Đi T́m Chân Lư
Trong một câu chuyện của Mạnh Tử: Có một người bán mâu và thuẫn quảng cáo về mâu và thuẫn của ḿnh như sau:
- Mâu này bất cứ thứ ǵ cũng đâm thủng đươc .
- Thuẫn này không có thứ ǵ đâm thủng được .
Lời quảng cáo như trên của người bán "mâu thuẫn" với nhau và hai mệnh đề mâu thuẫn với nhau không thể cùng đúng một lượt. Phải có một mệnh đề (quảng cáo) sai. V́ vậy dẫn đến câu nói mà chúng ta thường nghe: "Chân lư chỉ có một" dựa trên "nguyên lư bất mâu thuẫn" này .
Trong lịch sử toán học, chúng ta nhận thấy có ba tiền đề mâu thuẫn làm nền tảng cho ba nền h́nh học khác nhau (Euclide, Riemann và Lobatchevsky ):
- H́nh học Euclide dựa trên tiền đề: Từ một điểm ở ngoài một đường thẳng, ta chỉ có thể kẻ được một đường thẳng duy nhất song song với đường thẳng đă cho.
- H́nh học Riemann dựa trên tiền đề: Từ một điểm ở ngoài một đường thẳng, ta không thể kẻ được một đường thẳng nào song song với đường thẳng đă cho.
- H́nh học Lobatchevsky dựa trên tiền đề: Từ một điểm ở ngoài một đường thẳng, ta có thể kẻ được vô số những đường thẳng khác nhau song song với đường thẳng đă cho.
Nếu theo nguyên lư bất mâu thuẫn th́ chắc chắn chỉ có một nền h́nh học là đúng. Nhưng trong thực tế th́ cả ba nền h́nh học này đều được ứng dụng rất đúng trong ba mặt khác nhau của không gian. H́nh học Euclide ứng dụng trong thế giới thường ngày của chúng ta (h́nh học phẳng) . H́nh học Riemann ứng dụng trong việc nghiên cứu thế giới của các nguyên tử và phân tử (ngành vi vật lư). H́nh học Lobatchevsky ứng dụng trong việc nghiên cứu thế giới của các thiên thể vũ trụ (h́nh học không gian). Điều này cho thấy một thực tại như không gian có thể có nhiều mặt (thực tại đa diện) và nếu chúng ta giữ quan niệm không gian chỉ có một mặt duy nhất (thực tại đơn diện) th́ chúng ta không thể giải thích được tại sao cả ba tiền đề mâu thuẫn với nhau, như ở trên, đều đúng.
Trước thực tế đó, triết học bắt buộc phải đặt lại vấn đề về nguyên lư bất mâu thuẫn của nhận thức luận cũ. V́ căn cứ theo thực tế th́ mọi sự vật đều có nhiều mặt, tối thiểu là với ba chiều (dài, rộng, cao), và người ta có thể nh́n một sự vật từ sáu mặt khác nhau (trước, sau, trên, dưới, phải, trái) và sáu cách nh́n sẽ dẫn đến những nhận thức khác nhau, thậm chí có thể mâu thuẫn nhau. Giả sử, nếu có người nào đó đặt vấn đề là trong sáu cách nh́n một sự vật, cách nh́n nào đúng? Đây là một câu hỏi khôi hài và càng vô lư hơn nữa khi có ai xác quyết là trong sáu cách nh́n ấy chỉ có một cách nh́n là đúng. Và như vậy là năm cách nh́n c̣n lại , theo câu nói "chân lư chỉ có một" đều phải sai hết. Mặc dù rất rơ ràng đây là một chuyện khôi hài và vô lư. Tuy nhiên nó cũng có thể xảy ra một cách dễ dàng nếu người ta chấp nhận nguyên lư bất mâu thuẫn là đúng và quan niệm thực tại chỉ có một mặt (thực tại đơn diện).
