ĐỆ NHẤT CỘNG H̉A CỦA MIỀN NAM, VIỆT NAM
(1955-1963)
Huỳnh Văn Lang
"...Trong các sách tôi viết về cái chết của hai nguời Anh Em này, luôn luôn tôi có câu kết sau đây: Thương cho Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và tiếc cho ông Ngô Đ́nh Nhu!
Hôm nay tôi xin lập lại! Thuơng ở đây là thuơng khóc, khóc cho một con nguời đầy đức độ, ái quốc mănh liệt, cả đời tranh đấu, kiên tri tranh thủ cho Độc lập Quốc gia, cho Tự do Dân tộc, cho Hạnh phúc Đồng bào, đúng là một vị Anh hùng dân tộc, một vĩ nhân của đất nước!
Tiếc là thuơng tiếc, thuơng tiếc cho một đầu óc uyên thâm, cho một hoài băo rộng lớn, cho một viễn kiến cao sâu…mà trong ḍng lịch sử, dân tộc VN đă sản sinh ra, nhưng được mấy người, thử hỏi?..."
HVL
Nội dung của bài nói chuyện hôm nay là những sự kiện hay những biến cố quan trọng nhất đă đưa đến sự h́nh thành ra Đệ Nhất Cộng Ḥa của miền Nam VN (1956-1963), mà cái ID của nó là Hiến Pháp năm 1956, cũng là phần kết của bài này.
Hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tuớng Ngô Đ́nh Diệm (NĐD) về giúp nước, từ Chicago, Illinois, tôi về đến Sài G̣n ngày 24 tháng 8, 1954 và liền sau đó v́ thời cuộc đưa đẩy, thủ tướng NĐD đă đặt để tôi vào những địa vị, nếu gọi được là địa vị hay đúng hơn là cương vị, để tôi thành ra chứng nhân cho những sự kiện tôi muốn ghi lại ra đây. Những sự kiện tôi tŕnh bày sau đây có ba giá trị khác nhau: là chứng nhân, không chứng nhân nhưng biết thật chắc chắn và một ít chuyện không biết chắc, quí vị sẽ phân biệt được 3 giá trị khác nhau đó.
1. Cương vị thứ nhất - Phụ tá Bí thư của thủ tướng NĐD
Đầu tiên tôi tạm thời thay thế anh Vơ Văn Hải là bí thư của Thủ tướng, để anh tạm thời giữ chức Chánh văn pḥng, th́nh ĺnh bỏ trống. Ba ngày đầu tôi ăn ngủ trong dinh Gia long, sau được đưa ra ngủ nghỉ ở khách sạn Kinh hoa, Chợ lớn, nhưng luôn luôn về dinh Thủ tướng ăn cơm trưa và tối cho đến khi Thủ tướng cho lệnh bộ Tài chánh cấp cho villa số 140, đường Hai bà Trưng, SG. Cho nên tôi may mắn làm việc bên Thủ tướng cho đến ngày 10 hay 11 tháng 10, 1954. Chính trong thời gian ngắn ngủi 45 ngày này đă xảy ra biến cố Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu quân đội Quốc gia VN muốn đảo chánh.
Để dễ hiểu rơ biến cố này thiết nghĩ cũng nên nhắc lại, trước đó, ngày 16, tháng 6, ông Ngô Đ́nh Diệm được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng, lập nội các VN thay thế chính phủ hoàng thân Bửu Lộc. Thiết nghĩ khi bổ nhiệm NĐD, Quốc trưởng Bảo Đại (BĐ) có hội kiến với bộ Ngoại giao Mỹ và cũng có thể với chính phủ Pháp nữa, v́ Pháp dù có thua trận ở Điện biên phủ trong tháng 5 rồi, nhưng vẫn c̣n nắm quyền Ngoại giao và Quốc pḥng ở VN với một đạo quân viễn chinh dù đă thua trận nhưng vẫn c̣n hùng hổ, đang khi anh em NĐD lại có tiếng là chống Pháp.
Cũng chắc chắn là chính phủ Hoa kỳ không có liên quan trực tiếp ǵ đến chuyện bổ nhiệm này, v́ dù ông Diệm có bôn ba ở Hoa kỳ gần 3 năm đi nữa, ông có quen thân với nhiều nhận vật có tiếng nói trong chính trường Hoa kỳ, nhưng thật ra Hoa kỳ chưa nghĩ đến chuyện thay thế Pháp ở Đông dương, cho đến khi chạm mặt với Nga/Tàu ở hội nghị Genève trong tháng 7, 1954.
