TP San Jose:
Theo tin tức vừa nhận được từ ban tổ chức "Lễ Thượng Kỳ Đầu Năm Xuân Nhâm Th́n & Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Trần Văn Hương", sinh hoạt cộng đồng người Việt sẽ có buổi Lễ Thượng Kỳ Đầu Năm Nhâm Th́n và Lễ Tưởng Niệm Cố Thổng Thống Trần văn Hương lúc 9 giờ sáng ngày Chủ Nhật 29 tháng 1 năm 2012 (nhằm ngày mùng 7 Tết Âm Lịch), địa điểm tại Trung Tâm Văn Hoá Việt-Mỹ
2290 Tully Rd, San Jose Ca 95122 (Đối diện Macy's trong khu Eastridge Mall).
TỔNG THỐNG TRẦN VĂN HƯƠNG
(1902-1982)
TẤM GƯƠNG LĂNH ĐẠO LẪM LIỆT VÀ CAO CẢ
Tác giả: Phạm Phong Dinh
1.
Trong số những vị lănh đạo cao nhất của nước Việt Nam Cộng Ḥa từ năm 1948 đến ngày 30.4.1975: Quốc Trưởng Bảo Đại, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu,...Tổng Thống Trần Văn Hương và Tổng Thống Dương Văn Minh, th́ người đại diện cho tầng lớp sĩ phu yêu nước lúc nào cũng mang mễn trong ḷng lư tưởng xả thân phục vụ cho dân quốc gia dân tộc chính là Tổng Thống Trần Văn Hương. Nếu Quốc Trưởng Bảo Đại là hậu duệ của vương triều Nguyễn có quá khứ 144 năm lừng lẫy (1802 – 1945), Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm là con nhà quan lại và khoa bảng, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Tổng Thống Dương Văn Minh thăng tiến từ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, th́ Tổng Thống Trần Văn Hương xuất thân từ giới trí thức b́nh dân nghèo, mà với một ư chí cao cả, một trái tim nồng nàn t́nh đất nước, một lư tưởng quốc gia chân chính, kẻ sĩ áo vải như ông đă trở thành một biểu tượng đầy hào khí và là niềm kiêu hănh của dân tộc Việt Nam trong công cuộc chiến đấu chống lại đại khối cộng sản quốc tế. Nhiều chính khách, kư giả, nhà báo, giáo chức, cấp chỉ huy Quân Đội,... rất tự hào khi nhận ḿnh là học tṛ của ông và đều kính cẩn thưa với người hằng dạy dỗ văn hóa và đạo đức cho ḿnh bằng tiếng THẦY trân trọng. T́nh cảm đầy lễ giáo đó làm cho chúng ta nhớ lại h́nh ảnh của nhà nho yêu nước Chu Văn An, một bậc đại sĩ thời nhà Trần cách nay đă 700 năm, mà đă đào tạo cho đất nước nhiều nhân tài lỗi lạc. Những người không phải là học tṛ của Tổng Thống Hương th́ thưa với ông là CỤ, để tỏ ḷng cung kính nhà lănh đạo tài đức song toàn của quốc gia.
