Tóm lược: Trong thành ngữ tiếng Việt, "dốt hay nói chữ" có ý nói về những kẻ dốt nát hoặc kém hiểu biết mà lại còn nói hoặc hành động như thể họ hiểu biết nhiều. Khi những lời hoặc hành động này có hại đến người khác hoặc sự thật, hoặc nhằm mục đích bóp méo sự thật với ác ý cho lợi ích cá nhân hoặc chế độ thì tác dụng trở nên thật tai hại.
Năm thí dụ trong bài này cho thấy những lời hoặc hành động "dốt hay nói chữ" của cộng sản Việt Nam với ý đồ hiểm ác. Đây chỉ là vài thí dụ trong hằng hà sa số những vụ cho thấy sự dốt nát, kém hiểu biết, dã tâm, hiểm độc, và ngông cuồng của tuyên truyền cộng sản, viên chức trong chính phủ, và ngay cả giới trí thức mù quáng.
*
Trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt, đa số thành ngữ nói về cái xấu xa của con người. Tôi ước lượng khoảng 70% nói về chuyện xấu và 30% nói về chuyện tốt hoặc trung dung. Cái xấu xa có thể về vật chất hoặc tinh thần. Trong các cái xấu về tinh thần, có đủ loại tính xấu: tham lam, gian ác, bất nghĩa, dốt nát. Về dốt nát, thông thường, người ta không chê trách những ai bẩm sinh dốt nát. Một người dốt nát vẫn có thể có những đức tính đáng trọng như thật thà, ngay thẳng, rộng rãi, vị tha. Tuy nhiên, thành ngữ Việt Nam không tha thứ những kẻ dốt nát mà không biết mình dốt nát, lại còn làm như thông thái, hiểu biết, dạy đời thiên hạ. Câu "dốt hay nói chữ" tiêu biểu cho những kẻ này.
A. Ý nghĩa của "Dốt hay nói chữ" và phân biệt "dốt," "ác," và "lỗi lầm":
Ý nghĩa của "dốt hay nói chữ" bao gồm cả mọi trường hợp của "dốt" và "nói chữ." "Dốt" không những chỉ ngu ngốc mà còn chỉ sự kém hiểu biết, thiếu kiến thức. "Nói chữ" không những chỉ nói những lời hoa từ, dạy dỗ, khoe khoang, mà còn chỉ hành động hoặc lời nói cho thấy rõ sự dốt nát, kém hiểu biết. Một câu thành ngữ có ý nghĩa tương tự là "Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe."
Thực ra, tuy "dốt hay nói chữ" là tật xấu, nó không đến nỗi nguy hiểm khi biểu hiện một mình. Nhưng khi nó kèm theo ý đồ hiểm độc dùng những kết luận sai lầm do "dốt hay nói chữ" để tấn công, đả kích, bôi nhọ phe chống đối hoặc đề cao thể chế nắm quyền, thì nó trở thành tác hại. Đây là những hành vi vừa "dốt" vừa "ác."
Ta phải phân biệt "dốt" và "ác." Đây là hai đặc tính độc lập. Một người có thể "dốt" mà không "ác," hoặc "ác" mà không "dốt," hoặc không "dốt" mà cũng chẳng "ác," hoặc vừa "dốt" vừa "ác." Trong các trường hợp "dốt hay nói chữ," trường hợp vừa "dốt" vừa "ác" thật là tai hại.
Đó là vì những kẻ vừa dốt vừa ác thường ngụy trang sự dốt nát của mình bằng những chứng cớ sai lầm, xuyên tạc, hoặc ngụy biện, để đưa đến một kết luận sai lầm, khiến cho nhiều người, vì không có phương tiện hoặc thì giờ tìm tòi, đọc, tra cứu tài liệu, tin tức để kiểm chứng, tưởng thật và tin vào cái kết luận sai lầm đó. Ngoài ra, có những người "dốt hay nói chữ" có địa vị xã hội hoặc cấp bậc trong chính quyền.
Do đó, những tuyên bố hoặc hành động "dốt hay nói chữ" của họ gây ra hậu quả tai hại cho giới trẻ, như sinh viên học sinh, vì các em thường tin vào người có địa vị cao trong xã hội hoặc giới giáo chức.
