Tết Nguyên Đán
I- Tết Nguyên Đán: C̣n gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Việt Nam hay gọi đơn giản là Tết. Chữ Tết là do chữ tiết (thời tiết) đọc trệch ra mà thành tết. Nguyên là nguyên thuỷ, bắt đầu. Đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên Đán là tết mở đầu cho một năm. Tết năm mới của Việt Nam bắt đầu vào mùa xuân, trong không khí mát mẻ, cây cối, hoa cỏ tốt tươi, do đó năm mới sẽ hy vọng: Khoẻ khoắn, an lành và may mắn.
Tết Nguyên Đán được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng Giêng hằng năm theo Âm lịch, tại nước Việt Nam và ở một số quốc gia có cộng đồng người Việt sinh sống. Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch, nên ngày Tết Nguyên đán (đầu năm của Âm lịch), không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch, thường thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch.
Tết Nguyên Đán đối với người Việt rất thiêng liêng, nên mọi người, mọi gia đ́nh, đều chuẩn bị tết từ đầu tháng chạp (trước ngày tết một tháng), như: Tiền bạc, sửa sang nhà cửa, mua sắm rim mứt, quần áo mới để đón tết.
1- Tiễn đưa ông Táo: Ngày xưa ở Việt Nam (đến nay c̣n nhiều gia đ́nh giữ tập tục này), người ta tin rằng Táo Quân (Táo là bếp, Quân là vua: Thần Bếp), cai quản việc bếp núc, vào cuối năm vào ngày 23 tháng chạp (ÂL). Táo về chầu Ngọc Hoàng Thượng đế, báo cáo rành rẽ mọi việc của gia đ́nh nơi thần Táo ở (nếu nhà bếp cấp quốc gia, th́ Táo sẽ bẩm báo việc quốc gia). Chuyện kể về thần Táo (lúc c̣n nhỏ, tôi được nghe mẫu thân kể chuyện Thần táo, nay xin được thuật lại), thuở xa xưa có một nông dân cưới được một người vợ đẹp lắm, mỗi lần đi làm ruộng, ông mang bức h́nh của người vợ theo, để nơi bờ ruộng vừa làm vừa ngắm. Một hôm có một con quạ sà xuống gắp bức h́nh bay là đà, quạ bị người lính đi săn, bắn trúng chân, nên quạ thả bức h́nh để thoát thân.
Người hướng dẫn đoàn lính đi săn là một vị Đại vương. Đại vương ngắm nghía người trong bức h́nh duyên dáng mặn mà, nên truyền lính đi t́m bà đem về cung. Ông nài nỉ và bắt buộc bà làm vợ. Người nông dân xa vợ, rầu rĩ, nhớ nhung, không làm lụng được, nên bị đói rách, đi lang thang. Run rủi vào trúng nhà của người vợ cũ. Bà cho ông tiền bạc và ăn uống. Liền lúc đó, nghe tiếng lính đi săn đă về xôn xao ngoài ngơ. Hốt hoảng quá! Bà bảo người chồng cũ chui vào ḷ để trốn. Lính đem con nai vừa bắn được bỏ vào ḷ để thui. Bà quá hối hận, v́ vô t́nh đă hại chết người chồng cũ. Nên bà nhảy vào ḷ lửa cùng chết chung, cho trọn t́nh nghĩa.
Đại vương sửng sốt, quá lưu luyến vợ nên cũng nhảy vào ḷ cùng chết chung. Ngọc Hoàng nghe bẩm báo sự việc, ngẫm nghĩ cả 3 người đă chết thật chan chứa t́nh nghĩa, nên phong cả 3 người là Thần Táo, do đó Táo Quân có hai ông một bà. Từ đấy người ta thờ Táo Quân với câu đối: “Hữu đức năng tư hoả. Vô tư khả đạt thiên”. Nghĩa là: Có tài săm soi lửa. Khả năng bẩm báo trời.