Sau khi được bổ nhiệm, bất chấp lời can gián của ông Ngô Đ́nh Luyện ở Pháp và ông Ngô Đ́nh Nhu ở VN, Thủ tướng NĐD về Sài G̣n ngày 26, cùng tháng 6, 1954. Tổng liên đoàn Lao công VN cổ động đón tiếp, nhưng số người đến phi trường Tân Sơn Nhất (TSN) chưa đến 500. Bốn ngày sau Thủ tướng bay ra Hà nội để xem xét t́nh h́nh và tiếp xúc chính khách ngoài Bắc, để rồi trở về Sài G̣n thành lập Nội các, ra mắt ngày 7 tháng 7, 1954: Thủ tướng kiêm bộ Quốc pḥng và Nội vụ. Chính phủ chưa kịp làm ǵ th́ ngày 20 cùng tháng, Hiệp định Genève kư kết giữa Pháp và Việt minh (VM) thoạt đến, toàn dân dở khóc dở cười, có ḥa b́nh hay đúng hơn ch́ là đ́nh chiến giữa hai phe, nhưng đất nuớc lại bị chia đôi. (1)
(1) Ngày 21-07/1954, đang khi Tổng thống Eisenhower họp báo để giải thích hiệp định Genève cho quốc dân Mỹ, th́ ngoài đường có một nhóm sinh viên VN biểu t́nh lên án các cường quốc chia đôi đất nước của họ. Hôm sau ở trước trụ sở Liên hiệp quốc (UN), New-york, cũng có một nhóm sinh viên VN biểu t́nh, đông hơn. Cả hai cuộc biểu t́nh đều do ĐVL, ĐTC & HVL tổ chức, h́nh HVL có lên báo, lên T. 55 năm sau nh́n lại....
Bao nhiêu vấn đề chính trị xă hội cả văn hóa… đổ dồn về miền Nam với 36,000 quân viễn chinh Pháp và trào lưu Bắc kỳ di cư chạy giặc CS bắt đầu, người Pháp dự đoán là khoảng 60,000 người, Thủ tướng NĐD hy vọng 100, 000... không dè trào lưu chạy giặc CS bộc phát như thác lũ, quá sự tuởng tượng của mọi người, nghĩa là trong ṿng 300 ngày do Hiệp định Genève qui định số người Bắc kỳ di cư lên trên 860,000. Thủ tướng vui bao nhiêu th́ càng lo nhiều hơn nữa....
Khi về đến VN, tôi cảm thấy rơ ràng t́nh trạng quá yếu kém của chính phủ NĐD cũng như uy tín của tân Thủ tướng quá thấp. Không thấy chính phủ Bửu Lộc bàn giao lại cái ǵ, ngoài cái dinh Gia long và sở Nội dịch với năm bảy chiếc xe cũ kỹ, không có một tiểu đội canh gác. Thủ tướng kiêm bộ Quốc pḥng, mà không có quân đội, bộ Nội vụ không có Công an Cảnh sát, trong lúc đô thành Sài G̣n - Chợ lớn là B́nh xuyên, miền Tây Nam kỳ lục tỉnh là Ḥa Hảo, miền Đông là Cao Đài, quần chúng người Nam nghe nói đến NĐD, nhưng không biết NĐD là ai. Ngoài ra sau lưng tướng Ely, Cao ủy Pháp là cả một tập đoàn thực dân đang hôi quyền thế, hôi cả tài sản như buổi chợ chiều. Trong lúc người Mỹ mới nhảy vào chính trường VN chưa có một chủ trương rơ ràng.... Tắt một lời, xă hội miền Nam đang ở trong một t́nh trạng vô cùng hỗn mang gần như tuyệt vọng, vô phương cứu văn. Dư luận Quốc tế cho chính phủ NĐD không thọ quá 6 tháng.
