương, tác giả rời Ấn Độ sang Pháp. Trước khi rời Ấn Độ, tác giả đă gửi thư về cho Tổng thống Diệm xác định dứt khoát quyết tâm từ chức. Nội dung bức thư như sau:

    “New Delhi, ngày 15 tháng 9 năm 1963.

    Vũ Văn Mẫu, Bộ trưởng Ngoại giao hiện nghỉ phép.

    Kính đệ Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa, Sài G̣n.

    Kính thưa Tổng thống, Sau khi đi hành hương chiêm bái các nơi Phật tích ở Ấn Độ và thấu hiểu thêm được đạo lư, chúng tôi trân trọng xin Tổng thống chấp thuận cho chúng tôi từ nay được từ chức. Chúng tôi lúc nào cũng cầu nguyện cho toàn dân được ḥa b́nh và nhất trí đoàn kết. Chúng tôi xin Tổng thống nhận nơi đây ḷng thành kính của chúng tôi.

    Kư tên: Vũ Văn Mẫu”.

    Trong chương 5, tác giả đề cập đến dư luận và ủng hộ của Ṭa thánh Vatican, của các nước theo Phật giáo và các chính phủ Âu Mỹ. Trong chương cuối, tác giả tổng kết như sau (trang 489-491): “Ba nhân tố chính yếu đă đưa chế độ đến sự suy tàn:

    1. Ngô Đ́nh Diệm đă quá nhu nhược trước các hành động thao túng của gia đ́nh, từ Ngô đ́nh Thục đến vợ chồng Ngô đ́nh Nhu và Ngô đ́nh Cẩn, dung túng gia đ́nh lạm dụng quyền thế, bóc lột tài nguyên quốc gia, đàn áp tàn bạo những phần tử yêu nước phản đối các hành vi bất chính.

    2. Ngô Đ́nh Thục quá thiết tha với tham vọng làm Hồng Y giáo chủ và mang ảo vọng muốn biến Việt Nam thành một nước hoàn toàn theo Thiên Chúa giáo.

    3. Vợ chồng Ngô đ́nh Nhu nung nấu tham vọng kế vị Ngô Đ́nh Diệm và không sờn ḷng lùi bước trước bất cứ hành vi và mưu kế tàn bạo nào để thực hiện cho được mưu đồ ấy.

    Thu thập một số tài liệu lịch sử trong vụ Pháp Nạn này, từ nguyên nhân đến quả báo, chúng tôi nhắm một mục đích duy nhất: Nêu lên một cây tiêu để đánh dấu vết xe đổ và tha thiết ước mong – như chúng tôi đă cầu nguyện 20 năm trước tại Bồ Đề đạo tràng trước Đài Kim Cương, nơi đức Thế Tôn thành đạo, rằng trong tương lai không bao giờ c̣n có một chính phủ nào nghĩ đến sự đàn áp tôn giáo, và không bao giờ quốc dân c̣n bị chia rẽ v́ tôn giáo. Tôn trọng các tôn giáo trên căn bản tự do tín ngưỡng và công bằng xă hội là tôn trọng các quyền linh thiêng nhất của con người mà bản tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế của tổ chức Liên hiệp quốc đă xác nhận. Vi phạm vào các quyền này là chà đạp lên nhân phẩm, dấn thân vào con đường phân hóa quốc dân và phản bội lại truyền thống cao quư của dân tộc.

    Bến Nghé, ngày Khánh đản 15/4 năm 2525 Phật lịch (15/5/1984),

    Minh Không Vũ Văn Mẫu”

    Trong lời giới thiệu cuốn Hồi kư, Hoà thượng Thích Măn Giác, Los Angeles, Hoa kỳ viết về Giáo sư Vũ Văn Mẫu như sau: “Trong mắt tôi, ông là một kẻ sĩ khí phách hiếm hoi của miền Nam, một người làm chính trị chân thực và có ḷng, một nhà mô phạm chừng mực và trong sáng, một phật tử hộ Đạo thiết tha. Toàn thể con người đó ảnh hiện trong lời trong chữ của tập sách cuối đời phản ảnh một giai đoạn trầm trọng của sự nghiệp riêng và của đất nước chung.”

    Hoà thượng cũng cho biết thêm rằng, năm 1988, trước khi rời Việt Nam đi Pháp, Giáo sư Vũ Văn Mẫu đă đích thân mang tặng Hoà thượng Thiện Siêu ở chùa Từ Đàm Huế một tập với lời dặn ḍ “xin Chùa tuỳ nghi sử dụng trong việc giữ ǵn và phổ biến tác phẩm nầy cho thế hệ tương lai”.

    Với bản in này được phổ biến rộng răi tại hải ngoại, thiết nghĩ ư nguyện đó của Giáo sư được thực hiện trọn vẹn.

    Xin trân trọng giới thiệu đến quư vị độc giả gần xa.

    Minh Nguyện
    BỌN VIỆT GIAN GIAO ĐIỂM -TAY SAI CỦA TRUNG CỘNG - NÚP DƯỚI DANH NGHĨA BÊNH VỰC PHẬT GIÁO VÀ VĂN HOÁ DÂN TỘC TAM GIÁO ĐỒNG QUY ĐỂ PHỈ BÁNG VATICAN VÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM..CỐ GẮNG CHO LẮM CŨNG VÔ ÍCH

    HOÀN TOÀN KHÔNG MỘT CÔNG DÂN VN YÊU NƯỚC NÀO NGHE LỜI BỌN BÂY ĐỂ LẬT ĐỔ MỘT GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VN VẪN ĐANG PHỤC TÙNG VATICAN ĐỂ LẬP RA MỘT GIÁO HỘI QUỐC DOANH PHỤC TÙNG ĐẢNG CỘNG SẢN VN THEO MẪU MỰC CỦA TÀU CỘNG .