2- Gởi tết: Sắp đến ngày tết, con cháu các ngành thứ ở riêng, mang hoa qủa, bánh mức về nhà trưởng (nhà thờ ông bà) để nhà trưởng cúng tổ tiên.
3- Biếu tết: Biếu tết là tṛ tặng quà đến thầy, hay người ta tặng quà với nhau, giữa những người trong họ hàng, bạn bè, người làm cùng sở, để gây thêm t́nh thân mật.
4- Tảo mộ: Tảo mộ là sang sửa mồ mả tổ tiên, mồ mả người đă mất, v́ tin rằng hồn người chết được hưởng tết vui vẻ, có nơi chờ đến tháng ba, tết Thanh minh mới tảo mộ.
5- Lễ Giao thừa: Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, giao thừa: “Cũ giao lại, mới đón lấy”. Trong lễ giao thừa, nơi các đ́nh miếu cúng tế do làng trưởng hay vị tiên chỉ hoặc thủ từ làm chủ lễ. Tại tư gia do người gia trưởng sắp xếp việc cúng bái, vậy cúng ai? Theo Phan Kế Bính trong “Phong tục Việt Nam” viết: “Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông Hành khiển coi việc nhân gian, hết năm th́ thần nọ bàn giao cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới”. Như vậy có 12 vị Hành khiển, theo địa chi (Tư, Sửu... Hợi), mỗi năm một vị Hành khiển vâng mệnh Ngọc hoàng đến trần gian. Lễ giao thừa c̣n cúng bái cảm tạ Ông bà Tổ tiên, Thổ công và âm hồn đă phù hộ cho gia đ́nh hay làng xóm suốt năm qua. Giờ giao tiếp giữa hai năm, cũ và mới gọi là “Lễ Trừ tịch”.
6- Lễ Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ bắt đầu sang năm mới. Cuối giờ Hợi (12 giờ đêm) ngày 30 tháng Chạp (tháng thiếu ngày 29) bước qua giờ Tư mùng một tháng Giêng năm sau. Lễ trừ tịch có ư là bỏ tất cả cái đă qua, những điều cũ, xấu của năm rồi, đón cái mới tốt đẹp năm tới, cũng có nghĩa là lễ trừ ma quỷ. Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên cũng gọi là Lễ Giao thừa. Sau đó, người ta thường chọn hướng để xuất hành, mong gặp được điều may mắn suốt năm.
7- Cây nêu: Người Việt khi xưa tin tưởng rằng ngày tết ma quỉ thường quấy nhiễu, nên trước sân dựng cây nêu là cây tre có ṿng tṛn với lá phướn và rắc vôi trên mặt đất, bởi tin rằng ngày xưa Phật đă cấm ma quỉ đến nơi có các vật này. Cũng có thuyết cho rằng: Chử Đồng Tử tu tiên, được Tiên ông cho một cây trượng và một chiếc nón là bửu bối linh nghiệm, h́nh ảnh cây nêu (cây trượng) và ṿng tṛn (nón), có phải tổ tiên chúng ta muốn dùng h́nh ảnh bửu bối của Chử Đạo Tổ, để trừ tà và lấy hên hay không?!
8- Hái lộc: Khi đi xuất hành hay đi dự lễ giao thừa ở chùa, nhà thờ, đền, đ́nh, nhân dịp bẻ một nhánh cây nhỏ, có lá sởn sơ; như cây đa, cây đề, cây si, gọi là cành lộc, đem về cắm ở bàn thờ, tin tưởng sẽ đem lại sự may mắn cho gia đ́nh trong năm mới.
9- Vui tết: Ngày tết Nguyên Đán thường là 7 ngày, từ ngày mùng một đến mùng bảy hạ nêu. Trong thời gian tết, nhiều nơi tổ chức hội hè, đ́nh đám nhộn nhịp như: Bài cḥi, bầu cua, lô tô. Nơi chùa, nhà thờ, ngoài đường người tấp nập, quần áo chỉnh tề. Gặp nhau chúc tết chân t́nh, lời lẽ nhỏ nhẹ lịch sự.