Câu chuyện "Những người mù sờ voi" là một thí dụ diễn tả rơ ràng cái nhận thức phiến diện của con người. Những người mù sờ voi căi nhau v́ ai cũng quả quyết là ḿnh đúng. Và nếu ḿnh đúng th́ mọi người khác phải sai và làm sao ḿnh chấp nhận được? Nhân loại thảm sát nhau trong những cuộc chiến tranh không những để tranh dành quyền lợi mà c̣n để bảo vệ chân lư. Bảo vệ cái chân lư chính bản thân ḿnh đă chứng nghiệm, đă xác tín và tin tưởng đó là chân lư duy nhất. Ngờ đâu đó chỉ là "chân lư của ḿnh" mà không biết rằng người khác cũng có "chân lư của họ". Các tôn giáo, các ư thức hệ, các khuynh hướng và đảng phái chính trị ... phe nhóm nào cũng khăng khăng xác quyết là chỉ có lập trường của phe ḿnh là đúng. Ai cũng sẵn sàng đổ máu của ḿnh cũng như của phe đối lập để bảo vệ "chân lư của ḿnh". Ai cũng coi bảo vệ chân lư là một lư tưởng cao đẹp!
Đa số chúng ta đều cho ḿnh biết được thực tại (reality), cái ǵ tôi thấy, biết, nghe, hiểu đều là sự thật (truth). V́ thế nên mới có “ngă kiến” (tức là cái thấy của tôi) và “kiến thủ” (khư khư cho cái thấy của tôi là đúng). Nhưng thực ra chúng ta chỉ nắm bắt được những mảnh vụn của thực tại xuyên qua nhiều cái lọc (filter) hay lăng kính (mirror).
Đứng trước thực tại, chúng ta thâu nhận nó qua những giác quan của ḿnh như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư. Nếu các giác quan của ta không được chính xác như mắt cận hay viễn thị, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi khô, thân bệnh, ư đang tán loạn, vui buồn v.v... th́ thực tại sẽ bị méo mó đi một phần. Tri giác là một cái lọc hay lăng kính thứ nhất. Và thực tại ban đầu trở thành thực tại số 1 qua tri giác . Kế tiếp thực tại đó được nh́n ngắm qua lăng kính gia tài văn hóa, xă hội mà ta đă sinh ra và lớn lên. Tùy theo ta là người Việt, người Hoa, người Pháp, người Anh ... ta sẽ nh́n thấy sự việc một cách khác nhau. Và qua cái lọc văn hóa xă hội thực tại số 1 đă biến thể thành thực tại số 2. Tiếp theo đó, cũng cùng là người Việt, nhưng mỗi người có những kinh nghiệm riêng tư không giống nhau. Và như vậy, qua cái lọc của kinh nghiệm bản thân ta, thực tại số 2 đă biến thành thực tại số 3. Cuối cùng, khi cái Ư của ta nhận thức thực tại th́ nó chỉ có thể thấy thực tại số 3 chứ không thể thấy cái thực tại ban đầu nữa. Sau khi nhận thức thực tại số 3, ư thức của ta "đóng khung" thực tại số 3 qua h́nh ảnh, ngôn ngữ, khái niệm ... thành thực tại số 4 và ta cho đó là thực tại "thứ thiệt". Cái thực tại sau cùng mà Ư nhận thức được chỉ c̣n là một bóng dáng, một thực tại méo mó với những mảnh vụn rơi rớt v́ đă trải qua nhiều cái lọc. Thực tại (chân lư) chỉ c̣n là cái bóng . Tuy vậy, đa số chúng ta lại "Tưởng" là ḿnh nắm bắt được thực tại, tự cho là ḿnh biết đúng, thấy đúng sự thật. Và v́ vậy, chúng ta muốn người khác phải tin và nghe theo ư kiến của chúng ta.
Trên phương diện tương đối trong đời sống hàng ngày, chúng ta không thể không có "Tưởng", không Tưởng cái này th́ cũng Tưởng cái kia. Tưởng rồi Tin vào cái Tưởng của ḿnh gọi là tin tưởng (belief). Những cái Tưởng đúng hoặc gần với thực tại, với chân lư th́ được gọi là chánh kiến, hay minh triết ... v́ nó đem lại an vui hạnh phúc, c̣n những cái Tưởng méo mó sai lầm không đúng thực tại, tin vào đó sẽ đưa đến buồn phiền khổ đau th́ gọi là vọng tưởng (false belief). Ngay cả những cái ta cho là sự thật hay chân lư rồi và khư khư bám chặt vào đó th́ nó cũng trở thành một loại vọng tưởng. Về phương diện tuyệt đối, có thể nói con người không có khả năng nhận thức thực tại (chân lư) mà chỉ là nhận thức cái bóng của thực tại (chân lư). V́ thực tại biến đổi theo từng "sát-na".