Những ngày cuối tháng 4.1975, cơn lửa loạn xâm lược của nhiều quân đoàn cộng sản Bắc Việt đă tràn vào gần đến ngưỡng cửa Thủ Đô Sài G̣n. Hàng trăm chiến xa T 54, PT 76, hàng đoàn dài dằng dặc xe vận tải kéo theo hàng ngàn khẩu đại bác đủ mọi kích cỡ, hàng ngàn loại súng pḥng không và binh đội Bắc Việt rùng rùng tiến về phương Nam trên những con đường Quốc Lộ rộng thênh thang, nghênh ngang như giữa chốn không người. Sau cuộc rút quân của Quân Đoàn II trên cao nguyên từ ngày 16.3.1975, rồi Quân Đoàn I một tuần sau đó, một lực lượng hùng hậu 18 sư đoàn bộ binh Miền Bắc và nhiều đơn vị yểm trợ pháo binh, pḥng không, chiến xa đă h́nh thành thế bao vây bốn bề lửa cháy uy hiếp các đơn vị của Quân Đoàn III Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.Để đương đầu với một đạo quân đông đảo, được trang bị vũ khí tối tân, tiếp liệu đạn dược vô giới hạn của binh đội cộng sản Bắc Việt, về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa có 8 sư đoàn để nghênh chiến với 18 sư đoàn cộng quân, trong cái thế một chống hai. Dẫu biết rằng vận nước đă đến hồi tuyệt vọng, nhưng người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vẫn giữ vững tay súng và thề chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng. Mùa hè đỏ lửa 1972, cũng một mức độ kinh khiếp và đất nước cũng nghiêng ngă như thế này, toàn Quân Lực đă kiêu dũng đánh bể nát tất cả mũi tấn công của đại quân Bắc Việt, buộc chúng phải cúi mặt xin ḥa. Th́ trong thời điểm cùng kiệt như thế này, người lính của chúng ta vẫn nuôi trong tim một niềm tin, nếu các anh nhận được sự d́u dắt và lănh đạo từ những cấp chỉ huy xứng đáng. Cuộc chiến thắng vang dội của Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại mặt trận Long Khánh – Xuân Lộc từ ngày 9.4.1075 – 21.4.1975 là một chứng minh rơ ràng và hùng hồn nhất. Những cuộc triệt thoái của Quân Đoàn II và Quân Đoàn I trong tháng 3.1975 chỉ tạo một cơ hội cho quân đội Bắc Việt có khoảng trống tiến xuống phương Nam, chứ không phải do đạt được bằng chiến thắng quân sự. Cấp chỉ huy địch đă ngỗ ngáo trang bị trong tư tưởng rằng quân cộng chiến thắng quân ta trên mọi chiến trường, cho nên khi đụng phải mỗi một Sư Đoàn 18 Bộ Binh với quân số đă hao hụt đến 30% mà vẫn đánh nát tan Quân Đoàn 4 của chúng với 10,000 cán binh bị giết, th́ cấp chỉ huy cộng quân mới cay đắng nhận ra rằng, khó có thể bẻ găy ư chí chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bằng vũ lực.
Ngày 21.4.1975, trong lúc Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo cũng chiến sĩ của ông đang âm thầm triệt thoái ra khỏi thị xă Xuân Lộc theo lệnh của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III về bảo vệ Biên Ḥa, th́ một sự kiện lớn xảy ra đă làm rúng động toàn quân. Trước đó, để đánh đ̣n cân năo và khai thác sự nôn nóng bỏ chạy của người Mỹ trong một h́nh thái có thể dàn xếp được, phía cộng sản đă ỡm ờ tung tin rằng một giải pháp thương thuyết có thể được cứu xét, nếu Tổng Thống Thiệu từ chức và nhường trách nhiệm lại cho những nhân vật “biết điều” hơn. Ai mà không biết Hà Nội muốn ám chỉ thành phần chủ ḥa (vàrất sớm sẽ chủ bại), mà đứng đầu là cựu tướng Dương Văn Minh, vốn chịu ảnh hưởng rất nặng của những nhà sư nằm vùng Việt cộng trong chùa Ấn Quang. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với chủ trương Bốn Không: Không Chấp Nhận Cộng Sản – Không Cắt Đất Cho Cộng Sản – Không Trung Lập -Không Liên Hiệp Với Cộng Sản, trong suốt hai nhiệm kỳ lănh đạo quốc gia, ông luôn trung thành với đường lối cứng rắn đó. Ngày nào mà Tổng Thống Thiệu c̣n tại chức th́ ngày đó cộng sản khó mà chiếm được Việt Nam Cộng Ḥa bằng bạo lực. Phía Hoa Kỳ, nói đúng hơn dân Hoa Kỳ đă quá mỏi mệt v́ cuộc chiến kéo dài, số tử vong của của lính Mỹ lên cao, cộng với những cuộc biểu t́nh của phản chiến dưới sự phụ họa của truyền thông, đă áp lực chính phủ Hoa Kỳ phải rút quân lập tức, dù có bắt tay với quỷ và bỏ rơi đồng minh cũng mặc. Thông qua Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ, Tổng Thống Thiệu đă được những người gọi là bạn nhắn nhe lẫn đe đọa bóng gió những hậu quả an toàn cá nhân, nếu ông vẫn giữ lập trường cứng rắn. Đó là chuyện mà họ đă làm với Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm 12 năm về trước.
Ngày 21.4.1975, Tổng Thống Thiệu đă lên Đài Truyền H́nh Việt Nam đọc một bài diễn văn dài xin từ chức, xin quốc dân đồng bào hăy thông cảm và tha lỗi cho ông, ông xin được trở về với Quân Đội để tiếp tục làm nhiệm vụ của một người lính. Ông kêu gọi đồng bào, mọi giới chính trị và Quân Đội hăy tiếp tục tín nhiệm và ủng hộ cụ Trần Văn Hương trong cương vị Tổng Thống theo hiến định. Tổng Thống Thiệu cũng đă thẳng thắn chỉ trích chính sách thiếu nhất quán và phi đạo đức của người Mỹ, đă đối xử tàn tệ với người đồng minh của họ, thiếu can đảm nhận trách nhiệm và đă đổ vấy cho nước Việt Nam Cộng Ḥa bé nhỏ. Một quốc gia với một quân lực hùng mạnh nhất thế giới như vậy, không những không giải quyết được cuộc chiến tranh Việt Nam mà c̣n trở mặt trút mọi lầm lỗi lên 18 triệu quân dân Việt Nam Cộng Ḥa, rồi phủi tay ra đi. Tổng Thống Thiệu đă nói: ”Các ông đă đổ trách nhiệm cho Việt Nam Cộng Ḥa điều mà các ông không làm được và bỏ chạy, có phải đó là niềm hănh diện của một nước Hoa Kỳ hùng mạnh hay không”. Đến lúc này th́ Tổng Thống Thiệu đă nhận rơ ra rằng, chính sách đối ngoại cố hữu của Hoa Kỳ là không có thù và không có bạn, chỉ có quyền lợi của Hoa Kỳ mà nó phải ḥa nhập nhịp nhàng theo với những biến chuyển thời đại và đường lối áp dụng cần thiết.
Trong bối cảnh đất nước nghiêng ngửa giữa cơn hoạn nạn như vậy, giặc đỏ đă bao vây trùng điệp Thủ Đô Sài G̣n, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương nhận từ tay người Tổng Thống tiền nhiệm một di sản quá nặng nề và tơi tả. Tổng Thống Trần Văn Hương đă một phần nào biết trước sự thật đau ḷng này. Trước đó, tối ngày 18.4.1975, đại sứ Hoa Kỳ Martin đă thông báo với đại sứ Pháp Mérillon rằng Hoa Kỳ sẽ buông Việt Nam. Ông đại sứ Mérillon đă chuyển lời nói này cho Phó Tổng Tổng Thống Trần Văn Hương. Cụ đă trả lời:
- Ông đại sứ à, tôi đâu có ngán Việt cộng. Chúng nó muốn đánh, tôi đánh tới cùng. Tôi không muốn lưu vong xứ người. Nếu trời hại nước tôi, tôi xin thề ở lại và mất theo nước này.
Ở tuổi 71, sức khỏe suy kém, đôi chân phải nhờ đến chiếc gậy chống, vị Tổng Thống thứ ba của hai nền Cộng Ḥa vẫn mạnh mẽ khẳng định cùng với quân dân Việt Nam Cộng Ḥa tiếp tục chiến đấu. Ngày 22.4.1975, trong cương vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Tổng Thống Hương đă kư ngay nghị định tăng thêm 10,000 đồng phụ cấp cho tất cả quân nhân tác chiến để xác định rơ tấm ḷng thương mến của cụ dành cho người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và nâng cao tinh thần chiến đấu của Quân Đội, sẵn sàng quyết chiến với giặc trong cuộc tử sinh cuối cùng. Đồng thời cụ cũng ra lệnh ngừng tức khắc việc cấp giấy xuất ngoại cho công dân Việt Nam Cộng Ḥa nếu không có sự chuẩn thuận của Phủ Tổng Thống. Không có lư do ǵ trong lúc người chiến sĩ gian nan của chúng ta đang trần thân đổ máu ngăn chống giặc, mà cụ lại có thể cho phép một cuộc chạy trốn hèn mạt như vậy. Đích thân Tổng Thống Hương duyệt xét từng hồ sơ xuất ngoại một, để bảo đảm rằng không có sự lo lót hối lộ trong đó.
Ngày 25.4.1975, Tổng Thống Hương đến Căn Cứ Long B́nh để khen ngợi chiến thắng của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, vinh thăng Thiếu Tướng cho Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, cũng như ân thưởng cấp bậc và huy chương cho tất cả chiến sĩ hữu công. Trước đó vài ngày, cụ cũng đă bay xuống Thủ Thừa để tuyên dương công trạng của Trung Đoàn 12 Bộ Binh, thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh và đặc cách thăng cấp Đại Tá tại mặt trận cho Trung Tá Đặng Phương Thành, Trung Đoàn Trưởng. Không chỉ chăm lo việc binh bị và đời sống của chiến sĩ, mà cụ Hương c̣n góp tay vào tất cả mọi lănh vực xă hội khác trong quyền hạn của ḿnh. Tháng 3.1975, với tư cách Phó Tổng Thống, cụ Hương đă đến hội trường Trường Sư Phạm Vĩnh Long, để chủ tọa và chứng kiến lễ chấp nhận thành lập Viện Đại Học Long Hồ cho ba tỉnh Vĩnh Long, Kiến Phong và Vĩnh B́nh, do ông Ngô Khắc Tĩnh, Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục kư trước mặt cụ. Năm 1972, chính cụ Hương đă tích cực xin với Tổng Thống Thiệu cho phép tất cả những giáo chức nằm trong t́nh trạng tổng động viên được trở về dạy học với tư cách biệt phái, để bảo đảm rằng mầm non của đất nước vẫn được chăm lo và vun bón. Đồng thời tất cả các sinh viên sĩ quan gốc y, nha, dược dân sự đều được trở về hoàn tất học tŕnh trong bộ quân phục sinh viên sĩ quan Quân Y, để bảo đảm rằng Quân Đội sẽ được cung ứng đầy đủ chuyên viên y tế mà đang rất thiếu thốn tại mọi đơn vị. Nễ nang đạo đức cao trọng của một chiến sĩ quốc gia chân chính, Tổng Thống Thiệu đă nhanh chóng chấp nhận ngay những đề nghị thiết thực đầy ḷng nhân ái và nh́n xa trông rộng này. T́nh trạng nhũng lạm, hối lộ trong Quân Đội và chính quyền đă là một vấn đề nghiêm trọng mà Tổng Thống Thiệu đă phải chọn Phó Tổng Thống Hương làm Chủ Tịch Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng. Rồi đến lượt cụ Hương chọn Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, một vị tướng nổi tiếng trong sạch, công chính, làm Phụ Tá Thanh Tra.
Cụ Trần Văn Hương sinh năm 1904 tại làng Long Châu thuộc quận châu thành Vĩnh Long trong một gia đ́nh thanh bần. Cậu học sinh Hương thuở nhỏ rất thông minh và hiếu học, nên ông bà thân sinh của cậu đă tằn tiện chắt mót hy sinh để có thể gửi cậu ra măi tận Hà Nội học Trường Cao Đẳng Sư Phạm. Chúng ta biết rằng, thời Pháp thuộc, một học sinh lấy được bằng Cao Đẳng Tiểu Học đă quá khó khăn, rồi phải vất vả đến như thế nào để đậu được bằng Thành Chung (Diplome), tương đương Đệ Tứ Trung Học. Người Pháp chủ trương hạn chế trí thức Việt Nam, và mở mang dân trí thuộc địa một cách nhỏ giọt, nên những học sinh thật xuất sắc mới có thể đậu được bằng Tú Tài II (Baccalaureat). Để được nhận vào Trường Y Khoa hay Cao Đẳng sư Phạm th́ lại là một con đường dốc đứng gian nan đến như thế nào. Sau khi tốt nghiệp, người giáo sử trẻ Trần Văn Hương được bổ nhiệm về dạy Trường Le Myrle de Vilers ở Mỹ Tho. Người thầy giáo bồi hồi trong sung sướng được trở về d́u dắt lớp đàn em ngay tại ngôi trường xưa mà từ đó ông đă theo học mấy năm trước. Trong những năm 1943 – 1945, thầy giáo Hương dạy môn văn chương và luân lư ở trường. Một thời gian sau ông được đổi lên làm Đốc Học tỉnh Tây Ninh, một chức vụ đầu tỉnh về ngành giáo dục.
Xuất thân từ trường Pháp, bằng cấp giáo dục của chính quyền bảo hộ Pháp, với tư cách là một giáo sư Trung Học nhận được nhiều ân huệ vật chất của Pháp đủ để sống một cuộc đời thong dong, nếu thầy Hương chịu khuất nhục cúi đầu làm nô lệ cho chúng. Đau ḷng trước cảnh đất nước triền miên rên siết dưới ách thực dân đă hơn hai phần ba thế kỷ, trái tim của người giáo sư trẻ bừng bừng tiếng gọi cứu quốc. Mùa thu năm 1945, Việt Minh, tổ chức cộng sản trá h́nh của cộng sản Việt Nam, đă nổi dậy cướp chính quyền khắp ba Kỳ của Việt Nam. Trần Văn Giàu, một cán bộ cộng sản Nam Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ, đă tiếp xúc và xin cử giáo sư Hương làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Kháng tỉnh Tây Ninh, một chức vụ tương đương với Tỉnh Trưởng. Nhưng làm việc với Việt Minh được mấy tháng, giáo sư Hương đă nhận thấy ngay bộ mặt thật của cộng sản sau chiếc mặt nạ kháng chiến. Chúng chủ trương khủng bố, ám sát và thủ tiêu những người yêu nước có tinh thần quốc gia, giáo sư Hương xin từ chức và t́m cách bỏ về thành phố t́m một con đường kháng chiến khác. Ban đầu ông giữ một chân bán thuốc Tây cho nhà thuốc của dược sĩ Trần Kim Quan ở góc đường Lê Lợi và chợ Bến Thành. Tháng 11.1964, chính phủ dân sự của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu đă mời cựu giáo sư Trần Văn Hương lập nội các, sau khi được Hội Đồng Tướng Lănh trao trách nhiệm lèo lái quốc gia lại cho giới dân sự.
Sau khi Tổng Thống Diệm đă bị hạ sát chết ngày 2.11.1963, th́ thời gian kế tiếp là một loạt biến động và hỗn loạn trong chính t́nh Việt Nam Cộng Ḥa, Hà Nội nhân cơ hội đó cho tăng cường xâm nhập bộ đội lên đến hàng trăm ngàn người, đồng thời đẩy mạnh kế hoạch phá thối chính trị Miền Nam. Thủ Tướng Hương với chính sách không nhân nhượng những yêu sách vô lư của Phật giáo mà ông biết rơ có sự nhúng tay của các phần tử cộng sản trà trộn, đă vấp phải sự chống đối của nhiều tăng ni. Chính quyền của Thủ Tướng Hương đă rất kiên nhẫn chịu đựng những công kích các kẻ hở của thời chuyển tiếp u ám từ phía đối lập và Phật giáo để dồn nỗ lực đối phó với cuộc xâm lược của khối cộng. Thủ Tướng Hương chủ trương tôn giáo không dính líu đến chính trị nên đă cương quyết không đáp ứng thỏa đáng những đ̣i hỏi có tính cách chính trị của nhóm Phật giáo. Người ta đă không nhận ra rằng những việcï cấp thiết nhất phải là cùng góp tay ngăn chống làn sóng cộng sản trước đă. Những tay t́nh báo chiến lược cộng sản giả dạng nhà tu đă khai thác, kích động tăng ni xuống đường chống phá chính quyền quốc gia. Đương đầu với giặc ngoài chiến trường không khó, nhưng khó là ở chỗ đề pḥng những cú đâm lén từ phía sau lưng. Dưới áp lực đó, nên đến ngày 28.1.1965 Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu đành phải thay thế ông Trần Văn Hương bằng bác sĩ Phan Huy Quát.
Thủ Tướng Phan Huy Quát không xa lạ ǵ với ông Hương, v́ cả hai vị đều là những nhân sĩ đồng tâm chí trong nhóm Caravelle năm 1960, c̣n được gọi là nhóm Tự Do Tiến Bộ. Năm 1960, nền Đệ Nhất Cộng Ḥa và Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm gặp nhiều khó khăn trong việc ổn định t́nh h́nh chính trị, khi dân chúng bắt đầu ta thán những sự lạm quyền quá đáng từ những anh em của ông. T́nh trạng này ít nhiều đă khơi thêm hố ngăn cách giữa dân chúng và chính quyền, mà chỉ có lợi cho cộng sản Hà Nội. Chiến tranh du kích do cộng sản phát động đă ngày càng lan rộng, cán bộ cộng sản luôn t́m dịp móc nối và thuyết phục những nhóm chống đối chính quyền. Băn khoăn trước t́nh thế nguy hiểm đó, một nhóm trí thức, nhân sĩ quốc gia đă họp lại với nhau t́m một phương cách mềm dẽo và hợp lư khả dĩ thuyết phục được chính quyền lắng nghe nguyện vọng từ phía đối lập, trong đó gồm những chính khách nặng ḷng với đất nước như : Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Ngọc An, Trần Văn Tuyên, Lê Ngọc Chấn, Trần Văn Văn, Huỳnh Kim Hữu, Phan Văn Lư, Nguyễn Tiến Hỉ, Lê Quang Luật, Lương Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, linh mục Hồ Văn vui. Đặc biệt hơn cả là sự tham gia của ông Trần Văn Đỗ, chú ruột của bà phu nhân cố vấn Ngô Đ́nh Nhu. Ngày 26.4.1960, tất cả là 19 vị nhân sĩ đối lập của nhóm Tự Do Tiến Bộ đă họp tại nhà hàng Caravelle, nên c̣n được gọi là Nhóm Caravelle. Một bức thư được viết và gửi cho Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Những thuật ngữ gửi cho vị nguyên thủ quốc gia đă được cẩn thận viết với lối văn ḥa nhă, cung kính và lễ độ, đưa ra những nhận xét về t́nh h́nh đất nước và đề nghị chính phủ một số biện pháp để cải thiện t́nh h́nh, mở rộng nền tự do dân chủ. Một khi người dân được hưởng những quyền lợi đó, họ sẽ nỗ lực để bảo vệ chính phủ Miền Nam chống lại chế độ độc tài Miền Bắc. Chính là nhân dân sẽ tranh đấu bảo vệ một chính phủ dân chủ và cho những quyền lợi tự do thực sự của họ. Thật đáng tiếc, bức thư được gửi đi đă không được trả lời. Vài ngày sau có lệnh bắt giam 19 nhân sĩ Caravelle, một số trốn thoát, nhưng nhà giáo Trần Văn Hương, cựu Đô Trưởng Sài G̣n thời Thủ Tướng Diệm năm 1954, th́ bị bắt và tống giam, cả ông Trần Văn Đỗ cũng bị nhốt vào Trại Vơ Tánh. Tập thơ Lao Trung Lănh Vận nổi tiếng của nhà giáo Trần Văn Hương đă h́nh thành trong thời gian này. Măi đến tháng 7.1963, Ṭa Án Quân Sự Sài G̣n đă tuyên bố tha bỗng cho tất cả người tham dự nhóm Tự Do Tiến Bộ. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy sự chuyển ḿnh và nhượng bộ của chính quyền Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm.
Cụ Trần Văn Hương trở lại tham chính lần nữa trong chức vụ Thủ Tướng của nền Đệ Nhị Cộng Ḥa, khi cụ được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mời lập nội các, đó là chưa kể cụ đă hai lần làm Đô Trưởng Sài G̣n. Thủ Tướng Hương làm việc từ 28.5.1968 đến 1.9.1969 th́ nhường văn pḥng lại cho Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. Trước đó, cụ Hương với tư cách Thượng Nghị Sĩ, thậm chí đă làm rúng động đến tận Hoa Thịnh Đốn bằng cuộc họp báo Lam Sơn 719 Hạ Lào của ông. Quan tâm theo dơi t́nh h́nh tiến quân và những tổn thất của đại quân Việt Nam Cộng Ḥa trên đất Hạ Lào từ những ngày đầu tháng 2.1971, cụ Hương đă rất đau ḷng đọc những báo cáo bất lợi dồn dập gửi về Sài G̣n cho biết Không Lực Hoa Kỳ nại cớ thời tiết xấu đă không yểm trợ đầy đủ hỏa lực theo đúng kế hoạch hành quân mà đă do chính MACV (Military Assistance Command, Vietnam : Bộ tư Lệnh quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam) dành quyền soạn thảo. Những phi công gan dạ Không Quân Việt Nam v́ đau xót t́nh chiến hữu đă cất cánh xuất kích, bất chấp nhiều tổn thất. Con số chiến thương và tử trận của quân ta càng lên cao mà thiếu phương tiện yểm trợ và tải thương, Thượng Nghị Sĩ Trần Văn Hương, với cái dũng khí của một kẻ sĩ và ḍng máu kiên cường uy vũ bất năng khuất của dân tộc Việt Nam, đă đứng ra tổ chức một cuộc họp báo có đông đủ kư giả trong và ngoài nước chỉ trích MACV đă không hành xử đầy đủ cam kết của ḿnh. Đứng trước một sự thật như thế, MACV đành phải ra lệnh cho Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ đáp ứng yểm trợ hỏa lực tích cực hơn nữa. Cũng nhân câu chuyện này, xin được dành vài hàng vinh danh các phi công Hoa Kỳ đă anh dũng hy sinh hay bị thương trên chiến trường Hạ Lào để yểm trợ cho những người bạn huynh đệ chi binh Việt Nam Cộng Ḥa. Sau khi cuộc hành quân Lam sơn 719 kết thúc, số lượng trực thăng khả dụng của sư Đoàn 101Không Kỵ Hoa Kỳ bị hao hụt 92 chiếc, 102 nhân viên phi hành tử trận, 215 chiến thương và 53 mất tích. Nhờ có sự can thiệp của Nghị Sĩ Hương và lệnh phi yểm của MACV nên quân ta đă rút về được Việt Nam cuối tháng 3.1971 với những tổn thất nhẹ. Sư Đoàn Nhảy Dù đă trao tặng Nghị Sĩ Hương danh hiệu “HẠ SĨ DANH DỰ”, cụ Hương rất vinh dự nhận danh hiệu lính Mũ Đỏ này. Đối với người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và dân chúng, th́ cụ Hương c̣n có một mỹ danh khác thân thiết hơn: “Ông Già Gân”.
Với cái tuổi nghỉ hưu 65, cụ Hương những tưởng là đă có thể thong dong ngồi suy gẫm lại những đóng góp của ḿnh cho đất nước trong nhiều thập niên qua. Nhưng sự nhàn rỗi đó đă nhanh chóng biến mất sau hai năm, khi trong năm 1971, Tổng Thống Thiệu đă mời cụ ra nhận vai tṛ Phó Tổng Thống trong liên danh tranh cử nhiệm kỳ hai 1971 - 1975 của ông. Trong nhiệm kỳ một, th́ cụ Hương cũng đă đứng chung liên danh với cụ Mai Thọ Truyền tranh cử Tổng Thống 1967 ố 1971và đă đạt được 10% số phiếu cử tri, đứng hàng thứ tư. Đến đây th́ số mệnh đă chọn người chiến sĩ quốc gia chân chính tên là Trần Văn Hương, sẽ đảm đương một trọng trách cao tột bậc trong guồng máy quốc gia, mà tên của người sẽ vĩnh viễn nằm trong những trang sử bi tráng của dân tộc Việt Nam.
Mặc dù rất nhiều lần giữ những địa vị cao trong chính trường Miền Nam, nhưng cụ Trần Văn Hương là một người có đời sống thanh bạch, giản dị, mẫu mực, liêm chính, không một quyền lợi vật chất nào có thể mua chuộc được. Từ thời làm Thủ Tướng, cụ Hương đă được Tổng Thống Thiệu cấp cho một ngôi biệt thự cũ nằm trong một hẻm nhỏ trên đường Phan Thanh Giản, Sài G̣n. Ngôi nhà cũ nát quá, Tổng Thống Thiệu chỉ thị người sửa chữa chỉnh trang lại cho đàng hoàng, tương xứng với chức vụ của cụ, nhưng cụ Hương đă từ chối. Cụ viện lẽ đă già rồi, không có làm ǵ ích nước lợi dân được nữa, nên không muốn làm hao tốn công quỹ. Năm 1964, khi cụ ra Vũng Tàu nghỉ dưỡng bệnh, hàng tháng chính phủ phụ cấp thêm 10,000 đồng, nhưng cụ Hương đă từ chối xin gửi trả lại công quỹ, v́ cụ nói không có chuyện ǵ cần phải xài. Cũng với cung cách thanh bần đó, tháng 4.1954 , khi nhận được sự vụ lệnh của Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm bổ nhiệm làm Đô Trưởng Sài G̣n ố Chợ Lớn, th́ ông Đô Trưởng đi làm hàng ngày trên chiếc xe đạp hiệu Alcyon. Ngày đầu tiên khi vào Ṭa Đô Chính nằm trên đường Nguyễn Huệ nhận việc, người lính gác đă chận lại một ông già ăn mặc b́nh dị đi xe đạp. Cụ phải nói thật:
- Tôi là Đô Trưởng.
Nhưng anh lính vẫn không tin, cụ Hương buộc phải “tŕnh” sự vụ lệnh bổ nhiệm cho anh xem. Người lính hoảng hồn, chấp tay xin cụ thứ lỗi, nhưng cụ đă từ tốn an ủi mấy câu khen ngợi, rồi dẫn xe đạp vào làm việc. Một khía cạnh nhân bản khác mà nhiều người thụ nhận không bao giờ biết được. Đó là những bọc máu tươi của cụ Hương hiến tặng cho Trung Tâm Tiếp Huyết, để truyền lại cho chiến sĩ bị thương hay người bệnh nào cần đến. Trong suốt nhiều năm liền cho đến thời điểm năm 1975, cụ Hương đă nổi danh là “kiện tướng hiến máu” với khoảng hơn 40 lần cho máu, có nghĩa là cụ đă cứu sống ít nhất là 40 mươi sinh mạng.
Còn tiếp
Bookmarks