Results 1 to 10 of 10

Thread: TÀI LIỆU CHI TIẾT CHO CÁC BẠN TRẺ MUỐN T̀M HIỂU : HIỆP ĐỊNH GENÈVE

  1. #1
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    TÀI LIỆU CHI TIẾT CHO CÁC BẠN TRẺ MUỐN T̀M HIỂU : HIỆP ĐỊNH GENÈVE

    TÀI LIỆU CHI TIẾT CHO CÁC BẠN TRẺ MUỐN T̀M HIỂU LỊCH SỬ :

    HIỆP ĐỊNH GENÈVE 20/07/1954 CHIA ĐÔI LĂNH THỔ VIỆT NAM





    Sinh viên Sài g̣n biểu t́nh phản đối Hiệp định Geneva, treo cổ h́nh nộm De Gaulle và Hồ Chí Minh

    Hiệp định Genève (20-7-1954)- Phần I

    1- Diễn tiến đưa đến Hội nghị Genève

    Chiến tranh Triều Tiên hay Cao Ly (Korea) kết thúc bằng hiệp ước đ́nh chiến được kư kết ở Panmunjon (Bàn Môn Điếm), ngày 27-7-1953, chia Triều Tiên thành hai vùng Bắc và Nam Triều Tiên, ranh giới là vĩ tuyến 38. Đây chỉ là hiệp ước đ́nh chiến, chứ không phải là ḥa ước giữa các bên lâm chiến. Dầu vậy, hiệp ước và giải pháp chia hai nước Triều Tiên được một số nước, kể cả Pháp, xem là mẫu mực để giải quyết vấn đề Đông Dương.

    Ngày 4-8-1953 Liên Xô đề nghị họp hội nghị ngũ cường gồm Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô và Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) vào tháng 9-1953 để tiếp tục giải quyết những tranh chấp ở Triều Tiên, đồng thời tại khu vực Á Châu, trong đó nóng bỏng nhất là vấn đề Việt Nam.

    Đề nghị nầy bị Hoa Kỳ bác bỏ ngày 2-9-1953. Trong cuộc họp tay ba Anh, Pháp và Hoa Kỳ trong ba ngày kể từ 16-10-1953, cả ba nước đưa ra tuyên bố không chấp nhận đề nghị của Liên Xô, chủ yếu v́ các cường quốc Tây phương không muốn thừa nhận CHNDTH là một cường quốc ngang hàng với họ. Lúc đó, CHNDTH chưa được vào Liên Hiệp Quốc (LHQ). Chiếc ghế thường trực tại Hội đồng Bảo an LHQ do Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) nắm giữ.

    Lúng túng trong chiến tranh Việt Nam, ngày 27-10-1953, thủ tướng Pháp là Joseph Laniel tuyên bố sẵn sàng t́m kiếm cơ hội tái lập ḥa b́nh ở Đông Dương. Ông được quốc hội Pháp ủng hộ để thương thuyết và đi đến một giải pháp chính trị. Ra trước thượng viện Pháp ngày 12-11-1953, thủ tướng Laniel lập lại ư kiến trên thêm một lần nữa. Laniel hy vọng kế hoạch hành quân của đại tướng Henri Navarre tại Việt Nam sẽ có thể đem lại thành công trên chiến trường, để có thể thương thuyết trong thế mạnh.

    Đề nghị của Laniel được phía cộng sản đáp ứng ngay. Trong một cuộc phỏng vấn của báo Expressen (Norway = Na Uy) vào cuối tháng 10-1953, Hồ Chí Minh cho biết rằng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) do đảng Lao Động (LĐ) và mặt trận Việt Minh (VM) điều khiển, sẵn sàng t́m hiểu các đề nghị của Pháp và chỉ thương thuyết với Pháp, chứ không nói chuyện với chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng.
    Về phía Liên Xô, vừa trả lời cho tam cường Tây phương, vừa trả lời cho đề nghị của thủ tưóng Pháp (Laniel), ngoại trưởng Mikhailovich Molotov tuyên bố ngày 26-11-1953 đồng ư tham dự hội nghị tứ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, và Liên Xô, nhưng dành quyền sẽ triệu tập hội nghị ngũ cường sau đó. Măi đến ngày 29-11-1953, bài phỏng vấn Hồ Chí Minh mới được báo Expressen công bố, và được Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc Kinh đăng lại ngày 1-12-1953, kèm theo bài xă luận hoàn toàn ủng hộ lập trường của VM.

    Ngày 6-12-1953, theo quyết định của các cố vấn CHNDTH, quân đội VM bắt đầu mở cuộc tấn công Điện Biên Phủ.(1) Một tuần sau, Hồ Chí Minh tuyên bố chấp nhận thương thuyết với Pháp ngày 14-12-1953. Hỗ trợ ư kiến của Hồ Chí Minh, ngày 26-12-1953, Liên Xô đưa ra đề nghị họp tứ cường tại Berlin ngày 25-1-1954, và được các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ chấp thuận.
    Vào ngày nói trên (25-1-1954), hội nghị tứ cường vừa khai mạc tại Berlin, th́ ngoại trưởng Liên Xô, Mikhailovich Molotov, đề nghị mời CHNDTH cùng họp để giải quyết các vấn đề tranh chấp trên thế giới. Măi đến ngày 18-2-1954, ư kiến của Liên Xô mới được ba nước tây phương đồng ư. Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa được mời tham dự hội nghị Genève, sẽ bắt đầu từ ngày 26-4-1954 để bàn về các vấn đề Triều Tiên và Đông Dương.

    Hội nghị ngũ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, CHNDTH tại Genève chính thức khai mạc ngày 26-4-1954, một ngày bàn về Đông Dương, một ngày bàn về Triều Tiên. Liên Xô đề nghị mở rộng những nước tham dự bằng cách mời thêm các phe lâm chiến ở Đông Dương. Ư kiến nầy được chấp thuận tại phiên họp ngày 2-5-1954. Như thế, về vấn đề Đông Dương, hội nghi Genève sẽ có tất cả là 9 phái đoàn tham dự: Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, CHNDTH, QGVN, VNDCCH (VM), Lào và Cambodge (Cambodia).