    MÀ VẪN CHỈ CÓ NHỮNG NGƯỜI YÊU NƯỚC VN CHỐNG LẠI BỌN CỘNG SẢN VN ĐANG LÀM TAY SAI CHO TRUNG CỘNG


  7. #887
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    114

    Phạm văn Đồng khẳng định Hoàng Sa ...là của Tàu.

    Niềm tự hào của gịng họ PHẠM ( văn Đồng ) tại Quảng Nghỉa.


    Họ Phạm với đất nước !!!

    Bản sơ thảo Gia phả Phạm Công tộc tại Mộ Đức - Quảng Nghĩa (2)
    . . . . . . . . . . . . . .
    5- Các vị hiền tài, nhân sĩ ḍng họ Phạm Công, kể từ Triệu tổ Đô thống Phạm Nhữ Tăng (1422-1478) cho đến thời đại Hồ Chí Minh ngày nay được tôn vinh và nêu lên sau đây :

    1. Phạm Nhữ Tăng, ṭng chinh cùng vua Lê Thánh Tông năm 1471, được bổ nhậm làm Đô thống thừa tuyên Quảng Nam, tước Quảng Dương hầu
    . . . . . . . . . . . . .. .
    . . . . . . . . . . . . . .
    38. Phạm Văn Đồng (1906-2000), Thủ tướng nước Viêt Nam dân chủ cộng hoà và nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (Phạm Văn Đồng thuộc Gia hệ 9 đời thứ 15, hệ 11 ).
    Trong thời đại Hồ Chí Minh, c̣n có hàng trăm nhân tài họ Phạm Công, có học vị là Giáo sư, Tiến sỹ, Thạc sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư.... đảm nhiệm nhiều công tác, chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước..

    Phạm Huy Khánh
    (sưu tầm và giới thiệu.)

    1.- Đảng Bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ngăi đă góp công sức , tiền của gồm nhiều ngàn tỉ đồng để xây nhà thờ tổ cho gịng họ Phạm tại huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngăi. Nhà thờ nầy vừa được khánh thành cực kỳ hoành tráng.
    Là niềm hảnh diện cho con cháu Phạm gia ( xem h́nh )



    2.- Nhờ Công lao và thành tích của Phạm văn Đồng , đứng hàng thứ 38 trong bảng gia phả, là niềm tự hào của gịng họ PHẠM.
    được vợ cố Tổng Bí Thư Lê Duẫn xác nhận thành tích qua video :
    http://www.youtube.com/watch?v=QgNs1UfG6ek

  8. #888
    Ngụy Tặc
    Khách
    Quote Originally Posted by Viet xưa View Post
    Thế bên Phật giáo có chuyện thầy chùa làm chuyện dâm dật và sát nhân khg vậy .

    Thế vẹm tặc có biết chuyện thầy chùa làm chuyện khủng bố chôn vũ khí sau vườn của nhà chùa hong dậy ? .

    Thế Vẹm tặc có biết chuyện ni cô uống thuốc Bắc phá thai không dậy ? .

    he he he he đạo nào mà không có thiễu số lạm dụng màu áo tu làm chuyên như vậy .


    Riêng PG thời NDD khác PG các nước khác là c̣n thêm cái tội khủng bố biết chôn dấu vũ khí trong địa hạt của chùa .
    he he......

    Mấy ông thầy chùa, mấy bà ni cô, lăng nhăng chuyện thế tục, bon chen vào chính trường, dấn thân vào chính trị.....là chuyện cá nhân của những ông thầy chùa, những bà ni cô đó. Nó không phải là chủ trương, tôn chỉ ǵ ǵ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cả. Trên phương tiện truyền thông, tui thấy GHPGVN đề ra chủ trương, tôn chỉ của Giáo hội là: ĐẠO PHÁP-DÂN TỘC-CHỦ NGHĨA XĂ HỘI (he he....nghe 4 chữ sau cùng chắc là ôb Viet xưa "lạnh tóc gáy" chứ chẳng chơi). Vậy th́ ông thầy chùa nào, bà ni cô nào mà hành đạo không đúng với chủ trương tôn chỉ đó th́ chắc là Gh sẽ dùng quyền hạn hợp lư của ḿnh để giải quyết. Một khi vấn đề hành đạo của mấy ông thầy chùa, mấy bà ni cô trực thuộc hệ thống của Gh mà đi ngược với "châm ngôn" hành đạo của giáo hội và bị quần chúng Phật tử lên án th́ tui tin là GHPGVN sẽ không v́ quyền lợi của GH mà dung túng, dung dưỡng những thành phần đó.

    Đó là nói đến cái tổ chức "lỏng lẻo" của GHPGVN mà quyền lực của nó chưa là tuyêt đối đối với tăng sĩ và tín đồ. Trong khi Vatican là 1 tổ chức quy củ, lâu đời và quyền lực th́ tối thượng. Thế nhưng v́ quyền lợi "cai trị" của ḿnh mà Vatican đă bao che, dung dưỡng những giáo sĩ cao cấp gieo rắc "sự dữ" trên thân phận "bé miệng" của hằng ngàn tín đồ bất hạnh. Và đó mới chính là cái núi tội ác có tổ chức, do chính Giáo hội "thánh thiện" của nó xây đắp nên.

    Sự kiện "từ chức" của ông Giáo hoàng Vatican vừa rồi mà người ta nghi rằng động lực chính là do bàn tay của ông ta đă dính chàm vào việc xây đắp nên núi tội ác thứ 8 này đó. Người ta nghĩ đó là cách "tẩu vi thượng sách" khỏi trách nhiệm.

  9. #889
    Ngụy Tặc
    Khách
    Quote Originally Posted by tinhyeu@ View Post
    tinhyeu@

    Pháp nạn 1963 đang được khởi động tại VN

    Chết cha rồi ngụy tặc ơi !

    Pháp nạn tới rồi , ngụy tặc lo mua quan tài và chuẩn bị đào lỗ cho cs đi là vừa .

