Điểm mặt Kẻ Thù Thế Giới?
Đế quốc Anh - Kẻ thù Thế giới Thâm độc nhất
Wikipedia
Những lănh thổ trên thế giới đă từng là một phần của đế quốc Anh. Những lănh thổ hải ngoại Anh Quốc được gạch dưới bằng màu đỏ
Đế quốc Anh (Tiếng Anh: British Empire) bao gồm những lănh thổ tự trị, những thuộc địa, những quốc gia tự trị và nhiều lănh thổ khác được điều hành và quản lư bởi liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland, đế quốc Anh khởi nguồn với những thuộc địa ngoại quốc và cảng giao thương được thành lập bởi Anh cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17.
Trong thời kỳ đỉnh cao, đây là đế quốc lớn nhất trong lịch sử, trong hơn một thế kỷ, Thực dân Anh là siêu cường hàng đầu trên thế giới.[1] Tính tới năm 1922, đế quốc Anh có dân số khoảng 458 triệu người, chiếm 1/8 dân số thế giới lúc đó[2] và bao phủ diện tích hơn 13,000,000 dặm vuông (33,000,000 km2): xấp xỉ một phần tư tổng diện tích toàn cầu.[3] Những di sản về văn hóa, ngôn ngữ của đế quốc Anh được truyền bá rộng răi. Tại đỉnh cao của quyền lực, đế quốc Anh thường được ví với câu nói "mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh".
Trong suốt thời kỳ khai phá ở thế kỷ 15 và 16, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đi tiên phong trong phong trào khai phá thuộc địa của châu Âu và trong quá tŕnh đó đă xây dựng nên một đế chế rộng lớn. Chứng kiến sự thịnh vượng những đế quốc thực dân này dành được, Anh, Pháp và Hà Lan bắt đầu xây dựng thuộc địa và những mạng lưới giao thương tại châu Mỹ và châu Á.[4] Những cuộc chiến tranh với Pháp và Hà Lan trong thế kỷ 17 và 18 đă giúp Anh trở thành một cường quốc thuộc địa thống trị ở Bắc Mỹ và Ấn Độ. Nhưng đồng thời, uy thế của Anh (và cả Pháp[5]) bị hạn chế ở châu Âu sau năm 1763, trước sự phát triển lớn mạnh của các cường quốc phía Đông như Phổ, Áo và Nga.[6][7] Sau khi bị mất mười ba thuộc địa sau cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ năm 1783 đă giáng một đ̣n mạnh vào Anh Quốc, cuộc chiến đă tước đi của Anh Quốc phần lớn những thuộc đia đông dân nhất. Bất chấp bước thụt lùi, sự chú ư của Anh sau đó chuyển sang châu Phi, châu Á và Thái B́nh Dương. Sau thất bại của Napoléon Bonaparte năm 1815, Anh Quốc đă tận hưởng một thế kỷ thống trị không có đối thủ, đồng thời mở rộng phạm vi trên khắp toàn cầu. Nhiều thuộc địa của dân da trắng được trao quyền tự trị, một vài trong số đó được phân lại là quốc gia tự trị.
Sự phát triển lớn mạnh của Đức và Hoa Kỳ đă làm sói ṃi sự dẫn đầu về kinh tế của Anh Quốc cuối thế kỷ 19. Sau đó những căng thẳng về kinh tế và chính trị giữa Đức và Anh là những nguyên nhân chính dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ nhất, trong đó Anh Quốc phải dựa chủ yếu vào đế chế của ḿnh. Cuộc chiến đă tạo ra những khó khăn về tài chính cho Anh Quốc, và dù đế quốc Anh đă đạt được sự mở rộng lănh thổ lớn nhất sau cuộc chiến, nhưng Anh Quốc không c̣n là một cường quốc số một về quân sự và công nghiệp. Chiến tranh thế giới lần hai chứng kiến việc các thuộc địa Anh ở Đông Nam Á bị quân phiệt Nhật Bản chiếm đóng, điều này đă làm tổn thương uy tín của Anh Quốc và đẩy nhanh quá tŕnh sụp đổ của đế chế này. Trong ṿng hai năm cuối cuộc chiến, Anh Quốc phải trao quyền độc lập cho thuộc địa đông dân và giá trị nhất là Ấn Độ.
