Việt Nam đă mất biển và chủ quyền chưa?
Chuyến thăm Việt Nam 2 ngày (13-15/10/2013) của Thủ tướng Trung Cộng Lư Khắc Cường (Li Keqiang) đă đánh dấu Việt Nam chính thức đầu hàng áp lực “hợp tác cùng phát triển” ở Biển Đông, phù hợp với chủ trương 12 chữ “chủ quyền vẫn là của ta, gác tranh chấp, cùng khai thác” của Lănh tụ Đặng Tiểu B́nh (Deng Xiaoping) đưa ra từ năm 1979.
Tuyên bố chung của hai nước công bố tại Hà Nội ngày 15/10 “Về hợp tác trên biển” viết:
“Hai bên nhất trí tuân thủ nhận thức chung của Lănh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lănh thổ Việt Nam - Trung Quốc, kiên tŕ thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, t́m kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ (**) không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển. Theo tinh thần đó, hai bên đồng ư thành lập Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lănh thổ Việt Nam - Trung Quốc.”
(** Chú thích của tác giả bài viết về cụm từ “ QÚA ĐỘ”: Chuyển tiếp từ trạng thái này sang trạng thái khác, nhưng đang ở giai đoạn trung gian (theo Đại từ điển Tiếng Việt-Bộ Giáo dục-Đào tạo, xuất bản năm 1999)
Đáng chú ư là có sự “khác biệt quan trọng” giữa “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển” hai nước kư kết ở Bắc Kinh ngày 11/10/2011 và bản Tuyên bố ở Hà Nội hôm 15/10/2013.
Trong Thỏa hiệp 6 điểm được kư giữa Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn, và Trương Chí Quân, Thứ trường Bộ Ngoại giao Trung Cộng), có sự chứng giám của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, Hồ Cẩm Đào th́ có chữ “Tạm Thời” ghi trong điểm 4 nguyên văn như sau:
(4) “Trong tiến tŕnh t́m kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử b́nh đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đă nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.”
Điểm (2) viết: “Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lư và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử..., đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lư của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến tŕnh đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lư và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực t́m kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.”
Như vậy, rơ ràng cụm từ “Tạm Thời” đă bị “xóa đi” trong Thỏa thuận ở Hà Nội, sau các cuộc thảo luận giữa Thủ tướng Trung Cộng Lư Khắc Cường với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (13/10) và các ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng; Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trong cùng ngày 14/10 (2013).
Và một khi cụm từ “Tạm Thời” không c̣n nữa th́ phải hiểu “giải pháp mang tính quá độ, sẽ phải chuyển từ trạng thái “tạm thời” sang “vĩnh viễn”, theo đ̣i hỏi của ông Lư Khắc Cường?
Không có bất cứ giải thích nào từ phía Chính phủ Việt Nam về sự thay đổi “rất quan trọng” này.
Nhưng báo chí Trung Cộng, kể cả Tân Hoa Xă (Xinhua News Agency) và Đài Phát thanh Quốc tế Trung Hoa (China Radio International, CRI) đều ca ngợi sự thành công của Thủ tướng Lư.
CRI dịch lại tin của Tân Hoa Xă viết rằng: “Thủ tướng Lư Khắc Cường cho biết, là láng giềng hữu nghị, duy tŕ quan hệ Trung-Việt phát triển lành mạnh và ổn định phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, có lợi cho ḥa b́nh, phát triển và phồn thịnh của khu vực, hai bên cần phải nắm vững định hướng lớn chiến lược của quan hệ hai nước, kiên tŕ đi con đường hợp tác cùng có lợi cùng thắng. Nỗ lực sáng tạo đổi mới tư duy, giải quyết vấn đề Nam Hải do vấn đề lịch sử để lại duy nhất trong quan hệ hai nước... Nhận thức chung và lợi ích chung giữa hai nước Trung-Việt lớn hơn rất nhiều bất đồng”
Tuy nhiên khi hai bên sử dụng nhóm chữ “giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc” mà không hề nói đến “số phận” của quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đă bị Trung Cộng chiếm năm 1974 và 8 đảo đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Cộng đánh chiếm năm 1978 là “vô t́nh” hay “cố ư” không đụng chạm đến chủ quyền “tự vẽ ” của Bắc Kinh về h́nh Lưỡi Ḅ (c̣n gọi là Đường 9 Đoạn) được Trung Cộng tŕnh cho Liên Hiệp Quốc năm 2009, chiếm từ 80 đến 85% diện tích trên 3 triệu cây số vuông Biển Đông bao gồm cả 2 Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa?
Bản Tuyên bố mơ hồ này cũng không nói ǵ đến việc Trung Cộng đă biến các vị trí chiếm được của Việt Nam thành các căn cứ pḥng thủ quân sự kiên cố trong vùng Trường Sa, không kể đă chiếm thêm đá Vành Khăn từ năm 1994, gần khu Băi Cỏ Rong có tranh chấp giữa Phi Luật Tân và Trung Cộng.