    Hội nghị Genève về Đông Dương với sự tham dự của 9 phái đoàn, chính thức khai mạc ngày 8-5-1954. Một ngày trước đó, cứ điểm Điện Biên Phủ tại Việt Nam của liên quân Pháp-Việt bị thất thủ vào tay quân đội VM ngày 7-5-1954.


    C̣n tiếp...

  2. #2
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    II.- Hội nghị Genève

    Hội nghị Genève về vấn đề Đông Dương có thể chia thành hai giai đoạn:

    * Giai đoạn thứ nhất từ khi khai mạc (8-5-1954) đến khi tạm nghỉ ngày 20-6-1954.

    * Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ ngày 10-7 đến ngày 21-7-1954.

    Giữa hai giai đoạn là sự thay đổi chính phủ tại Pháp và hội nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai (Trung Cộng) và Hồ Chí Minh (Việt Minh).

    Giai đoạn thứ nhất Hội nghị Genève

    Hội nghị Genève về Đông Dương với 9 phái đoàn là ngũ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, CHNDTH, và bốn chính phủ liên hệ ở Đông Dương là QGVN, VNDCCH (VM), Lào, Cambodge (Cambodia), bắt đầu ngày 8-5-1954, một ngày sau khi kết thúc trận Điện Biên Phủ.



    Tạ Quang Bửu, trưởng phái đoàn Việt Cộng đang kư Hiệp định Genève

    Thời điểm khai mạc hội nghị Genève về Đông Dương rơ ràng rất thuận lợi cho phía cộng sản:

    Liên Xô và CHNDTH lúc đó chưa rạn nứt mà c̣n liên lạc ngoại giao gắn bó trong tinh thần Cộng sản Quốc tế, tích cực giúp đỡ VM. Trong khi đó, sau khi thất trận Điện Biên Phủ (7-5-1954), nội t́nh nước Pháp chia rẽ. Pháp đang muốn kiếm cách rút lui khỏi Đông Dương.

    Chính phủ Quốc Gia Việt Nam gặp nhiều khó khăn, quân đội mới được thành lập nên chưa vững mạnh.

    Phái đoàn QGVN do ngoại trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu khi hội nghị bắt đầu. Sau đó, để tăng cường, QGVN gởi phó thủ tướng Nguyễn Trung Vinh làm trưởng đoàn, Nguyễn Quốc Định phụ tá. Khi Ngô Đ́nh Diệm chấp chánh ngày 7-7-1954, th́ tân ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đến thay Nguyễn Trung Vinh.

    Phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn Đồng lănh đạo. Lúc đó Đồng đă được chỉ định làm phó thủ tướng VNDCCH.

    Sau gần 20 ngày hội họp tại Genève, ngày 26-5-1954, Pháp và VM thỏa thuận ngừng bắn ở Việt Nam, rút quân về những khu vực chỉ định.

    -Phạm Văn Đồng đề nghị cách phân chia thật giản dị là chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 13. Việt Minh rút về Bắc, Pháp rút về Nam.

    -Pháp chưa quyết định. Anh Quốc tán thành, Hoa Kỳ phản đối.

    - Chính phủ QGVN chủ trương thống nhất, không chia cắt.

    Tại Sài G̣n, thủ đô của chính phủ QGVN, Quốc Dân Đại Hội họp phiên bất thường cũng trong ngày 26-5-1954, phản đối mạnh mẽ việc chia hai đất nước

    Tại Genève, trong cuộc họp mật riêng với Pháp ngày 10-6-1954, Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Quốc pḥng VM, nói với đại diện Pháp là Delteil rằng: “Chúng tôi cần một thủ đô [Hà Nội] và cần một hải cảng [Hải Pḥng].” Hội nghị toàn thể tại Genève gặp bế tắc ngày 12-6 khi phái đoàn VM không chấp nhận sự kiểm soát quốc tế, mà đ̣i rằng ban kiểm soát chỉ có đại diện Pháp và VM. Việt Minh c̣n đ̣i giải pháp ngưng bắn ở Đông Dương bao gồm luôn cả vấn đề Việt-Miên-Lào.

    Khi họp riêng ngày 15-6-1954, với đại diện Liên Xô (ngoại trưởng Molotov) và đại diện CHNDTH (thủ tướng kiêm ngoại trưởng Châu Ân Lai), Phạm Văn Đồng bị đại diện hai nước nầy ép phải chấp nhận những giải pháp riêng biệt về ba nước Đông Dương, nghĩa là VM phải rút quân ra khỏi Lào và Miên. Kể từ 20-6-1954, các ngoại trưởng tạm nghỉ và về nước tham khảo ư kiến.

    Những diễn tiến trong thời gian Hội nghị Genève tạm nghỉ

    Mendès France, thủ tướng Pháp: Sau thất bại Điện Biên Phủ (7-5-1954), chẳng những Pháp thay lănh đạo ở Đông Dương, mà thay luôn cả chính phủ Pháp ở Paris. Nội các Joseph Laniel từ chức ngày 13-6-1954, và Mendès-France, người Pháp gốc Do Thái, thuộc đảng Xă Hội Cấp Tiến (Socialiste Radical), một thành viên Hội Tam Điểm Pháp,(5) được mời lập chính phủ.

    Điều trần trước quốc hội Pháp, Mendès-France tuyên bố sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong ṿng bốn tuần lễ (chưa đầy một tháng). Nói cách khác, với ư nguyện của quốc hội Pháp, chính phủ Mendès-France quyết định bỏ rơi QGVN, và bằng mọi giá kư kết hiệp ước đ́nh chiến, rút quân Pháp ra khỏi Đông Dương. Mendès-France chính thức nhậm chức ngày 21-6-1954. Nếu tính thêm bốn tuần lễ th́ vào khoảng 21-7-1954.

    Hội nghị Liễu Châu: Trong thời gian nghỉ họp, Châu Ân Lai về lại Trung Quốc. Ông mời Hồ Chí Minh và Vơ Nguyên Giáp qua Liễu Châu (Liuzhou), thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), hội họp từ ngày 3-7-1954.