10- Mừng tuổi: Ngày xưa con cháu mừng tuổi là lạy Tổ tiên đă mất; lạy Ông bà c̣n sống, và được Ông bà cho tiền. Ngày nay người lớn bỏ tiền vào phong b́ màu đỏ, cho con cháu hay trẻ em quen biết, để các em hoan hỷ đầu năm, tiền này gọi là tiền ĺ x́, hay tiền mở hàng đầu năm.
II- Tết miền Sơn cước (Tết đồng bào người Thượng):
1- Tết của người H’Mông: Người H’Mông sống ở vùng cao nguyên miền Bắc. Họ ăn tết vào thời gian khoảng sau tết Dương lịch vài hôm. Nhà cửa trang hoàng màu sắc rực rỡ, màu đỏ được người H’Mông ưa chọn hơn hết. Họ chuẩn bị một con heo mập mạp để ăn tết, ngoài ra c̣n có bánh bằng bột nếp. Vào đêm giao thừa, gia đ́nh thường cử một người con trai đi “mở nước”, tức là đến sông, suối lấy nước về nhà để cúng.
2- Tết của người Dao: Người Dao sinh sống ở vùng núi miền Bắc, họ có Tết Nhảy (Nhiang chăm đao) rất độc đáo, được tổ chức trước tết nguyên đán của người Kinh vài hôm. Mọi gia đ́nh đều nghỉ làm việc để ăn tết, nhà cửa được trang hoàng sáng sủa, dán nhiều câu đối bằng chữ Hán vào cột hay trên các vách tường mừng xuân. Ngày tết, họ rất vui vẻ đi thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Họ đón tết nhảy, nh́n các thanh niên biểu diễn vơ nghệ rộn ràng, thanh niên biểu diễn các điệu nhảy, điệu múa, trong đấy có múa kiếm, múa kiếm uyển chuyển trong tiếng trống, tiếng chiêng vang rền giục giă.
3- Tết của người Cơ Tu: Người Cơ Tu sinh sống ở miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam. Họ tổ chức ăn tết “Prơ giê răm”, nhà nhà trang hoàng đẹp đẽ; cung tên, giáo mác, chiêng, trống... được lau chùi cẩn thận. Tại nhà làng (nhà rông), sơn màu sắc rực rỡ, giữa sân trồng trụ đâm trâu. Dân trong buôn làng tề tựu nơi đây đông đảo nhảy múa, hát dân ca trong không khí tưng bừng. Trai gái trao đổi tâm t́nh và chơi xuân cả tháng.
4- Tết của người Xơ Đăng: Người Xơ Đăng sinh sống miền rừng núi Kon Tum, mỗi năm họ có 2 tết: Tết Giọt nước và tết Lửa. Tết Giọt nước được tổ chức linh đ́nh hơn, vào khoảng tháng 3 Dương lịch. Khi mùa màng gặt hái xong, họ sửa sang các máng nước và chuẩn bị làm lễ “cúng máng”, cầu xin Thần nước ban cho năm mới bản làng yên ổn, dân làng sức khoẻ dồi dào, mùa màng tươi tốt. Họ đem choé, nồi đồng đến các máng nước lấy nước về nhà. Lễ “cúng máng nước”, được tổ chức rất lớn tại nhà rông, mời thầy cúng, cúng kiếng kỹ lưỡng. Sau đấy, họ ăn uống, ca hát, nhảy múa mấy ngày liền. Tết cũng là dịp trai gái trao đổi tâm t́nh.
III- Tết làng quê, tết thị thành.
