Dr Rupert Neudeck sinh 14.5.1939 tại Danzig trong một gia đ́nh có 4 anh chị em. Ngày 30.01.1945 gia đ́nh ông chạy trốn chiến tranh trong mùa đông lạnh lẽo với mẹ. Hồng quân Xô Viết tràn vào Balan, tàu quân y "Wilhelm Gustloff" sơ tán đưa người tỵ nạn ra khỏi cảng Danzig. Khoảng 10.300 người chạy tỵ nạn trên tàu nầy bị thủy lôi của Xô Viết đánh ch́m. Hàng ngàn người trên tàu thiệt mạng. Gia đ́nh ông Neudeck nhờ lỡ tàu mà sống sót. Chính biến cố lịch sử đau thương đó ảnh hưởng đến đời sống và việc làm nhân đạo của ông sau nầy.
Khi gia đ́nh đến định cư tại Hagen, Dr Rupert Neudeck xong trung học vào đại học theo phân khoa thần học, triết học, xă hội học tại đại học Bonn, Münster và Salzburg. Năm 1961 ông gia nhập Ḍng Tên, nhưng ít năm sau ông ra khỏi Ḍng và tiếp tục học. Năm 1972, ông đậu bằng tiến sĩ triết học và lập gia đ́nh, vợ là bà Christel có 2 con gái 1 con trai là: Yvonne, Milena , Marcel và 1 cháu ngoại. Ngoài đời ông c̣n có hàng trăm ngàn con cháu do bàn tay cứu vớt của ông.
Khởi đầu ông làm nhà báo cho đài phát thanh Công giáo ở Köln và từ năm 1976 làm nhà báo tự do. Năm 1977, ông làm biên tập viên chính trị cho đài phát thanh Deutschlandfunk . Trước làng sóng người Việt vượt biển t́m tự do và nhiều thảm kịch về thuyền nhân ở Biển Đông gợi ông nhớ lại câu chuyện tỵ nạn của chính ḿnh nhờ may mắn nên c̣n sống sót.
Năm 1979, vợ chồng Dr Rupert Neudeck, Christel. sáng lập Komitee Cap Anamur/Deutsche Notärzte e.V. (Ủy ban Cap Anamur/Bác sĩ cấp cứu Đức). Ủng hộ tổ chức này có các nhân vật nổi tiếng của Đức như: nhà văn đoạt giải Nobel Heinrich Böll, Helmut Schmidt, Alfred Biolek, Bruno Ganz, Norbert Blüm, Peter Scholl-Latour, Frank Alte. Cùng một nhóm thân hữu thành lập Ủy ban "Ein Schiff für Vietnam" và thuê tàu Cap Anamur có trọng tải 6600 tấn dài 118,7 m, rộng 17m, cao 9m, hầm tàu 7,3m làm nhiệm vụ cứu các thuyền nhân Việt Nam (chủ tàu ở Hamburg không lấy tiền thuê chỉ cho mượn). Ngày 9.8.1979 lúc 15 giờ 23 phút do thuyền trưởng Klaus Buck tàu CAP ANAMUR khởi hành từ cảng Kobe của Nhật ra Biển Đông với ḷng nhân đạo cứu vớt các thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ độc tài CS.
Các bác sĩ, y tá phần lớn người Đức làm việc thiện nguyện, trên tàu có một trực thăng do cựu thiếu tá Pilot người Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam bay t́m, hướng dẫn các ghe thuyền lênh đênh, mất định hướng trên biển đến với tàu Cap Anamur. Thuỷ thủ đoàn là những người Phi, Cap Anamur I vớt những ghe vượt biển trong hoàn cảnh "thập tử nhất sinh". Tính đến tháng 5.1982, Cap Anamur I cứu được 9.507 thuyền nhân Việt Nam đưa vào các trại tị nạn Sem Bawang (Singapore), Palawan, Bataan (Phi luật Tân), Galang (Indonesia) tạm trú một thời gian ngắn chờ định cư Tây Đức hoặc đến các đệ tam quốc gia trên thế giới. Cap Anamur I hoạt động 22 tháng phải ngưng công tác nhân đạo, ngày 25. 6. 1982 trở về cảng Hamburg, mang theo 287 thuyền nhân VN.