    Trong cuộc gặp gỡ nầy, đại để Châu Ân Lai cho rằng có ba cách để đối phó với t́nh h́nh mới:

    1) Thượng sách là ḥa. 2) Trung sách là đánh rồi ḥa. 3) Hạ sách là đánh tiếp.

    Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh chấp nhận thượng sách là ḥa để tránh mở rộng chiến tranh, v́ nếu tiếp tục mở rộng chiến tranh, Hoa Kỳ sẽ can thiệp. Theo Châu Ân Lai, VM nên giải quyết riêng biệt chuyện Lào và Miên, đồng thời chia hai nước Việt Nam ở khoảng vĩ tuyến 16. Với kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, Châu Ân Lai khuyên VM không nên đ̣i hỏi thái quá, khiến Pháp sẽ ở thế phải nhờ Hoa Kỳ can thiệp.

    Cũng theo Châu Ân Lai, trong trường hợp Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, với binh lực hùng hậu, Hoa Kỳ sẽ có thể lật ngược t́nh thế như trong chiến tranh Triều Tiên trước đây. Như vậy VM sẽ đuổi được kẻ địch yếu, nhưng lại rước kẻ địch mạnh. Hơn nữa, VM nên giúp tân thủ tướng Pháp là Mendès-France, để ông ta không bị quốc hội Pháp lật đổ. Nếu Mendès-France không thành công, chính phủ Mendès-France sẽ bị đổ, th́ có thể sẽ bất lợi đối với phía CS

    Về phía phái đoàn VM, trong hội nghị nầy, Vơ Nguyên Giáp cho biết nếu phải rút đi, th́ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện, phần c̣n lại th́ ở lại miền Nam chờ thời cơ, có thể khoảng 10,000 cán bộ.

    Hội nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai và Hồ Chí Minh kết thúc sau phiên họp cuối cùng tối ngày 5-7-1954. Nhân Dân Nhật Báo của Bắc Kinh ngày 8-8-1954, đăng “Tuyên bố về cuộc hội đàm Trung Việt của chính phủ Trung Quốc”, được dịch nguyên văn như sau:

    “Thủ tướng nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa Châu Ân lai và Chủ tịch nước Việt Nam dân Chủ Cộng Ḥa Hồ Chí Minh đă cử hành hội đàm tại biên giới Trung Việt từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954. Thủ tướng Châu Ân Lai và Chủ tịch Hồ Chí Minh đă trao đổi ư kiến đầy đủ về vấn đề khôi phục ḥa b́nh ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan khác. Tham gia hội nghị c̣n có: Hoàng Văn Hoan, đại sứ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tại Trung Quốc và Kiều Quán Hoa, cố vấn Đoàn đại biểu nước Cộng Ḥa Nhận Dân Trung Hoa tại Hội nghị Genève.”

    Về lại Việt Nam, Hồ Chí Minh họp Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng CSVN) tại Thái Nguyên, ra nghị quyết theo quyết định của hội nghị Liễu Châu, nghĩa là VM chấp nhận giải pháp chia hai đất nước, tạm thời ḥa hoăn và chuẩn bị tiếp tục tranh đấu sau khi kư kết hiệp ước đ́nh chiến.

    Chủ trương mới nầy được Hồ Chí Minh nêu ra trong báo cáo ngày 15-7-1954 tại Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) khóa II từ 15 đến 17-7-1954 tại Việt Bắc, trong đó có đoạn viết: “Trước kia khẩu hiệu của ta là: ‘Kháng chiến đến cùng’. Nay v́ t́nh h́nh mới, ta cần nêu khẩu hiệu mới là ḥa b́nh, thống nhất, độc lập, dân chủ.”

    Trong khi đó, thực hiện sự thỏa thuận ngày 26-5 tại hội nghị Genève, các phe lâm chiến ở Việt Nam mở hội nghị Trung Giá từ ngày 4 đến 27-7-1954 để bàn về chi tiết việc ngưng bắn. Trung Giá, hay Trung Giă, nằm về phía nam thị xă Thái Nguyên khoảng 30 cây số. Đại diện cho Pháp là đại tá Lennuyeux, đại diện cho QGVN là thiếu tá Nguyễn Phước Đàng, đại diện cho VM là thiếu tướng Văn Tiến Dũng.

    Giai đoạn thứ hai Hội nghị Genève

    Tân thủ tướng Pháp là Mendès-France đích thân đến Genève để hội đàm với ngoại trưởng Liên Xô là Mikhailovich Molotov ngày 10-7, và ngoại trưởng CHNDTH là Châu Ân Lai trong hai ngày 12 và 13-7.

    Pháp, Liên Xô và CHNDTH thỏa thuận giải pháp chia hai nước Việt Nam. Pháp đ̣i chia ở vĩ tuyến 18. Trung Hoa đề nghị vĩ tuyến 16, rồi đổi vĩ tuyến 17.

    Sau đó, khi Châu Ân Lai gặp Phạm Văn Đồng, đại biểu của VM, Châu Ân Lai áp đặt ư định của các cường quốc. Phạm Văn Đồng đành chấp nhận. Đại biểu QGVN là bác sĩ Trần Văn Đỗ phản đối việc chia cắt đất nước bất cứ ở đâu.

    Cuối cùng, sau những tranh căi và mặc cả vào buổi chiều ngày 20-7-1954, hiệp ước đ́nh chiến được soạn thảo xong và kư kết sau 12 giờ đêm 20-7, qua sáng 21-7-1954 trong lúc đồng hồ ở trụ sở kư kết vẫn giữ nguyên ở 12 giờ đêm 20-7-1954.

    C̣n tiếp...

  3. #3
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    III.- Hiệp định Genève: Đ́nh chỉ chiến sự

    Danh xưng chính thức của hiệp định Genève là Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau.

    Hai nhân vật chính kư vào hiệp ước đ́nh chiến Genève là Henri Delteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc pḥng chính phủ VNDCCH.