Ưu tư số 1 của Thủ tuớng NĐD là phải nắm lấy quyền hành, là thủ tướng kiêm Quốc pḥng, cho nên đầu tiên ông phải nắm quân đội. Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh (vợ đầm tức nhiên là dân Pháp), cần phải thay thế. Và chính tướng Hinh lại khai chiến trước, ngày 09/09/1954 chỉ trích Thủ tướng trên đài phát thanh Pháp Á do anh Phan Cao Phái (anh của chị Minh Châu bạn của người viết) quản lư và đ̣i cải tổ chính phủ. Thủ tướng Diệm phản pháo ngay, ngày 11/09/1954 chỉ thị tướng Hinh phải đi Pháp trong ṿng 24 tiếng, gọi là để khảo sát tổ chức quân đội Pháp trong ṿng 6 tuần. Tướng Hinh từ chối và vận dụng quân đội trong tay ḿnh để làm loạn, muốn đảo chánh, cho 1 tiểu đội thiết giáp chạy chung quanh dinh Độc lập (mới được Cao ủy Ely giao trả tuần trước) vừa hăm dọa, vừa chửi bới, cùng một lúc cho đài phát thanh quân đội ra rả tố cáo chính phủ nào là độc tài, nào là tham nhũng v.v.. (Những đêm đó tôi ngủ trong dinh Thủ tướng, sẵn sàng để Thủ tướng sử dụng như một thông dịch viên và đi đêm với CIA Mỹ, khi đại tá Landsdale từ Manila qua VN, đóng đô ở hộp đêm Ma Cabane, trước cửa vườn Tao Đàn, cách dinh Thủ tướng một con đường. Đại tá Lansdale có nhiệm vụ giúp chính phủ NĐD ổn định tính h́nh). Nội các NĐD sắp sụp đổ đến nơi, v́ ngày 20/09/1954, 9 trên 18 bộ trưởng yếu bóng vía đệ đơn từ chức. Nên lưu ư là cuộc khủng hoảng này xảy ra đúng lúc cuộc Bắc kỳ di cư bộc phát như lũ lụt sông Hồng, CS Hà nội chận đường, đe dọa, bắt cóc, thủ tiêu… vẫn không be nổi.
Nhưng với sự hợp tác chặt chẽ giữa CIA và ṭa Đại sứ Mỹ, Thủ tuớng NĐD giải quyết được cuộc khủng hoảng do tướng Nguyễn Văn Hinh gây ra, nhưng không phải là không đổ mồ hôi hột: đại sứ Heath cho tướng Hinh biết là nếu có đảo chánh trong t́nh thế này th́ Mỹ sẽ cúp viện trợ quân sự ngay, đang khi đại tá Lansdale t́m cách tách tuớng Hinh ra khỏi tham mưu của ông ta là 2 nhân viên pḥng nh́ của Pháp, Lansdale biếu hai sĩ quan này hai vé máy bay đi Manila du hí năm ngày.
Qua tháng sau, 1954 thủ tướng NĐD cất chức tướng Hinh và bổ nhiệm tướng Lê Văn Tỵ lên thay. (Cũng là lúc thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh có công tác khác, nên những chuyện sau đây tôi không phải là chứng nhân, nhưng biết được rơ ràng.)
Đại sứ Heath và tướng O’Daniel, trưởng đoàn cố vấn quân sự Mỹ, lại yêu cầu thủ tướng Diệm nên giữ tướng Hinh lại trong quân đội. Ông Diệm từ chối. Trước sự cứng rắn của Thủ tướng, đại sứ Heath thay đổi thái độ, từ bạn ra thù ngay và gửi điện tín về Washington, tố cáo thủ tướng là bất tài, không có khả năng dung hợp… cần phải thay đổi.
Nhưng lúc bấy giờ tổng thống Eisenhower và Hội đồng an ninh Quốc gia, cả đa số Lưỡng viện Quốc hội lại nhận thấy Thủ tướng Diệm có thể lănh đạo mặt trân chống Cộng ở Đông nam Á châu, nên hoàn toàn bác bỏ đề nghị của đại sứ Heath và Tông thống Eisenhower gửi đặc sứ qua thay thế là tướng Collins, bạn thân tín của ông. Đặc sứ Collins đến Sài G̣n mang theo bức thơ của Tổng thống Mỹ xác nhận ủng hộ một ḿnh Thủ tướng NĐD và muốn thảo luận với Thủ tướng một chương tŕnh viện trợ kinh tế quân sự qui mô hơn.
Nhưng lại không dè tướng Collins và tướng Ely là huynh đệ chi binh từ Đệ nhị Thế chiến. Tai hại là đặc sứ Mỹ bị Cao ủy Pháp chi phối hoàn toàn, ngày một ngày hai tuớng Collins thay đổi thái độ đối với Thủ tướng NĐD, có nghĩa là ủng hộ mưu đồ “Diệm must go" mà thực dân Pháp đă dàn dựng từ 4, 5 tháng nay.
Ngày 08/12/1954, hai tướng Collins và Ely vào dinh Độc lập chính thức đề nghị với Thủ tướng NĐD nên bổ nhiệm Phan Huy Quát làm bộ trưởng Quốc pḥng và Bảy Viễn làm bộ trưởng Nội vụ. Tất nhiên Thủ tướng NĐD từ chối và phải từ chối, v́ nếu ông chấp nhận th́ chẳng hóa ra ông chịu thua và mất gần hết quyền hành - Quốc pḥng và Nội vụ là hai bộ quan trọng nhất của chính phủ nên ông đă kiêm nhiệm - để cho người Mỹ, qua ông Quát, Đại việt và người Pháp, qua Bảy Viễn, tướng cướp tha hồ giựt dây.