Ông Hans Voss chủ tàu không lấy tiền mướn, nhưng chi phí mỗi tháng cho Cap Anamur. khoảng 400.000DM. Cap Anamur II hoạt động từ tháng 3 đến tháng 6.1986 vớt 888 người, và mang 357 người về cảng Hamburg. Lần cuối cùng chính phủ Đức chỉ nhận 22 người của Cap Anamur III và từ đó chấm dứt không nhận thêm thuyền nhân Việt Nam. Cap Amur IV và Cap Anamur V tiếp tục hoạt động, tiếp tế lương thực và nước uống, cứu người vượt biển thoát khỏi tay bọn hải tặc và đưa họ đến được bến bờ b́nh an. Số người được Cap Anamur vớt trên 11 ngàn người, nhưng số người được đoàn tụ gia đ́nh trên 30 ngàn người. Bất cứ nơi nào có tiếng khóc than, cầu xin là có ông t́m đến để giúp đỡ.
Hồi tưởng cuộc đời tỵ nạn sau 30.4.1975 người Việt bất chấp mọi hiểm nguy đổi cả mạng sống để vượt khỏi Việt Nam, nhiều nơi trên thế giới dựng bia, đánh dấu thời gian người Việt Nam bỏ nước ra đi t́m tự do. Ngày 12 tháng 9 năm 2009, người Việt tại Đức dựng tượng đài bằng đồng với bia tri ân Cap Annamur và nhân dân Đức tại cảng Hamburg. Buổi lễ khánh thành và tri ân nước Đức được tổ chức trang trọng và có sự hiện diện của Bộ trưởng nội vụ Wolfgang Schäuble, chủ tịch Đảng Dân chủ Xă hội (SPD) Franz Müntefering, cựu thống đốc tiểu bang Niedersachsen Ernst Albrecht (người đầu tiên nhận thuyền nhân vào Đức), ông Philipp Rösler bộ trưởng kinh tế và nhiều nhân vật khác cùng hơn 1200 người Việt.
Sau khi hoàn thành sứ mạng nhân đạo cứu thuyền nhân Việt Nam, Uỷ Ban Cap Anamur vẫn tiếp tục giúp đỡ cho nhiều người tỵ nạn chiến tranh xây dựng lại nhà cửa, trường học, … Tháng 4 năm 2003, ông là người đồng sáng lập tổ chức ḥa b́nh quốc tế Grünhelme eV (Mũ an ṭan xanh lá cây) nhằm giúp xây dựng lại những trường học, làng mạc trong các vùng bị chiến tranh tàn phá tại Congo Kosovo, Sudan, Syria, Iraq, Afghanistan, Nordafrika, Colombia, Ethiopia Haiti, Macedonia Albania v.v… và cả Việt Nam.
Ông đă nhiều lần tới thăm Israel và vùng lănh thổ Palestine để t́m hiểu hàng rào ngăn cách mà Israel đă dựng lên, cùng hiện trạng sinh sống của người Palestine ở Bờ Tây. Năm 2005 ông đă xuất bản quyển "Ich will nicht mehr schweigen. Recht und Gerechtigkeit in Palästina" (Tôi sẽ không im lặng nữa. Luật pháp và Công lư ở Palestine) nhằm bênh vực những người Palestine và bị Hội hữu nghị Đức-Israel chỉ trích dữ dội.
Những thập niên qua, trong việc cứu trợ nhân đạo, ông c̣n xuất bản nhiều tác phẩm phát xuất từ sự rung động trái tim của ông bà Neudeck, như tác phẩm Die Menschenretter von Cap Anamur; ông luôn hănh diện về vệc cứu vớt thuyền nhân VN hội nhập thành công tốt đẹp, thế hệ thứ II trở thành những công dân ưu tú của nước Đức luôn bảo tồn văn hoá và bản sắc dân tộc.