    Các linh mục sẽ gởi đến từng gia đ́nh

    Thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam

    gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

    nhận định và góp ư sửa đổi Hiến pháp

    http://thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=20438


    Và sẽ hướng dẫn cho giáo dân hiểu về bản góp ư hiến pháp này .

    Rồi sẽ đến lượt bên phật giáo với

    Lời tuyên bố của Đại lăo Ḥa thượng Thích Quảng Độ, Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

    http://thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=20598

    Thêm nữa

    http://thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=20749

    Pháp nạn đến rồi ! Pháp nạn đến rồi ! Ngụy tặc ơi !
    he he......

    Ôb tinhyeu@ ni làm cái chi mà nhảy tưng tưng dữ rứa. Cha nào chết th́ cứ nêu rơ tên tuổi ra cho thiên hạ nghe chơi. Thiệt là.....

    Các linh mục sẽ gởi đến từng gia đ́nh Thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
    ???

    Rồi sao? Nó là "Pháp nạn" cho "Công giáo" hả?

    Mấy triệu "con chiên" VN sẽ tràn xuống đường tranh đấu với chính quyền CS thỏa măn mấy "nguyện vọng" trong thư của HĐGM?

    Rồi sẽ đến lượt bên phật giáo với Lời tuyên bố của Đại lăo Ḥa thượng Thích Quảng Độ
    ???

    Rồi sao nữa? Đại lăo Ḥa thượng Thích Quảng Độ sẽ nhập đoàn với mấy Linh mục trong Hội đồng Giám mục sẽ biểu t́nh ngoài đường hay trước sân nhà?

    Toàn là giả thiết nghe căng cứng quá hả? Nhưng mà ôb à! B́nh tĩnh đi. Chẳng có quái ǵ đâu? Mấy chuyện nớ chẳng có chi gọi là "Pháp nạn". Mà CS th́ coi bộ bọn nó vẫn b́nh tọa mỉm chi cả đó.

    Nếu muốn la hoảng th́ học theo bà "con chiên" ni mới "ấn tượng" ń: (Nghe văn chương của bà "con chiên" bác sĩ này mà dựng tóc gáy thiệc đó.)



    Tâm thư của Bs Nguyễn Thị Thanh gữi từ Việt Nam



    THƠ KHẨN GỞI CĐ/NVHN VÀ ĐỒNG BÀO QN



    Kính thưa ṭan thể đồng bào nội ngoại,

    Câu nói của NNB "liếm vết thương" là câu chưởi rủa CĐ/NVHN trên sự đau thương thê thảm của CĐ nói riêng và của cả dân tộc VN nói chung, v́ hiện tại chúng ta mất nước rồi. Chính các cán bộ cao cấp về hưu và c̣n tại chức tại Hà Nội nói với tôi như vậy.

    Cá nhân tôi hiện đang măi miết “liếm vết thương” VN trong đau đớn tâm can đây. Vậy là câu chưởi nầy của NNB ḥan ṭan đúng với tôi. Thật t́nh là tôi đang “liếm vết thương” vĩ đại của dân tộc VN đây.

    Nầy ông NNB nếu chúng ta phải “liếm vết thương” của CĐ/NVHN hay của dân tộc chúng ta để mong cho chúng mau lành th́ tốt quá, ai c̣n mong ǵ nữa? Đó là việc tuyệt vời phải đựoc ghi vào lịch sử và khắc vào xương cốt chúng ta thôi.

    C̣n ông th́ đi liếm giày, liếm đít ngoại bang, đi liếm chức, liếm danh, liếm tiền dơ bẩn với cái óc u mê ám chướng của ông làm điếm nhục dân tộc. Thật khốn nạn cho ông!!!!!

    Dù sao th́ ông nói đúng 3 chữ “”liếm vết thương”. Nhục th́ có nhục, nhưng chấp nhận khổ nhục kế thôi.

    Đây là Đại khổ nhục kế của chúng tôi để cứu nước lâm nguy!!!

    Tôi đang ở VN, ḷng tôi đau đớn vô cùng trong cảnh XHCN, các bạn có thông cảm được với tôi không? Nếu ai có đầu óc nghĩ xấu ǵ cho tôi là phạm trọng tội với Tổ quốc và Dân tộc, tôi khẳng định là như vậy.

    Hiện tại trong nước từ nguời dân đến cán bộ CS đều xác nhận rằng nước VN đă mất vào tay Tàu Chệt. Những cán bộ cao cấp CS tại chức cũng xác nhận VN đă mất rồi.

    Tôi nói rằng: “Các ông cố t́nh “thà mất nước hơn mất đảng” là có tội với tổ quốc và dân tộc. Lịch sử không bao giờ tha thứ cho các ông."

    Họ nói rằng: “ĐCSVN sẽ trở thành một chi bộ của đảng CS Tàu." Tôi nói rằng : "Tàu sẽ không c̣n ĐCS Tàu đâu. Chúng nó sẽ cho các ông vào rừng Tân Cương Tây Tạng học tập cải tạo đó."

    Họ khẳng định rằng "Phải chi có ‘đại đ̣an kết dân tộc’, có Mỹ giúp th́ sức mấy Tàu Chiếm VN đựơc."

    Tôi nói: "Lỗi các ông thôi, mất Ḥang Sa Trường Sa th́ không biết khóc. Lại mổi năm đi ăn mừng ngày 30/4 trên đau thương của anh em ruột thịt ḿnh, thật là bần tiện vô cùng. Đúng là “hèn với giặc ác với đồng bào ruột thịt”. Lại c̣n đi gọi là "khúc ruột ngàn dặm" làm chi. "

    Hiện tôi đang lo thuyết phục ĐCSVN bỏ ăn mừng ngày 30/4 (nhưng không kịp cho năm nay được) và chấp nhận CĐ/NVHN là thành phần đối lập với cây Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Chấp nhận Siêu cường Mỹ giúp cứu nguy đất nước mới c̣n mong thoát nô lệ Tàu, và bảo vệ vẹn ṭan lănh thổ lănh hải VN.