    Các nước khác cùng kư vào hiệp định Genève c̣n có Anh, Liên Xô, CHNDTH, Lào, Cambodia.

    Hai chính phủ QGVN và Hoa Kỳ không kư vào bản hiệp định nầy.

    Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:

    - Việt Nam chia làm hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải (tỉnh Quảng Trị), theo ḍng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Không nói đến vĩ tuyến 17. Trong thực tế, sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ở phía bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam.

    - Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm “khu đệm”, có hiệu lực từ ngày 14-8-1954.

    - Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực.

    - Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt và 11-8 ở Nam Việt.

    - Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của ḿnh và tự tổ chức nền hành chánh riêng.

    - Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù hay ngược đăi những người đă hợp tác với phía đối phương.

    - Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia.

    - Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới.

    - Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn.

    - Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc tế.

    - Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Pḥng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).

    Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam chỉ là một hiệp định có tính cách thuần tuư quân sự.

    Cũng giống như hiệp ước đ́nh chiến Panmunjon (Bàn Môn Điếm) ngày 27-7-1953, hiệp định đ́nh chiến Genève không phải là một ḥa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam. (Trích Việt sử đại cương tập 5.)

    © Trần Gia Phụng
    (Toronto, 19-7-2010)


    (C̣n tiếp : Phần II)

  4. #4
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Hiệp định Genève (20-7-1954)- Phần II

    IV.- Bản tuyên bố cuối cùng không chữ kư:

    Sau khi Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam được kư kết, các phái đoàn họp tiếp ngày 21-7-1954 và “thông qua” bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương”.

    Đây chỉ là lời tuyên bố (Déclaration) của bảy phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam, và đặc biệt không có phái đoàn nào kư tên vào bản tuyên bố nầy, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ kư.

    Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, th́ 7 phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng “đồng ư”. Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn QGVN không đồng ư, và tự đưa ra tuyên bố riêng của ḿnh.

    Bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương” gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7. Điều nầy ghi rằng:

    “Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại ḥa b́nh tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ư nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đă nói trong Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.”
    (Bản dịch của Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường)

    Điều 7 của bản Tuyên bố được xem là dự kiến về một giải pháp chính trị trong tương lai, theo đó một cuộc tổng tuyển cử sẽ có thể được tổ chức để thống nhất đất nước, mà sau nầy Bắc Việt dựa vào điều nầy để đ̣i hỏi Nam Việt tổ chức tổng tuyển cử trên toàn quốc.

    Bắc Việt thường nói và viết rằng việc tổ chức tổng tuyển cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam là theo quyết định của Hiệp định Genève.

    Thật ra Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đ́nh chỉ chiến sự (đ́nh chiến) mà không đưa ra một giải pháp chính trị nào. Giải pháp chính trị về một cuộc tổng tuyển cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam dự tính tổ chức vào năm 1956 nằm trong điều 7 của bàn “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương”

    Trong bản tuyên bố riêng của phái đoàn QGVN, bác sĩ Trần Văn Đỗ, trưởng phái đoàn, giải thích v́ sao phái đoàn QGVN không kư kết hiệp định Genève. Sau khi phản đối việc chia cắt đất nước và việc đại diện quân đội Pháp tự ư kư kết hiệp định mà không đếm xỉa ǵ đến quyền lợi của quân đội Quốc Gia và nhân dân Việt Nam, bản tuyên bố của phái đoàn QGVN viết:

    “V́ thế cho nên chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách kư kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho ḿnh quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”

    V́ phái đoàn QGVN không kư vào bản Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam (hiệp định Genève) và nhất là không tham dự vào bản “Tuyên bố cuối cùng”, nên chính phủ QGVN tự cho rằng không bị ràng buộc vào điều 7 của bản tuyên bố nầy.

    Về phiá Hoa Kỳ, trưởng phái đoàn là Bedell Smith cũng đưa ra bản tuyên ngôn ngày 21-7-1954 theo đó, tuy không kư vào hiệp định, nhưng Hoa Kỳ cam đoan không đe doạ hay dùng vơ lực để sửa đổi hiệp định; Hoa Kỳ sẽ nghiêm xét bất cứ một hành vi tái gây hấn vi phạm thoả hiệp trên, đe doạ ḥa b́nh và an ninh thế giới; Hoa Kỳ tôn trọng việc thực hiện thống nhất Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do đặt dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Ông Bedell Smith kết luận:

    “Chúng tôi chia sẻ niềm hy vọng rằng các thỏa hiệp nầy sẽ cho phép Cao Miên, Lào và Việt Nam nắm giữ điạ vị của họ, trong độc lập hoàn toàn và chủ quyền đầy đủ, giữa cộng đồng yêu chuộng hoà b́nh của các quốc gia, và sẽ khiến cho các dân tộc ở các vùng đó có thể tự định đoạt lấy tương lai của ḿnh.”

    C̣n tiếp...

  5. #5
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    V.- Việc thi hành Hiệp định Genève


    Hội nghị Genève kết thúc với ba văn kiện chính thức (ngày 20-7-1954) và một bản tuyên bố chung (ngày 21-7-1954) là:

    1) Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam.

    2) Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Lào.

    3) Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Cambodge (Cambodia).

    4) Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương.

    Ngoài bốn văn kiện trên, c̣n có hai văn kiện do hai phái đoàn đưa ra là:

    1) Tuyên ngôn của phái đoàn QGVN.

    2) Tuyên ngôn của phái đoàn Hoa Kỳ.

    Cần chú ư hai điểm:

    Thứ nhất, Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam tức Hiệp định đ́nh chiến Genève chỉ có tính cách thuần túy quân sự, nói về việc rút quân, tập trung quân, thời hạn chuyển quân… mà hoàn toàn không đề cập đến giải pháp chính trị.

    Thứ hai, không có phái đoàn nào kư tên vào bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Một điều rất lạ lùng là sự việc bất thường nầy, một văn kiện quốc tế mà không có chữ kư, lại ít được chú ư và ít được sách báo viết đến.