Như vậy phải chăng phía Việt Nam c̣n mặc nhiên nh́n nhận cái chính quyền hành chính “tự chế” Tam Sa của Trung Cộng thành lập từ ngày 24 tháng 7 năm 2012 gồm Hoàng Sa, Trường Sa và Trung Sa (băi Macclesfield và băi cạn Scarborough mà Trung Cộng tranh chấp với Phi Luật Tân)
Không chỉ ở Vịnh Bắc Bộ
Một điểm khác không kém quan trọng là Thủ tướng Lư Khắc Cường, theo Tân Hoa Xă, c̣n yêu cầu hai nước thảo luận “hợp tác cùng phát triển” ở những vùng biển khác, ngoài vùng biển của Vịnh Bắc Bộ (Beibu Bay).
Họ Lư nói làm như thế, Trung Quốc và Việt Nam sẽ chứng minh cho thế giới thấy hai nước có khả năng và thiện chí bảo vệ ḥa b́nh ở Nam Hải, tăng cường lợi ích chung của hai nước và giảm thiểu những bất đồng.
(“He also called on the two countries to study the possibilities of joint development of a wider area of the sea.
By doing so, China and Vietnam would demonstrate to the world that they have the capability and the wisdom to safeguard peace in the South China Sea, expand their common interests and reduce divergences”. --Xinhua, 13/10/2013)
Tuy nhiên Tuyên bố chung của hai Chính phủ chỉ tập trung nói về hợp tác ở vịnh Bắc Bộ:
“Hai bên nhất trí tăng cường chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán và tham vấn hiện có, gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này và trong năm nay khởi động khảo sát chung ở khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Nhanh chóng thực hiện các Dự án hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như Hợp tác nghiên cứu quản lư môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ...”
Nội dung này không mới mà chỉ đi vào hành động tiếp theo sau Thỏa hiệp giữa hai nước trong chuyến thăm Trung Cộng hồi tháng 6 (2013) của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Theo thỏa hiệp kư tại Bắc Kinh ngày 19/6 (2013) th́ hợp tác giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tổng Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation, CNOOC) sẽ mở rộng từ 1541 cây số vuông lên thành 4076 cây số vuông. Và hiệu lực của Thỏa thuận Thăm ḍ Chung có hiệu lực đến hết năm 2016.
Hiệp định vịnh Bắc Bộ giữa hai nước kư kết ngày 25/12/2000 dành cho Việt Nam được 53.23% và Trung Quốc được 46.77% diện tích Vịnh, nhưng không có bằng chứng ǵ xác nhận tỷ lệ này v́ không có cơ quan quốc tế hay nước thứ 3 nào được làm công việc đo đạc.
Theo báo Nhân Dân ngày 02/07/2004 th́ diện tích vịnh Bắc Bộ có khoảng 126.250 km2 (36.000 hải lư vuông) chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km (176 hải lư), nơi hẹp nhất ở cửa Vịnh rộng khoảng 207,4 km (112 hải lư).
V́ chưa có bất cứ cuộc điều tra quốc tế chuyên nghiệp nào về Hiệp ước vịnh Bắc Bộ năm 2000 nên hoài nghi Việt Nam bị thiệt càng được nhiều người đồng ư v́ Trung Cộng không chấp nhận yêu sách của Việt Nam muốn thương thuyết dựa trên Công ước Pháp-Thanh 1887, v́ Bắc Kinh sợ Việt Nam sẽ được lợi hơn.
Có một điểm rất rơ là Trung Cộng đă đ̣i và được là chia Vịnh làm 2, lấy biên giới từ “điểm nhô ra” của đảo Hải Nam đến bờ biển của Việt Nam làm chuẩn đo để chia đôi. V́ vậy các chuyên gia của Quỹ nghiên cứu Biển Đông của Việt Nam khi phân tích đường trung tuyến trong vịnh, đă kết luận sau khi họ “vẽ các đường tṛn có tâm là 21 điểm phân định th́ bên Việt Nam bị lấn từ 3 cho đến 27 hải lư ở khu vực các đảo Vĩnh Thực, đảo Trần, đảo Thanh Lam, đảo Cô Tô tỉnh Quảng Ninh, đảo Bạch Long Vĩ thuộc Hải Pḥng, vùng cửa Ba Lạt, bờ biển Ninh B́nh và khu vực nam Hà Tĩnh đối chiếu với bờ tây và bờ nam đảo Hải Nam của Trung Quốc.” (Tài liệu Bách khoa Toàn thư mở)
Do đó, khi vùng khai thác dầu khí chung hai nước Việt-Trung được ấn định nằm ngay trên đường ranh giới phân chia hai vùng biển trong Vịnh Bắc Bộ, như đă công bố tại Bắc Kinh hôm 19/6/2013, th́ rơ ràng Trung Cộng đă dành được quyền khai thác bên trong phần biển của Việt Nam.
C̣n tiếp...
Bookmarks