    Tôi phải cố làm công việc đơn thương độc mă thuyết phục ĐCSVN. Một ḿnh tôi th́ yếu quá. Tôi yêu cầu họ giới thiệu cho tôi gặp ông ThT Dũng.

    Tôi nói "Nếu ThT Dũng, 15 ông TƯ ĐCSVN chịu bỏ phân nửa gia tài cứu đói đồng bào, cứu nguy kinh tế VN, chấp nhận bỏ Điều 4 Hiến Pháp chấp nhận tự do dân chủ nhân quyền đa đảng đa nguyên, th́ nhân dân sẽ tha hết tội tham nhũng, tội bán nước, sẽ không bao giờ có sự trả thù, không có một giọt máu đổ ra nữa." Họ làm thinh.

    Có một ông nguyên là Chủ tịch Ủy Ban Tổ chức đảng nói rằng : “Đó là con đường phải đi đến.”. Những người khác th́ đều đồng ư là phải có buổi họp đối thoại giữa CD/NVHN với TƯ ĐCSVN.

    Tôi nói rằng : “Buổi họp phải khóang đạt, tôn trọng lẫn nhau tại một nước thứ 3 lần đầu. Nhưng chúng tôi tại hải ngoại cần tổ chức UB Đại diện trước đă”.

    Tôi nói với họ rằng "Lực lượng của CĐ/NVHN rất lớn, không chỉ là ngoại giao. Đó là cả lực lựợng kinh tế, quân sự của cả thế giới, dư sức chống Tàu dành độc lập và vẹn ṭan lănh thổ cho VN chúng ta và cho cả thế giới tự do. Chỉ cần ĐCSVN thức tỉnh là cứu được nước. Tuy đă quá trể, nhưng tôi tin chắc sẽ cứu được nước."

    Họ bảo "Họ cũng hy vọng có trưng cầu dân ư thực sự để bỏ Điều 4 HP". Ngừoi khác th́ nói rằng "Khó lắm chúng nó không bỏ đâu."

    Tôi hỏi "Nước mất các ông có đi di tản ra hải ngoại không?" Họ nói "Cán bộ cao cấp, người giàu cho con cái đi dần rồi đó. C̣n dân chúng, cán bộ ai sống thanh liêm th́ tiền đâu mà đi, đành chịu thôi. Buồn lắm! Chỉ 15 ông trong chính trị bộ mà không ai chống nổi. Buồn lắm".

    Tất cả cán bộ cao cấp, kể cả chưa về hưu cũng đều xác nhận là nứoc đă mất vào tay Trung quốc rồi.

    Sau đó họ mời tôi đi ăn uống rất sang. Câu chuyện c̣n kéo dài.

    ***

    Quư vị nghĩ sao? Những lời tôi nghe, tôi nói là sự thật. Tôi đâu sợ bị bắt, mà tôi biết họ không bắt tôi đâu v́ bất lợi. Họ khen tôi yêu nước thật sự, họ muốn tôi cứu nước, làm sợi giây liên lạc để đem lại Đại đ̣an kết dân tộc, đem lại viện trợ lực lượng cứu nguy đất nước từ CĐ/NVHN, từ Hoa Kỳ và thế giới tự do.

    Nếu chúng ta hy vọng ĐCSVN cởi bỏ Điều 4 HP, để có tự do dân chủ, nhân quyền, có đa đảng đa nguyên, chúng ta cần tổ chức ngay Ủy Ban Đại Diện CĐNVHN để đi đối thoại, thương thuyết với các nước liên quan đến VN: Mỹ, Pháp Nga, Nhựt, Ấn độ, Úc, Asian, Cambôchia, Việt Nam, Tàu Chệt vv... Tôi đă lên tiếng nhiều lần về điều nầy rồi, nay lập lại.

    Tôi tự cảm thấy chúng ta ḥan ṭan có khả năng làm việc nầy, v́ cán bộ và trí thức quốc nội đang tha thiết chúng ta hành động lắm lắm.

    Chúng ta cần lập liên danh ứng cử thành lập ngay UB Đại Diện NVHN danh chánh ngôn thuận trước CĐ/NVHN và trước thế giới.

    Nếu CĐ/NVHN ủy thác cho chúng ta làm việc cứu nguy đất nước bằng đối thoại ngoại giao, th́ tôi tin chắc chắn chúng ta sẽ thắng. Cả nước gồm người QG và đảng viên CS phản tỉnh đang mong mỏi, đang hy vọng ở chúng ta.

    Nếu chúng ta không thành công, tôi xin lấy mạng sống của tôi để đền tội. Đây là lời thề trước Thánh Giá Chúa Giêsu.

    Hiện tôi đang ờ Hà Nội lo việc trị ung thư cho đồng bào nữa. Chính quyền ủng hộ tôi việc nầy, nhưng cũng khó khăn nhiều nổi mâu thuẩn nhau lắm.

    Số ĐTDĐ của tôi ở Hà Nội: 0128-990-7368

    Trưng Triệu

    http://bacaytruc.com/index.php?optio...c-gi&Itemid=53

  10. #890
    Ngụy Tặc
    Khách
    Và đây là 1 phản hồi của "con chiên" khác:

    Trí thức thời đại, bà BS Nguyễn thị Thanh.