Trong những năm c̣n lại của thế kỷ 20, phần lớn những thuộc địa của đế quốc Anh dành được độc lập như là một phần của phong trào phi thuộc địa hóa của các cường quốc châu Âu, kết thúc với việc trao trả Hồng Kông về cho Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa năm 1997. Sau độc lập, nhiều quốc gia đă gia nhập Khối thịnh vượng chung Anh, một hiệp hội tự do của các quốc gia độc lập. 16 quốc gia có chung một lănh đạo, đó là nữ hoàng Elizabeth II của Anh. 14 thuộc địa khác vẫn chịu sự quản lư của Anh, những thuộc địa đó được gọi là lănh thổ hải ngoại Anh Quốc.
Nguồn gốc (1497-1583)
Một bản sao của The Matthew, chiếc thuyền mà thuyền trưởng John Cabot đă dùng để đến Tân thế giới trong lần khàm phá thứ hai của ḿnh
Nền tảng của Đế quốc Anh được đặt khi Anh và Scotland được phân thành hai vương quốc riêng biệt. Vào năm 1496 vua Henry VII của Anh , sau những thành công của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong việc thăm ḍ ở nước ngoài, hạ sĩ John Cabot đă dẫn đầu một chuyến đi để khám phá một tuyến đường tới châu Á thông qua Bắc Đại Tây Dương .[8] Cabot khởi hành năm 1497, năm năm sau khi phát hiện ra châu Mỹ và mặc dù thành công đổ bộ lên trên bờ biển của Newfoundland, nhưng lại không cố gắng để t́m một thuộc địa (nhầm tưởng như Christopher Columbus, rằng ông đă đạt đến châu Á) [9]. Cabot dẫn đầu một chuyến đi đến châu Mỹ vào năm sau đó nhưng không được nghe nói về tàu của ḿnh lần nữa.[10]
Không có nỗ lực hơn nữa để thiết lập các thuộc địa Anh ở châu Mỹ cho đến khi nữ hoàng Elizabeth I trị v́, trong những thập niên cuối của thế kỷ 16.[11] Cuộc Cải Cách Tin Lành đă khiến Anh và Công Giáo Tây Ban Nha trở thành kẻ thù.[8] Năm 1562 , Hoàng Gia Anh đă xử phạt John Hawkins và Francis Drake v́ tham gia vào các cuộc tấn công nô lệ chống lại tàu Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngoài khơi bờ biển Tây Phi [12] với mục tiêu đột nhập vào hệ thống thương mại Đại Tây Dương. Nỗ lực này bị từ chối và sau đó, chiến tranh Anh-Tây Ban Nha xảy ra, Elizabeth cho vay phước lành của ḿnh để tiếp tục chống lại các cuộc tấn công cảng Tây Ban Nha ở châu Mỹ và vận chuyển đă được trả lại vượt Đại Tây Dương, chất đầy kho báu của Tân thế giới.[13] Trong khi đó, những nhà văn có ảnh hưởng như Richard Hakluyt và John Dee (những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "British Empire")[14] đă bắt đầu cho việc thành lập một đế chế riêng của nước Anh. Đến thời điểm này, Tây Ban Nha đă cố thủ ở châu Mỹ, Bồ Đào Nha đă thiết lập các cuộc thương mại và thiết lập các pháo đài từ bờ biển châu Phi và Brasil sang Trung Quốc, và Pháp đă bắt đầu giải quyết sông Saint Lawrence, sau này trở thành Tân Pháp .[15]
Thuộc địa Ái Nhĩ Lan
Mặc dù là một người đến trễ so với người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nhưng Anh đă tham gia vào việc giải quyết Ai Len vào những năm cuối thế kỷ 16, dựa trên tiền đề là những cuộc xâm lăng Ai Len của nhà Norman vào năm 1171.[16][17] Nhiều người đă đóng góp vào công cuộc thuộc địa hóa Ireland và cũng đóng một phần trong các thuộc địa đầu tiên ở Bắc Mỹ, đặc biệt là một nhóm được gọi là "những người đàn ông miền Tây", trong đó bao gồm Humphrey Gilbert, Walter Raleigh, Francis Drake, John Hawkins, Richard Grenville và Ralph Lane.[18]
"Đệ nhất đế chế" (1583-1783)
Bài chi tiết: Đế quốc Thực dân Anh