Năm 2009 kỷ niệm 30 năm người Việt tại München, ông viết trong Đặc San Hồi tưởng đời Tỵ Nạn. "Người Đức chúng ta, giờ đây bao gồm cả 80.000 người Đức gốc Việt, hăy nhận như một lời nguyện suốt đời. Bất kỳ nơi đâu, trên mặt đất, dưới nước hay trên trời, nếu có người bị tra tấn, hành hạ, bị theo dơi, xua đuổi, bị đánh đập, ép buộc lao động, bị giam giữ dưới các chế độ độc tài, chúng ta phải can thiệp cho họ."
Ngày 9.8.2014 tại Hamburg kỷ niệm 35 năm tỵ nạn của người VN và cũng là sinh nhật thứ 75 của ông, mọi người đều chúc tụng mong ông khoẻ mạnh sống lâu, để ông giúp những người chạy trốn chế độ độc tài, chiến tranh bớt khổ đau.
Ông bị bệnh tim được giải phẩu chửa trị nhiều lần, dù sức yếu nhưng ông thường bay đến nhiều nơi vận đông giúp đỡ làn sóng người tỵ nạn Syrien và Phi châu bị chết đuối trên biển Điạ Trung Hải, nhưng cuộc đời không tránh khỏi quy luật của tạo hóa "sinh lăo bệnh tử". Ngày 31.5.2016, ông qua đời hưởng thọ 77 tuổi, trong sự thương tiếc của Cộng Đồng Người Việt tại Đức cũng như trên thế giới.
Ông Ulrich Kasparick, cũng là bạn của TS Rupert Neudeck, ngỏ ư trước sự ra đi của TS Neudeck, trái tim của Rupert lớn đến nỗi không ai có thể mổ tim ông được, tim ông đủ chứa được toàn thế giới.
Tiến sĩ Wolfgang Thierse, cựu chủ tịch Quốc Hội Đức, đă phát biểu trong buổi lễ : "Ủy Ban CAP ANAMUR và HỘI MŨ XANH đều là hai tổ chức nhân đạo nhỏ bé có tính cách gia đ́nh và không bị ràng buộc vào những thủ tục hành chánh rườm rà, nhưng là một ràng buộc liên kết vĩ đại của trách nhiệm dấn thân của từng cá nhân, ḷng đam mê, sự căng thẳng, tính bền chí và nỗi hân hoan trong từng dự án nhân đạo. Ông nói tiếp: "Ḷng đam mê hoạt động nhân đạo cứu người của ông bà Christel và Rupert Neudeck đă truyền nhiễm đến rất nhiều người, để từ đó họ tích cực trực tiếp hỗ trợ hoặc đóng góp tài chánh cho tổ chức nhân đạo của ông bà". Ông cũng ngỏ lời khen ngợi: "Ông bà Neudeck đă đóng góp một phần nào đó để bộ mặt của nước Đức được tươi sáng hơn".
Đài truyền h́nh WDR của Đức dùng một danh từ "Menschenfischer " - "Kẻ chài lưới người" để nhắc đến ông Dr. Rupert Neudeck, tờ báo khác lại nhắc đến ông Neudeck với một danh gọi khác trong Phúc Âm là người Samaritanô nhân hậu thương người. Người Việt Nam chúng ta gọi ông là một vị Thánh, một Bồ Tác> Tin ông qua đời nơi nào có Cộng Đồng Việt Nam dù Công Giáo hay Phật Giáo đều có Thánh lễ, cầu kinh trang trọng để tưởng niệm người đại ân nhân của chúng ta.
C̣n nhiều h́nh ảnh trên trang mạng: http://www.lyhuong.net/uc/index.php/shcd/4576-4576
Bookmarks