    Trường Sơn


    Trí thức thời đại, bà BS Nguyễn thị Thanh



    Bác sĩ Nguyễn thị Thanh bút danh "Trưng Triệu" bấy lâu nay múa gậy vườn hoang, hô hào cho việc ḥa hợp ḥa giăi với Việt Cọng để cứu nguy đất nước, bà này đă bị lắm người phê b́nh chỉ trích và cũng được một vài người ủng hộ, nhưng thiết nghĩ rằng những giấc mơ của bà Thanh chỉ có giá trị khi nào chúng được hóa phép để trở thành hiện thực mà thôi, cho nên hiện nay chúng ta chưa cần khẳng định "giấc mơ cứu nước" của bà này là hăo huyền hay thực tế, mà chỉ nên đánh giá mức độ khả thi của giấc mơ này mà thôi.
    Tôi chưa quan tâm đến những lời kêu gọi ḥa hợp ḥa giăi hay đoàn kết dân tộc của bà BS Nguyễn thị Thanh v́ một lẽ rất dễ hiểu là ... chỉ cần mở mắt xem tỷ lệ ủng hộ lời kêu gọi của bà bắt tay với thành phần Việt Cọng đối lập ở hải ngoại hay ở quốc nội th́ biết ngay bà bác sĩ Thanh có đáng để quan tâm hay không ! Một tiếng sấm nổ trong sa mạc chẳng làm cho ai phải bận tâm v́ nó chẳng đánh trúng ai cả !!
    Ngoài ra khi đánh giá tư tưởng của một người th́ nên t́m hiểu xem sự suy luận của người này ở nhiều phạm vi khác nhau để xem mức độ thông minh IQ trung b́nh của họ như thế nào để tiếp tục đánh giá thêm.
    Đối với bà BS Nguyễn thị Thanh th́ mới đây có một bài viết của ông Tôn Tiến-Dũng nào đó nhan đề "KHI ĐỨC GIÁO HOÀNG BỎ CHẠY" đă khiến cho bà Bác Sĩ này thốt lên một câu vang như rấm động : "Đó là một bài viết quá tuyệt vời được thiên ứng". Sự ca ngợi này của bà đă hé mở cho tôi thấy rơ cái IQ của bà ra sao và khiến tôi phải bật ngửa trong kinh ngạc trước sự đui mù của bà này. "Quá Tuyệt vời" cái con khỉ khô ǵ !!!
    Nếu bà Thanh là người vô đạo hoặc thất học th́ tôi cũng thông cảm được cho sự ca ngợi nông cạn đó, nhưng đàng này bà đă là bác sĩ, đă tự xưng ḿnh là Trưng Triệu để tâng bốc ḿnh là anh hùng cứu nguy dân tộc th́ sự nông cạn của lời khen trên thật không ra ǵ, chẳng tương xứng với các danh xưng của bà.
    Với tư cách là người trí thức th́ không ai có thể dùng chữ "thiên ứng" v́ nó phản với hiểu biết khoa học của giới trí thức. C̣n với tư cách là một tín đồ Thiên Chúa Giáo như bà BS Thanh, th́ lời tâng bốc trên của bà cho thấy bà này là một tín đồ vô tri về chính tôn giáo của ḿnh, dám đi tâng bốc một kẻ xảo trá như ông Tôn Tiến-Dũng là người dám gán vào miệng của Đức Giêsu những điều Ngài chưa bao giờ nói, nhằm bôi lọ Kitô Giáo của Ngài. Chỉ riêng việc gán thép thêm bớt bậy bạ về Kinh Thánh này thôi cũng đủ kết tội ông Tôn Tiến-Dũng là lạc đạo và bị loại bỏ rồi chứ không cần phải bàn cải ǵ xa xôi hơn (theo cách viết lách th́ xem ra ông là một tín đồ Tin Lành - Cơ Đốc Giáo cuồng tín cực đoan hoặc là một anh Việt Cọng trong ban tôn giáo vận chuyên viết những bài xuyên tạc về tôn giáo).

    Ông ấy viết:
    CHÚA GIÊSU PHÁN RẰNG:

    1/-“Chẳng phải bởi quyền-thế, chẳng bởi năng-lực, bèn là bởi Thần-Ta. Đức Chúa-Trời toàn-năng phán vậy.”
    .................... ....
    4/-Các con đừng để ai trên thế-gian gọi ḿnh bằng Thầy, bằng Cha, bằng Chủ, bằng Chúa. V́ các con chỉ có một Thầy, một Cha, một Chủ, Một Chúa là Đấng Christ, là Đức-Chúa-Trời. Hăy xem nhau như anh-em.
    Xin nói cho Bà Bác sĩ Thanh rơ rằng, Chúa Giêsu không bao giờ nói câu "1/" nêu trên mà câu đó là của tiên tri Zacaria (chương 4 đoạn 6). Ông Tôn tiến-Dũng cố t́nh gán câu này vào miệng của Đức Giêsu là để đổ tội cho Ngài về mọi điều hung ác mà vị "Thần-Ta" đă giáng xuống cho trần thế, ... và một cách gián tiếp, ông gán cho Kitô Giáo là kẻ thừa hành lệnh của "Thần-Ta" thực hiện mọi điều hung ác đó.
    Riêng câu "4/" th́ ông Tôn Tiến-Dũng đă bịa đặt chèn thêm đoạn : "chỉ có một Chúa là Đấng Christ, là Đức-Chúa-Trời" vào kinh sách nguyên bản. Nên nhớ Đấng Christ hay Đức Giêsu không bao giờ tự xưng ḿnh là Đức Chúa Tṛi cả !!! không bao giờ !!!
    Câu trung thực trong sách ghi rằng: "Phần anh em, th́ đừng để ai gọi ḿnh là "ráp-bi", v́ anh em chỉ có một Thầy; c̣n tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, v́ anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi ḿnh là người lănh đạo, v́ anh em chỉ có một vị lănh đạo, là Đức Ki-tô. (Mt 23:8-10).
    Rơ ràng Kinh Thánh không hề có câu "chỉ có một Chúa là Đấng Christ, là Đức-Chúa-Trời." Tại sao ông Tôn Tiến-Dũng lại cố t́nh gian dối gán thêm cho Chúa Giêsu danh hiệu là Đức Chúa Trời ? Cũng như ư đồ của trong câu "1/", ông muốn Chúa Giêsu và đạo Kitô lănh hết trách nhiệm về mọi điều gian ác hung bạo đă xảy ra trên trần thế cho đúng với h́nh ảnh hung bạo của ông thần Giavê trong Cựu Ước mà người xưa đă phong cho ngài tước vị là Thiên Chúa (tức Đức Chúa Trời). Ông này đang theo mưu đồ của bọn chống đạo dùng h́nh ảnh hung bạo của thần Giavê trong Cựu Ước để mong đánh sập Kitô Giáo v́ tưởng rằng tôn giáo này đang tôn vinh ông thần Giavê đó.
    Xin khẳng định rằng ông thần Giavê trong Cựu Ước không phải là Đức Chúa Trời hay Thiên Chúa của Kitô Giáo, mà ông thần này chỉ là một đấng thiên sứ, một "con trai" của Đấng Toàn Năng, đến trái đất để thi hành nhiệm vụ trao phó mà thôi. Đức Giavê hay các vị thiên sứ khác mà các ông Môi sen, Abraham, Jacob, hay các tiên tri xưa đă từng thấy và từng nghe chỉ là những "con trai của Thiên Chúa" (the sons of God - ref. Genesis 6:1-4 / Job 1:6 ; 2:1; 38:7 / Daniel 3:25 ) mà thôi. Trong sách Job 1:6 mô tả rằng Thiên Chúa ở thiên đ́nh sai các "con trai của Ngài" đi khắp vũ trụ để quản lư các nơi, Satan cũng là một đứa con trai của Ngài và giành quyền quản lư Trái Đất. Ngài ban sự sống và ân sủng cho loài người trên trái đất, nhưng Satan lại có quyền sửa đổi và giáng họa cho họ. Ngài ở trên trời, không hề xuống trần thế để tiếp xúc tṛ chuyện với loài người ! Cũng v́ thế trong kinh "Lạy Cha", Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện rằng: :"Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ư Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" có nghĩa rằng Chúa Cha không ở trên trái đất, nước của Cha chưa phải là trái đất và ư của Cha cũng chưa thể hiện được trên trái đất cho nên nhân loại cần phải cầu nguyện để Ngài đến, v́ trái đất này đă bị Satan giành quyền cai quản hết rồi ! Cũng v́ Satan cai quản cho nên nó mới dám dụ dổ Chúa Giêsu thờ lạy nó rồi c̣n xúi loài người giết Ngài nữa !
    V́ sao dám khẳng định như trên ? Ấy là v́ chính miệng Đức Giêsu đấng lập ra đạo Kitô Giáo đă nói trong Phúc Âm Gioan ở chương 5, câu 37 rằng : "Chúa Cha, Đấng đă sai tôi, chính Người cũng đă làm chứng cho tôi. Các ông đă không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người" (Jn 5:37) .. Và Thánh Gioan cũng đă 3 lần viết rằng : "Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả" (Jn 1:18/ Jn 6:46/ 1Jn 4:12). Điều này xác minh rằng những ǵ các tiên tri xưa trong Cựu Ước tuyên bố là ḿnh được nghe Thiên Chúa nói hoặc đă nh́n thấy được Thiên Chúa .... đều là lầm lẫn mà thôi, họ chỉ nh́n và nghe được các đấng thiên sứ mà tưởng đó là Thiên Chúa cho nên đă gán hết mọi điều cho Ngài. V́ thế mọi lời dạy dổ hung bạo, giết người và diệt chủng ghi trong Cựu Ước đều không phải là giáo lư về đấng Thiên Chúa của Kitô Giáo. Và hiện nay những ai c̣n tuyên xưng Cựu Ước là "lời Chúa" đều là bọn lạc đạo.
    Trong chủ thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi (Trinity), Chúa Giêsu là Thiên Chúa khi Ngài hội nhập với Đức Chúa Trời ở trên trời, nhưng khi đă tách rời với Đức Chúa Trời để mang thân phận xác thịt thấp hèn của loài người th́ Ngài mất đi bản tính Thiên Chúa của ḿnh và trở thành nhỏ bé như một giọt nước tách rời khỏi Đại Dương. Chính Đức Giêsu cũng xác nhận rằng "Cha lớn hơn Ta" (Jn 14:28) (Không ai có thể gọi giọt mưa là Đại Dương cả, cũng không ai gọi Đức Giêsu là Đức Chúa Tṛi cả). Điều này trùng hợp với lời giải thích của Đức Phật Thích Ca khi Ngài nói rằng: mọi giọt nước khi tách rời khỏi biển cả th́ mang thân phận nhỏ bé, nhưng khi đă ḥa nhập với biển cả th́ nó chính là biển cả.
    Theo cách diển tả của Đức Phật Thích Ca th́ có thể hiểu rằng: sau khi Đức Giêsu sống lại và trở nên thần linh vinh hiển th́ Ngài ḥa nhập lại với Đức Chúa Trời cho nên kể từ đó Ngài được tôn vinh như Thiên Chúa và cùng bản thể với Đức Chúa Trời.
    Ư niệm về Chúa Ba Ngôi có thể hiểu một cách dễ dàng hơn với lời giải thích của Phật Thích Ca chứ không phải theo cách biện luận mơ hồ của các nhà thần học Thiên Chúa Giáo về Tam Vị (Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần) của Thiên Chúa khiến chẳng ai hiểu được.