Năm 1578, Nữ hoàng Elizabeth I trao giấy chứng nhận cho Humphrey Gilbert để khám phá và thăm ḍ ở nước ngoài.[19] Năm đó, Gilbert khởi hành đi Tây Ấn với ư định tham gia vào việc cướp biển và thiết lập một thuộc địa ở Bắc Mỹ, nhưng đoàn thám hiểm đă bị hủy bỏ trước khi nó đă vượt qua Đại Tây Dương.[20][21] Năm 1583 ông bắt tay vào một nỗ lực thứ hai, vào dịp này các ḥn đảo của Newfoundland đă chính thức được Anh tuyên bố chủ quyền, mặc dù không có người định cư bị bỏ lại phía sau. Gilbert đă không sống sót trong cuộc hành tŕnh trở về Anh, và được kế tục bởi em trai sinh đôi của ḿnh, Walter Raleigh, người đă cấp giấy chứng nhận bởi Elizabeth năm 1584. Cuối năm đó, Raleigh thành lập các thuộc địa trong thành phố Roanoke trên bờ biển mà ngày nay là Bắc Carolina, tuy nhiên sự thiếu vật tư khiến việc khai phá bị thất bại.[22]
Năm 1603, Vua James VI của Scotland lên ngôi vua Anh và một năm sau đó, ông đă đàm phán với người Tây Ban Nha kư vào Hiệp ước London, chấm dứt t́nh trạng thù địch lâu nay. Vào thời điểm này việc ḥa b́nh được Anh chú trọng, chuyển đổi từ các cuộc phá hoại những cơ sở hạ tầng thuộc địa của các quốc gia khác cho các doanh nghiệp trong nước thành lập thuộc địa ở nước ngoài.[23] Đế chế Anh bắt đầu được h́nh thành trong những năm đầu thế kỷ 17, với việc Anh lập vài thuộc địa ở Bắc Mỹ và các đảo nhỏ của vùng Caribbean, và thành lập những công ty tư nhân, đáng chú ư nhất là Công ty Đông Ấn Anh, để quản lư các thuộc địa và thương mại ở nước ngoài. Thời gian này, cho đến khi mất Mười ba thuộc địa sau khi cuộc chiến tranh giành độc lập của Mỹ kết thúc vào cuối thế kỷ 18 được gọi là "Đế chế Anh đầu tiên".[24]
Châu Mỹ, châu Phi và những cuộc thương mại nô lệ
Bài chi tiết: Anh thuộc địa hóa châu Mỹ, Châu Mỹ thuộc Anh, Bắc Mỹ thuộc Anh, và Mười ba thuộc địa
Caribbean ban đầu là thuộc địa quan trọng và hấp dẫn nhất của Anh,[25] nhưng không phải trước khi nỗ lực của cuộc thuộc địa hóa thất bại. Một cố gắng để lập thuộc địa tại Guiana chỉ kéo dài trong ṿng hai năm, và họ đă thật bại trong khi thực hiện mục tiêu chính là t́m vàng.[26] Thuộc địa ở St Lucia (1605) và Grenada (1609) cũng nhanh chóng bọc kín, nhưng khu định cư được thiết lập thành công tại St. Kitts (1624), Barbados (1627) và Nevis (1628).[27] Các thuộc địa sớm thông qua hệ thống các đồn điền đường thành công được sử dụng bởi người Bồ Đào Nha ở Brasil, mà phụ thuộc vào sức lao động của nô lệ, và tại các tàu Hà Lan, họ đổi nô lệ và nhận lấy đường.[28] Để đảm bảo rằng, lợi nhuận thương mại vẫn nằm trong tay Anh, Quốc hội đă ra sắc lênh năm 1651 với việc chỉ có tàu Anh được đi lại trong vùng biển thuộc quyền kiểm soát của Anh. Điều này đă gây nên sự xích mích với Hà Lan, và một loạt những cuộc giao chiến đă diễn ra giữa hai cường quốc hàng hải, kết quả đă giúp Hà Lan thống trị nền thương mại thế giới và tăng vị trí của Anh tại châu Mỹ đến với Hà Lan.[29] Năm 1655, Anh sáp nhập đảo Jamaica từ Tây Ban Nha và thành công trong việc chinh phục Bahamas.[30]
Thuộc địa Anh tại Bắc Mỹ thế kỷ 18
Khu định cư đầu tiên của Anh tại châu Mỹ được thành lập tại Jamestown năm 1607, đứng đầu là thuyền trưởng John Smith và quản lư bởi công ty Virginia. Bermuda được Anh tuyên bố chủ quyền sau vụ đắm chiếc kỳ hạm của công ty và năm 1615 đă được chuyển giao sang công ty Somers Isles.[31] Điều lệ các Công ty Virginia của đă bị thu hồi năm 1624 và trực tiếp kiểm soát bởi toàn quyền Virginia, do đó đă thành lập các thuộc địa tại Virginia.[32] Công ty Newfoundland đă được thành lập năm 1610 với mục đích tạo ra một giải quyết hậu quả lâu dài trên Newfoundland, nhưng phần lớn đều không thành công.[33] Năm 1620, Plymouth để làm nơi trú ẩn của những tín đồ Thanh giáo sau này được biết đến như là những người hành hương..