Trình độ học vấn và bằng cấp không có dính líu gì đến chuyện "dốt hay nói chữ." Một người có bằng cấp cao hoặc có kinh nghiệm học thức, vẫn có thể "dốt hay nói chữ" như thường. Không những thế, họ còn có thể vừa dốt vừa ác.
Trong bài trước (Cao-Đắc 2014e), tôi chứng minh Gareth Porter, một học giả phản chiến Hoa kỳ có bằng Tiến Sĩ từ trường đại học nổi tiếng Cornell, là người vửa dốt vừa ác. Porter còn dốt cả tiếng Anh vì không phân biệt sự khác biệt giữa "hundreds and thousands of" và "hundreds of thousands of" trong sách của Hoàng Văn Chí.
Ta cũng nên phân biệt "dốt" và "lỗi lầm" (mistake). Một người có thể phạm sai lầm, vì thiếu tin tức hoặc nhận tin tức sai, hoặc vô tình, không cố ý, thì không thể gọi là dốt. Để phân biệt, những người phạm lỗi vô tình luôn luôn nhận lỗi và sửa lại lỗi lẩm khi chuyện đó được vạch ra.
Chuyện phạm sai lầm rất thường xảy ra, ngay cả cho những người thực sự tài giỏi, và không có gì là nghiêm trọng nếu người đó, khi được cho biết sự sai lầm, xin lỗi và sửa đổi cái sai lầm đó.
B. Các vụ "dốt hay nói chữ":
Trong phần sau đây, tôi sẽ trình bày 5 vụ "dốt hay nói chữ" của người cộng sản. Năm vụ này chỉ là thí dụ cho hằng hà sa số những vụ "dốt hay nói chữ" của cộng sản Việt Nam. Như tôi đã viết trong các bài trước (Xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2014c; 2014d), có cả hàng ngàn, hàng vạn vụ lừa đảo của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và phải mất hàng ngàn, hàng vạn trang mới liệt kê ra hết.
Tương tự, nhưng còn ở mức độ kinh khủng hơn, Hồ Chí Minh, ĐCSVN, những người cho là giới trí thức, và những tuyên truyền viên cộng sản có cả hàng vạn, hàng chục vạn vụ "dốt hay nói chữ" và phải mất cả hàng vạn, hàng chục vạn trang mới liệt kê ra hết.
Sau đây là năm vụ "dốt hay nói chữ" điển hình cho sự dốt nát, kém hiểu biết, và bản chất hiểm ác của cộng sản Việt Nam. Những thí dụ này cho thấy những hành vi "dốt hay nói chữ" của cộng sản Việt Nam thường kèm theo ý đồ hiểm ác, đưa đến những kết luận sai lạc về lịch sử và thể chế tự do dân chủ.
1. Lính VNCH trút bỏ quân phục vào tháng tư năm 1975:
Tuyên truyền cộng sản vẫn thường nói vào tháng tư năm 1975, lính VNCH trút bỏ quân phục, tụt quần bỏ chạy. Đây là lời xuyên tạc và bịa đặt láo khoét, và cho thấy sự ngu dốt không hiểu tinh thần và quy luật của quân đội VNCH, và bản chất nham hiểm của tuyên truyền cộng sản.
Trước hết, binh sĩ VNCH buông súng đầu hàng không phải vì họ đầu hàng tự nguyện, mà vì do lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, bấy giờ lả Tổng thống VNCH. Trong quân đội, quy luật rất nghiêm minh. Dương Văn Minh bấy giờ là chỉ huy tối cao quân lực; do đó, lệnh đầu hàng phải được tuân theo triệt để. Tuy nhiên, vẫn có những sĩ quan tướng tá và binh sĩ không chịu đầu hàng và tuẫn tiết, hoặc chiến đấu cho tới viên đạn cuối cùng, vì lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh đi ngược lại lương tâm họ. Sự kiện các tướng lãnh, sĩ quan, hạ sĩ quan, và binh sĩ miền Nam tuẫn tiết hoặc chiến đấu đến viên đạn cuối cùng đã được biết rõ.
Đa số lính VNCH tuân theo lệnh đầu hàng, vì họ tôn trọng quy luật quân đội. Có những người, không muốn đầu hàng trong quân phục, nên trút bỏ quân phục trước khi đầu hàng. Cũng có những lính VNCH hèn nhát trút bỏ quân phục và trốn chạy, nhưng số này rất it so với toàn thể lính VNCH.
Quan trọng nhất, chính các cấp chỉ huy cộng sản bắt buộc binh sĩ VNCH khi đầu hàng phải trút bỏ quân phục và giao vũ khí. Quân cộng sản chỉa súng bắt binh sĩ VNCH đã đầu hàng phải trút bỏ quân phục, một hành động vi phạm luật quốc tế không được hạ nhục người đã đầu hàng. Rồi bây giờ, họ lại dùng những hình ảnh tin tức đó để bôi nhọ danh dự người lính VNCH.
Bằng chứng cho việc quân cộng sản uy hiếp lính VNCH đã đầu hàng phải trút bỏ quân phục được ghi nhận trong sách "Tháng Tư Đen" (Black April) viết bởi George J. Veith, một sử gia quân đội Hoa Kỳ, như sau:
"Đại Tá Phan Văn Huấn và những người của Liên Đoàn Biệt Cách Dù 81 diễn ra có lẽ một cảnh xúc động nhất . . . Súng ngang vai, xếp hàng ngang bốn người theo cột dài gần nửa dặm, hai ngàn người trong đơn vị ưu tú nhất của quân đội VNCH bắt đầu bước dọc theo xa lộ về hướng Sài Gòn. Như đã hứa, Đại Tá Huấn đi hàng đầu. [Ghi chú: Trước đó, lúc ra lệnh lính đầu hàng theo lệnh Dương Văn Minh, Đại Tá Huấn nói, "Tôi sẽ đi đầu. Nếu quân địch bắn, tôi sẽ là người đầu tiên bị bắn."] Dân chúng đứng dọc theo bên đường nhìn họ. Nhiều người mang nước uống cho họ. Chẳng bao lâu, Huấn thấy lính VNCH đi bộ từ Sài Gòn, chỉ mặc quần áo lót và mang giấy tờ cá nhân. Khi Huấn hỏi tại sao họ ăn mặc như vậy, họ trả lời rằng quân cộng sản bắt họ cởi quần áo, giao vũ khí, và đi về nhà.
Chẳng bao lâu, môt sĩ quan cộng sản và binh sĩ cộng sản gặp Huấn trên xa lộ. Huấn nói với người sĩ quan là lính ông chuẩn bị giao vũ khí, nhưng họ sẽ không cởi quần áo. Nếu bị bắt làm vậy, họ sẽ từ chối, và một trận giao tranh sẽ bùng nổ. Viên sĩ quan cộng sản nhượng bộ, và những người lính Liên đoàn 81 chồng chất vũ khí và giải tán. Đó là đơn vị cuối cùng tại Sài Gòn buông vũ khí." (Veith 2012, 494-495. Nhấn mạnh thêm; Cũng xem, GĐ81 2001).
Câu chuyện trên cho thấy rõ hai sự kiện: (1) quân cộng sản uy hiếp lính VNCH trút bỏ quân phục khi họ đầu hàng, và (2) lính VNCH có danh dự không trút bỏ quân phục cho dù đầu hàng.
Việc quân cộng sản bắt lính VNCH cởi quân phục cho thấy ác tâm của họ, vì không có lý do chính đáng nào để thu thập quân phục. Họ gom những quân phục vất trên đường xá, chụp hình hoặc cho chụp hình, rồi dùng đó là tài liệu tuyên truyền cho việc lính VNCH bỏ quân phục tháo chạy. Về việc lính VNCH tôn trọng danh dự không trút bỏ quân phục, cái danh dự đó không ghi rõ trên quân luật, nhưng nó tiềm tàng trong đầu óc người lính VNCH (Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm).
Mặc dù vậy, dưới tình trạng hỗn loạn của những ngày cuối cùng, trong những đơn vị lẻ tẻ thiếu chỉ huy, nhiều người lính VNCH, trước mũi súng quân cộng sản, đành phải nuốt hận mà trút bỏ quân phục. Rồi tin đồn lan truyền, người này nói người kia, có những nhóm lính VNCH lẻ tẻ chưa đầu hàng, biết là trước sau cũng bị bắt trút bỏ quân phục, nên họ cởi quân phục trước để bảo tồn danh dự. Có người lấy được quần áo dân sự mặc tạm, có người không.
Nhưng Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù không phải là một đơn vị lẻ tẻ. Ngoài ra, họ có người chỉ huy: Đại tá Phan Văn Huấn. Họ thừa biết họ dư sức đánh tan cả một sư đoàn cộng sản, và các sĩ quan cộng sản cũng hiểu chuyện đó. Do đó, các chiến sĩ Biệt Cách Dù giữ danh dự và từ chối trút bỏ quân phục và quân cộng sản phải chấp nhận.
Do đó, chuyện lính VNCH cởi quân phục, ngoài chuyện cho thấy bản chất hiểm ác của quân cộng sản uy hiếp và hạ nhục những người đã đầu hàng, còn cho thấy tinh thần trọng danh dự của lính VNCH không muốn đầu hàng trong quân phục. Quân cộng sản và các cấp chỉ huy cộng sản không hề biết danh dự, không hề dám tuẫn tiết, không hề biết đối xử nhân đạo với những người, vì theo lệnh trên, đã đầu hàng.
Đã thế, họ còn bịa đặt, hạ nhục quân đội VNCH. Chuyện lính VNCH tự tiện trút bỏ quân phục hay tụt quần bỏ chạy là chuyện hoang đường ấu trĩ. Làm sao họ có thể cởi quân phục, mặc đồ lót đi nhông nhông trên đường phố nếu không vì bị uy hiếp bởi quân cộng sản khi họ đầu hàng? Họ cần gì phải làm vậy khi đã có lệnh đầu hàng? Đương nhiên cũng có những kẻ hèn nhát, lợi dụng lệnh đầu hàng để trút bỏ quân phục, trà trộn vào dân chúng. Nhưng đây chỉ là một thiểu số và không thể đại diện cho toàn thể lính VNCH.
Những người không hiểu được ý nghĩa của "Danh dự" trong "Tổ Quốc - Danh dự -Trách Nhiệm" của QLVNCH như được thể hiện qua sự tuẫn tiết của năm vị tướng VNCH, không hiểu các sự kiện lịch sử, mê muội tin vào, hoặc dưới lệnh của, tuyên truyền cộng sản, tung ra những hình ảnh và lời lẽ ác hiểm bôi nhọ lính VNCH. Không những họ "dốt hay nói chữ" mà lại còn ác hiểm.
Cái đau buồn của sự ác hiểm này là những người cộng sản đã quên đi tinh thần yêu thương lẫn nhau của dân tộc Việt Nam, cho dù khác chiến tuyến. Cái tinh thần đó là bản chất cố hữu của dân tộc Việt Nam. Các lãnh tụ cộng sản, vì không có cái bản chất cố hữu đó, đã nhồi sọ lính cộng sản và dân dưới ách cai trị, với những tuyên truyền đầy rẫy hận thù và khinh miệt VNCH.
Lẽ ra họ, cùng là người Việt, phải hãnh diện là lính VNCH, tuy khác chiến tuyến, giữ được danh dự cho dù đầu hàng theo đúng tinh thần dân Việt như họ.
Lịch sử Việt Nam cho thấy bản chất yêu thương kính trọng lẫn nhau cho dù với kẻ thù khác chiến tuyến. Một thí dụ có thể thấy trong cuộc nội chiến giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn ở đầu thế kỷ thứ 19. Năm 1801, cuộc nội chiến giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn ̣đang ở đỉnh cao nhất. Trong một trận quyết định, tướng Tây Sơn, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng, bao vây thành B́nh Định trấn giữ bởi tướng nhà Nguyễn, Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, hơn một năm.
Sau cùng, Tánh và Châu tự tử sau khi gửi Diệu một lá thư yêu cầu ông đừng hại lính họ. Diệu vào thành, cảm động bởi nghĩa dũng của Tánh và Châu, chôn cất tử tế hai viên tướng địch và thả tất cả binh lính nhà Nguyễn (Phạm 1961, 230-233). Hành động của Diệu đại diện cho ư nghĩa của t́nh yêu thương dành cho người đồng hương, ngay cả với phe địch.
Trong khi sự tuẫn tiết của năm vị tướng VNCH biểu hiện danh dự, trách nhiệm, và tổ quốc của Võ Tánh và Ngô Tùng Châu theo truyền thống dân tộc Việt, chuyện cấp lãnh đạo cộng sản đối xử hiểm ác những người lính, sĩ quan, và viên chức của chính quyền Sài G̣n vào năm 1975 đi ngược lại tinh thần truyền thống này.
Bookmarks