    Kitô Giáo đặt căn bản niềm tin trên lời giáo huấn của Đức Giêsu khi Ngài là Con Người sống tại thế gian này và đi rao giảng, chứ không căn cứ vào bất cứ điều ǵ khác, nhất là không bám víu vào Cựu Ước và xem đó là "lời Chúa" để hành đạo, v́ nếu Cựu Ước là "lời Chúa" th́ nhiệm vụ rao giảng của Chúa Giêsu sẽ trở nên thừa thải! Đă là "lời Chúa" th́ Cựu Ước không thể sai lầm và thiếu sót, không cần phải kiện toàn, ấy thế mà Chúa Giêsu lại nói rằng : "Ta đến để kiện toàn lề luật", điều này chứng minh rằng những lề luật đó là do Môisen và các Tiên tri viết ra đầy thiếu sót chứ không phải là lời Chúa.
    Người Kitô Giáo không được mạo xưng quyền năng của thần Giavê, cũng như quyền năng của Thiên Chúa để hành động theo ư riêng của ḿnh, mà phải khiêm nhường tự xem ḿnh là con người phàm tục thuần túy, phải tuân giữ mọi giáo huấn của Đức Giêsu, một đấng khiêm nhường luôn tự xưng ḿnh là "the Son of Man" (con của loài người).
    Tác giả Tôn Tiến-Dũng đă có mưu đồ gán cho Kitô Giáo quyền sinh sát của thần Giavê (mà người xưa tưởng lầm là Thiên Chúa) để từ đó kết tội Kitô Giáo là đă hủy hoại sự an b́nh của nhân loại. Kitô Giáo nguyên thủy, trong sự mạc khải của Đức Giêsu, không thờ thần Giavê mà chỉ thờ đấng Thiên Chúa công bằng và nhân hậu mà Đức Giêsu thường gọi bằng Cha (Abba) mà thôi. Chỉ có những tôn giáo ôm sách Cựu Ước làm giáo huấn và tôn thần Giavê lên để thờ phượng và làm điều hung ác th́ những đạo đó mới là tội nhân đối với nhân loại. C̣n những tôn giáo nào đă từng xưng ḿnh là Kitô Giáo (Christianity) mà c̣n ôm sách Cựu Ước để xưng tụng đó là "Lời Chúa" th́ những tôn giáo đó đều là Lạc Giáo.
    Ai không đồng ư với quan niệm của tôi th́ tôi xin sẳn sàng tranh luận với họ để làm sáng tỏ tính tinh tuyền của Kitô Giáo nguyên thủy.
    Riêng với Ông Tôn Tiến-Dũng th́ tôi xin có một lời khuyên: Khi viết về kinh sách của Thiên Chúa giáo, xin ông hăy nêu rơ đoạn trích mà ông ghi lại được lấy từ sách nào chứ không thể nói khống lên để tùy tiện thêm bớt theo ư của ḿnh. Khi nêu rơ xuất xứ của một câu th́ ông đă một phần chứng minh cho tŕnh độ trí thức của ḿnh.
    Ngoài ra khi viết về một nhân vật như Giáo Hoàng Benedict XVI th́ ông nên viết có mạch lạc và dùng chữ đúng đắn để cho độc giả nh́n được luồng tư tưởng của ông có đủ liên kết lư lẽ trong đó hay không, chứ nếu cứ phang ngang mà chẳng kèm theo chứng minh th́ người ta cho ông là hồ đồ, chỉ họa hoằn lắm mới có được một người như Bác sĩ Nguyễn thị Thanh mơ màng khen ông là "quá tuyệt vời" và có "thiên ứng" thôi !

    Ông ấy c̣n viết : "Vatican và Hoa-Kỳ là hai trung-tâm quyền-lực hổ-tương cho nhau để h́nh-thành một thế-giới ổn-định và ḥa-b́nh."
    Ông cố t́nh gán ghép Vatican với Hoa Kỳ để buộc Vatican phải liên đới trách nhiệm cho những hành động của Hoa Kỳ dù tốt hay xấu cho mọi thời đại. Điều này chỉ có một phần đúng ở vào triều đại của Giáo Hoàng Paul VI, nhưng đối với lịch sử lâu dài của Giáo Hội La Mă th́ điều này hoàn toàn sai, v́ Giáo Hội này h́nh thành đă 2 ngàn năm nay, c̣n Hoa Kỳ chỉ mới lập quốc cách đây khoảng 300 năm th́ làm sao liên kết và hổ tương cho nhau ? Sự mập mờ về mốc thời gian của Tôn Tiến Dũng là một mưu đồ đen tối. Tôn Tiến Dũng viết tiếp rằng : " """Từ đây đạo Chúa Giêsu đă truyền-đi khắp thế-giới." như thể rằng nhờ Hoa Kỳ mà đạo của Đức Giêsu mới được truyền bá. Rơ là khùng điên. Trước khi Hoa kỳ lập quốc th́ đạo Thiên Chúa đă truyền đi khắp thế giới rồi và đă thấm nhập vào tổ tiên của họ từ bên Anh quốc rồi. Đây là điều mà bà Bác Sĩ Nguyễn thị Thanh cho là "quá tuyệt vời" !
    Đó là sai lầm về quan điểm chính trị của Tôn Tiến-Dũng, c̣n về mặt thần học th́ Tôn Tiến-Dũng nói đúng được một mà sai đến hai, chẳng hạn ở phần trên ông nói rằng quyền năng của Thiên Chúa áp đảo mọi sự trên thế gian qua câu “Chẳng phải bởi quyền-thế, chẳng bởi năng-lực, bèn là bởi Thần-Ta." th́ phần dưới ông Dũng lại không bám vào quyền thế của "Thần-Ta" nữa mà quay lại bám vào quyền lực của Satan khi viết : "Con người gây nên tội-ác, không phải tự ḿnh làm mà do chính Satan ở bên trong con người điều-khiển.". Ông tự mâu thuẩn lấy ḿnh, hay là ông cố t́nh nói thế để cho rằng vị "Thần-Ta" chính là Satan ???
    Đổ lỗi cho Satan hoặc đổ lỗi cho Thiên Chúa là một điều hèn nhát, bởi v́ tội lỗi là do chính ḷng người sinh ra. Chỉ khi nào ḿnh không hề biết chân lư mà phạm tội th́ lúc đó Chúa sẽ tha thứ, c̣n nếu ḿnh đă ư thức được chân lư nhưng v́ ham mê điều xấu mà tự ư đạp lên chân lư, th́ đó là tội của ḿnh, sao lại đổ tội cho Satan ? Satan chỉ là thằng nói láo để dụ dỗ mà thôi chứ nó không điều khiển được tâm hồn của ḿnh ngoại trừ ḿnh thỏa thuận để cho nó sai khiến ḿnh hầu thủ lợi. Điển tích về Satan (con rắn) dụ dổ bà Eva là một ví dụ cho thấy Satan chẳng có quyền sai khiến Eva mà chỉ dụ dỗ bà ấy. Loài người v́ hèn nhát và dối trá cho nên đă thường đổ lỗi cho người khác. Và chính v́ sự đổ lỗi này mà bị Đức Giêsu mắng là "giả h́nh" và báo trước rằng kẻ giả h́nh sẽ vào thiên đàng chót bẹc, sau cả mấy cô gái điếm.
    Khi định nghĩa về tôn giáo, ông Tôn Tiến Dũng đă viết không có lư lẽ nào nghe được, chẳng hạn ông viết : Đạo Chúa Giêsu là chân-lư Tuyết-Đối, không phải là Tôn-Giáo. Tôn-giáo là công-cụ của Satan, lường gạt gây bất ổn trong xă-hội loài người, cản đường không cho con người đến với Chúa Giêsu để trở về Thiên-Chúa. Tôn-giáo là giỏ-cỏ đặt trước đầu con ngựa kéo xe. Dù cách chẳng bao xa, nhưng con ngựa chạy suốt cuộc đời, không bao giờ đến giỏ cỏ. (Đoạn văn này cho thấy ôngTôn Tiến-Dũng là một kẻ vô thần, chắc chắn là một tên Việt Cọng)