[34] Chạy trốn từ những cuộc đàn áp tôn giáo sẽ là động cơ cho nhiều cuộc vượt biển gian nan để đến với vùng đất hứa: Maryland được thành lập năm 1634 để làm nơi cứ ngụ của giáo dân Công giáo La Mă, Rhode Island (1636) được thành lập làm nơi cư ngụ cho những người khác đạo được khoan dung, Connecticut (1639) được thành lập cho những người theo chủ nghĩa giáo đoàn. Tỉnh Carolina được thành lập năm 1663. Với việc đồn Amsterdam đầu hàng năm 1634, Anh đă dành quyền kiểm soát thuộc địa Tân Hà Lan của Hà Lan và đổi tên thành New York. Điều này được chính thức hóa trong cuộc đàm phán sau cuộc chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ hai, trong trao đổi cho Suriname.[35] Trong năm 1681, thuộc địa Pennsylvania đă được thành lập bởi William Penn. Các thuộc địa Mỹ có sức hút tài chính với thành công ít hơn so với những vùng biển Caribbean, nhưng có diện tích lớn đất nông nghiệp tốt và thu hút số lượng lớn hơn của người di cư người Anh ưa thích khí hậu ôn đới của nó.[36]
Năm 1670, vua Charles II cấp một điều lệ cho Công ty Vịnh Hudson, cấp độc quyền về thương mại lông thú trong những ǵ sau đó đă được biết đến đất của Rupert, một đoạn lớn của lănh thổ mà sau này sẽ tạo nên một tỷ lệ lớn cho lănh thổ Canada ngày nay. Pháo đài và các khu thương mại thành lập bởi Công ty thường xuyên thực hiện những cuộc tấn công vào thuộc địa Pháp, những người đă thành lập thuộc địa liền kề với Tân Pháp.[37]
Sơ đồ Tam giác thương mại
Hai năm sau đó, Công ty Hoàng gia châu Phi đă được thành lập, được cấp giấy phép độc quyền từ vua Charles trong việc thương mại nô lệ cho các thuộc địa của Anh tại Caribbean. Ngay từ đầu, chế độ nô lệ là cơ sở của Đế chế Anh ở Tây Ấn. Cho đến khi băi bỏ việc buôn bán nô lệ vào năm 1807, Anh chịu trách nhiệm cho việc vận chuyển 3,5 triệu nô lệ châu Phi đến châu Mỹ, 1/3 của tất cả các nô lệ vận chuyển qua Đại Tây Dương.[38] Để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại này, nhiều pháo đài đă được thành lập trên bờ biển Tây Phi, chẳng hạn như James Island, Accra và Bunce Island. Tại vùng biển Caribbean thuộc Anh, tỷ lệ phần trăm của dân số người da đen đă tăng từ 25% năm 1650 lên khoảng 80% vào năm 1780, và trong 13 thuộc địa từ 10% đến 40% so với cùng kỳ (phần lớn ở các thuộc địa phía Nam).[39] Đối với các thương nhân, thương mại nô lệ cực kỳ có lợi nhuận, và đă trở thành một trụ cột kinh tế lớn cho các thành phố phía tây Anh là Bristol và Liverpool, h́nh thành các góc thứ ba của cái gọi là tam giác thương mại với châu Phi và châu Mỹ. Đối với các điều kiện vận chuyển, khắc nghiệt và không hợp vệ sinh trên tàu nô lệ và chế độ ăn uống nghèo nàn có nghĩa rằng tỷ lệ tử vong trung b́nh là cứ bảy người th́ một người tử nạn.[40]
Trong năm 1695, quốc hội Scotland đă cấp một điều lệ cho Công ty Scotland, được thành lập để giải quyết một vấn đề năm 1698 trên eo đất Panama, với việc xây dựng một kênh đào ở đó. Họ bị quân Tây Ban Nha láng giềng tại Tân Granada và bị ảnh hưởng bởi những cơn sốt rét king hoàng, thuộc địa này đă bị bỏ rơi trong hai năm sau đó. Đề án Darien là một thảm họa tài chính cho Scotland —1/4 vốn của Scotland— đă bị mất[41] trong khi các doanh nghiệp Scotland hy vọng thiết lập một đế chế ở nước ngoài. Nó cũng có hậu quả chính trị lớn, thuyết phục chính phủ của cả hai nước Anh và Scotland thành lập một liên minh, chứ không phải là hai vương quốc tách biệt.[42] Điều này đă được thực hiện năm 1707 với việc một hiệp ước liên minh được kư kết, thành lập nên Liên hiệp Anh.
Bookmarks