Thế là lại khủng hoảng! Collins c̣n cực đoan hơn nữa. Là đề nghị với Washington: Nên đưa Bảo Đại về, đem Phan Huy Quát lên làm thủ tướng thay thế NĐD và ban hành t́nh trạng khẩn trương, tập hợp các lực lượng quốc gia để thống nhất hành động. Nếu không thực hiện giải pháp này được, th́ tốt hơn Mỹ nên rút ra khỏi VN.
Không dè tướng Collins lại dứt khoát đến thế. Trong quan hệ giữa Collins và Ely, làm như có bóng một người đàn bà, tôi không rơ lắm nên không nói ra đây. Tuy nhiên trong khủng hoảng này tôi biết rơ một việc, ai là người đă giúp chính phủ Mỹ khỏi sai lầm trầm trọng, đó là Thương nghị sĩ Mansfield. Nhận được phúc tŕnh và đề nghị dứt khoát, nếu không nói là cực đoan hay ngu xuẩn của đặc sứ Collins, TT Eisenhower, Hội đồng An ninh Quốc gia, và Foster Dulles, bộ ngoại giao, hội nhau lại, hết sức hoang mang, như bị một búa bổ vào đầu, tá hỏa tam tinh, nên phải kêu gọi đến ư kiến của bên Dân chủ đối lập, mà người có thớ nhất là Thương nghị sĩ Mansfield: TNS Mansfield đến ṭa Bạch ốc góp ư: Ông Diệm là một tích sản ḿnh vừa thu nhận, dù có nhỏ bé cách mấy đi nữa th́ cũng là một tích sản, tại sao ḿnh phải phiêu lưu đi đổi với những giá trị khác, mà ḿnh mù tịt không hiểu biết hay chưa hiểu biết mảy may ǵ hết.
Thế là Thủ tướng NĐD lại thắng, tất cả chính phủ Mỹ đều chấp nhận ư kiến của TNS Mansfield v́ là khôn ngoan nhất và ngày 14/12/1954 chính phủ Hoa kỳ chỉ thị cho tướng Collins: Trong t́nh thế hiện nay, không có một chọn lựa nào khác hơn là tiếp tục viện trợ cho VN và ủng hộ Thủ tướng Diệm.
Nhưng chưa hết, tướng Collins với thực dân Pháp c̣n quậy nữa, mà năng nổ quyết liệt nhất là bảy Viễn, B́nh Xuyên.
2. Cương vị thứ hai - Công cán ủy viên bộ Tài chánh
(a) Tiền.
Cuộc khủng hoảng Nguyễn Văn Hinh giải quyết chưa xong hay gần xong (10/10/1954) th́ thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh để giúp bộ trưởng Trần Hữu Phuơng, cũng là bạn thân của tôi từ khi c̣n ở Paris, làm Công cán ủy viên, để hằng ngày theo dơi diễn tiến Hiệp định Paris, mới hợp lại để thay thế Hiệp ước Pau, cũng có nghĩa là phủ định tất cả những kư kết của Hiệp ước này. Nhờ đường lối dứt khoát của thủ tướng Mendès-France như ở hội nghị Genève (20/07/1954), trong một thời gian kỷ lục hội nghị Paris kết thúc, kư kết giữa 4 nước đêm 30 tháng 12, 1954: Pháp nh́n nhận toàn vẹn chủ quyền tài chánh và tiền tệ (hối đoái) của 3 nước Việt-Miên-Lào và cho thi hành việc bàn giao ngay trong ṿng 3 ngày, tức là ngày 02/01/1955.
Từ nay viện trợ quân sự, kinh tế, nhân đạo của Mỹ và các nước sẽ đi thẳng vào tay VN, không phải qua tay Pháp nữa. Nhờ theo dơi diễn tiến của hội nghị Paris rất sát, ngày 23 hay 24 tháng 12/1954, bộ Tài chánh nhận được điện tín của phái đoàn VN do ông Duơng Tấn Tài cầm đầu, đại khái “hoàn toàn thắng lợi và sẽ kết thúc trong ṿng 7 ngày", và ông bộ trưởng Tài chánh dành cho tôi cái danh dự được mang điện tín này vào tŕnh Thủ tướng, cùng giải thích cho Thủ tướng biết rơ những kết quả tốt đẹp của Hiệp định Tài chánh & Tiền tệ ở Paris) - nên trước đó năm bảy ngày bộ Tài chánh, do đề nghị của tôi đă giữ lại đuợc một ngân phiếu 15 triệu Mỹ kim của bộ Ngoại giao Mỹ viện trợ chuơng tŕnh di cư Bắc kỳ, chờ qua mươi ngày sau bỏ vào trương mục VN ở một ngân hàng Mỹ bộ Tài chánh tự do chọn lấy, hơn là phải bỏ vào trương mục VN ở Pháp quốc Ngân hàng (Banque de France) như trước kia. Độc lập tài chánh và nhất là tiền tệ (hối đoái) là từ đây. Từ đây chính phủ VN được toàn quyền tổ chức cũng như quản lư tài chánh và tiền tệ của ḿnh.