    Điều 7 của bản tuyên bố nầy mở đầu bằng câu “Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam…” (La Conférence déclare qu’en ce qui concerne le Vietnam…), nghĩa là về vấn đề Việt Nam, Hội nghị nghĩ rằng, đưa ra ư kiến rằng, hay dự kiến rằng … một cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956…, c̣n làm theo hay không làm theo, nghĩa là thi hành hay không thi hành, là tùy các bên liên hệ. Hội nghị không cam kết và cũng không yêu cầu các bên liên hệ cam kết là sẽ thi hành tổng tuyển cử, v́ bằng chứng rơ ràng nhất là Hội nghị không yêu cầu bên nào kư vào bản tuyên bố nầy, để cam kết hay để giữ lời cam kết.

    Những hiệp định với đầy đủ chữ kư mà c̣n bị vi phạm trắng trợn, huống ǵ là những bản tuyên bố không chữ kư.

    Hơn nữa, đây là một bản tuyên bố chứ không phải là một bản hiệp ước.

    Môt bản tuyên bố lại không có chữ kư của bất cứ phái đoàn nước nào, kể các các chính phủ liên hệ đến cuộc chiến ở Đông Dương, có được xem là một văn kiện có giá trị pháp lư để thi hành hay không?

    V́ những lư do căn bản nầy, bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương”, trong đó đặc biệt điều 7 của bản tuyên bố nầy về dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong năm 1956, không có tính cách pháp lư để bắt buộc bất cứ nước nào thi hành.

    Nói cho cùng, có thể nói rằng bản tuyên bố nầy khá mơ hồ và không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai Đông Dương sau khi hai bên đ́nh chiến
    .


    Tinh thần của bản tuyên bố Genève ngày 21-7-1954 khiến người ta liên tưởng đến “Tối hậu thư Potsdam” mà các nước Anh, Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) gởi cho Nhật Bản ngày 26-7-1945.

    Tối hậu thư Potsdam buộc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện và quy định rằng ở Đông Dương quân đội Trung Hoa sẽ giải giới quân đội Nhật ở phía bắc vĩ tuyến 16, và quân đội Anh sẽ giải giới quân đội Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16 (ngang qua Tam Kỳ). Tuy nhiên tối hậu thư nầy không đề cập đến việc ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật bị giải giới và rút về nước, nghĩa là không đưa ra một giải pháp chính trị cho Đông Dương.


    Điều nầy sẽ tạo ra một khoảng trống hành chánh và chính trị tại Đông Dương sau năm 1945 một khi những quyết định trong tối hậu thư Potsdam được thi hành, v́ nếu Nhật đầu hàng, chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật bảo trợ, cũng sẽ sụp đổ, th́ ai sẽ là người có thẩm quyền tại Đông Dương? Đây là thâm ư của Anh và Hoa Kỳ, cố t́nh bỏ ngỏ khoảng trống chính trị để tạo điều kiện cho Pháp trở lại Đông Dương.

    Nay bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương” cũng đi vào vết xe cũ, không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai Đông Dương, ngoài một bản tuyên bố không có người kư. Từ đó, các bên liên hệ đến bản tuyên bố có thể tùy tiện giải thích bản tuyên bố một cách khác nhau, tùy theo chủ trương chính sách của mỗi bên, và nhất là tùy theo “lư của kẻ mạnh”.

    Ngay trong Hội nghị Liễu Châu từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, cả CHNDTH lẫn VNDCCH đă thỏa thuận tạm ḥa để tiếp tục chiến tranh. Cũng trong hội nghị Liễu Châu, những nhà lănh đạo VNDCCH đă tŕnh bày kế hoạch hậu chiến, trường kỳ mai phục, gài người cùng chôn giấu vũ khí tại miền Nam để chờ đợi thời cơ nổi dậy.

    Như thế có nghĩa là kế hoạch tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Genève đă được phía cộng sản dự tính trước khi kư kết hiệp định.


    Cho đến nay, chưa có một giải thích cụ thể nào cho biết tại sao bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương”, lại không không có chữ kư của phái đoàn các nước?


    Phải chăng sau nhiều tháng hội họp, các phái đoàn quá mệt mỏi với những tranh căi triền miên, nên chỉ hỏi ư kiến bằng miệng cho chóng thông qua? Hay phải chăng có một âm mưu muốn tính chuyện về sau, nên chỉ hỏi bằng miệng để bỏ ngỏ vấn đề, nhằm dọn đường cho những tính toán chính trị kế tiếp sau hiệp định Genève?

    Và ai là người đă chủ xướng biện pháp chính trị lập lững nầy?

    Nước nào chủ xướng th́ chưa biết, nhưng chính phủ QGVN rất yếu thế, ngay từ đầu lại bác bỏ việc chia cắt đất nước, phản đối hiệp định Genève, nên chắc chắn QGVN không phải là nước chủ xướng.

    Ngày 22-7-1954, thủ tướng chính phủ QGVN là Ngô Đ́nh Diệm ra tuyên cáo phản đối việc chia hai nước Việt Nam. Tuy nhiên cuối cùng chính phủ QGVN vẫn chấp nhận thi hành hiệp định Genève ngày 20-7-1954, chia hai đất đất nước ở sông Bến Hải, vùng vĩ tuyến 17. Như thế, từ năm 1954, tại Bắc và Nam Việt Nam, có hai chính phủ riêng biệt, theo hai chính thể riêng biệt, tức có hai nước Việt Nam riêng biệt.

    Thi hành hiệp định đ́nh chiến Genève, việc ngưng bắn chính thức có hiệu lực ngày 27-7-1954 tại Bắc Việt, ngày 1-8-1954 tại Trung Việt, và ngày 11-8-1954 tại Nam Việt. Vấn đề cấp thời của hai chính phủ là tập trung và di chuyển quân đội, công chức, cán bộ của ḿnh và cả dân chúng, về khu vực cai trị của ḿnh. Điều 2 của Hiệp định Genève (20-7-1954) cho phép thực hiện việc di chuyển các lực lượng của hai bên về vùng tập hợp ở hai bên giới tuyến tạm thời trong thời gian 300 ngày.

    Ngày 9-10-1954 là hạn chót cho những người muốn di cư vào Nam di tản khỏi Hà Nội. Hôm sau, ngày 10-10-1954, quân đội VM vào tiếp thu Hà Nội.

    Chủ tịch Uỷ ban Quân quản Hà Nội của VM là Vương Thừa Vũ tức Nguyễn Văn Đồi, người đă chỉ huy cuộc tấn công Hà Nội ngày 19-12-1946 và trở thành tư lệnh sư đoàn đầu tiên của VM là sư đoàn 308.

    Hải Pḥng, điểm tập trung đồng bào miền Bắc muốn di cư bằng tàu thủy vào miền Nam, do VM tiếp thu ngày 13-5-1954.

    Ba ngày sau, toán lính Pháp cuối cùng rút lui khỏi đảo Cát Bà (vịnh Hạ Long, vùng Hải Pḥng) ngày 16-5-1955. (Nếu tính từ ngày ngưng bắn có hiệu lực ở Bắc Việt (27-7-1954) cho đến ngày 16-5-1955 là 9 tháng 20 ngày.)

    Số người từ miền Nam tập kết ra Bắc không được thống kê đầy đủ. Theo sự tŕnh bày của Vơ Nguyên Giáp tại Hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Hoa) từ ngày 3-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Châu Ân Lai, trước khi chiến tranh kết thúc, VM dự tính bước đầu rút khoảng 60,000, trong đó 50,000 người là bộ đội và 10,000 người làm công tác chính trị, nhất là những người “đỏ” quá, không thể ở lại.

    Ngoài ra, VM dự tính sẽ lưu lại miền Nam từ 5,000 đến 10,000 người để chờ thời cơ, và vũ khí nào cất giấu được th́ cất giấu sau khi quân đội rút đi. Theo một tài liệu khác cũng của cộng sản, số người tập kết ra Bắc khoảng 175,000 người và 15,0000 học sinh . Số lưọng nầy có thể đă được phóng đại và không thể kiểm chứng được.


    Số người từ miền Bắc di cư vào miền Nam lên đến khoảng gần 900,000 người. Trong số nầy, nhân viên chính quyền (tức công chức) và quân nhân chiếm một phần ít, c̣n đại đa số là dân chúng. Đây là đợt tỵ nạn cộng sản lớn lao đầu tiên trong lịch sử hiện đại, cũng là đợt di dân nội địa lớn lao nhất trong lịch sử nước ta.


    Vài điểm đáng chú ư về cuộc di cư vĩ đại của dân chúng miền Bắc vào miền Nam như sau:

    *Thứ nhất, số người ra đi đông đảo như trên rời đất Bắc có lợi cho đảng Lao Động, v́ những thành phần chống cộng, đối lập, bất đồng chính kiến, những nhân vật theo các đảng phái Quốc gia, đều rút về miền Nam, nên không c̣n, hay ít c̣n người ở lại đối kháng với chế độ mới ở ngoài Bắc.

    *Thứ hai, người Việt Nam vốn rất ràng buộc với quê cha đất tổ, mà gần một triệu người đành phải bỏ xứ ra đi. Trong chiến tranh, bộ máy tuyên truyền của Việt Minh luôn luôn ca tụng chế độ cộng sản và chê bai chính thể QGVN. Nay cuộc di cư vĩ đại có thể xem là cuộc trưng cầu dân ư cho thấy số người miền Bắc chọn lựa vào miền Nam đông hơn số người miền Nam tập kết ra Bắc, chứng tỏ ḷng dân như thế nào đối với chế độ của đảng Lao Động (tức là đảng CSVN)?

    *Thứ ba, sự chọn lựa nầy củng cố niềm tin nơi chính phủ QGVN, giúp chính phủ QGVN vững tâm hành động, và làm tăng giá trị của chính thể QGVN đối với thế giới.
    * Thứ tư, ngoài những cán bộ cộng sản được cài lại ở miền nam, sống lẫn lút trà trộn trong dân chúng, chắc chắn đảng Lao Động không bỏ qua cơ hội cho đảng viên cốt cán len lơi vào đoàn người di cư vào miền Nam để làm t́nh báo, như trường hợp Vũ Ngọc Nhạ,(17) hay Vũ Bằng…

    Đúng một năm sau hiệp định Genève, để kiếm cớ gây chiến, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH), tức Bắc Việt gởi thư ngày 19-7-1955 cho thủ tướng Quốc Gia Việt Nam (QGVN) tức Nam Việt là Ngô Đ́nh Diệm, yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, để bàn về việc tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo quy định của hiệp định Genève.

    Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm đă bác bỏ đề nghị của thủ tướng Phạm Văn Đồng, dựa vào lư do rằng chính phủ QGVN không kư vào hiệp định Genève và nhất là v́ không có bằng chứng nào cho thấy VNDCCH đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản.
    Chính thể QGVN đổi thành Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) vào ngày 26-10-1955. Tuy chính phủ VNCH nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958 để tuyên truyền với quốc tế. Lần cuối, Ngô Đ́nh Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị trên vào ngày 26-4-1958.

    Do vào sự bác bỏ của của chính phủ Nam Việt, Bắc Việt tố cáo chính phủ Nam Việt không tôn trọng hiệp định Genève. Trong khi đó, hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đ́nh chiến và đă được các phe liên hệ tức là chính phủ VM và chính phủ QGVN thi hành xong ngay từ 1954, chia hai nước Việt Nam thành Bắc Việt và Nam Việt duới sự giám sát của Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến, gồm đại diện các nước Canada (Gia Nă Đại), Poland (Ba Lan), India (Ấn Độ). C̣n bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương” không có chữ kư, th́ chẳng có giá trị pháp lư để thi hành. Tuy nhiên, kẻ gây hấn th́ luôn luôn có lư do để gây hấn.

    Kết luận


    Sau trận Điện Biên Phủ (7-5-1954), khi Pháp quyết định rời bỏ hẳn Việt Nam, các cường quốc trên thế giới, Quốc tế Cộng Sản cũng như Quốc tế Tư bản, lại một lần nữa can thiệp, và áp đặt một giải pháp chính trị theo quyền lợi của họ, buộc các phe phái ở Việt Nam phải thi hành.

    Để bỏ chạy an toàn, Pháp thỏa măn những đ̣i hỏi về phía khối cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản chia hai nước Việt Nam và ấn định lịch tổng tuyển cử năm 1956, mà không cần đếm xỉa đến ư nguyện của chính phủ QGVN.

    Pháp quyết kư hiệp định Genève (20-7-1954), để vĩnh viễn rút quân ra khỏi ba nước Đông Dương, không c̣n liên hệ ǵ đến Việt Nam.

    Như thế, Pháp dựa vào tư cách nào để ấn định lịch tổng tuyển cử vào năm 1956 về tương lai chính trị nước Việt Nam? Lịch tổng tuyển cử nầy lại không được các phái đoàn tham dự kư kết để bảo đảm thi hành. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy cộng sản luôn luôn kư kết hiệp ước để làm kế hoăn binh và không bao giờ tôn trọng hiệp ước đă kư kết, huống ǵ là những văn bản không có chữ kư như bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương” ngày 21-7-1954.


    Cần chú điểm chót: Khi Mao Trạch Đông chiếm lục địa Trung Quốc, các cường quốc Tây phương không công nhận CHNDTQ và không cho CHNDTQ thay thế Trung Hoa Dân Quốc tại Liên Hiệp Quốc. Nhờ chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc được các cường quốc mời họp Hội nghị Genève. Nghĩa là Trung Quốc được ngồi ngang hàng với các cường quốc Tây phương nhờ chiến tranh Việt Nam, nhờ xương máu của dân tộc Việt Nam. (Việc nầy tái diễn trong chiến tranh 1960-1975, v́ do cuộc chiến nầy, Nixon qua Bắc Kinh dàn xếp với Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai. Sau đó, Hoa Kỳ mở cửa cho Trung Quốc cộng sản vào LHQ.)


    Chính phủ QGVN non trẻ, bị động theo chính sách của Pháp, là chuyện đành phải chấp nhận. VNDCCH (VM), dầu đă lợi dụng và sử dụng xương máu người Việt để chiến đấu, và tự cho rằng đă chiến thắng đế quốc Pháp, cũng không thể cưỡng chống lại những ư đồ của Liên Xô và CHNDTQ.

    Nói cách khác, người Việt ở cả hai phía nói chung, hoàn toàn không thể tự quyết định tương lai của chính ḿnh, mà phải bị động trước những áp đặt của ngoại bang, dù đó là ngoại bang tư bản hay ngoại bang cộng sản. Bất cứ một ngoại bang nào đến với Việt Nam cũng đều v́ quyền lợi riêng tư của họ, chứ chẳng phải v́ yêu thương hay giúp đỡ nước Việt Nam. Chẳng bao giờ có t́nh nghĩa xă hội chủ nghĩa hay t́nh nghĩa tư bản chủ nghĩa. Chỉ có “quyền lợi chủ nghĩa” giữa các nước mà thôi.

    Đất nước bị chia hai, dân tộc bị chia hai, nhưng Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định “đ́nh chiến”, tức mới chỉ ngừng tay đánh nhau, chứ chưa phải là hiệp ước ḥa b́nh. Sau chín năm chiến tranh triền miên (1946-1954), dân chúng Việt Nam rất khao khát ḥa b́nh, nhưng giấc mơ ḥa b́nh vẫn c̣n ngoài tầm tay của người Việt.

    Ḷng dân muốn ḥa b́nh, nhưng những kẻ chủ trương độc tài luôn luôn muốn tóm thâu quyền lực, luôn luôn muốn xâm lấn để toàn trị. Và như thế, vận nước chưa hết nổi trôi, người Việt sẽ vẫn c̣n tiếp tục thống khổ…(Trích Việt sử đại cương tập 5.)

    © Trần Gia Phụng

    http://www.danchimviet.info/archives...A7n-ii/2010/07

  6. #6
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674


    Hội Nghị Genève 1954




    Pháp và Việt Minh kư Hiệp định Genève

  7. #7
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    TRẢ TA SÔNG NÚI-

    Phong Trào Hưng Ca Việt Nam



  8. #8
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần III - HIỆP ĐỊNH GENÈVE 1954

    Hội Nghị Genève khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn về Triều Tiên và Đông Dương. Vấn đề Đông Dương được chính thức đưa ra bàn căi bắt đầu ngày 8 tháng 5 năm 1954.

    Theo Bí Mật Ngũ Giác Đài, Hội Nghị Genève bắt đầu trong bối cảnh Việt Nam có những sự thật như sau:

    1/Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tức Việt Minh đă kiểm soát ba phần tư đất nước

    2/ Ngày 04 Tháng Sáu 1954,Quốc Hội Pháp chính thức phê chuẩn trao trả Độc Lập cho Chính Phủ Việt Nam Quốc Gia đứng đầu là Quốc Trưởng Bảo Đại (Hiệp Định Elysée kư ngày 8 tháng Ba năm 1946 giữa Pháp và Bảo Đại đă trao trả “Độc Lập” cho Việt Nam - nay lại “trao trả Độc Lập” nữa là sao? – v́ với Hiệp Định Elysée, đó chỉ là thứ Độc Lập trên danh nghĩa, thực chất tất cả các chức năng quan trọng đều nằm trong tay người Pháp, kể cả quân đội Việt Nam đều nằm dưới quyền điều động của Pháp dưới danh nghĩa quân đội Liên Hiệp Pháp. Đây là điều mà nhiều “sử gia” cố t́nh không nêu ra) –

    3/ Pháp muốn chấm dứt chiến tranh và rút lui không bị nhục v́ đang te tua trên các mặt trận

    4/ Anh không muốn chiến tranh xảy ra giữa các cường quốc mà Anh phải nhảy vào

    5/ Liên Sô cũng muốn chấm dứt chiến tranh Đông Dương để dập tắt nguy cơ chiến tranh thế giới, qua đó mong gây ảnh hưởng để Pháp không gia nhập Cộng Đồng Pḥng Thủ Chung Âu Châu, có được vùng ảnh hưởng làm bàn để đạp bành trước chủ nghĩa Cộng Sản

    6/ Trung Cộng muốn có vùng đệm an toàn ở biên giới phía Tây Nam của ḿnh và được yên b́nh lo xây dựng đất nước của họ. (Trích tài liệu:Bất kể là với lư do chủ nghĩa Mác tiên tiến màTrung Quốcđăđưa ratrongchính sách của họ đối với Việt Minh, trong lịch sử Trung Quốc đă hành động để biến các quốc gia chung quanh thành chư hầu của họ. Sau khi việc hàn gắn [tàn phá chiến tranh] trong nước của Trung Quốc đă được phục hồi, họ sẽ quay lại, phù hợp với chính sách đă nhiều thế kỷ đối với Việt Nam, dự kiến sẽ đưa ảnh hưởng của họ vào Đông Nam Châu Á thông qua Việt Nam.)

    Việt Nam Quốc Gia sau khi được Pháp trao Độc Lập (“dỏm” với Hiệp Định Élysé năm 1946, và có Độc Lập thật sự chính thức vào ngày04 Tháng Sáu 1954, ngay trong thời gian Hội Nghị Genève đang xảy ra). Trên Pháp lư,Quốc Gia Việt Nam được Độc Lập trên toàn lănh thổ nhưng thực chất là c̣n quá yếu để có mặt một thực thể chính trị có quyền “ăn nói” ở Hội Nghi. Việc mà họ chỉ nói lên được là t́nh yêu mănh liệt của họ dành cho Tổ Quốc Việt Nam, kiên cường chống lại việc chia đôi Đât Nước (sắp xếp bởi Anh, Pháp, Trung-Sô mà cuối cùng VNDCCH cũng phải nhận).

    Hiệp định đ́nh chiến được thông qua, Đất Nước Việt Nam bị chia hai, phe Cộng Sản vui mừng có một “thành tŕ XHCN”, phương Tây “vớt vát” được miền Nam để làm “tiền đồn” chống Cộng …
    Điều khoản tổng tuyển cử để thống nhất đất nước dự kiến sẽ tổ chức vào tháng 7 nằm 1956 đă không xảy ra v́ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm cho rằng VNDCCH sẽ không tổ chứcmột cuộc bầu cử thật sự tự do và dân chủ. VNDCCH không để dân tự do bầu là điều mà hơn năm mươi năm qua đă được chứng minh rất rơ. Ngày nay “đảng cử dân bầu” là minh chứng mà ai cũng biết.

    Những ngày đó, Trung Cộng đă đưa ra và hô hào chính sách “sống chung ḥa b́nh” (cũng như ngày nay họ “trỗi dậy trong ḥa b́nh” và tṛng thêm ṿng Kim cô mười sáu chữ vàng lên đầu lănh đạo Việt Nam, hăm he xâm lấn).

    Tài liệu phần này kết luận: “Nếu Hiệp định Genève bị thất bại, th́ kẻ phá hoại Genève chính là các thành viên Hội Nghị, những người đă mặc nhiên công nhận cách giải quyết chính trị lư tưởng không tương thích với việc chia cắt đất nước và tâm lư của người Việt Nam mà chính họ đă tiến hành ngày 21 Tháng bảy 1954”

    Thành phần tham dự

    Phái đoànAnh, do Anthony Edenlàm trưởng đoàn.

    Phái đoàn Hoa Kỳ, do Bedell Smith làm trưởng đoàn.

    Phái đoàn Liên bang Xô viết, doViacheslav Molotov làm trưởng đoàn.

    Phái đoàn Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai làm trưởng đoàn.

    Phái đoànPháp, do Georges Bidaultlàm trưởng đoàn.

    Phái đoànViệt Nam Dân chủ Cộng ḥa(VNDCCH), do Phạm Văn Đồnglàm trưởng đoàn.

    Phái đoànQuốc gia Việt Nam(QGVN), do Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn sau thay thế bởi Nguyễn Trung Vinh rồi Trần Văn Đỗ.

    Phái đoàn Lào, do Phumi Sananikone làm trưởng đoàn.

    Phái đoàn Campuchia, do Tep Than, làm trưởng đoàn.

    Hai đồng chủ tịch Hội nghị là Liên Xô và Anh.

    Phái đoàn Hoa Kỳ và chính phủ Quốc gia Việt Nam từ chối công nhận cũng như từ chối kư vào Hiệp định Genève này.

    http://vnthuquan.net/(S(33o555f50af0...83a3q3m3237nvn

  9. #9
    Member
    Join Date
    09-05-2012
    Posts
    168

    Radio 2VNR Úc Châu: LS Nguyễn Văn Thân phỏng vấn LS Lưu Tường Quang về HĐ Genève

    SYDNEY: Luật Sư Lưu Tường Quang nói chuyện về Hiệp Định Genève


  10. #10
    Member
    Join Date
    24-09-2011
    Location
    TX
    Posts
    75

    Nhận Định Phóng Khoáng Của Thi Sĩ Tản Đà

    Đất, hai năm triệu, chưa đủ lớn. (bây giờ là 95 triệu dân)

    Nước, bốn ngàn năm, vẫn trẻ con...

    Tản Đà

    Hay đem t́nh yêu để xoá hận thù, tự thiêu càng làm tăng thêm hận thù, một vị tu sĩ đă làm một chuyện quá trẻ con...Mà cũng không phải ông tự thiêu ông nữa, một người khác tưới xăng và một người khác châm lửa. Vô t́nh cái tự thiêu của tu sĩ lại tạo ra hai kẻ sát nhân. Cái chết vô luân lư....

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 04-12-2012, 08:35 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 28-09-2011, 05:09 PM
  3. Replies: 28
    Last Post: 16-07-2011, 04:58 AM
  4. Replies: 56
    Last Post: 04-05-2011, 05:10 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 29-01-2011, 04:35 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •