Chiến tranh Việt Nam
Wikipedia
P1
Chiến tranh Đông Dương 1946 -1954
Chiến tranh Đông Dương, ở Việt Nam được gọi là Kháng chiến chống Pháp, là cuộc chiến diễn ra tại Đông Dương thuộc Pháp từ ngày 19 tháng 12 năm 1946 tới 1 tháng 8 năm 1954, giữa một bên là Quân viễn chinh và lê dương Pháp cùng lực lượng đồng minh bản xứ bao gồm cả lực lượng của Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia, trong Liên bang Đông Dương, bên kia là lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa (Việt Minh) cùng các nhóm kháng chiến khác của Lào và Campuchia.
Hoàn cảnh
Thời Pháp thuộc
Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài G̣n. Năm 1862, vua Tự Đức kư hiệp ước nhượng Sài G̣n và ba tỉnh lân cận cho Pháp. Năm 1869, Pháp chiếm nốt ba tỉnh kế tiếp để tạo thành một lănh thổ thực dân Cochinchine (Nam kỳ). Đến năm 1885, Pháp xâm chiếm xong những phần c̣n lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc. Theo chính sách "Chia để trị", Pháp chia Việt Nam thành 3 phần Bắc - Trung - Nam kỳ. Pháp tuyên bố là họ sẽ trực tiếp kiểm soát Nam Kỳ, trong khi "bảo hộ" Bắc kỳ và Trung kỳ (nơi họ tiếp tục duy tŕ các hoàng đế bù nh́n nhà Nguyễn).
Trong suốt thời kỳ từ khi Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam, đă có nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào chống Pháp do vua, quan, hoặc nông dân tổ chức, nhưng tất cả đều bị thất bại.
Quân Pháp tấn công quân Thanh ở Lạng Sơn
Năm 1927, những người Việt cấp tiến đă thành lập Việt Nam Quốc dân đảng (giống Trung Hoa Quốc dân Đảng). Đến năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm, những người Việt theo chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt trận B́nh dân trong chính quyền Pháp.
Năm 1940, Đế quốc Nhật Bản tấn công Đông Dương và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật lật đổ Pháp trên toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, theo chính sách Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á, Đế quốc Nhật Bản bảo trợ thành lập chính phủ do quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu với thủ tướng là nhà nho Trần Trọng Kim. Cũng như các chính phủ khác ở những vùng bị Nhật chiếm đóng (Măn Châu quốc, Triều Tiên, Đài Loan...), chính phủ này không có thực quyền khi tài chính và nhân lực đều do quân Nhật nắm giữ.
Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội) do Hồ Chí Minh thành lập năm 1941 với vai tṛ một mặt trận thống nhất dân tộc để giành độc lập. Tổ chức này do Đảng Cộng sản Đông Dương lănh đạo, thu hút được sự tham gia và ủng hộ của nhiều người Việt Nam và ngày càng lớn mạnh. Tháng 12 năm 1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng vũ trang của Việt Minh và tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, được thành lập tại Cao Bằng.
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một t́nh trạng hỗn loạn. Chiến tranh đă làm kiệt quệ nền kinh tế, nước Nhật cạn kiệt nguyên liệu nên quân Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đă xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đă có khoảng hai triệu người chết v́ nạn đói này.
Việt Nam tuyên bố độc lập - Pháp quay trở lại Đông Dương
Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, lực lượng Việt Minh đă tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam thống nhất và độc lập với tên gọi nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Tuy nhiên, theo hiệp ước Potsdam, lực lượng Đồng Minh gồm quân Anh và quân Trung Quốc vào Việt Nam để giải giáp vũ khí Nhật. Cả Anh và Trung Hoa Dân Quốc đều muốn hạ bệ chính phủ của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, Anh ủng hộ sự trở lại của Pháp tại Đông Dương, c̣n Trung Hoa muốn đưa lực lượng thân Trung Quốc là Việt Nam Quốc dân đảng lên nắm quyền.
Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch tiến vào với danh nghĩa giải giáp quân Nhật, nhưng mang theo kế hoạch Diệt Cộng Cầm Hồ. Đội quân Quốc dân Đảng Trung Quốc chạy trốn Đảng Cộng sản Trụng Quốc đă tiến hành các hoạt động cướp bóc trên đường xuống phía Nam đến Hà Nội.[14]
Ở miền Nam, chỉ 4 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, phái bộ quân sự Anh đă có mặt ở Sài G̣n, theo sau là liên quân Anh-Pháp. Quân Anh trên danh nghĩa là theo lệnh Đồng Minh vào giám sát quân Nhật đầu hàng nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho quân Pháp vào Nam Bộ. Chính phủ lâm thời của Cộng ḥa Pháp muốn khôi phục lănh thổ thuộc địa Đông Dương. Ngày 19, Pháp tuyên bố sẽ lập chính quyền tại miền Nam. Ngày 23, với sự giúp đỡ của quân Anh, quân Pháp nổ súng chiếm quyền kiểm soát Sài G̣n (ngày này sau được Việt Nam gọi là ngày Nam Bộ Kháng chiến). Nước Việt Nam vừa giành được độc lập đă lại đứng nạn ngoại xâm.
Ngày 9 tháng 10, tướng Pháp Leclerc đến Sài G̣n, theo ông là lực lượng gồm 40.000 quân Pháp để chiếm giữ miền Nam Việt Nam và Campuchia. Từ cuối tháng 10, quân Pháp bắt đầu đẩy mạnh kế hoạch phá vây, mở rộng đánh chiếm ra vùng xung quanh Sài G̣n và các tỉnh Nam Bộ.
Bức điện Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ Harry Truman kêu gọi sự ủng hộ của Mỹ nhưng không được đáp lại
Từ cuối tháng 9 năm 1945, các đoàn quân "Nam tiến" của Vệ quốc đoàn (quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa) bắt đầu lên đường vào Nam chống Pháp[15]. Các tướng lĩnh quan trọng như Nguyễn B́nh, Nguyễn Sơn... được cấp tốc cử vào Nam. Trong hai tháng cuối năm 1945 và tháng 1 năm 1946, lực lượng Việt Minh tại các tỉnh Nam Bộ đă chiến đấu ngăn chặn làm chậm bước tiến của quân Pháp. Tuy nhiên, do lực lượng chênh lệch, sau một thời gian, các lực lượng này đều phải rút ra những căn cứ đầm lầy và rừng núi, xây dựng chiến khu để bảo tồn lực lượng cho kháng chiến lâu dài.
Trong suốt năm 1946, mặc dù hai bên cùng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa cố gắng hết mức thương lượng với Pháp và Trung Hoa để cứu văn ḥa b́nh và đẩy lui thời điểm nổ ra cuộc chiến tranh. Với quân Tưởng, họ đồng ư nhường cho Việt Nam Quốc dân đảng nhiều ghế tại Quốc hội và 4 trên 10 ghế Bộ trưởng mà không cần qua bầu cử, trong khi kư với Pháp Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946 với nhiều nhân nhượng về chính trị, ngoại giao.
Trong khi đó Pháp thỏa thuận với Trung Hoa ngày 28 Tháng Hai, 1946 để Quân đội Trung Hoa rút khỏi phía bắc vĩ tuyến 16 nhường chỗ cho Pháp đại diện phe Đồng Minh giải giới Quân đội Đế quốc Nhật Bản. Để tránh mũi nhọn của 2 kẻ thù có thể đồng thời tấn công, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đồng ư cho 15.000 quân Pháp tiến ra Bắc để nhanh chóng loại bỏ nguy cơ của 20 vạn quân Tưởng.
Trong giai đoạn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh c̣n gửi thư cho Tổng thống Mỹ Harry Truman kêu gọi sự ủng hộ của Mỹ với nền độc lập non trẻ của Việt Nam, nhưng đă không được hồi đáp. Nhiều nhà sử học cho rằng Hoa Kỳ đă bỏ lỡ cơ hội để quan hệ hữu nghị với Việt Nam, và đây là khúc ngoặt dẫn tới cuộc chiến tranh cay đắng mà Mỹ phải hứng chịu tiếp sau người Pháp.
Căng thẳng dẫn đến bùng nổ
Bài chi tiết: Nam Bộ kháng chiến và Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt
Xung đột quân sự đầu tiên nổ ra tại Hải Pḥng. Đầu tháng 11 năm 1946, quân Pháp chiếm trụ sở hải quan tại cảng Hải Pḥng. Quốc hội Việt Nam phản đối hành động này và khẳng định chủ quyền của Việt Nam trong việc kiểm soát tất cả các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. Ngày 20 tháng 11, hải quân Pháp bắt giữ một thuyền buồm Trung Quốc chở xăng được cho là để giao cho Việt Minh. Trong khi tàu được kéo vào bờ, du kích địa phương trên bờ đă bắn vào quân Pháp. Quân Pháp bắn trả và chiến sự nhanh chóng lan ra toàn thành phố. Hai bên mau có đạt được ngừng bắn, nhưng hai ngày sau, Tướng Jean-Étienne Valluy, tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, lệnh cho quân Pháp chiếm toàn quyền kiểm soát thành phố. Ngày 23 tháng 11, Đại tá Pierre Louis Dèbes (1900 - ? )gửi tối hậu thư yêu cầu người Việt ra khỏi khu phố Tàu của Hải Pḥng và hạ vũ khí. Khi không có phản hồi, Dèbes lệnh cho tầu chiến Pháp bắn phá thành phố, trong một buổi chiều đă giết chết hơn 6.000 người dân[16] hoặc hơn 2.000 người theo một nguồn khác.[17]. Sau đó, khoảng 2.000 lính Pháp tràn vào thành phố trong khi pháo tiếp tục bắn phá vùng ngoại ô. Quân Pháp gặp phải hỏa lực mạnh của lực lượng Việt Minh bảo vệ thành phố. Chiến sự kéo dài cho đến khi người lính Việt Minh cuối cùng rút khỏi chiến trường vào ngày 28 tháng 11.
Sau sự kiện Hải Pḥng, kế hoạch pḥng thủ Hà Nội bắt đầu được chuẩn bị để chính phủ Việt Nam có thời gian sơ tán về các vùng núi lân cận. Một số ít lực lượng chính phủ đóng tại Bắc Bộ phủ và một doanh trại gần đó. C̣n phần lớn lực lượng quân sự của Việt Nam trong vùng đóng tại ngoại ô của thủ đô. Bù lại, trong nội thành có gần 10.000 du kích và tự vệ. Bao gồm những thanh niên đầy nhiệt t́nh ủng hộ cách mạng, các lực lượng này được trang bị chủ yếu bằng vũ khí tự tạo. Đối địch với họ là vài ngh́n lính Lê dương Pháp, chủ yếu đóng trong Thành Hà Nội, phần c̣n lại đóng xen kẽ tại 45 điểm trong thành phố như Phủ Toàn quyền, ga Hà Nội, nhà băng Đông Dương, nhà thương Đồn Thủy, cầu Long Biên, và sân bay Gia Lâm.
Các cơ quan của chính phủ Việt Nam bí mật chuyển dần ra các địa điểm đă được chuẩn bị trước ở bên ngoài thành phố. Trong thành phố, quân dân Hà Nội bắt đầu xây dựng các chiến lũy pḥng thủ trên đường phố, quân Pháp cũng củng cố các vị trí pḥng thủ của ḿnh. Ngày 6 tháng 12, Hồ Chí Minh kêu gọi Pháp rút về các vị trí họ đă giữ từ trước ngày 20 tháng 11, nhưng ông không nhận được phản hồi. Trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp vào hôm sau, Hồ Chủ tịch khẳng định rằng Chính phủ Việt Nam hy vọng tránh được chiến tranh - cái sẽ gây đau khổ lớn cho cả hai nước. "Nhưng nếu chúng tôi phải đối mặt với chiến tranh", ông nói, "chúng tôi sẽ chiến đấu chứ không từ bỏ quyền tự do của ḿnh".
Ngày 12 tháng 12, Léon Brum, thủ tướng mới của Pháp tuyên bố ư định giải quyết xung đột ở Đông Dương theo cách sẽ trao lại độc lập cho Việt Nam. Ba ngày sau, Hồ Chí Minh đưa Sainteny một bức thông điệp gửi Brum với các gợi ư cụ thể về cách giải quyết xung đột. Sainteny đánh điện bức thông điệp vào Sài G̣n, yêu cầu chuyển tiếp tới Paris.
Trong khi chính phủ Pháp đang do dự về yêu cầu của Cao ủy Pháp d'Argenlieu về việc tăng quân và lập tức hành động quân sự chống lại người Việt, Valluy, người có chung quyết tâm với d'Argenlieu về việc giữ sự hiện diện của Pháp tại Đông Dương, đă quyết định rằng cần phải khiêu khích Hà Nội nhằm tạo xung đột và đưa Paris vào sự đă rồi. Ngày 16 tháng 12, ông lệnh cho tướng Morlière phá các chướng ngại vật mà Việt Minh dựng trong thành phố. Khi bức điện của Hồ Chí Minh gửi Brum vào đến Sài G̣n, Vallue viết thêm b́nh luận của ḿnh, cảnh báo rằng sẽ nguy hiểm nếu tŕ hoăn các hành động quân sự cho đến năm sau. Đến ngày 19, bức điện mới đến Paris, khi đó đă quá muộn.
Ngày 17 tháng 12, quân Pháp với xe tăng yểm trợ vào các đường phố Hà Nội để phá các công sự mà Việt Minh dựng trong những ngày trước đó, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún (Hà Nội), rồi dàn quân ra chốt giữ từ cổng thành Hà Nội đến tận cầu Long Biên và bao vây gây sức ép đồn Công an quận 2 của Hà Nội. Người Việt không phản ứng. Hôm sau, Pháp ra một tối hậu thư đ̣i chấm dứt dựng chướng ngại vật trên phố. Chiều hôm đó, Pháp ra tối hậu thư thứ hai tuyên bố rằng từ ngày 20, quân Pháp sẽ tự ḿnh đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội. Đáp lại, tối hôm đó, các lực lượng Việt Minh bắt đầu chặn mọi ngả đường từ ngoại ô vào thành phố. Sáng hôm sau (ngày 19 tháng 12), Pháp ra tối hậu thư thứ ba, đ̣i chính phủ Việt Nam đ́nh chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của Tự vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy tŕ an ninh trong thành phố.
Đối với người Việt, t́nh h́nh không khác với sự kiện Hải Pḥng hồi tháng trước, khi Đại tá Dèbes cũng đă ra các lệnh tương tự trước khi bắn phá thành phố. Sáng ngày 18 tháng 12, Hồ Chủ tịch ra lệnh chuẩn bị cho các cuộc tấn công quân Pháp vào hôm sau. Đồng thời, sợ rằng bức điện gửi Thủ tướng Brum có thể chưa đến nơi, ông gửi một bức điện thẳng tới Paris. Sáng 19, để thể hiện thiện chí và cố gắng kéo dài ḥa b́nh, Hồ Chủ tịch viết một bức thư ngắn và cử cố vấn ngoại giao Hoàng Minh Giám tới gặp Sainteny để đàm phán "t́m giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại". Sau khi được tin Sainteny từ chối gặp Hoàng Minh Giám, Hồ Chủ tịch triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng tại làng Vạn Phúc, Hà Nội, và tuyên bố rằng trong t́nh h́nh hiện tại, không thể nhân nhượng thêm được nữa. Hội nghị duyệt lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến mà Hồ Chủ tịch đă viết, thông qua văn kiện "Toàn dân kháng chiến" do Tổng Bí thư Trường Chinh dự thảo. Thời điểm bắt đầu nổ súng được quyết định là 8 giờ tối cùng ngày. Chiến tranh Đông Dương bắt đầu.
Đây là giai đoạn đầu tiên trong "Cuộc kháng chiến 30 năm" của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa với mục tiêu giành độc lập cho Việt Nam (giai đoạn 2 là cuộc chiến với Hoa Kỳ). Cuộc chiến diễn ra trên khắp Việt Nam và lan ra cả các nước láng giềng Lào và Campuchia, nhưng chiến sự chính diễn ra chủ yếu tại miền Bắc Việt Nam. Sau 9 năm sa lầy và với thất bại tại trận Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải chấp nhận kư kết Hiệp định Genève trao trả độc lập cho Việt Nam.
Cuộc Chiến tranh này ở Việt Nam c̣n được gọi là: (Chiến tranh chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (do sau năm 1949 đa số chiến phí của Pháp là do Hoa Kỳ viện trợ), Kháng chiến chín năm, 9 năm kháng chiến trường kỳ, Thời 9 năm, Hồi 9 năm). Các tài liệu nghiên cứu, sách báo ở nước ngoài phần lớn gọi là Chiến tranh Việt-Pháp hoặc Chiến tranh Đông Dương.
[hiện]
x • t • s
Chiến tranh và xung đột trên bán đảo Đông Dương
Pháp tham gia cuộc chiến này v́ ư muốn tiếp tục giữ Đông Dương là thuộc địa, sau khi người Nhật đă bại trận và mất quyền kiểm soát Đông Dương. Đây là lư do chính trị và tâm lư hơn là kinh tế[11]. Những người Pháp ủng hộ cuộc chiến cho rằng nếu Pháp để mất Đông Dương, sở hữu của Pháp hải ngoại sẽ nhanh chóng bị mất theo[12] Đa số lănh đạo Pháp cho rằng so với một cuộc xâm chiếm thuộc địa cổ điển với việc chiếm giữ các trung tâm dân số và mở rộng dần theo kiểu "vết dầu loang" mà người Pháp đă thực hiện rất thành công ở Maroc và Algérie, cuộc chiến này sẽ chỉ có quy mô hơn một chút. Tuy nhiên, mặc dù Pháp chiếm ưu thế quân sự trong thời gian đầu, lực lượng Việt Minh đă phát triển ngày càng mạnh và kiểm soát được nhiều vùng lănh thổ ngày càng rộng.[12]
Trong khi đó, mục tiêu của Việt Minh và các nhóm kháng chiến khác là giành độc lập cho dân tộc ḿnh. Cuộc chiến giữa một cường quốc trên thế giới và một đất nước nghèo nàn lạc hậu đă diễn ra gần như lời Hồ Chí Minh đă nói:
"Nó sẽ là một cuộc chiến giữa voi và hổ. Nếu hổ đứng yên th́ sẽ bị voi dẫm chết. Nhưng hổ không đứng yên. Ban ngày nó ẩn nấp trong rừng và ra ngoài vào ban đêm. Nó sẽ nhảy lên lưng voi, xé những mảnh da lớn, và rồi nó sẽ chạy trở lại vào rừng tối. Và dần dần, con voi sẽ chảy máu đến chết. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương sẽ như vậy." [13]
Sau Đại chiến thế giới lần thứ 2, trên lănh thổ của Đế chế Pháp đă bùng nổ nhiều phong trào đ̣i độc lập, nhưng thất bại mở màn gây hiệu ứng dây chuyền và thiệt hại lớn nhất cho Pháp là Chiến tranh Đông Dương.
Hoàn cảnh
Thời Pháp thuộc
Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài G̣n. Năm 1862, vua Tự Đức kư hiệp ước nhượng Sài G̣n và ba tỉnh lân cận cho Pháp. Năm 1869, Pháp chiếm nốt ba tỉnh kế tiếp để tạo thành một lănh thổ thực dân Cochinchine (Nam kỳ). Đến năm 1885, Pháp xâm chiếm xong những phần c̣n lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc. Theo chính sách "Chia để trị", Pháp chia Việt Nam thành 3 phần Bắc - Trung - Nam kỳ. Pháp tuyên bố là họ sẽ trực tiếp kiểm soát Nam Kỳ, trong khi "bảo hộ" Bắc kỳ và Trung kỳ (nơi họ tiếp tục duy tŕ các hoàng đế bù nh́n nhà Nguyễn).
Trong suốt thời kỳ từ khi Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam, đă có nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào chống Pháp do vua, quan, hoặc nông dân tổ chức, nhưng tất cả đều bị thất bại.
Quân Pháp tấn công quân Thanh ở Lạng Sơn
Năm 1927, những người Việt cấp tiến đă thành lập Việt Nam Quốc dân đảng (giống Trung Hoa Quốc dân Đảng). Đến năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm, những người Việt theo chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt trận B́nh dân trong chính quyền Pháp.
Năm 1940, Đế quốc Nhật Bản tấn công Đông Dương và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật lật đổ Pháp trên toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, theo chính sách Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á, Đế quốc Nhật Bản bảo trợ thành lập chính phủ do quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu với thủ tướng là nhà nho Trần Trọng Kim. Cũng như các chính phủ khác ở những vùng bị Nhật chiếm đóng (Măn Châu quốc, Triều Tiên, Đài Loan...), chính phủ này không có thực quyền khi tài chính và nhân lực đều do quân Nhật nắm giữ.
Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội) do Hồ Chí Minh thành lập năm 1941 với vai tṛ một mặt trận thống nhất dân tộc để giành độc lập. Tổ chức này do Đảng Cộng sản Đông Dương lănh đạo, thu hút được sự tham gia và ủng hộ của nhiều người Việt Nam và ngày càng lớn mạnh. Tháng 12 năm 1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng vũ trang của Việt Minh và tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, được thành lập tại Cao Bằng.
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một t́nh trạng hỗn loạn. Chiến tranh đă làm kiệt quệ nền kinh tế, nước Nhật cạn kiệt nguyên liệu nên quân Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đă xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đă có khoảng hai triệu người chết v́ nạn đói này.
Việt Nam tuyên bố độc lập - Pháp quay trở lại Đông Dương
Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, lực lượng Việt Minh đă tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam thống nhất và độc lập với tên gọi nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Tuy nhiên, theo hiệp ước Potsdam, lực lượng Đồng Minh gồm quân Anh và quân Trung Quốc vào Việt Nam để giải giáp vũ khí Nhật. Cả Anh và Trung Hoa Dân Quốc đều muốn hạ bệ chính phủ của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, Anh ủng hộ sự trở lại của Pháp tại Đông Dương, c̣n Trung Hoa muốn đưa lực lượng thân Trung Quốc là Việt Nam Quốc dân đảng lên nắm quyền.
Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch tiến vào với danh nghĩa giải giáp quân Nhật, nhưng mang theo kế hoạch Diệt Cộng Cầm Hồ. Đội quân Quốc dân Đảng Trung Quốc chạy trốn Đảng Cộng sản Trụng Quốc đă tiến hành các hoạt động cướp bóc trên đường xuống phía Nam đến Hà Nội.[14]
Ở miền Nam, chỉ 4 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, phái bộ quân sự Anh đă có mặt ở Sài G̣n, theo sau là liên quân Anh-Pháp. Quân Anh trên danh nghĩa là theo lệnh Đồng Minh vào giám sát quân Nhật đầu hàng nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho quân Pháp vào Nam Bộ. Chính phủ lâm thời của Cộng ḥa Pháp muốn khôi phục lănh thổ thuộc địa Đông Dương. Ngày 19, Pháp tuyên bố sẽ lập chính quyền tại miền Nam. Ngày 23, với sự giúp đỡ của quân Anh, quân Pháp nổ súng chiếm quyền kiểm soát Sài G̣n (ngày này sau được Việt Nam gọi là ngày Nam Bộ Kháng chiến). Nước Việt Nam vừa giành được độc lập đă lại đứng nạn ngoại xâm.
Ngày 9 tháng 10, tướng Pháp Leclerc đến Sài G̣n, theo ông là lực lượng gồm 40.000 quân Pháp để chiếm giữ miền Nam Việt Nam và Campuchia. Từ cuối tháng 10, quân Pháp bắt đầu đẩy mạnh kế hoạch phá vây, mở rộng đánh chiếm ra vùng xung quanh Sài G̣n và các tỉnh Nam Bộ.
Bức điện Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ Harry Truman kêu gọi sự ủng hộ của Mỹ nhưng không được đáp lại
Từ cuối tháng 9 năm 1945, các đoàn quân "Nam tiến" của Vệ quốc đoàn (quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa) bắt đầu lên đường vào Nam chống Pháp[15]. Các tướng lĩnh quan trọng như Nguyễn B́nh, Nguyễn Sơn... được cấp tốc cử vào Nam. Trong hai tháng cuối năm 1945 và tháng 1 năm 1946, lực lượng Việt Minh tại các tỉnh Nam Bộ đă chiến đấu ngăn chặn làm chậm bước tiến của quân Pháp. Tuy nhiên, do lực lượng chênh lệch, sau một thời gian, các lực lượng này đều phải rút ra những căn cứ đầm lầy và rừng núi, xây dựng chiến khu để bảo tồn lực lượng cho kháng chiến lâu dài.
Trong suốt năm 1946, mặc dù hai bên cùng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa cố gắng hết mức thương lượng với Pháp và Trung Hoa để cứu văn ḥa b́nh và đẩy lui thời điểm nổ ra cuộc chiến tranh. Với quân Tưởng, họ đồng ư nhường cho Việt Nam Quốc dân đảng nhiều ghế tại Quốc hội và 4 trên 10 ghế Bộ trưởng mà không cần qua bầu cử, trong khi kư với Pháp Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946 với nhiều nhân nhượng về chính trị, ngoại giao.
Trong khi đó Pháp thỏa thuận với Trung Hoa ngày 28 Tháng Hai, 1946 để Quân đội Trung Hoa rút khỏi phía bắc vĩ tuyến 16 nhường chỗ cho Pháp đại diện phe Đồng Minh giải giới Quân đội Đế quốc Nhật Bản. Để tránh mũi nhọn của 2 kẻ thù có thể đồng thời tấn công, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đồng ư cho 15.000 quân Pháp tiến ra Bắc để nhanh chóng loại bỏ nguy cơ của 20 vạn quân Tưởng.
Trong giai đoạn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh c̣n gửi thư cho Tổng thống Mỹ Harry Truman kêu gọi sự ủng hộ của Mỹ với nền độc lập non trẻ của Việt Nam, nhưng đă không được hồi đáp. Nhiều nhà sử học cho rằng Hoa Kỳ đă bỏ lỡ cơ hội để quan hệ hữu nghị với Việt Nam, và đây là khúc ngoặt dẫn tới cuộc chiến tranh cay đắng mà Mỹ phải hứng chịu tiếp sau người Pháp.
Căng thẳng dẫn đến bùng nổ
Bài chi tiết: Nam Bộ kháng chiến và Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt
Xung đột quân sự đầu tiên nổ ra tại Hải Pḥng. Đầu tháng 11 năm 1946, quân Pháp chiếm trụ sở hải quan tại cảng Hải Pḥng. Quốc hội Việt Nam phản đối hành động này và khẳng định chủ quyền của Việt Nam trong việc kiểm soát tất cả các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. Ngày 20 tháng 11, hải quân Pháp bắt giữ một thuyền buồm Trung Quốc chở xăng được cho là để giao cho Việt Minh. Trong khi tàu được kéo vào bờ, du kích địa phương trên bờ đă bắn vào quân Pháp. Quân Pháp bắn trả và chiến sự nhanh chóng lan ra toàn thành phố. Hai bên mau có đạt được ngừng bắn, nhưng hai ngày sau, Tướng Jean-Étienne Valluy, tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, lệnh cho quân Pháp chiếm toàn quyền kiểm soát thành phố. Ngày 23 tháng 11, Đại tá Pierre Louis Dèbes (1900 - ? )gửi tối hậu thư yêu cầu người Việt ra khỏi khu phố Tàu của Hải Pḥng và hạ vũ khí. Khi không có phản hồi, Dèbes lệnh cho tầu chiến Pháp bắn phá thành phố, trong một buổi chiều đă giết chết hơn 6.000 người dân[16] hoặc hơn 2.000 người theo một nguồn khác.[17]. Sau đó, khoảng 2.000 lính Pháp tràn vào thành phố trong khi pháo tiếp tục bắn phá vùng ngoại ô. Quân Pháp gặp phải hỏa lực mạnh của lực lượng Việt Minh bảo vệ thành phố. Chiến sự kéo dài cho đến khi người lính Việt Minh cuối cùng rút khỏi chiến trường vào ngày 28 tháng 11.
Sau sự kiện Hải Pḥng, kế hoạch pḥng thủ Hà Nội bắt đầu được chuẩn bị để chính phủ Việt Nam có thời gian sơ tán về các vùng núi lân cận. Một số ít lực lượng chính phủ đóng tại Bắc Bộ phủ và một doanh trại gần đó. C̣n phần lớn lực lượng quân sự của Việt Nam trong vùng đóng tại ngoại ô của thủ đô. Bù lại, trong nội thành có gần 10.000 du kích và tự vệ. Bao gồm những thanh niên đầy nhiệt t́nh ủng hộ cách mạng, các lực lượng này được trang bị chủ yếu bằng vũ khí tự tạo. Đối địch với họ là vài ngh́n lính Lê dương Pháp, chủ yếu đóng trong Thành Hà Nội, phần c̣n lại đóng xen kẽ tại 45 điểm trong thành phố như Phủ Toàn quyền, ga Hà Nội, nhà băng Đông Dương, nhà thương Đồn Thủy, cầu Long Biên, và sân bay Gia Lâm.
Các cơ quan của chính phủ Việt Nam bí mật chuyển dần ra các địa điểm đă được chuẩn bị trước ở bên ngoài thành phố. Trong thành phố, quân dân Hà Nội bắt đầu xây dựng các chiến lũy pḥng thủ trên đường phố, quân Pháp cũng củng cố các vị trí pḥng thủ của ḿnh. Ngày 6 tháng 12, Hồ Chí Minh kêu gọi Pháp rút về các vị trí họ đă giữ từ trước ngày 20 tháng 11, nhưng ông không nhận được phản hồi. Trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp vào hôm sau, Hồ Chủ tịch khẳng định rằng Chính phủ Việt Nam hy vọng tránh được chiến tranh - cái sẽ gây đau khổ lớn cho cả hai nước. "Nhưng nếu chúng tôi phải đối mặt với chiến tranh", ông nói, "chúng tôi sẽ chiến đấu chứ không từ bỏ quyền tự do của ḿnh".
Ngày 12 tháng 12, Léon Brum, thủ tướng mới của Pháp tuyên bố ư định giải quyết xung đột ở Đông Dương theo cách sẽ trao lại độc lập cho Việt Nam. Ba ngày sau, Hồ Chí Minh đưa Sainteny một bức thông điệp gửi Brum với các gợi ư cụ thể về cách giải quyết xung đột. Sainteny đánh điện bức thông điệp vào Sài G̣n, yêu cầu chuyển tiếp tới Paris.
Trong khi chính phủ Pháp đang do dự về yêu cầu của Cao ủy Pháp d'Argenlieu về việc tăng quân và lập tức hành động quân sự chống lại người Việt, Valluy, người có chung quyết tâm với d'Argenlieu về việc giữ sự hiện diện của Pháp tại Đông Dương, đă quyết định rằng cần phải khiêu khích Hà Nội nhằm tạo xung đột và đưa Paris vào sự đă rồi. Ngày 16 tháng 12, ông lệnh cho tướng Morlière phá các chướng ngại vật mà Việt Minh dựng trong thành phố. Khi bức điện của Hồ Chí Minh gửi Brum vào đến Sài G̣n, Vallue viết thêm b́nh luận của ḿnh, cảnh báo rằng sẽ nguy hiểm nếu tŕ hoăn các hành động quân sự cho đến năm sau. Đến ngày 19, bức điện mới đến Paris, khi đó đă quá muộn.
Ngày 17 tháng 12, quân Pháp với xe tăng yểm trợ vào các đường phố Hà Nội để phá các công sự mà Việt Minh dựng trong những ngày trước đó, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún (Hà Nội), rồi dàn quân ra chốt giữ từ cổng thành Hà Nội đến tận cầu Long Biên và bao vây gây sức ép đồn Công an quận 2 của Hà Nội. Người Việt không phản ứng. Hôm sau, Pháp ra một tối hậu thư đ̣i chấm dứt dựng chướng ngại vật trên phố. Chiều hôm đó, Pháp ra tối hậu thư thứ hai tuyên bố rằng từ ngày 20, quân Pháp sẽ tự ḿnh đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội. Đáp lại, tối hôm đó, các lực lượng Việt Minh bắt đầu chặn mọi ngả đường từ ngoại ô vào thành phố. Sáng hôm sau (ngày 19 tháng 12), Pháp ra tối hậu thư thứ ba, đ̣i chính phủ Việt Nam đ́nh chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của Tự vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy tŕ an ninh trong thành phố.
Đối với người Việt, t́nh h́nh không khác với sự kiện Hải Pḥng hồi tháng trước, khi Đại tá Dèbes cũng đă ra các lệnh tương tự trước khi bắn phá thành phố. Sáng ngày 18 tháng 12, Hồ Chủ tịch ra lệnh chuẩn bị cho các cuộc tấn công quân Pháp vào hôm sau. Đồng thời, sợ rằng bức điện gửi Thủ tướng Brum có thể chưa đến nơi, ông gửi một bức điện thẳng tới Paris. Sáng 19, để thể hiện thiện chí và cố gắng kéo dài ḥa b́nh, Hồ Chủ tịch viết một bức thư ngắn và cử cố vấn ngoại giao Hoàng Minh Giám tới gặp Sainteny để đàm phán "t́m giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại". Sau khi được tin Sainteny từ chối gặp Hoàng Minh Giám, Hồ Chủ tịch triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng tại làng Vạn Phúc, Hà Nội, và tuyên bố rằng trong t́nh h́nh hiện tại, không thể nhân nhượng thêm được nữa. Hội nghị duyệt lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến mà Hồ Chủ tịch đă viết, thông qua văn kiện "Toàn dân kháng chiến" do Tổng Bí thư Trường Chinh dự thảo. Thời điểm bắt đầu nổ súng được quyết định là 8 giờ tối cùng ngày. Chiến tranh Đông Dương bắt đầu.
Thế trận chiến tranh
Chiến lược
Cuộc Kháng chiến chống Pháp được tóm lược trong tài liệu Kháng chiến nhất định thắng lợi, một tài liệu tuyên truyền của Trường Chinh, phát hành những ngày đầu kháng chiến. Tài liệu chia kháng chiến ra 3 giai đoạn: cầm cự, pḥng ngự, phản công. Diễn biến chiến tranh về sau đúng như vậy.
Cầm cự: bao gồm gian đoạn vừa đánh vừa đàm trước 19/12/1946 đến hết Chiến dịch Việt Bắc. Thời này có cuộc Nam Bộ Kháng Chiến, cầm cự miền Nam, miền Trung, Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước Việt–Pháp (14/9/1946), Toàn quốc kháng chiến ở các tỉnh, Hà Nội 1946, nỗ lực văn hồi ḥa b́nh, công cuộc di tản lên chiến khu. Cuối cùng là đánh bại Pháp trong Chiến dịch Việt Bắc.
Pḥng ngự: sau chiến dịch Việt Bắc đến hết Chiến dịch Biên Giới. Có các chiến dịch lớn: Chiến dịch Đông Bắc, Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng, Chiến dịch Biên Giới.
Phản công: Chiến dịch Trung Du, Chiến dịch Đồng Bằng, Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Chiến dịch Tây Bắc, Chiến dịch Ḥa B́nh, Chiến dịch Thượng Lào, Kế hoạch Nava, Chiến cục đông-xuân 1953-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà b́nh ở Đông Dương (21/7/1954).
Phương pháp tiến hành chiến tranh của quân đội nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa (lấy tên chính thức là Quân đội Nhân dân Việt Nam năm 1950) chỉ đơn giản là "Toàn dân-toàn diện-trường kỳ kháng chiến", gồm hai điều: đánh tiêu hao, phân tán lực lượng địch và từng bước xây dựng lực lượng, giành thế chủ động để đẩy địch vào t́nh thế bị động đối phó. Khi có đủ lực lượng sẽ tung đ̣n đánh lớn vào những vùng mà địa thế, tương quan binh lực có lợi để giành những thắng lợi chiến lược. Phương pháp này đă đi suốt lịch sử lớn mạnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, và vẫn phát huy hiệu quả trong kháng chiến chống Mỹ sau đó. Tuy "đơn giản" nhưng cả Pháp và Mỹ đều không thể chống lại chiến lược chiến tranh nhân dân này, bởi như tướng De Castries đă trả lời trước Ủy ban Điều tra của Bộ Quốc pḥng Pháp rằng: “Người ta có thể đánh bại một quân đội, chứ không thể đánh bại được một dân tộc”[18].
Bookmarks