1- Tết làng quê người Việt: Tết là mốc thời gian thay cũ đổi mới, nên ai ai cũng nao nức lẫn lộn lo lắng, để chuẩn bị tết. Những người đi làm lụng xa quê luôn nôn nao “về quê ăn tết”. Về quê ăn tết là dịp được gặp lại gia đ́nh, họ hàng, làng xóm đă xa vắng mấy tháng hay mấy năm. Mọi người sửa sang nhà cửa, chuẩn bị rim mứt, không thể thiếu bánh chưng hoặc bánh tét vào ngày tết, c̣n lo muối một vại dưa hành cho đúng điệu:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
2- Chợ tết: Phong tục đón xuân đă trở thành truyền thống, nên chợ tết vào cuối tháng chạp hàng hoá rất dồi dào, người mua, kẻ bán luôn tấp nập, nói cười rộn ră, nên có câu “vui như chợ tết”. Khu bán hoa vào ngày cận tết, luôn đủ các loại hoa, màu sắc rực rỡ cả một góc trời.
3- Bàn thờ gia tiên: Kể từ rằm tháng chạp, bàn thờ bắt đầu sửa sang, lau chùi tỉ mỉ, đồ đồng nơi bàn thờ đem đánh bóng sáng loáng như mới. Chính giữa hương án là một b́nh hương để cắm hương. Hai cây đèn đối xứng nhau ở hai bên b́nh hương. Nhà nào có người làm quan văn th́ có cờ, biển, chiêng, trống và có giá để bộ bát bửu (8 thứ quí): Túi thơ, quạt, bầu rượu...Nhà nào có người quan vơ th́ bày bộ “chấp kích” gồm 8 thứ: Phủ việt, dùi đồng, truỳ, đại côn...những thứ này bằng đồng hoặc bằng gỗ được sơn son thếp vàng.
4- Tết Hà Nội: Hà nội là đất ngàn năm văn vật, nên truyền thống ngày tết có nhiều phong tục đặc biệt. Kể từ đầu tháng chạp, đồng bào đă chuẩn bị tiền bạc để mua sắm tết, nhà cửa sửa sang, từng gia đ́nh không quên vại dưa hành, hũ trứng muối và vài b́ lạp xưởng. Ngày tết dù giàu hay nghèo đều có xôi gấc, v́ gấc màu đỏ tươi nh́n sáng sủa, c̣n có hy vọng đem lại may mắn. Đĩa hạt dưa rang màu đỏ, ảnh hưởng từ miền Nam cũng không thể thiếu, nên sau năm 1955, hai miền Nam Bắc chia cắt, miền Bắc phải dùng hạt bí để thay thế.
Những loại cây, hoa được người Hà Nội ưa thích vào dịp tết là đào, quất, nếu gia đ́nh khá giả th́ thêm gị thuỷ tiên.
Chiều 30 tháng chạp, làm cỗ cúng tất niên, tiễn năm cũ và khấn mời Cha mẹ, Ông bà, Tổ tiên đă khuất, về cùng ăn tết với con cháu. Ngày tết bàn thờ hương trầm khói nghi ngút, mọi người trong gia đ́nh từ già đến trẻ đều ăn mặc chỉnh tề; con cháu tuần tự đến chúc mừng cha mẹ ông bà; kế đến người lớn ĺ x́ (mừng tuổi) bằng phong b́ đỏ, bên trong là tiền mới, để con cháu lấy hên. và người lớn cũng dặn ḍ con cháu ngoan, chăm chỉ học hành và siêng sắn làm việc.
Người Hà Nội thường dùng các loại trà có tiếng là thơm ngon: Chè ướp sen, chè Ninh Thái, chè Thiết Quan Âm... Món ăn Hà Nội thường được nấu nướng đúng cách, mùi vị thơm tho, cỗ bàn phải đủ lệ đủ món. Mâm cỗ tết thường có 4 bát, 6 đĩa. Khá giả hơn th́ 8 bát, 8 đĩa. Bát th́ có: Bát miến nấu ḷng gà, bát bóng su hào nấu với thịt heo nạt...Đĩa th́ có: Đĩa gà luộc, đĩa cá kho riềng, thịt ḅ kho khô...
5- Tết Huế: Huế là cố đô của Việt Nam ở miền Trung. Năm 1788, vua Quan Trung chọn Phú Xuân (Huế) làm kinh đô. Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi vẫn dùng Huế làm thủ đô của nhà Nguyễn. Đất Huế nổi tiếng cảnh đẹp thơ mộng, có núi Ngự sông Hương và nhiều lăng tẩm nguy nga cổ kính.
Người Huế phần lớn là người gốc Bắc. Năm 1558, họ đă theo Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên, chúa Nguyễn đầu tiên) vào trấn thủ Thuận Hóa và dần dà người Bắc vào đất Thuận Hoá đông hơn. Dân Huế mỗi nhà thường có một cái vườn rộng răi, ngoài việc trồng hoa quả để thu nhập thêm cho kinh tế gia đ́nh, hàng rào cắt tỉa đẹp đẽ, ḥn non bộ, cây kiểng trông rất ngoạn mục, đẹp nhất là vào dịp xuân về.
Ngày 23 tháng chạp, tiễn ông Táo về trời, tổ chức lễ cúng rất long trọng, khi đă cúng xong là lễ rước ông Táo mới vào bếp và 3 ông Táo cũ đặt trên một cái khay, trên khay có lót vàng mă và thắp nhang, đưa đến một gốc cây cổ thụ hoặc để cạnh các am miếu, vái ba cái rồi ra về. Nhưng ngày nay, nhiều gia đ́nh không c̣n dùng bếp củi, nên tục này đă giảm.
Sau ngày tiễn ông Táo, dân Huế rộn ràng lo việc chạp mộ (tảo mộ), thắp hương khấn mời ông bà hoặc người thân đă khuất, cùng về chung vui trong ngày tết với con cháu.
Người nội trợ Huế rất khéo léo khi làm các món ăn, nhất là ngày tết. Ngoài bánh chưng bánh tét thơm dẻo, c̣n có: Bánh phu thê gói lá dừa hấp cách thuỷ. Bánh dừa mận được làm bằng nếp giă nhuyễn gào với dừa và đường, bên ngoài là vừng (mè) rang, sau khi làm xong được gói giấy bóng, trông thanh lịch... Món mặn có chả tôm, nem ḅ lụi... mùi vị thơm tho. Rượu ở Huế phổ biến là rượu nếp và rượu thuốc, đă được hạ thổ lâu ngày, hương vị ngọt ngào. Người Huế theo đạo Phật khá đông, nên ngày mùng một tết thường cúng chay bằng bánh trái hoa quả, cũng có nhiều gia đ́nh làm mâm cỗ chay, với bàn tay khéo léo của người phụ nữ Huế, đă biến chế từ đậu hủ, đậu phộng, hạt sen, nấm... thành những món ăn trông đẹp mắt, mùi vị thơm tho. Sáng mùng một người khách đến nhà đầu tiên được gọi là “đạp đất” giống như từ “xông đất” ở miền Bắc.
Sáng mùng một lần đầu tiên ra khỏi nhà, người ta thường chọn giờ tốt để xuất hành và thường đến các chùa lễ Phật.
Trong những ngày tết, người Huế có tục “bói tuồng”, đi xem hát bội lựa đoạn tŕnh diễn vui, có kết quả tốt. Dân chúng c̣n đến các vùng lân cận, để xem các tṛ chơi truyền thống như: Hội đấu vật ở Lại Ân, hội bơi trải ở Thuận An, xem hát ḥ và xem chơi đu ở Pḥ Trạch... Đến ngày mùng bảy, đồng bào Huế làm lễ hạ nêu, kết thúc tết Nguyên đán.
6- Tết Sài G̣n: Thành phố Sài G̣n thành lập đến nay hơn 300 năm. Năm 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh, theo lệnh của chúa Nguyễn, lập xứ Sài G̣n làm huyện Tân B́nh. Năm 1859, Pháp đánh chiếm Nam Bộ, cảng Sài G̣n được thành lập, tàu buôn Tây phương và Châu Á, tấp nập tới lui. Ngày 15-3-1874, Tổng thống Pháp kư sắc lệnh lập thành phố Sài G̣n. Sài G̣n trở thành đô thị, và bắt đầu kiến trúc trung tâm thương mại, các công sở, đường sá... theo kiểu Tây phương. Đầu thế kỷ 20, Chợ Lớn sát nhập vào thành phố. Thành phố Sài G̣n trở thành đô thị lớn nhất Đông Dương. Ngày 26-10-1956, Sài G̣n được dùng làm thủ đô của Việt Nam Cộng Hoà.
Sài G̣n sắp tết, có nhiều khu bán hoa, hoa từ Đà Lạt, Hóc Môn, Bà Điểm, đưa về thành phố tấp nập với nhiều loại hoa khác nhau, người Sài G̣n vào ngày tết rất quí hoa mai vàng. Đất đai miền Nam màu mỡ, nên hoa quả sởn sơ, nhiều nhất là trái dưa hấu, ruột dưa đỏ tươi, cũng có một số trái ruột vàng óng ánh. Dưa từ Trảng Bàng, Trà Vinh, Cao Lănh, gần tết tấp nập chở về Sài G̣n. Dưa c̣n dùng để lấy hột, trồng nhiều ở tỉnh B́nh Thuận, dưa chín bổ ra lấy hột, hột được phơi khô và nhuộm đỏ, rồi đem bán cho người tiêu dùng vào dịp tết.
Sau ngày 23 tháng chạp, người miền Nam, lo việc tảo mộ. Mâm cỗ ở Sài G̣n vào ngày tết thường thấy bánh tét, thịt kho, dưa giá, kiệu muối, nem b́... Vào mùa xuân ở Sài G̣n én bay liệng đẹp mắt, chim tu hú kêu rộn ră, cu gáy âm thanh nhịp nhàng. Nên nơi đây có câu:
“Cu kêu ba tiếng cu kêu
Cho mau đến tết dựng nêu ăn che”.
Ngày 30 tháng chạp, ngoài việc trồng nêu, c̣n trang trí bàn thờ, mâm ngũ quả tươi tốt; trong mâm ngũ quả thường không thể thiếu: cầu (măng cầu); đủ (đu đủ), xài (xoài)... Mứt Sài G̣n dồi dào hơn mứt Hà Nội, v́ miền Nam có nhiều hoa quả; đặc biệt mứt dừa rất nhiều và thơm ngon hơn các nơi khác.
Đêm 30 tháng chạp, mọi nhà đón giao thừa, tiếng pháo nổ rầm rộ khắp nơi, vui mừng “tống cựu nghinh tân”. Sáng mồng một tết, cúng năm mới. Cúng xong, trẻ con mặc quần áo mới, đến chúc tết ông bà cha mẹ để được “ĺ x́” (mừng tuổi) phong bao đỏ tiền mới. Ngày tết Sài G̣n cũng có một số nhà hàng bán đồ ăn uống. Ngày tết Sài G̣n múa lân không thể thiếu, khu phố nào cũng có một đội lân, do người có thế lực bảo trợ. Những nhà buôn bán giàu có, thường treo giải thưởng rất cao, lân vừa múa chúc mừng gia chủ, người trong đội lân phải đứng lên vai nhau làm thang, để lân trèo lên lấy thưởng, giữa tiếng hoan hô náo nhiệt và tiếng pháo nổ ṛn ră. Sau ngày mồng bốn tết, không khí tết ở Sài G̣n bắt đầu trở lại ngày thường.
(C̣n tiếp)
Nguyễn Lộc Yên
Bookmarks