(Theo Phật giáo, danh từ sát na được dùng để chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Một ngày 24 giờ được tính bằng sáu ngàn bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.)
Và chúng ta thường lầm lẫn giữa ư tưởng và thực tại, cũng như giữa danh từ và sự vật. Thí dụ khi chúng ta nh́n ngắm một bức ảnh chụp một vật ǵ đó, như một trái táo chẳng hạn . Hăy để ư, h́nh ảnh (chụp) trái táo không phải là trái táo, danh từ trái táo không phải là trái táo và ư tưởng về trái táo cũng không phải là trái táo, trái táo như là một thực tại đă biến đổi . Một thí dụ khác như khi ta xem bản đồ của một thành phố, như New York chẳng hạn . Bản đồ NewYork không phải là thành phố New York dù cho đây là bản đồ mới nhất và được chụp với máy ảnh tối tân nhất th́ cũng chỉ là bức ảnh của thành phố New York chụp vào một thời điểm cố định trong quá khứ. New York hiện tại đă khác với h́nh ảnh New York đă chụp. Những danh từ , ư tưởng và bản đồ giúp cho chúng ta có một khái niệm về thực tại và sự vật, nhưng khi có trong tay th́ chúng ta lại xem chúng (danh từ, ư tưởng, bản đồ) như là thực tại và quên đi thực tại. Thực tại luôn luôn biến đổi theo từng sát na trong khi danh từ, ư tưởng và bản đồ th́ cứng ngắc không thay đổi.
Tóm lại , tri thức của chúng ta về một sự vật nào đó th́ không phải là sự vật chính nó. Cái mà chúng ta biết được về thế giới thực tại chung quanh ta chỉ là những phóng ảnh từ tâm thức, hay nói khác hơn chỉ là thế giới biểu tượng của thực tại, chứ không phải là thực tại nguyên bản. Bởi v́, tính chất của nhận thức là phân biệt thế giới thực tại qua khái niệm; mà giữa khái niệm và thực tại th́ hoàn toàn khác nhau. Do đó, bất luận một sự vật nào, hễ c̣n được xây dựng trên khái niệm th́ đều là huyễn ảo - nghĩa là chúng luôn luôn Vô Thường .
(Vô thường là luật tuần hoàn của vũ trụ. Nơi nào có sự vận hành, chuyển biến, đổi dời, nơi đó có Vô Thường. Vô Thường không phải chỉ là giáo lư riêng của Phật giáo, mà vào thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch, một triết gia Hy-Lạp Herakleitos cũng đă nói : "Tất cả (sự vật) đều ở trong trạng thái biến đổi" (All is in a state of flux). )
Từ xưa đến nay, biết bao nhiêu triết gia, biết bao nhiêu lư thuyết chủ trương không giống nhau, và chúng ta vẫn chưa biết được đâu là chân lư. Cái mà hôm qua người ta gọi là chân lư, hôm nay đă không c̣n là chân lư. Cái mà hôm nay mọi người cho là chân lư, ngày mai lại có thể là sai lạc. Lư trí con người khổ sở vô cùng trong khi đi t́m chân lư, và cho đến bây giờ con người vẫn nghi ngờ không biết rằng lư trí ḿnh có thể có khả năng đạt đến chân lư hay không? Sự nghi ngờ đó cho thấy sự yếu kém của tri thức nhân loại. Và như vậy cái gọi là chân lư mà con người nhận thức được bằng tri thức giới hạn của ḿnh không phải là chân lư đúng và toàn thể (chân lư tuyệt đối “?”) mà chỉ là những nhận thức có tính chất chủ quan và phiến diện. V́ vậy, có thể nói, tất cả những học thuyết triết học muốn giải nghĩa, giải thích ... toàn thể vũ trụ này cũng chẳng khác nào những lời mô tả con voi của những người mù sờ voi mà thôi???
Đi t́m chân lư ở đâu?
Câu hỏi quá khó đau đầu thế nhân .
Lư Lạc Long
(TTL/TCT/MAI/ 29/5/06)
Bookmarks