    Lập luận trên cho thấy ông Tôn Tiến Dũng quá nông cạn, không phân biệt nổi "tôn giáo" với "tổ chức tôn giáo". Bị ám ảnh đến mức độ không phân biệt đâu là vật chất đâu là tư tưởng th́ ông đừng nên làm người thuyết giảng, ấy vậy mà ông lại bạo dạn viết ra câu "Đạo Chúa Giêsu không phải là tôn giáo". Xin khẳng định rằng Đạo Chúa Giêsu chính là một tôn giáo. Nhưng khi muốn rao truyền tôn giáo này (Kitô giáo) th́ người ta lập ra Giáo Hội (Công Giáo), mà chính cái "hội" này mới là một tổ chức thường không hoàn toàn thi hành đúng với chân lư của tôn giáo (Kitô Giáo) hay không đủ tính thánh thiện để thay mặt cho đấng lập đạo (Đức Giêsu Kitô) mà "hội" này thường là đại diện cho một số người có mưu đồ trần tục. Ông Tôn Tiến Dũng đă không phân biệt được tôn giáo và Giáo Hội mà c̣n đóng vai phê b́nh chỉ trích th́ thật là thiếu tŕnh độ và nông cạn. Ấy vậy mà có bà bác sĩ Nguyễn Thị Thanh lại đi khen nức nở cái lập luận ba láp ba xu này, thật khó tưởng tượng nổi mức độ trí thức của bà này.
    C̣n có quá nhiều điều đáng nói về bài viết của ông Tôn Tiến-Dũng, nhưng v́ khuôn khổ bài viết có hạn nên tôi tạm ngưng nơi đây để kết luận rằng bài viết "KHI GIÁO HOÀNG BỎ CHẠY" chẳng có giá trị ǵ cả, thế mà trí thức Công Giáo như bà Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh lại khen là "quá tuyệt vời" và được "thiên ứng" th́ hẳn mọi người đă nh́n được bà này xứng đáng mang danh hiệu "Bás Sĩ" hay bút hiệu "Trưng Triệu" đến mức độ nào !!
    Hăy bỏ ra vài phút để chúng ta cùng nhau "tiếu ngạo" cho trí thức của thời đại bây giờ.
    Trường Sơn
    Chẳng hạn cái nhan đề của bài viết KHI ĐỨC GIÁO HOÀNG BỎ CHẠY th́ chữ một sự BỎ CHẠY là bôi lọ rồi. Cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều sai với sự thật. "Bỏ chạy" trước khó khăn là để tránh nguy hiểm thiệt hại vào bản thân của ḿnh. Giáo Hoàng Benedict XVI không từ chức để tránh nguy hiểm cho ḿnh, mà là để nhường chỗ cho một người có tài năng hơn ḿnh hầu đảm đang một trọng trách mà Ngài xét thấy ḿnh không đủ khả năng, nếu Ngài vẫn tiếp tục giữ chức vụ th́ Ngài chỉ sợ làm hỏng việc lớn của Giáo Hội mà thôi chứ không sợ mất uy tín hay tính mạng của Ngài (làm việc v́ Chúa th́ chẳng ai sợ mất danh dự hay mất mạng cả) . Đó là sự từ bỏ chức vụ v́ nghĩa vụ chứ không phải là hèn nhát "bỏ chạy". Tôn Tiến-Dũng c̣n bồi thêm câu: "Đức Giáo-Hoàng Benedicto 16 bỏ chạy... càng nhanh càng tốt." Câu này xấc láo đến như vậy mà bà Bác Sĩ Công Giáo Nguyễn thị Thanh cho đó là "quá tuyệt vời" th́ chẳng hiểu năo bộ của bà ta làm bằng chất ǵ ?

    http://bacaytruc.com/index.php?optio...c-gi&Itemid=53

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 11
    Last Post: 14-07-2012, 11:05 PM
  2. Replies: 57
    Last Post: 08-12-2011, 09:43 PM
  3. Replies: 3
    Last Post: 16-08-2011, 10:37 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 31-10-2010, 03:53 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •