Thách thức VNUSA đưa ra bằng chứng là chỉ sau trận Điện Biên Phủ, chính phủ Pháp mới chịu xoá bỏ 2 hiệp ước bất bình đẳng là hoà ước 1884 và 1874 đặt nền cai trị lên đất nước VN .
Thách thức VNUSA đưa ra bằng chứng là chỉ sau khi Trận Điện Biên Phủ chấm dứt, đất nước VN mới xóa bỏ sự phân chia ba miền của Pháp là Bắc Kỳ bảo hộ, Trung Kỳ tự trị và Nam Kỳ thuộc Pháp.
Thách thức VNUSA đưa ra được bằng chứng là Nam kỳ thuộc Pháp chỉ được sát nhập vào lãnh thổ VN chỉ sau khi trận Điện biên Phủ xẩy ra .
Cái này gọi là Hiếp Dâm Lịch Sữ trắng trợn
Cho VNUSA coi lại Hiệp định Elysee được ký giữa TT Pháp là Vincent Auiol và Quốc Trưởng Bảo Đại, một Hiệp Ước CHƯA hoàn hảo, bắt đầu trao trả độc lập cho quốc Gia VN, và trong Hiệp ước này, Pháp bằng lòng xóa bỏ 2 hiệp ước bất bình đẳng mà Chính Phủ thực dân Pháp ép Triều Đình Huế phải ký để đặt nền đô hộ VN, xoá bỏ chế độ phân chia VN ra làm 3 kỳ để trị, cho Nam Kỳ thuộc Pháp tái Thống Nhất vào lãnh thổ VN, VÀ NHƯ THẾ, KỂ TỪ KHI VN BỊ PHÁP ĐÔ HỘ. LẦN ĐẦU TIÊN PHE QUỐC GIA ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC THỎA THUẬN ĐƯỢC TRAO TRẢ ĐỘC LẬP VÀ THỐNG NHẤT CHO TOÀN THỂ LÃNH THỔ VN -BAO GỒM CẢ HẢI ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA -
"CHÀO MỪNG 2009 KỶ NIỆM SÁU MƯƠI NĂM QUỐC GIA VIỆT NAM Bài 3: HIỆP ĐỊNH ÉLYSÉE (8-3-1949) Trần Gia Phụng"]CHÀO MỪNG 2009 KỶ NIỆM SÁU MƯƠI NĂM QUỐC GIA VIỆT NAM Bài 3: HIỆP ĐỊNH ÉLYSÉE (8-3-1949) Trần Gia Phụng
http://www.phanchautrinhdanang.org/quocgiavietnam3.html
"1. NHỮNG BIẾN CHUYỂN CHÍNH TRỊ Trong khi quốc hội Pháp chưa chuẩn y thỏa ước Hạ Long (5-6-1948), th́ chính phủ Robert Schuman xin từ chức ngày 24-7-1948. Chính phủ mới, do André Marie nhậm chức ngày 26-7. Ra trước quốc hội ngày 19-8, Marie tuyên bố ủng hộ thỏa ước Hạ Long. Dầu vậy quốc hội Pháp vẫn chưa chịu phê chuẩn thỏa ước nầy. Cầm quyền hơn một tháng, nội các Marie sụp đổ ngày 28-8-1948. Robert Schuman trở lại làm thủ tướng ngày 31-8, nhưng được hơn mười ngày, lại phải từ chức, và Henri Queuille thuộc khuynh hướng xă hội cấp tiến, lên thay ngày 12-9-1948. [Queuille cầm quyền đến ngày 27-10-1949.] Sự thay đổi chính phủ liên tục bắt nguồn từ những tranh chấp giữa các đảng phái, làm cho t́nh h́nh chính trị nước Pháp giao động mạnh. Riêng về vấn đề Đông Dương, đảng Cộng Sản Pháp đ̣i chính phủ Pháp phải nói chuyện với Hồ Chí Minh chứ không phải Bảo Đại. Đảng R.P.F. (Rassemblement du peuple français do De Gaulle thành lập ngày 8-4-1947) th́ dứt khoát không muốn tách Nam Kỳ ra khỏi nước Pháp. Như thế, tại Pháp bất cứ ai lên làm thủ tướng đều lúng túng giữa các lập trường khác biệt lớn lao trên đây của các phe phái chính trị, khi muốn giải quyết vấn đề Đông Dương. Về phía cựu hoàng Bảo Đại, ông đ̣i độc lập phải đi đôi với việc thống nhất lănh thổ ba miền đất nước. Cựu hoàng cương quyết giữ vững lập trường cho đến khi quốc hội Pháp phê chuẩn thỏa ước Hạ Long mới chịu về Việt Nam. Trong thời gian nầy, cựu hoàng bị bệnh gan phải đến Paris điều trị. Viên cao uỷ Pháp tại Đông Dương, Émile Bollaert, quá sốt ruột, nên đến tận khách sạn, nơi cựu hoàng đang trú ngụ ngày 17-10-1948, nhờ tiếp viên khách sạn xin gặp. Bảo Đại không muốn tiếp, viện cớ bị đau để từ chối. Bollaert liền đi thẳng lên pḥng Bảo Đại, gơ cửa và xin vào nói chuyện, nhưng cũng không thuyết phục được cựu hoàng. Giải quyết không được bài toán Đông Dương, Bollaert không xin tái nhiệm chức cao uỷ Đông Dương. Ngày 21-10, chính phủ Pháp cử Léon Pignon sang thay.(Bảo Đại, sđd, tt. 328-335) Léon Pignon từng làm cố vấn cho đô đốc Thierry d'Argenlieu, cao uỷ Pháp đầu tiên tại Đông Dương sau 1945. D'Argenlieu trước đây đă đưa ra chủ trương trở lại với giải pháp quân chủ. Pignon là người soạn bản dự thảo Modus Vivendi (Tạm ước 14-9-1946 tại Paris). Trước khi qua Việt Nam, Pignon t́m gặp cựu hoàng Bảo Đại để có thể đạt một thỏa thuận tổng quát, và mời cựu hoàng về nước. Cựu hoàng từ chối, đồng thời yêu cầu Pháp thực sự trả độc lập và thống nhất lănh thổ. 1 Tới Sài G̣n, Léon Pignon họp báo ngày 24-11-1948 và tuyên bố: “Giải pháp cho bài toán Việt Nam sẽ dựa trên tinh thần thỏa ước Hạ Long.”(Chính Đạo, sđd. tr. 109.) Trong lúc các chính giới ở Paris cũng như Sài G̣n t́m kiếm một lối thoát chính trị, th́ một yếu tố mới xuất hiện. T́nh h́nh Trung Hoa biến chuyển một cách bất lợi cho Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Phe cộng sản do Mao Trạch Đông lănh đạo càng ngày càng thắng thế. Tướng cộng sản là Lâm Bưu mở cuộc tổng phản công và chiếm Bắc Kinh ngày 1-2-1949. Trước đó, Tưởng Giới Thạch từ chức tổng thống Trung Hoa Dân Quốc ngày 21-1-1949, rồi di tản qua Đài Loan ngày hôm sau. Lư Tôn Nhơn lên tạm quyền chức vụ nầy. Tại Hoa Kỳ, Harry Truman tái đắc cử tổng thống ngày 2-11-1948, nhiệm kỳ 1949-1953. Trước sự thành công của cộng sản Trung Hoa, Hoa Kỳ tỏ ra quan ngại đến t́nh h́nh Đông Dương. Do đó, tuy trước kia không ủng hộ Bảo Đại, nhưng ngày 17-1-1949 bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gởi công điện cho đại sứ Pháp tại Washington DC, khuyến cáo Pháp nên đi đến một thỏa thuận với Bảo Đại hay bất cứ một nhóm “quốc gia chân chính” nào khác. Báo Le Monde (Paris) số ngày 3-2-1949 tiết lộ rằng bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đă yêu cầu thủ tướng Pháp “giải quyết vấn đề Việt Nam bằng cách thiết lập một chính phủ quốc gia; và Bảo Đại có vẻ đủ khả năng chận đứng sự xâm nhập của chủ thuyết cộng sản vào Đông Dương”.(Chính Đạo, sđd. tr. 116.) 2. HIỆP ĐỊNH ÉLYSÉE (8-3-1949) Do những thay đổi ở Trung Hoa và nhất là do sự thúc đẩy của Hoa Kỳ, cuộc thảo luận giữa chính phủ Pháp và Bảo Đại được khai thông nhanh chóng. Ngày 12-2-1949, một Hội đồng hỗn hợp Pháp Việt được thành lập. Về phía Pháp có Herzog (trưởng đoàn), Marolles, De Pereya, De Raymond, Risterruci, thiếu tá Ploix, và sau thêm năm chuyên viên tài chánh, kinh tế, kế hoạch, văn hóa, quân sự. Về phía Việt Nam có Bửu Lộc (trưởng đoàn), Nguyễn Đắc Khê, Phan Huy Đán, Phạm Văn Bính, Trương Công Cừu, Nguyễn Quốc Định, Đinh Xuân Quảng, Nguyễn Mạnh Đôn, và Trần Văn Hữu (đại diện cho Nguyễn Văn Xuân). Hội đồng hỗn hợp làm việc đến ngày 28-2-1949 th́ kết thúc. Sau khi lănh đạo hai phía xem xét lại các kết quả, ngày 8-3-1949, cựu hoàng Bảo Đại đến điện Élysée, nơi đặt văn pḥng tổng thống Pháp ở thủ đô Paris, kư kết hiệp định với tổng thống Pháp là Vincent Auriol V́ vậy hiệp định nầy thường được gọi là hiệp định Élysée, gồm có ba văn kiện: 1) Văn thư của tổng thống Cộng Ḥa Pháp, Chủ tịch Liên Hiệp Pháp,(1) gởi hoàng đế Bảo Đại, nói về các vấn đề thống nhất, ngoại giao, nội chính, tư pháp, văn hóa, quân sự, kinh tế, tài chánh của nước Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp. 2) Văn thư của hoàng đế Bảo Đại gởi tổng thống Cộng Ḥa Pháp, Chủ tịch Liên Hiệp Pháp, xác nhận đă tiếp nhận và đồng ư về nội dung của văn thư trên. 3) Văn thư của tổng thống Cộng Ḥa Pháp gởi hoàng đế Bảo Đại bổ túc thêm, theo lời yêu cầu của Bảo Đại, các điểm liên hệ đến vấn đề thống nhất của Việt Nam và vấn đề ngoại giao, nhất là việc trao đổi đại sứ. Trong cả ba văn kiện trên, người Pháp gọi quốc hiệu Việt Nam như dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim. Người Pháp gọi cựu hoàng Bảo Đại là hoàng đế, thật sự chỉ có tính cách tượng trưng. Người Pháp cần một giải pháp chính trị để giải quyết t́nh h́nh Việt Nam. Pháp buộc ḷng phải kư hiệp định Élysée, nhưng không lẽ tổng thống Pháp kiêm chủ tịch Liên Hiệp Pháp, lại kư kết văn bản với một người không có chức vụ tương xứng? Do đó, Pháp mới trở lại danh xưng “hoàng đế”, để giữ thế cân đối chính trị giữa hai bên trước mặt quốc tế. Với hiệp định Élysée, chính phủ Pháp chính thức giải kết hiệp ước bảo hộ 1884. Hiệp ước bảo hộ năm 1884 hết sức bất b́nh đẳng, đă được kư kết ngày 6-6-1884, dưới triều vua Kiến Phúc (trị v́ 1883-1884). Tuy nhiên, hiệp ước 1884 chỉ đề cập đến vùng lănh thổ từ tỉnh B́nh Thuận trở ra Bắc, tức là Trung và Bắc Kỳ mà thôi. C̣n Nam Kỳ là đất đă được nhượng đứt cho Pháp từ năm 1874, dưới triều vua Tự Đức (trị v́ 1848-1883), nên vẫn c̣n được xem là lănh thổ của Pháp. Cuộc thương thuyết về Nam Kỳ tiếp tục thêm một thời gian, để đưa đến việc tái thống nhất hoàn toàn đất nước Việt Nam Về hiệp định Élysée, có hai điểm cần chú ư: Thứ nhất, khi hai nước kư kết hiệp ước với nhau, thông thường là đại sứ hoặc ngoại trưởng đại diện hai nước kư kết hiệp ước. Đàng nầy, đích thân tổng thống Pháp đứng ra kư kết. Lúc đó, ông Vincent Auriol kư kết hiệp định với hai tư cách pháp nhân: vừa là tổng thống Pháp, vừa là chủ tịch Liên Hiệp Pháp. Thứ hai, sau khi hiệp định Élysée được kư kết, Việt Nam không c̣n là thuộc địa của Pháp, mà trở thành một nước độc lập trong Liên Hiệp Pháp (LHP). Một chế độ mới được thành lập. Đó là chế độ Quốc Gia Việt Nam. Lúc đó, quân đội Pháp hiện diện ở Việt Nam không phải với tư cách quân đội Pháp, mà với tư cách là quân đội Liên Hiệp Pháp, giúp bảo vệ độc lập của Quốc Gia Việt Nam, một quốc gia thành viên trong LHP."]1. NHỮNG BIẾN CHUYỂN CHÍNH TRỊ Trong khi quốc hội Pháp chưa chuẩn y thỏa ước Hạ Long (5-6-1948), th́ chính phủ Robert Schuman xin từ chức ngày 24-7-1948. Chính phủ mới, do André Marie nhậm chức ngày 26-7. Ra trước quốc hội ngày 19-8, Marie tuyên bố ủng hộ thỏa ước Hạ Long. Dầu vậy quốc hội Pháp vẫn chưa chịu phê chuẩn thỏa ước nầy. Cầm quyền hơn một tháng, nội các Marie sụp đổ ngày 28-8-1948. Robert Schuman trở lại làm thủ tướng ngày 31-8, nhưng được hơn mười ngày, lại phải từ chức, và Henri Queuille thuộc khuynh hướng xă hội cấp tiến, lên thay ngày 12-9-1948. [Queuille cầm quyền đến ngày 27-10-1949.] Sự thay đổi chính phủ liên tục bắt nguồn từ những tranh chấp giữa các đảng phái, làm cho t́nh h́nh chính trị nước Pháp giao động mạnh. Riêng về vấn đề Đông Dương, đảng Cộng Sản Pháp đ̣i chính phủ Pháp phải nói chuyện với Hồ Chí Minh chứ không phải Bảo Đại. Đảng R.P.F. (Rassemblement du peuple français do De Gaulle thành lập ngày 8-4-1947) th́ dứt khoát không muốn tách Nam Kỳ ra khỏi nước Pháp. Như thế, tại Pháp bất cứ ai lên làm thủ tướng đều lúng túng giữa các lập trường khác biệt lớn lao trên đây của các phe phái chính trị, khi muốn giải quyết vấn đề Đông Dương. Về phía cựu hoàng Bảo Đại, ông đ̣i độc lập phải đi đôi với việc thống nhất lănh thổ ba miền đất nước. Cựu hoàng cương quyết giữ vững lập trường cho đến khi quốc hội Pháp phê chuẩn thỏa ước Hạ Long mới chịu về Việt Nam. Trong thời gian nầy, cựu hoàng bị bệnh gan phải đến Paris điều trị. Viên cao uỷ Pháp tại Đông Dương, Émile Bollaert, quá sốt ruột, nên đến tận khách sạn, nơi cựu hoàng đang trú ngụ ngày 17-10-1948, nhờ tiếp viên khách sạn xin gặp. Bảo Đại không muốn tiếp, viện cớ bị đau để từ chối. Bollaert liền đi thẳng lên pḥng Bảo Đại, gơ cửa và xin vào nói chuyện, nhưng cũng không thuyết phục được cựu hoàng. Giải quyết không được bài toán Đông Dương, Bollaert không xin tái nhiệm chức cao uỷ Đông Dương. Ngày 21-10, chính phủ Pháp cử Léon Pignon sang thay.(Bảo Đại, sđd, tt. 328-335) Léon Pignon từng làm cố vấn cho đô đốc Thierry d'Argenlieu, cao uỷ Pháp đầu tiên tại Đông Dương sau 1945. D'Argenlieu trước đây đă đưa ra chủ trương trở lại với giải pháp quân chủ. Pignon là người soạn bản dự thảo Modus Vivendi (Tạm ước 14-9-1946 tại Paris). Trước khi qua Việt Nam, Pignon t́m gặp cựu hoàng Bảo Đại để có thể đạt một thỏa thuận tổng quát, và mời cựu hoàng về nước. Cựu hoàng từ chối, đồng thời yêu cầu Pháp thực sự trả độc lập và thống nhất lănh thổ. 1 Tới Sài G̣n, Léon Pignon họp báo ngày 24-11-1948 và tuyên bố: “Giải pháp cho bài toán Việt Nam sẽ dựa trên tinh thần thỏa ước Hạ Long.”(Chính Đạo, sđd. tr. 109.) Trong lúc các chính giới ở Paris cũng như Sài G̣n t́m kiếm một lối thoát chính trị, th́ một yếu tố mới xuất hiện. T́nh h́nh Trung Hoa biến chuyển một cách bất lợi cho Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Phe cộng sản do Mao Trạch Đông lănh đạo càng ngày càng thắng thế. Tướng cộng sản là Lâm Bưu mở cuộc tổng phản công và chiếm Bắc Kinh ngày 1-2-1949. Trước đó, Tưởng Giới Thạch từ chức tổng thống Trung Hoa Dân Quốc ngày 21-1-1949, rồi di tản qua Đài Loan ngày hôm sau. Lư Tôn Nhơn lên tạm quyền chức vụ nầy. Tại Hoa Kỳ, Harry Truman tái đắc cử tổng thống ngày 2-11-1948, nhiệm kỳ 1949-1953. Trước sự thành công của cộng sản Trung Hoa, Hoa Kỳ tỏ ra quan ngại đến t́nh h́nh Đông Dương. Do đó, tuy trước kia không ủng hộ Bảo Đại, nhưng ngày 17-1-1949 bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gởi công điện cho đại sứ Pháp tại Washington DC, khuyến cáo Pháp nên đi đến một thỏa thuận với Bảo Đại hay bất cứ một nhóm “quốc gia chân chính” nào khác. Báo Le Monde (Paris) số ngày 3-2-1949 tiết lộ rằng bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đă yêu cầu thủ tướng Pháp “giải quyết vấn đề Việt Nam bằng cách thiết lập một chính phủ quốc gia; và Bảo Đại có vẻ đủ khả năng chận đứng sự xâm nhập của chủ thuyết cộng sản vào Đông Dương”.(Chính Đạo, sđd. tr. 116.) 2. HIỆP ĐỊNH ÉLYSÉE (8-3-1949) Do những thay đổi ở Trung Hoa và nhất là do sự thúc đẩy của Hoa Kỳ, cuộc thảo luận giữa chính phủ Pháp và Bảo Đại được khai thông nhanh chóng. Ngày 12-2-1949, một Hội đồng hỗn hợp Pháp Việt được thành lập. Về phía Pháp có Herzog (trưởng đoàn), Marolles, De Pereya, De Raymond, Risterruci, thiếu tá Ploix, và sau thêm năm chuyên viên tài chánh, kinh tế, kế hoạch, văn hóa, quân sự. Về phía Việt Nam có Bửu Lộc (trưởng đoàn), Nguyễn Đắc Khê, Phan Huy Đán, Phạm Văn Bính, Trương Công Cừu, Nguyễn Quốc Định, Đinh Xuân Quảng, Nguyễn Mạnh Đôn, và Trần Văn Hữu (đại diện cho Nguyễn Văn Xuân). Hội đồng hỗn hợp làm việc đến ngày 28-2-1949 th́ kết thúc. Sau khi lănh đạo hai phía xem xét lại các kết quả, ngày 8-3-1949, cựu hoàng Bảo Đại đến điện Élysée, nơi đặt văn pḥng tổng thống Pháp ở thủ đô Paris, kư kết hiệp định với tổng thống Pháp là Vincent Auriol V́ vậy hiệp định nầy thường được gọi là hiệp định Élysée, gồm có ba văn kiện: 1) Văn thư của tổng thống Cộng Ḥa Pháp, Chủ tịch Liên Hiệp Pháp,(1) gởi hoàng đế Bảo Đại, nói về các vấn đề thống nhất, ngoại giao, nội chính, tư pháp, văn hóa, quân sự, kinh tế, tài chánh của nước Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp. 2) Văn thư của hoàng đế Bảo Đại gởi tổng thống Cộng Ḥa Pháp, Chủ tịch Liên Hiệp Pháp, xác nhận đă tiếp nhận và đồng ư về nội dung của văn thư trên. 3) Văn thư của tổng thống Cộng Ḥa Pháp gởi hoàng đế Bảo Đại bổ túc thêm, theo lời yêu cầu của Bảo Đại, các điểm liên hệ đến vấn đề thống nhất của Việt Nam và vấn đề ngoại giao, nhất là việc trao đổi đại sứ. Trong cả ba văn kiện trên, người Pháp gọi quốc hiệu Việt Nam như dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim. Người Pháp gọi cựu hoàng Bảo Đại là hoàng đế, thật sự chỉ có tính cách tượng trưng. Người Pháp cần một giải pháp chính trị để giải quyết t́nh h́nh Việt Nam. Pháp buộc ḷng phải kư hiệp định Élysée, nhưng không lẽ tổng thống Pháp kiêm chủ tịch Liên Hiệp Pháp, lại kư kết văn bản với một người không có chức vụ tương xứng? Do đó, Pháp mới trở lại danh xưng “hoàng đế”, để giữ thế cân đối chính trị giữa hai bên trước mặt quốc tế. Với hiệp định Élysée, chính phủ Pháp chính thức giải kết hiệp ước bảo hộ 1884. Hiệp ước bảo hộ năm 1884 hết sức bất b́nh đẳng, đă được kư kết ngày 6-6-1884, dưới triều vua Kiến Phúc (trị v́ 1883-1884). Tuy nhiên, hiệp ước 1884 chỉ đề cập đến vùng lănh thổ từ tỉnh B́nh Thuận trở ra Bắc, tức là Trung và Bắc Kỳ mà thôi. C̣n Nam Kỳ là đất đă được nhượng đứt cho Pháp từ năm 1874, dưới triều vua Tự Đức (trị v́ 1848-1883), nên vẫn c̣n được xem là lănh thổ của Pháp. Cuộc thương thuyết về Nam Kỳ tiếp tục thêm một thời gian, để đưa đến việc tái thống nhất hoàn toàn đất nước Việt Nam Về hiệp định Élysée, có hai điểm cần chú ư: Thứ nhất, khi hai nước kư kết hiệp ước với nhau, thông thường là đại sứ hoặc ngoại trưởng đại diện hai nước kư kết hiệp ước. Đàng nầy, đích thân tổng thống Pháp đứng ra kư kết. Lúc đó, ông Vincent Auriol kư kết hiệp định với hai tư cách pháp nhân: vừa là tổng thống Pháp, vừa là chủ tịch Liên Hiệp Pháp. Thứ hai, sau khi hiệp định Élysée được kư kết, Việt Nam không c̣n là thuộc địa của Pháp, mà trở thành một nước độc lập trong Liên Hiệp Pháp (LHP). Một chế độ mới được thành lập. Đó là chế độ Quốc Gia Việt Nam. Lúc đó, quân đội Pháp hiện diện ở Việt Nam không phải với tư cách quân đội Pháp, mà với tư cách là quân đội Liên Hiệp Pháp, giúp bảo vệ độc lập của Quốc Gia Việt Nam, một quốc gia thành viên trong LHP.
Bookmarks