Trước đây Pháp đă viện trợ cho các giáo phái xây dựng lực lượng quân sự tất cả trên dưới 20 ngàn quân, không phải chỉ có khí giới thôi mà c̣n có một số tiền mặt khá quan trọng khác nữa. Từ đầu năm 1955, Pháp sẽ ngưng viện trợ và các giáo phái cần viện trợ phải đến với chính phủ NĐD. Chính yếu tố tiền ở đây, dù không phải là yếu tố duy nhất, nhưng là yếu tố quan trọng nhất đă định đoạt lấy thái độ các giáo phái đối với chính phủ NĐD và giúp chính phủ NĐD thống nhất quân đội quốc gia VN, chấm dứt t́nh trạng sứ quân do thực dân Pháp cấu tạo từ 9 năm qua.(2)
(2) Ngày 14/01, đại tá Nguyễn Văn Huệ, tham mưu truởng của tuớng Trần Văn Soái, Ḥa Hảo đem 3,500 về với quân đội quốc gia. Ngày 13/02/1955 tuớng Tŕnh Minh Thế, Lực lượng Kháng chiến Liên Minh Quốc gia Cao Đài dẫn 5,000 quân về với thủ tướng NĐD. Ngày 10/03/1955 Thiếu tá Nguyễn Văn Đầy, Lực lượng Ḥa Hảo Quốc gia đem 5,000 quân và ngày 31 cùng tháng tướng Nguyễn Thành Phuơng, Tổng tư lệnh Quân đội Cao Đài đem toàn quân lực của ḿnh về theo thủ tướng NĐD. Tướng Nguyễn Giác Ngộ, Lưc lượng Dân xă Ḥa Hảo, từ 23 tháng 2 đă hứa đem 8,000 quân về, nhưng phải đợi qua tháng 5, khi thủ tướng NĐD dẹp xong lực lượng BX mới chịu thi hành lời hứa.
(b) Tiền
Trên đây là hậu quả tích cực xây dựng uy tín và củng cố quyền hành của Thủ tướng. Thủ tưởng NĐD khởi sự được các giáo phái ủng hộ, mà sau lưng các Giáo phái là cả một khối dân chúng miền Nam. Để rồi qua ngày 01/01/1955, Thủ tướng kư nghị định chấm dứt đặc quyền Đại thế giới (cờ bạc) và B́nh khang (đĩ điếm) của B́nh xuyên, tức là trực tiếp phá vỡ ngay nguồn tài chánh khổng lồ, nếu không nói là duy nhất của lực lượng B́nh xuyên. Gián tiếp nguồn tài chánh của Quốc trưởng BĐ ngày một ngày hai phải cạn kiệt: trước đây mỗi ngày BX phải đóng hụi chết cho Quốc trưởng BĐ đúng 1 triệu đồng, theo hối xuất thời đó là trên 28,500 Mỹ kim. (Từ lâu Quốc trưởng BĐ đă có một đời sống vuơng giả kiêm Playboy tại lâu đài Thorenc ở Cannes; Nam phương Hoàng hậu có tàu (Yatch), BĐ có mấy xe Sport hiệu Ư.)
Có phải đây là một yếu tố trong nhiều yếu tố tiêu cực bắt buộc Quốc trưởng BĐ nghĩ đến chuyện cất chức NĐD, để cho Bảy Viễn lên thay, thử hỏi?
(Nói về tiền, tôi muốn nhắc đến một trường hợp ghê gớm hơn. Sau tuần lễ vàng (1945), HCM dùng một số vàng lớn, dưới mọi h́nh thức, để mua chuộc hai tướng Tàu là Lư Hán và Tiêu Văn - do Thống chế Tưởng giới Thạch sai qua VN để giải giới quân Nhật cùng một lúc hậu thuẩn các lực lượng quốc gia như VNQĐ đảng, Đại việt Cách mạng…- để hoàn toàn bỏ rơi các đảng phái quốc gia, cho Việt minh lấy thế thượng phong và sát hại các đảng phái quốc gia, cướp lấy chính nghĩa giải phóng dân tộc, độc quyền yêu nước, độc quyền kháng Pháp).
3. Cương vị thứ ba - Bí thư Liên kỳ bộ Cần lao Nhân vị CM đảng
Sau khi giải quyết khủng hoảng tướng Hinh xong và được tin tranh thủ thắng lợi giành được Chủ quyền tài chánh và tiền tệ, Thủ tướng NĐD mừng lễ Giáng sinh rất vui vẻ và lạc quan hơn. Tôi được Thủ tướng gọi đến tham dự lễ Giáng sinh, nửa đêm ngày 24 tháng 12, năm 1954, được tổ chức ngoài sân sau dinh Độc lập. Và nhất là vinh dự được Thủ tướng đích thân chỉ định tôi ngồi hàng ghế đầu, ngay sau lưng của ông. Sau đó c̣n cho riêng tôi một món quà Giáng sinh đáng giá nữa. Biết đâu ông đă nghĩ đến chuyện giao cho tôi quyền điều hành Viện hối đoái Quốc gia (VHĐ) từ giữa đêm hôm đó?
Trong 4 tháng đầu năm 1955, ngoài VHĐ, phần lớn tôi để th́ giờ và tâm trí vào công tŕnh văn hóa của anh em chúng tôi, là trường Bách khoa B́nh dân, khai giảng ngày 15 tháng 11,1954. Vừa điều hành một trường sở có trên 1,200 học sinh, vừa giảng dạy 2 lớp tối, từ 6 giờ 30 đến 9 giờ tối, tôi không trực tiếp liên hệ với những biến cố hay sự kiện lịch sử xảy ra cho VN lúc đó nữa. Tuy nhiên, dù không chứng kiến, tôi vẫn theo dơi luôn và đuợc biết rơ những chuyện sau đây:
- Ngày 12/01/1955 thuơng cảng Sài G̣n được giao trả cho chính phủ NĐD.
- Cùng ngày 12/01/1955, tướng Agostini Pháp bàn giao toàn quyền quản lư quân đội VN cho tướng Lê Văn Tỵ.
Đến đây th́ Thủ tướng NĐD xuất hiện rơ ràng như là một nhận vật có đủ khả năng tranh thủ độc lập toàn vẹn cho Quốc gia. Nhưng thực dân Pháp và tay sai chưa chịu bỏ cuộc. Bất hạnh là chính Quốc trưởng BĐ lại để cho chúng lợi dụng, nếu không nói là đồng lơa với chúng. Nên BĐ và Pháp thúc đẩy Mặt trận Thống nhất Toàn lực Quốc gia ra đời, là ngày 03/03/1955: ngoài Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh xuyên c̣n có BS Nguyễn Tôn Hoàn, Đại việt miền Nam, Phan Quang Đán, đảng Dân chủ, Hồ Hữu Tường... Hộ pháp Phạm Công Tắc được BĐ mời lănh đạo Mặt trận.
Phản ứng của Hoa Thịnh Đốn: Không thể Mỹ chi tiền mà để Pháp thao túng chánh truờng VN, nên ngày 08/03/1955 TT Eisenhower tái xác nhận ủng hộ NĐD và bản sao gửi BĐ, gián tiếp khuyến cáo đừng thọt gậy bánh xe, gây khó khăn cho NĐD nữa và khuyên Thủ tướng NĐD chống lại đ̣i hỏi của Mặt trận và bảo các các giáo phái nên rút khỏi Mặt trận. Nhưng bị áp lực của B́nh xuyên và BĐ các giáo phái không nghe theo liền.
Ngày 21/03/1955 Mặt trận gửi tối hậu thơ cho Thủ tướng NĐD: trong ṿng 5 ngày, phải cải tổ nội các theo mô h́nh nhân sự của Mặt trận. Thủ tướng NĐD mời vào hội với ông, nhưng ông dứt khoát từ chối.
Mà sáu ngày sau (27/03/1955) ông c̣n cho lệnh đại tá Đỗ Cao Trí đánh chiếm bộ chỉ huy Công an Cảnh sát do BX nắm giữ.
Thế là chiến tranh giữa thủ tuớng NĐD có quân lực Quốc gia ủng hộ và BX có Pháp hậu thuẫn đă khởi sự và hai bên có cả một tháng để chuẩn bị đánh lớn, cũng gọi là hưu chiến.
Cũng là lúc, ngoài cái nợ văn hóa (trường Bách khoa B́nh dân) và cái nợ chuyên môn (Viện Hối đoái Quốc gia) tôi mang thêm cái nợ chính trị nữa. Đầu tháng 04, 1955, ông Ngô Đ́nh Nhu, Tổng bí thư Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng (CLNVCM) đă giao hay là nhờ tôi đứng ra phát triển đảng CL (Cần lao) trong Nam và tôi đă nhận lănh, một cách tự nguyện, nhưng hết ḷng theo truyền thống của gia đ́nh “là làm cái ǵ phải làm đến nơi đến chốn, không làm th́ thôi" và tôi đă khởi sự ngay, là thành lập Liên kỳ bộ Nam Bắc việt, bí thư là Chí nguyện, đến lúc cuộc khủng hoảng B́nh xuyên đến hồi gay cấn nhất, nghĩa là có đánh nhau, có đổ máu... là cơ hội thử lửa (Baptême du Feu) cho Liên kỳ bộ Nam Bắc việt vừa mới thành lập với một tiểu tổ cơ bản và đầu năo, gổm 8 thành viên. Nhưng với bao nhiêu đó Liên kỳ đă tích cực ủng hộ chiến dịch đánh B́nh xuyên, bất chấp thiết quân luật Liên kỳ đă đi rải khắp các nẻo đường Sài G̣n/ Chợ lớn và Gia định cả ngàn tờ "hịch" tố cáo tội ác của B́nh xuyên trong 8 năm qua. (Toàn là sự thật, không một chút tuyên truyền láo).
Và như chúng ta biết, biến cố B́nh Xuyên lại kéo theo sau sự kiện Truất phế Quốc truởng Bảo Đại. Lại thêm một cơ hội nữa cho Liên kỳ tập sự nhúng tay vào chính trị, là giúp củng cố chính quyền NĐD và giúp công xây dựng nền móng cho ṭa nhà Đệ Nhất Cộng Ḥa của miền Nam VN, luôn luôn không quên những cán bộ CS để lại miền Nam. (V́ thế mà Liên kỳ vội bỏ đô thành Sài G̣n/Chợ lớn để trọng tâm vào các tỉnh miền Tây).
Trên đây là hai biến cố hết sức quan trọng mà với sự hạn hẹp của một con người, cá nhân tôi ở cương vị bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, dù muốn dù không cũng đă trở thành chứng nhân như nhiều nhân chứng khác, nếu không nói là trực tiếp tham gia vào những biến cố lịch sử VN trong khoảng thời gian đó.
Tiếp tục chủ trương triệt hạ quyền lực B́nh xuyên, sau khi cải tổ Nội các (24/04/1955) có sự tham gia của Ḥa Hảo (Trung tướng Trần Văn Soái và ông Lương Trọng Tường) và Cao Đài (Thiếu tướng Nguyễn Thành Phương), ngày 25 tháng 4, 1955 Thủ tướng NĐD ra sắc lệnh cách chức Lai Văn Sang, Tổng giam đốc CS Quốc gia. Như thế tức là tấn B́nh xuyên vào vách tường. Cũng là lúc đặc sứ Collins v́ quá bất măn với Thủ tuớng NĐD nên đi về Washington để ráo riết vận động cho cả Chính phủ Mỹ chuyển hướng 180 độ, tức là "Diệm must go" cho kỳ được, và lần này ông thành công. Rơ ràng ṭa Đại sứ Mỹ ở Sài G̣n đứng về phe Thực dân Pháp là tướng Ely, Bảy Viễn… hơn là phe Quốc gia của Thủ tướng NĐD.
Ba ngày sau là ngày 28/04/1955, BX a) khai chiến, pháo kích vào dinh Đôc lập. Cùng một lúc, BĐ gửi điện tín b) triệu ông Diệm và tướng Tỵ qua Pháp để tường tŕnh về t́nh h́nh trong nuớc, và c) bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ, tư lệnh Ngự lâm quân Đà Lạt làm Tổng tư lệnh quân đội Quốc gia VN thay thế tướng Nguyễn Văn Hinh, được toàn quyền sử dụng mọi phuơng tiện cần thiết để giải quyết cuộc tranh chấp giữa thủ tướng Diệm và các giáo phái. Lưu ư: Ba sự kiên a,b, c ghi trên hoàn toàn ăn khớp với nhau. Cùng ăn khớp với vận động thành công của tướng Collins ở Wahington, "Diệm must go".
Đặc biệt lưu ư đến chi tiết này: Thay thế tướng Hinh, tức là hoàn toàn phủ nhận quyền hành của Thủ tướng, coi chuyện Thủ tướng NĐD bổ nhiệm tướng Tỵ như "ne pas". Như thế chẳng hóa ra là cất chức Thủ tướng rồi c̣n ǵ nữa? Chuyện triệu Thủ tướng qua Pháp, không với ai khác mà là với tướng Tỵ, vừa được thủ tướng bổ nhiệm Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia VN. Đúng là một tiểu xảo chính trị bất xứng.
Được lệnh của Quốc trưởng BĐ, Thủ tưởng Diệm đă khôn ngoan, t́m được một lực lượng vô song để đương đầu với Quốc trưởng, không c̣n là Quốc truởng của một nuớc, của Quốc dân nữa mà là đại diện cho một tập đoàn Thực dân rất hùng hậu. Lực lượng vô song nói ở đây là Quốc dân.
Một điều cần nói ở đây là khi Thủ tướng đi t́m một lực lượng vô song đó không phải là không có cố vấn của CLNVCM đảng, lúc đó là ai? Là Ngô Đ́nh Nhu, là Trần Quốc Bữu, Trần Trung Dung, Trần Chánh Thành, có cả BS Bùi Kiện Tín và ai ai nữa… cả nhóm Tinh thần, trong đó có BS Huỳnh Kim Hữu. Biết rằng tất cả những nhân vật này không một ai gia nhập Cần lao, nhưng đều chấp nhận chủ trương của ông Ngô Đ́nh Nhu và do ông Nhu chi phối theo đường hướng Cần lao của ông.
V́ đó mà Thủ tường NĐD cấp tốc triệu tập các Chính đảng và Nhân sĩ Quốc gia, ngày hôm sau là ngày 29/04/1955, để xin ư kiến: Nên tuân lệnh Quốc trưởng BĐ triệu qua Pháp hay không? Như thế tức là muốn đặt hội nghị trước một sự chọn lựa dứt khoát: Bảo Đại hay là Ngô Đ́nh Diệm?
Ở đây tôi muốn nói đến tính cách đại diện bao quát của hội nghị, chưa bao giờ miền Nam có một hội nghị gồm đại diện của những 18 đoàn thể nếu không nói là chính đảng và có những 34 nhân sĩ tên tuổi. (3)
(3) 18 Chính đảng là: - Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN – VN Phục quốc hội – Thanh niên Quốc dân Xă VN – VN Dân chủ Xă hội – Phong trào tranh thủ Độc lập VN –Phụ nữ Quốc dân xă VN – VN Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng – Tịnh độ Phật giáo đồ VN – Tổng Liên đoàn Lao công VN – Phong trào Dân chúng Liên hiệp VN – Phong trào Cách mạng Quốc gia – Tập đoàn Công dân – Nhóm Tinh thần – Xă hội Công giáo – Thanh niên Dân chủ VN – Cựu Chiến sĩ Kháng chiến VN – Nghiệp đoàn Kư giả VN – Hội tương trợ Đồng bào Nghệ Tĩnh/B́nh. Rất tiếc là không c̣n đâu có danh sách 29 nhân sĩ. Trong số những nhân sĩ này tôi quen thân với BS Huỳnh Kim Hữu và ông Huỳnh Minh Y, bố vợ anh Huỳnh Sanh Thông và anh Dư Phước Long, và năm ba nhân sĩ nữa, toàn là người Nam kỳ.
Như thế có thể khẳng định tính cách đại diện bao quát của dân miền Nam. Dù biết rằng có những đảng chính trị chỉ có vài ba chục đảng viên và không có một cây súng trong tay để đánh Pháp và chống CS Việt minh. Tuy nhiên cũng được cả năm bảy đoàn thể chính trị có thực lực, nghĩa là có cả ngàn nếu không nói là mấy chục ngàn đảng viên và có năm bảy ngàn cây súng. Đó là VN Dân xă đảng Ḥa Hảo do bí thư Nguyễn Bảo Toàn (Nguyễn Giác Ngộ) đại diện, VN Phục quốc hội Cao Đài do đại tá Hồ Hán Sơn (Nguyễn Thành Phương) đại diện và Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN do Nhị Lang (Tŕnh Minh Thế) đại diện và Tịnh độ cư sĩ do Đoàn Trung C̣n đại diện. Đặc biệt là có những đoàn thể thanh niên, phụ nữ, và trí thức. Nói được là gần toàn dân miền Nam có đại diện chính thức đến phó hội. Cũng có vài gương mặt Bắc kỳ di cư, nhưng thiết nghĩ không có đại diện cho di cư Bắc kỳ v́ khi đó Bắc kỳ di cư chưa định cư.
Bookmarks