Page 10 of 33 FirstFirst ... 6789101112131420 ... LastLast
Results 91 to 100 of 326

Thread: Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

  1. #91
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Không Quân VNCH và Chiến trường An lộc
    P2






    Các trường hợp hy sinh của 2 Phi hành đoàn C-123 tại An Lộc được Phi công HungPhan ghi lại như sau :

    - Phi đoàn 425, C-123 K, Tail code xH. Ngày 15 tháng 4, 1972 ;

    Trung úy Phạm văn Công (Trưởng phi cơ)

    Tr/úy Hồng, Hoa tiêu phó

    T/T Sét Điều hành viên

    - Phi đoàn 425, C-123 K, Tail code xL. Ngày 19 tháng 4, 1972 :

    Thiếu tá Nguyễn thế Thân Phi đoàn trưởng , Trưởng phi cơ

    T/u Quách Thanh Hải, Hoa tiêu phó

    Thượng sĩ Mă Hoàng, Cơ phi

    Đ/u Ngân, Đ/u Trọng Điều hành viên

    Thượng sĩ Thượng, áp tải

    Phi công HungPhan cũng ghi lại :..Khi đụng đến An lộc, không có chuyện bay thấp bay cao ǵ nữa, bay cỡ nào cũng đụng pḥng không mà lại pḥng không hạng nặng, vừa nặng vừa nhiều ! Chúng tôi đă chất đầy những kiện hàng tiếp tế từ sáng sớm, để ngồi đó, để stand by dưới sức nóng của Hot cargo, nơi đầu phi đạo 25RH, nh́n những con chim sắt khổng lồ C-130 của USAF hốt hoảng, tả tơi bay về đáp dưới hai hàng xe cứu hỏa chạy theo, có chiếc bị bắn bể bánh mà không biết, có chiếc đầu cánh đă văng đâu mất tiêu, chúng tôi nh́n nhau ngao ngán..Mẹ ! nó bay nhanh hơn ḿnh, nó thả cao hơn ḿnh.. Thú thật tôi đă thở dài và rất thoải mái khi được lệnh hủy bỏ phi vụ..’

    Ngày 15 tháng 4 1972, phi vụ của Phạm văn Công..không bị hủy bỏ..đem tàu qua Hot cargo từ 5 giờ sáng, 5 chiếc C-123K của KĐ 53/CT đă chất đầy hàng và sửa soạn cất cánh th́ được lệnh stand by v́ B-52 sắp trải thảm, rồi đến C-130 của US được ưu tiên..

    Và Tr/úy Châu đức Tánh kể lại :

    ‘ Có thể nói là Công lùn chết trước mũi của tôi, từ sáng đến trưa, hàng loăt C-130 của USAF từ An lộc về, đều đáp trong t́nh trạng khẩn cấp. Đến 3 giờ chiều th́ chúng tôi được lịnh cất cánh. Tôi mang danh hiệu Bookie 03, Công là Bookie 04. Chiếc số 2 thả xong, tôi bắt đầu xuống. Từ lâu đă đọc qua sách báo, măi đến bây giớ tôi mới biết thế nào là đạn ‘bắn lên như đan lưới’. Trên tần số, Công la um sùm : ‘ĐM, nó bắn mày đó Tánh !..’ Tôi vừa run vừa cắn răng lo điều khiển phi cơ vào đúng toạ độ thả..’ Mày im đi, tao biết rồi, nó bắn từ khi ḿnh bắt đầu xuống lận..’ Sau khi thả xong hàng, tôi kéo phi cơ lên gần như là triệt nâng, vừa quẹo phải để tránh vùng oanh kích của B52, có lẽ tôi là người được nghe giọng nói cuối cùng của Công : ‘ Tao vô đây Tánh, Bookie 04 in..’ Khi tôi vừa chuyển sang tần số emergency th́ nghe : ‘Chết ! chết rồi ! Bookie 04 cắm đầu xuống luôn rồi..’

    Các C-123 là các phi cơ vận tải tốt nhất mà KQVNCH đang có (năm 1972) đă không thể vượt nổi lưới đạn pḥng không khủng khiếp tại An lộc, nên sau đó các phi vụ tiếp tế đành phải thả dù ở cao độ cao hơn và thực hiện vào ban đêm.

    Ngày 27 tháng 4, dùng radar dưới đất hướng dẫn, các C-123 VNCH vảo được An lộc, thực hiện phi vụ thả dù nhưng lực lượng trú pḥng ch nhận được 5 % số kiện hàng thả xuống. Măi đến tháng 6/1972 các phi hành đoàn KQ VNCH mới bắt đầu được huấn luyện về phương pháp thả dù do radar hướng dẫn. Chương tŕnh ch hoàn tất vào tháng 9 (sau khi An lộc đă được giải tỏa)

    Kể từ 15 tháng 4, KQ HK bắt đầu trợ giúp cho công việc tiếp tế bằng cách dùng các C-130 để thả dù cho An lộc, trong phi vụ đầu tiên họ dùng 2 chiếc C-130 dự trù sẽ thả các kiện hàng ở cao độ 600 ft. Chiếc thứ nhất khi bay vào điểm thả đă bị súng pḥng không CQ bắn hỏng phần đuôi lái, phi công đành thả..các kiện hàng mang theọ Chiếc C-130 thứ nh́ khi bay vào đă bị pḥng không bắn gây tử thương cho một nhân viên phi hành và gây cho 2 người khác bị thương. Phi cơ đành phóng thả các kiện hàng để bay về đáp khẩn câp tại Tân sơn nhât. 26 tấn hàng do 2 phi cơ mang theo đă..không đến tay quân trú pḥng ! Ngày 16 tháng 4, KQHK dùng 2 C-130 để thả tiếp 26 tấn khác nhưng do trục trặc tính toán nên số hàng này lại.. rơi vào vùng CQ kiểm soát. Ngày 18, một C-130 khác bị hư hại nặng khi dự định thả dù vào sân banh An lộc, phi cơ lết về được vùng Bắc Pleiku nhưng phài đáp khẩn cấp xuống ruộng. Ngày 19, sau khi một C-123 cùa KQ VNCH bị bắn hạ, KQ HK hoàn toàn đảm nhận việc tiếp tế cho An lộc..

    Ngày 14 tháng 4 năm 1972, các C-123 của KQVN đă thực hiện một phi vụ đặc biệt tại vùng trời phía Đông Bắc An lộc, trên cao độ ngoài tầm các loại súng pḥng không của CQ : thả dù những kiện hàng..toàn nước đá, để khi chạm đất, ch c̣n những cánh dù và ..hàng tan thành nước, biến mất.. Đây là một trong những phi vụ ‘ bí mật’ nhất trong Chiến tranh Việt Nam. Trước đó, ngày 13, Bộ TTM QL VNCH trong một cuộc họp báo công khai tại Sàig̣n đă cho biết sẽ thả dù một lực lượng Biết kích Dù vào vùng ch́ cách An lộc 5 km để ‘bắt sống’ Chính phủ MTGP đang ở trong khu vực.. Tin tức này đă khiến Cộng quân cấp tốc cho di chuyển Trung đoàn 141 (CT 7 CS) đang bố trí ở Ấp Srok G̣n về vùng cần bảo vệ cho Cục R . Việc di chuyển này đă khiến CQ bỏ trống một vùng gần 4 km vuông trong vùng Đông-Nam An lộc, giúp việc đổ quân tiếp viện bằng trực thăng của VNCH được an toàn : Lực lượng Nhày dù (Lữ đoàn 1) vào các ngày 14 và 15; và Biệt cách Dù (Liên đoàn 81) vào ngày 16 tháng 4, 1972 được an toàn..Lực lượng tiếp viện này lên đến gần 4000 binh sĩ thiện chiến.

    Ngoài các Chinook CH-47, các UH-1 của các Phi đoàn trực thăng 221, 223.. cũng đă đóng góp rất nhiều vào các cuộc chuyển quân, chuyên chở quân- vật dụng tiếp liệu và tản thương.

    Trong cuộc đổ quân của LĐ 81 BCND, các chiến sĩ đă được tập trung tại Phi trường Trảng Lớn, sau đó được các Chinook CH-47 của KQVN đưa đến Lai Khê từng toán 40 người và từ Lai Khê được các trực thăng UH-1 cũng của KQVN chuyển tiếp đến một vùng ỡ phía Đông của Đồi Gió và Đồi 169..

    Các phi vụ trực thăng UH-1 bay vào An lộc được xem như bay vào ‘cơi chết’ : Tác giả Đào Vũ Anh Hùng đă viết trong bài ‘Đêm chờ Ngưng bắn, Nhớ An lộc’ :

    ..’ Đạn bắn như mưạ Bắn cùng mọi phíạ Bắn bằng đủ loại pḥng không dữ tợn, hỏa tiễn tầm nhiệt, đại bác pḥng không, súng cá nhân, 12 ly 7 pḥng không chụm lại, trực xạ, đại bác nổ chụp, súng cối rót vào băi đáp..’

    ..’Hợp đoàn 4 phi cơ nối đuôi nhau bay hối hả ṿng qua Minh Thạnh vào băi đáp B15 tứ hướng Tây Nam An lộc năm phút sau trận mưa bom B52 cuối cùng vừa dứt..’..’ Đoàn trực thăng bay thấp, lướt trên ngọn cây rừng theo lệnh ‘C and C’ hướng dẫn : -Hợp đoàn quẹo phải 10 độ. Đi thẳng ! Chiếc số 3 bay nhanh một chút. OK đi thẳng..Băi đáp 12 giờ, 3 trăm thước. Giảm air speed..coi chừng ! Coi chừng nó bắn pḥng không bên trái !.. Tôi nín thỏ. Hợp đoàn đă đến gần băi đáp. Nhưng trước cả tiếng la coi chừng hốt hoảng của chiếc phi cơ ch huy, tôi thấy điểm sáng dưới ḷng một hố bom loang loáng lóe lên cao như chớp kính.. Ố Quẽo phải! Hợp đoàn quẹo phải !..Chiếc số 2 rớt rồi..Số 3 nhanh lên ! Lead quẹo phải 90 độ..bay ra ! Bay ra, đừng đáp.. Tôi kinh khủng..Chiếc số 2 đang bay, đột ngột cắm đđầu lao thẳng xuống triền đ̣i, lăn long lóc như một cục đá. Một vầng bụi đỏ mù mịt bốc lên và lửa cháy bùng’.. Chiếc phi cơ bất hạnh của Tuân. Cả một phi hành đoàn và 11 người lính bộ binh vào An lộc tiếp hơi cho đoàn người tử thủ đă rơi chết ngon lành khi vừa tới thềm địa ngục..’

    ‘..Phi cơ trúng đạn, đồng đội bị chết, bị thương, vẫn phải b́nh tĩnh bay khỏi vùng kinh khiếp, t́m trảng cỏ giữa rừng đáp khẩn cấp, bỏ tầu, may mắn lắm sẽ được phi cơ bạn nhào xuyên lưới lửa đón về..hay bỏ tầu mà chạy, vượt qua rừng qua bụi trốn tránh kẻ thù t́m vế đất sống..’ những người anh em đă roi vào tay giặc hay ra đi vĩnh viễn cùng với xác tàu vỡ vũn trên cánh rừng cao su tơi tả dày đặc hố bom. Đi không c̣n ai nghe tiếng nóị Xác rữa, xương khô trắng đến ngày An lộc giải tỏa, bạn bè ngậm ngùi đem về những mảng xương khô..’

    Các chuyến đổ quân của các trực thăng UH-1 của KQVN, trong giai đoạn tiếp cứu An lộc gặp rất nhiều khó khăn từ khi CQ di chuyển các lực lượng pḥng không của chúng chặn kín các đường bay vào An lộc..

    Tác giả Hoài Duy trong ‘Chia nửa Vầng trăng : Hồi kư Trận An lộc’ ghi lại : (trong cuộc tăng viện của SĐ 9 BB VNCH)

    ..’ Chúng tôi, Trung đoàn 15, SĐ 9 BB từ Tân Khai đánh lên..Kế hoạch thay đổi sau hai lần máy bay đổ TĐ 3/15 vào thẳng An lộc..Đến địa điểm nhưng trực thăng không thể hạ xuống : lư do đổ xuống nhưng sẽ không kịp cất lên trước rừng pháo pḥng không chào đón !..’ Đại đội tôi, quân số tham chiến 94 người sẽ xuống trước, kế tiếp ĐĐ2. Bốc lên đồng loạt đi vào mục tiêu, máy bay hạ thấp dưới ngọn cây, bay xà nhanh theo Quốc lộ 13 để tránh tầm pháọ Chúng tôi chuẩn bị nhẩy khi thấy mái ngói nhà. Đạn pḥng không nổ chập chùng ở dướị Đoàn phi cơ tự dưng bẻ quặt một đường và cất lên caọ đổi hướng. Tôi biết có điều không ổn..Máy liên lạc..Không xuống được..Các anh xuống được..nhưng trực thăng không thể cất lên kịp được..Ch làm mồi cho pháo..’..’Lần thứ 2, máy bay Mỹ, Phi hành đoàn Mỹ..Lập lại, cũng thế thôi ! KQ làm nhiệm vụ của họ..

    Kế hoạch hành quân thay đổi.. Đơn vị xuống phía Nam An lộc 13 km và tiến quân cả ngày lẫn đêm, chạm lớn, chạm nhỏ..

    Cuộc tiến quân của TĐ 3/15 bị ngưng chặn trước ngưỡng cửa An lộc, cách TĐ8 ND chừng 700m. CQ chen vào giữa chận đứng. Hai TĐ chưa bắt tay được nhau trong suốt 20 ngày..

    Tác giả Hoài Duy ghi tiếp :

    ‘ Một ngày ở tháng 6. Hành quân bung rộng tuyến pḥng thũ, ở một phía trừng bên kia đ̣ị Một vận tải cơ của Mỹ rớt nằm trơ đó. Một trực thăng VN t́m thấy hôm sau cũng gần khu vực trên. Tôi nghĩ có lẽ cả hai chiếc rơi trong những ngày đầu cuộc chiến Riêng chiếc trực thăng, đầu máy bay hơi chúi về phía trước, hai càng trong thế vững vàng trên mặt đất. Đầu hai người phi công gục xuống, tay buông thơng, xác khô rũ. Phụ xạ thủ và mấy người ngồi trong cũng chung số phận. Chết đă lâu, không c̣n mùi.. Tôi nhận diện đơn vị mấy người ngồi trong ḷng máy bay qua phù hiệu của SĐ BB. Trong đó có một xác người c̣n máy ảnh trên vai, một máy quay phim rớt trên sàn và mấy thước phim..Chiều hôm đó, tôi được biết một trong 2 phi công là Thiếu úy, con của một Bộ trưởng Phủ TT. Lệnh từ Saigon yêu cầu Trung đoàn giúp đỡ đưa xác nạn nhân rạ Và người mang máy ảnh, trên miệng túi áo tên B́nh..Sau này tôi mới biết là Nguyễn Ngọc B́nh, phóng viên điện ảnh..’

    (Chiếc trực thăng này bị hạ ngày 1 tháng 5 năm 72 khi bay thấp để tránh đạn pḥng không nhưng đă nổ v́ trúng B-40 của CQ bắn từ các xạ thũ bị cột ngựi trên ngọn cây)

    Từ ngày 11 tháng 4, CQ bắt đầu sử dụng hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 tại chiến trường An lộc.Hơa tiễn đầu tiên đạ nhắm bắn vào các phi cơ quan sát FAC của Hoa Kỳ nhưng không trúng mục tiêu..

    - Các phi vụ yểm trợ cho quân trú pḥng :

    Trong trận An lộc, KQ VNCH đă sử dụng các phi cơ A-1 và F-5 để oanh kích, yểm trợ cho các đơn vị trú pḥng chống trả các đợt tấn công của Cộng quân và hủy diệt nhiều xe tăng, thiết giáp của Cộng quân. Một số Skyraider đă bị hạ v́ trúng đạn pḥng không vả hỏa tiễn SA-7 của CQ.

    Một báo cáo mật được nhiều Cố vấn Mỹ ghi lại trong những bản tổng kết về chiến trường An lộc :

    .. Passed following info to T30 Arcraft downed in the An lộc area (TRAC log of 6 June) :

    - VNAF UH-1 , 1 km South of An lộc

    - XT 778888 US C-130 3 May

    - XT 732912 US A-37 11 May

    - XT 764875 2 US FAC 11 May

    - XT 775875 AH-1 G 11 May

    - XT 748868 VNAF A-1 E 13 May

    - XT 810075 VNAF UH-1 13 May

    Trường hợp hy sinh của Đại úy Nguyễn Cao Hùng, thuộc PĐ 518 được Tác giả Đào Vũ Anh Hùng ghi lại như sau :

    ..’ Hôm 20 tháng 5, tôi bay quần quần phía Đông Tân Khai chờ 4 phi tuần khu trục săn hạ hai chiếc xe tăng VC trốn dưới gầm cầu xe lửa và khóa họng nhựng ổ pḥng không, dọn đường cho tôi dẫn hợp đoàn vào đáp.. Tôi bay trên 5000 bộ, theo dơi từng chiếc Skyraider nhanh nhẹn luân phiên đâm bổ xuống mục tiêụ Bỗng một chiếc AD6 vừa thả xong 2 trái napalm, vút ngược lên cao..Tôi thấy một tia khói cuộn lên từ bụi cây ên bờ con suối cạn. Chiếc phi cơ bỗng phát nổ..’

    Quan sát viên phi hành Lê văn Sùng, trong bài ‘Một thời ốp xẹc’ đă ghi lại trường hợp hy sinh của Phi công Nguyễn Cao Hùng như sau :

    ..Thuở ấy, Mặt trận B́nh Long càng ngày càng khốc liệt.. Phi đoàn 116 của chúng tôi ở Cần Thơ cũng được tăng cường cho PĐ 112 Biên Ḥa ba phi hành đoàn để hằng ngày thi hành một số phi vụ do PĐ 112 sắp xếp, hầu hết là được giao cho những phi vụ bay cho mặt trận B́nh Long..’

    Phi vụ của Quan sát viên Sùng, Danh hiệu Sơn ca 23, do phi công Thành bay hoạt động tại vùng phía Nam An lộc. Sau khi đă hướng dẫn 4 phi tuần khu trục và bắn hết 6 rocket khói đánh dấu mục tiêu, trên đường bay trở về Cần thơ, Khi bay qua Tân Khai đă t́nh cờ phát giác được 2 chiến xa CQ đang chui nấp dưới gầm cầu xe lửa, anh đă gọi Trung Tâm Hành quân Không trợ 3 và xin phi tuần khu trực. Trong lúc đó trong vùng có sẵn một phi tuần 2 phi cơ A-1 tuy đang được điều động, nhưng FAC Mỹ gần hết xăng, không ch định mục tiêu đánh được và đang t́m mục tiêu giăi tỏa bom đạn...Hai A-1 này do các phi công Nguyễn Cao Hùng (bay số 2) và Nguyễn thế Quy bay số 1.

    ..’ Số 2 vừa kéo lên break trái, một làn khói trắng dài bay phụt lên, đầu làn khói trắng ấy là một chấm đen, đang quẹo ṿng lại đuổi theo phi cơ số 2. Tôi thét lớn SA-7! Số 2 nhảy dù ! số 2 nhảy dù mau..: Không kịp rồi, làn khói đă tới phi cơ, tôi nghe đùng một tiếng thất lớn giữa không trung. Phi cơ anh đă bốc cháy, nhưng c̣n đang bay lên, tôi thấy một vật đen bay ra khỏi phi cơ, may quá ! Anh đă nhẩy dù ra được rồi..’

    Nhưng dù không kịp mở, và xác Phi công Hùng đă được đơn vị BB hoạt động trong vùng t́m thấỵ

    Phi công Qui, sau này, cho biết thêm : ‘Hôm đó là ngày 20 tháng 5, 1972. Phi tuần Phenix 51 do Qui bay số 1 và Thống (66A) bay số 2 đang túc trực chờ baỵ Hùng tuy đang ngh phép nhưng vào chơi.. và muốn bay cho đỡ buốn. Qui định thêm A-1 để Hùng bay sô 3 nhưng sau đó Hùng đă bay thay Thống..’

    Một phi vụ rất đặc biệt đă được một số tác giả như Tướng Mạch văn Trường, Tr/tá nguyễn ngọc Ánh.. viết lại trong tập ‘ Chiến thắng An lộc 1972’ phổ biến trên website là Phi vụ phá Hầm và Chốt Xa cam. Chốt này cách An lộc khoảng 6 km về phía Nam do Trung đoàn 165 Công trường 7 CSBV chiếm giữ, cầm chân các Chiến đoàn 15 và Trung đoàn 33 BB VNCH, cắt đứt việc giải toả An lộc. Tuy toán mật mă của VNCH đă bắt được tần số liên lạc và xác định được vị vị trí của 2 đơn vị CSBV và Bộ Ch huy của CT7 vả yêu cầu HK dùng B-52 để đánh vào mục tiêu, vào những ngày 20 và 22 tháng 3 nhưng bị từ chối (?).. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH đă yêu cầu KQVN dùng các CBU 55 để tấn công vào mục tiêụ Cuộc họp để quyết định dùng CBU có sự tham dự của Tướng Minh, Tư lệnh KQ, Tuớng Tính TL SĐ 3 KQ, Đại Tá Tường Tư lệnh phó SĐ3.. Tướng Huỳnh bá Tính, sau khi bàn thảo với ĐTá Tường đă đề nghị dùng Skyraider của SĐ 3 KQ thả một số CBU trừ bị, c̣n lại trong kho vơ khí của KQVN sau 6 giờ chiều (là giờ các phi cơ HK bay trở về Hạm đội ?).. và phi vụ này sẽ được KQVN ‘âm thầm’ hành động theo kế hoạch riêng, không thông báo cho Hoa Kỳ.

    Các tác giả ghi lại :

    ..’ Tại phi trường Biên Ḥa, hai phi tuần khu trục A-37 yểm trợ cho 4 khu trục cơ AĐ6 mang 4 quả bom CBU được lệnh cất cánh vào lúc 18 giờ 15 chiều ngày 07 tháng 06 năm 1972 trực ch Xa cam. 18 giờ 30 ngày 07 tháng 06 năm 1972, hai phi tuần A-37 bay trước oanh kích dọn đường cho 4 Skyraider AD.6 tiếp nối theo sau thả liền 4 trái CBU ngay trên địa điểm Hầm chốt Xa Cam gây ra 4 tiếng nổ lớn, san bằng, tiêu diệt một vùng gần 1 cây số đường bán kính xung quanh..’

    (Ngay sau đợt thả CBU, TĐ 6 Dù đă khởi phát cuộc tấn công nhổ chốt..)

    - Các hoạt động khác của KQ VNCH :

    Một số đơn vị khác của KQ VNCH cũng đă đóng góp vào Chiến thắng An lộc một cách ‘lặng lẽ’ nhưng không kém phần quan trọng :

    - Phi đoàn 716 với các phi tuần EC-47 Trắc giác vô tuyến (Airborne Radio Direction Finding=ARDF) giúp phát giác các cuộc chuyển quân của CSBV và xác định những vị trí của các đơn vị CQ.

    - Các đơn vị bốc rỡ và chất hàng lên các Phi cơ vận tải (Riggers). Các chuyên viên này (Việt Nam, Mỹ và Đài loan) đă phải làm việc liên tục những ‘ca’ kéo dài trên 20 giờ, tại một khu vực trống trải ở cạnh phía Đông của phi đạo Tân Sơn Nhất (Trong thời gian cao điểm thả dù tiếp tế cho An lộc, KQHK đă phải đưa đến Saigon 76 chuyên viên gắn dù thuộc ĐĐ 549th Quartermaster, ở Okinawa và sau đó c̣n tăng cường thêm một số chuyên viên từ Đài loan)

    Chiến thắng An lộc đă phải trả bằng ‘máu và nước mắt’ của những đơn vị Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt cách Dù, Thiết giáp..Địa phương quân Quân lực VNCH , quả cảm, quyết sống chết để tử thủ, giữ vững được An lộc, nhưng chiến thắng này đă cần phải có sự đóng góp tối quan trọng của Không quân Hoa Kỳ và Việt Nam qua những phi vụ yểm trợ chiến trường như B-52, Gunships..các hhu trục, trực thăng tiếp tế và tản thương, các phi cơ vận tải..

    Trần Lư

  2. #92
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Cảnh Sát Dă Chiến VNCH






    Cảnh Sát Dă Chiến (CSDC) là một lực lượng vơ trang thuộc Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG) Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH). Ngoài việc trang bị vũ khí để tiêu diệt hạ tầng cơ sở Cộng sản, Cảnh Sát Dă Chiến c̣n được trang bị thêm các dụng cụ cần thiết khác để trấn áp các cuộc bạo động và nhiễu loạn dân sự. Để đạt được kết qủa tốt trong hai nhiệm vụ chính yếu đó, tất cả các sĩ quan Cảnh Sát Dă Chiến sau khi tốt nghiệp tại Học Viện CSQG, c̣n được gởi theo học trọn khóa huấn luyện sĩ quan tại trường Bộ Binh Thủ Đức. Ngoài ra, sĩ quan và hạ sĩ quan Cảnh Sát Dă Chiến cũng c̣n lần lượt được gỡi đi thụ huấn các khóa về trấn áp bạo động, tác chiến rừng rậm, và t́nh báo tác chiến tại Mă Lai và Phi Luật Tân.



    Đối với nhân viên Cảnh Sát Dă Chiến, sau khi tốt nghiệp khóa Cảnh Sát Căn Bản tại Rạch Dừa, Vũng Tàu c̣n được huấn luyện thêm về quân sự và chuyên môn Cảnh Sát Dă Chiến tại Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Dă Chiến Đà Lạt. Đây là trung tâm huấn luyện lớn nhất, chuyên huấn luyện phần căn bản Cảnh Sát Dă Chiến cho nhân viên cảnh sát sắc phục được chuyển sang Cảnh Sát Dă Chiến và huấn luyện tập thể cấp trung đội cho tất cả các đơn vị Cảnh Sát Dă Chiến trên toàn quốc. Cảnh Sát Dă Chiến là thành viên chính yếu trong chiến dịch Phượng Hoàng. Với cấp số lư thuyết là 16,500 quân, Cảnh Sát Dă Chiến được phối trí hoạt động từ thành thị cho tới nông thôn.

    TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TẠI TRUNG ƯƠNG

    Tại Sài G̣n có Bộ Chỉ Huy Khối Cảnh Sát Dă Chiến trực thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Do nhu cầu cải tổ để phù hợp với t́nh h́nh an ninh chung, Khối Cảnh Sát Dă Chiến nhiều lần đă được đổi tên. Năm 1969, Khối Cảnh Sát Dă Chiến được đổi tên là Khối Yểm Trợ Vơ Trang. Khối này có trách nhiệm quản trị và điều hành theo hệ thống dọc hai lực lượng dưới quyền: lực lượng Cảnh Sát Dă Chiến, lực lượng Giang Cảng. Năm 1972, Khối Yễm Trợ Vơ Trang một lần nữa được đổi tên thành Khối Điều Hành. Lúc nầy Khối Điều Hành có 3 lực lượng vơ trang dưới quyền, đó là lực lượng Cảnh Sát Dă Chiến, lực lượng Giang Cảnh và lực lượng Thám Sát tỉnh. Đến năm 1973, Khối Điều Hành được đổi tên thành Khối Hành Quân.

    Khối Cảnh Sát Dă Chiến nguyên thủy ngoài các pḥng chuyên môn c̣n có Đại Đội Tổng Hành Dinh và một Chi Đội Thiết Giáp gồm 8 chiến xa AM8. Chi Đội nầy phụ trách an ninh Ngân Hàng Quốc Gia và an ninh ṿng đai Bộ Tư Lệnh CSQG. Bên cạnh đó có hai biệt đoàn. Biệt Đoàn 5 CSDC có 12 đại đội tác chiến, được phối trí hoạt động trong khắp các quận của đô thành Sài G̣n và tỉnh Gia Định. Biệt Đoàn 222 CSDC là biệt đoàn tổng trừ bị của Bộ Tư Lệnh CSQG. Biệt đoàn này sẵn sàng tăng cường yểm trợ hoạt động cho tất cả các Bộ Chỉ Huy CSQG địa phương trên khắp lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa.

    Tổng số quân số của 2 biệt đoàn này có trên 5,000 người. Những thành tích quan trọng và khó quên được đó là hoạt động của hai biệt đoàn trong trận chiến Tết Mậu Thân năm 1968. Các trận đánh của Biệt Đoàn 5 tại nhà thờ Cha Tam, nhà thờ Bảy Vàng, bến Phạm Thế Hiển, Đồng Ông Cộ (Gia Định). Trận đánh tái chiếm đài phát thanh Sài G̣n do Thiếu Tá N.T.X. (chỉ huy phó Biệt Đoàn 222) chỉ huy. Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, chúng ta cũng thấy các trận đánh dữ dội của Biệt Đoàn 222 do Thiếu Tá N.V.T. chỉ huy tại Kư Thu Ôn, Quận 8 Sài G̣n. Ngoài ra, Biệt Đoàn 222 cũng từng được điều động tăng cường yểm trợ để vây bắt đảng cướp “Cua Vàng” tại ranh giới hai tỉnh Kiến Phong và Châu Đốc.
    Những người lính Cảnh Sát Dă Chiến trên đường phố Saigon. Họ vẫn chưa tan hàng, và tiếp tục chống trả mănh liệt để bảo vệ thủ đô đến giờ phút cuối. H́nh chụp tại Sài G̣n ngày 29 tháng 4/1975. (H̀NH ẢNH: sưu tầm)

    Biệt Đoàn 222 cũng từng được tăng phái Bộ Chỉ Huy tỉnh Biên Ḥa để bao vây, bắt trọn tổ chức kinh tài của Cộng Sản trong Làng Cô Nhi Long Thành. Với nhiệm vụ truy lùng các tổ chức hạ tầng cơ sở Cộng Sản, Cảnh Sát Dă Chiến đă hành động hết sức chính xác. Sau 30 tháng 4 năm 1975, trong lúc chúng tôi bị tập trung vào làng Cô Nhi Long Thành, chúng tôi đă gặp lại một cán bộ Việt Cộng nằm vùng đă từng bị Cảnh Sát Dă Chiến bắt giữ trước đây. Nay anh ta trở lại làng này để tiếp tục kinh tài cho Việt Cộng. qua việc bán chuối, tương, chao, đậu phọng, cho khoảng 3,000 viên chức các cấp của chính quyền miền Nam đang bị tập trung cải tạo tại trại tù này.

    TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TẠI ĐỊA PHƯƠNG

    Kể từ năm 1968 trở về trước, các tỉnh và thị xă biệt lập có 5 quận hành chánh trở xuống được thành lập một Đại Đội Cảnh Sát Dă Chiến với 4 trung đội tác chiến và một Ban Chỉ Huy Đại Đội. tỉnh và thị xă biệt lập nào có từ 6 quận trở lên được thành lập 2 đại đội Cảnh Sát Dă Chiến. Kể từ năm 1969 trở về sau, do nhu cầu yểm trợ chiến dịch Phượng Hoàng, Cảnh Sát Dă Chiến ở các tỉnh trên toàn quốc được tổ chức lại. Mỗi tỉnh và thị xă biệt lập chỉ c̣n lại một ban chỉ huy đại đội và một trung đội trừ bị đóng tại hậu cứ đại đội. Tất cả các trung đội được đưa xuống hoạt động ở khắp các quận hành chánh của tỉnh liên hệ. Mỗi quận được bố trí một trung đội Cảnh Sát Dă Chiến.

    Do đó, một đại đội Cảnh Sát Dă Chiến ở cấp tỉnh được thành lập với nhiều hay ít trung đội là tùy thuộc vào số quận hành chánh của tỉnh địa phương. Thí dụ Đại Đội Cảnh Sát Dă Chiến có nhiều Trung đội nhất là Đại Đội 102-Cảnh Sát Dă Chiến Thừa Thiên. Đại Đội này có đến 13 trung đội, v́ tỉnh Thừa Thiên có thêm 3 quận hành chánh của thị xă Huế. Trong khi đó một đại đội ở các biệt đoàn Cảnh Sát Dă Chiến chỉ có 4 trung đội như nhau.

    Những thành quả quan trọng trong nhiệm vụ là tiêu diệt hạ tầng cơ sở Cộng Sản. Cảnh Sát Dă Chiến đă đạt được rất nhiều, tỉnh nào cũng có, quận nào cũng có. Dưới đây là một số kết qủa điển h́nh mà đến hôm nay chúng tôi vẫn c̣n nhớ măi.

    Trong một đêm vào cuối năm 1972, môt tiểu đội của Đại Đội 401 CSDC Định Tường (Mỹ Tho ) tổ chức một cuộc phục kích bên một bờ kênh nhỏ có cầu tre bắt qua. Trong trận này, họ bắn hạ 11 cán binh Việt Cộng, tịch thu được 10 súng AK và một súng nhỏ.

    Đại Đội 410 CSDC Phong Dinh (Cần Thơ) trong một lần phục kích đêm tại rạch Bến Bạ, Cần Thơ, đă tiêu diệt một toán Cộng Sản, tịch thu một số vũ khí quan trọng khi đối phương dùng xuồng vận chuyển vũ khí qua sông.

    Tại mặt trận Quảng Trị và B́nh Long, Cảnh Sát Dă Chiến cũng làm tṛn trọng trách của ḿnh, cũng ở hầm, cũng đánh giặc, cũng gian khổ như các đơn vị khác. Nói tới mặt trận B́nh Long (trận chiến tại thị xa An Lộc) th́ cũng phải nói tới công của N.V.K.là đại đội đrưởng của Đại Đội 302 Cảnh Sát Dă Chiến B́nh Long thời đó. Cảnh Sát Dă Chiến cũng tử thủ tai An Lộc.

    Khi được lệnh đến thăm BCH/CSQG B́nh Long, tôi và Trung Tá D.T.Y được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB đóng tại Lai Khê giúp đỡ để được đi cùng trực thăng tải thương đến phi trường Xa Cam An Lộc. Chúng tôi đă được Trung tá L.V.T. (chỉ huy trưởng của Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh B́nh Long) và Thiếu Tá L.V.Đ. (chỉ huy phó) ra đón bằng hai xe Honda 67, v́ thành phố đỗ nát không c̣n nhà cửa, đường sá không c̣n sử dụng xe Jeep được. Vả lại lúc đó Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh B́nh Long cũng không c̣n xe Jeep nào để đi.

    Chúng tôi đă có dịp lưu lại một đêm tại bộ chỉ huy này để được chứng kiến những gian khổ của anh em Cảnh Sát Quốc Gia nói chung và của Cảnh Sát Dă Chiến nói riêng. Sau hơn một tháng ở dưới hầm, toàn đơn vị thiếu thốn đủ mọi thứ, từ thức ăn cho đến nước uống và cả sự liên lạc với gia đ́nh cũng bị gián đoạn.

    Vai tṛ của một sĩ quan Cảnh Sát Dă Chiến hết sức phức tạp, không những phải am tường về luật pháp mà c̣n phải quán triệt về quân sự. Tiêu diệt cơ sở hạ tầng Cộng Sản th́ chỉ cần biết tin tức t́nh báo từ Cảnh Sát Đặc Biệt (CSĐB) hoặc các cơ quan bạn để Cảnh Sát Dă Chiến có thể thi hành nhiệm vụ. C̣n đối với các cuộc biểu t́nh và nhiễu loạn dân sự th́ Cảnh Sát Dă Chiến phải khéo léo, tế nhị hơn và nhất là phải biết rơ quyền hạn và trách nhiệm của ḿnh.

    Thật vậy, với nhiệm vụ thứ hai này, Cảnh Sát Dă Chiến luôn luôn thi hành đúng mức và đúng luật. Bằng chứng là vào giữa năm 1973, Linh Mục Trần Hữu Thanh từ Sài G̣n ra Quảng Ngăi xúi giục học sinh và dân chúng địa phương biểu t́nh chống chính quyền. V́ số người xuống đường quá đông nên ngoài Cảnh Sát Dă Chiến ra, vị tỉnh Trưởng c̣n điều động thêm quân đội địa phương đến hỗ trợ.

    Kết quả của cuộc giải tỏa đám biểu t́nh này là đă làm một học sinh bị trúng đạn ở chân. Cha mẹ của học sinh bị nạn gởi đơn kiện Cảnh Sát Dă Chiến đă bắn vào con họ. Nhưng qua cuộc điều tra mới biết rằng Cảnh Sát Dă Chiến chỉ sử dụng các dụng cụ chuyên môn sẳn có như lăng khiên, đoản côn, lựu đạn khói cay, ṿi phun nước. Vă lại tầm mức bạo động ở đây luật pháp chưa cho phép Cảnh Sát Dă Chiến phải dùng đến vũ khí. Thêm nữa, giảo nghiệm đầu đạn bắn là đạn của súng Colt 45 mà Cảnh Sát Dă Chiến không được trang bị loại súng này. Do đó mà Cảnh Sát Dă Chiến đă thoát khỏi bị qui trách làm sai luật pháp.

    Rất tiếc trách nhiệm của Cảnh Sát Dă Chiến chưa hoàn thành th́ tháng 4 năm 1975 lại đến. Những ước vọng cải tổ, sửa đổi để biến lực lượng Cảnh Sát Dă Chiến trở thành một lực lượng vơ trang lớn mạnh nhất trong thời b́nh đă bị tan vỡ. Cảnh Sát Dă Chiến cũng như các đơn vị khác được lệnh ở đâu trở về đó để tan hàng.

    Thông thường th́ ở các trung tâm huấn luyện hay ở bất cứ đơn vị Cảnh Sát Dă Chiến nào, trước khi được lệnh “tan hàng” đều hô to hai tiếng “cố gắng,” rồi sau đó 5 hay 10 phút đơn vị sẽ được tập họp trở lại để tiếp tục huấn luyện hay được phân chia công tác mới. Thế nhưng lần “tan hàng” này anh em Cảnh Sát Dă Chiến không có hô to hai tiếng “cố gắng” nữa. Các chiến sĩ cảnh phục “hoa màu đất” của Biệt Đoàn 222 Cảnh Sát Dă Chiến đang đánh nhau với Việt Cộng tại Kư Thu Ôn (Quận 8 Sài G̣n) đă được lệnh trở về hậu cứ biệt đoàn, để rồi tự buông súng trước sân cờ và giải tán từ đó.

    Sau một tháng kể từ ngày thua trận trở về nhà, các sĩ quan và hạ sĩ quan Cảnh Sát Dă Chiến cũng cùng số phận với các viên chức khác của chính phủ VNCH, phải tŕnh diện để được đưa vào các trại tù Cộng Sản. Thông báo trên báo chí và đài phát thanh của Cộng Sản, yêu cầu mọi người tŕnh diện “học tập cải tạo” chỉ cần mang theo thực phẩm, quần áo và tiền bạc đủ dùng trong ṿng mười ngày hoặc một tháng. Thế rồi qua nhiều năm tháng , thân phận của những người tù trong đó có nhiều chiến sĩ Cảnh Sát Dă Chiến đă bị lưu đày qua biết bao trại tù từ Nam ra Bắc, rồi từ Bắc vào Nam.

    Trải qua những năm tháng gian khổ, đói rét, thiếu thốn đủ thứ, và tinh thần luôn luôn bị đe dọa, một số chiến hữu Cảnh Sát Dă Chiến đă ra đi vĩnh viễn, một số may mắn hơn sau khi ra tù đă vượt biên t́m đến bến bờ tự do hiện đang định cư ở nhiều nước trên thế giới, một số đông sau cùng đă được ra đi theo diện H.O. hiện đang cư trú rải rác trên các Tiểu bang của Hoa Kỳ.

    Ngày nay người chiến sĩ Cảnh Sát Dă Chiến sống xa quê hương ít có cơ hội để gặp nhau theo định kỳ hoặc trong các chuyến công tác tại các đơn vị từ Quảng Trị cho tới Cà Mau như ngày nào. Cuộc sống nơi xứ người làm chúng ta không có nhiều thời giờ để liên lạc, tṛ chuyện, tâm t́nh khi xa xứ. Những thành qủa đạt được trong quá khứ nay chỉ c̣n là kỷ niệm. Dù thời gian có lâu bao nhiêu đi chăng nữa cũng không làm phôi phai đi t́nh nghĩa đồng đội Cảnh Sát Dă Chiến. Chúng ta luôn luôn kính trọng các bậc đàn anh, thương mến đàn em.

    “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm” luôn luôn được chúng ta ǵn giữ và tôn trọng. Khi không c̣n ở đơn vị nữa, th́ dù ở bất cứ nơi nào, hoàn cảnh nào, người Cảnh Sát Dă Chiến cũng luôn luôn tự hào là không bao giờ để mất đi danh dự cao quư của ḿnh.

    *Nguyễn Văn Linh*


    Cảnh Sát Dă Chiến - TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG
    * cựu thiếu tá Nguyễn Văn Thọ, BĐ 222/CSDC.



    Ba mươi năm đă trôi qua kể từ ngày vận nước đổi thay, tôi và biết bao nhiêu chiến hữu đă trải qua những ngày tháng dài đau thương khổ hận. Sống mà như đă chết, không c̣n có điểm tựa nào để bám víu. Cố quên đi những quá khứ tang tóc, những đau buồn tận cùng thế kỷ. Song cố quên th́ lại càng gợi nhớ những chiến hữu thân thương đă cùng ḿnh "chung lưng đấu cật", dũng cảm chiến đấu cho đến giờ phút cuối cùng để rồi nước mắt tuôn trào trong nghẹn ngào, phải giă từ vũ khí mà không biết lư do?
    Để tỏ ḷng khâm phục và vinh danh một đơn vị có danh hiệu là Biệt Đoàn 222/CSDC mà tôi được vinh dự phục vụ dưới cờ, và đă tham dự trận đánh cuối cùng đầy khốc liệt và đă chiến thắng trong "Hoàn thành nhiệm vụ được giao phó", trong những giây phút "dầu sôi lửa bỏng" nhất của đất nước thân yêu chúng ta, bên cạnh ḍng người đang t́m cách rời bỏ "hàng ngũ" để lánh thân càng lúc càng đông.
    Nhớ lại...khoảng 4 giờ chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, lệnh Chỉ Huy Trưởng thông qua thiếu tá HHQ, Trưởng Pḥng 3, tôi đưa Liên Đội A/222/CSDC gồm 3 Đại Đội 5, 8 và 10 do thiếu tá ĐVV chỉ huy đến địa điểm cầu Sài G̣n trên xa lộ Biên Ḥa rải quân, đóng chốt chận đường xâm nhập của địch hướng thủ độ Sài G̣n, thay thế tiểu đoàn dù nhận nhiệm vụ khác.
    Việc rải quân và tổ chức pḥng thủ vừa kết thúc lúc 1 giờ khuya rạng ngày 29 tháng 4 năm 1975 th́ tinh h́nh đă đổi thay. V́ cùng giờ nầy trong đêm, cuộc CSQG/Kư Thu Ôn thuộc quận 8 bị Việt Cộng tấn công bởi một đơn vị đặc công với hỏa lực hùng hậu. Lực lượng đồn trú chống trả mănh liệt nhưng cuối cùng phải rút lui do áp lực địch quá mạnh.
    Liên đội A/222 lại bàn giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn dù khác.Sau đó BCH/HQ và Liên Đội A di chuyển đến BCH/CSQG/Q8. Tại đây lúc 7g 30 sáng ngày 29/4/1975, sau khi bàn thảo kế hoạch, tôi và thiếu tá ĐVV đưa Liên Đội A đến địa điểm hành quân và đặt kế hoạch tái chiếm cuộc Kư Thu Ôn.
    Thành phần tham dự gồm 3 Đại đội:
    -Đại Đội 5 do trung úy NTĐ chỉ huy.
    -Đại Đội 8 do trung úy PĐN chỉ huy.
    -Đại Đội 10 do trung úy NVC chỉ huy.
    Cuộc Kư Thu Ôn nằm sát t́nh lộ hướng về quận Cần Guộc, tỉnh G̣ Công.Phía Tây-Bắc, cách cuộc chừng 800m là làng mạc dân cư đông đúc. Phía Đông-Bắc, sát cuộc là nghĩa trang lớn.Phía Đông-Nam, cách cuộc 500m cũng là khu dân cư có nhiều hộ và các cửa hàng buôn bán tạp hóa.
    Tôi và thiếu tá ĐVV quyết định đặt BCH/HQ tại phía sau lưng cuộc, về hướng Nam, cách cuộc 300m. Chúng tôi sử dụng Đại Đội 5, rải quân dọc theo tỉnh lộ, làm thành phần hỏa lực, sử dụng vũ khí gồm các loại như M79, M72, súng cối 60 ly và đại liên 50.Đại Đội 8 và đại Đội 10 tiến quân từng bước một vào mục tiêu theo chiến thuật "tam giác đáy đi trước". Khi 2 đơn vị ĐĐ8 và ĐĐ10 tiến quân c̣n cách xa cuộc khoảng 100m th́ địch phản công dử dội bằng hỏa lực B41 và AK47. Lực lượng tiến quân bị buộc phân tán mỏng, dùng hỏa lực cơ hữu bắn dập mục tiêu. Sau hơn 1 giờ giao tranh, tiếng súng hoàn toàn ngưng hẳn. Chúng tôi dự đoán, trước hỏa lực mạnh và sự chiến đấu dũng cảm của các chiến hữu Biệt Đoàn 222/CSDC, địch âm thầm rút lui theo các đường giao thông hào, do chúng thực hiện hôm trước, khi mở đường tấn công vào cuộc. Tại đây chúng tôi ghi nhận 4 tên Việt Cộng chết tại chỗ cùng vũ khí.
    Sau khi nắm vững t́nh h́nh, BCH/HQ di chuyển vào bên trong cuộc. Đại Đội 8 nhận nhiệm vụ tổ chức pḥng thủ và bảo vệ cuộc.
    Trong lúc đó lực lượng địch dù hoàn toàn rút quân khỏi vị trí, nhưng vẩn rải quân đóng chốt trong nghĩa trang. Việc xác định t́nh h́nh địch vô cùng phức tạp.Trước t́nh huống nầy, BCH/HQ quyết định yêu. BCH/CSQG/Thủ Đô liên hệ can thiệp cho một trực thăng quan sát và đánh dấu mục tiêu ngỏ hầu tranh tổ thất cho đơn vị.
    Sau 2 tiếng đồng hồ án binh bất động đợi chờ. Kết quả là sự im lặng hoàn toàn(*).BCH/HQ quá thất vọng. Chúng tôi nghĩ rằng nếu không giăi quyết chiến trường sớm trước khi trời tối sẽ gặp nhiều nguy hiểm và khó khắn nhất là các chiến hữu Biệt Đoàn hơn một ngày không chộp mắt.
    Chúng tôi không c̣n con đường nào khác. Chúng tôi áp dụng chiến thuật " Mưu Lược Chiến ". Sau khi chúng tôi bàn thảo chi tiết với thiếu tá LĐT và 3 Đại Đội Trưởng, tất cả chúng tôi đồng ư với nhau.Tôi khai hỏa phát súng đầu tiên, th́ đồng loạt các đơn vị nổ súng ồ ạt và hô xung phong nhưng tât cả nằm yên tại chỗ để theo dơi địch và đánh dấu mục tiêu. Đây chỉ là kế nghi binh buộc địch xuất hiện. Đúng như dự kiến, địch phản côn quyết liệt bằng các vũ khí AK47,B40, B41. Sau khi xác định được vị trí địch, Đại Đội 10 phân tán thành 8 toán, đồng loạt men theo đường hầm của địch, tiêu diệt từng tổ một, dười sự yểm trợ hỏa lực của Đại Đội 5.
    Trận đánh kết thúc lúc 4 giờ chiều ngày 29/4/1975 với 6 tên Việt Cộng ra hàng. Lực lượng đặc công coi như bị tiêu diệt tại chỗ. Sau khi bàn giao khu vực cho đơn vị địa phương, Liên Đội A được di chuyển về hậu cứ. Tại đây chúng tôi được thiếu tá Q, Trưởng Pḥng 3,Đại úy B Trưởng Pḥng 1, Trung Úy Đ, Trưởng ban Truyển Tin ...đón tiếp với tất cả tấm ḷng quư mến. Sau đó chúng tôi nhận được sự khen ngợi tức thời của Bộ Tư Lệnh CSQG.
    Trước t́nh h́nh "càng ngày càng bi đát" dưới áp lực quân sự đối phương, không khí chính trị càng lúc càng " ngột ngạt". Ḍng người trốn chạy gần như hoảng hốt và hổn loạn, vẩn c̣n nhiều đơn vị, quân chủng VNCH b́nh thản gần như không có chuyện ǵ,vẩn tiếp tục rải quân trên các đường phố, chiến giữ cao ốc nội thành Saig̣n. Họ đang chờ lệnh của các lănh đạo mới.
    Đơn vị chúng tôi c̣n đang tích cực chuẩn bị mọi phương tiện, lương khô, vũ khí, đạn dược để pḥng khi có lệnh di chuyển tiếp tục chiến đấu, dười hoàn cảnh mới.Nhưng đúng vào lúc 10 ǵơ15 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống mới Dương Văn Minh tuyên bố các đơn vị "ngưng chiến", chuẩn bị bàn giao cho đối phương. Đúng là NGÀY ĐẠI TANG cho cả dân tộc VNCH theo sau Nhật Lệnh đầu tiên của ông Minh.
    Sau lời tuyên bố là những ḍng nước mắt đẫm ướt áo trận...và một cuôc lưu đày oan nghiện bắt đầu...
    -------------------------------------------------------------------------------------------------------------------(*) Sau nầy trao đổi với Pḥng 3/BĐ222/CSDC, chúng tôi mới biết Tổng Thống Dương Văn Minh trao chức Chỉ Huy Trưởng/CSQG/Thủ Đô cho tên VC nằm vùng Triệu Quốc Mạnh. Hắn nhậm chức với mục đích bảo vệ mạng sống các tù nhân CS (sau này hắn trở thành thủ lănh Luật Sư Đoàn thành phố HCM). C̣n bộ Tổng Tham Mưu và BTL/Biệt khu Thủ Đô, không c̣n ai ngoài chuẩn tướng Nguyễn Bá Hỉ, phải xông xáo cho 2 cơ quan đầu năo. Riêng BTL/CSQG chỉ có Đại tá Phạm Kim Qui là cấp chỉ huy cao nhất. Do đó mọi yểm trợ chiến trường đều bị tê liệt.
    Last edited by alamit; 13-08-2012 at 03:01 AM.

  3. #93
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Lịch Sử Ngành Cảnh Sát Quốc Gia VNCH

    Tác Giả: Thanh Kim Pham

    Nói đến Ngành Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Ḥa, nhiều người chỉ hiểu về những người chỉ có Nhiệm Vụ Giữ Ǵn An Ninh Trật Tự, hoặc Điều Ḥa Lưu Thông ở khắp các Thành Phố, Thôn Xóm...

    Không nhiều tài liệu ghi lại những Danh Xưng, Tổ Chức theo từng Giai Đoạn đổi thay của Lịch Sử: Từ Thời Pháp Thuộc, đến Thời Đệ I Cộng Ḥa và Đệ II Cộng Ḥa... Với sự trợ giúp của Quư Niên Trưởng --Những Bậc Tiền Bối trong Ngành Cảnh Sát Quốc Gia như: Lê Sơn Thanh, Trần Trần Trọng Sanh, Thành Phước Thành, Đặng Văn Minh v.v...
    A- Giai Đoạn 1: Thời Kỳ Phôi Thai.

    Sau 19/12/1946, Pháp đă chiếm lại một số lănh thổ trên các Miền Bắc, Trung và Nam đặt lại nền đô hộ trên các phần đất chiếm lại của Việt Minh. Tại các địa phương đó, Pháp đă trao lại cho các Chính Khách thân với họ để lập nền Hành Chánh địa phương.

    Ngày 5/3/1947 Pháp cử Nghị Sĩ Emile Bollaert sang làm Cao Ủy Pháp tại Việt Nam. Một Ủy Ban Lâm Thời được thành lập tại Huế. Tại Bắc Phần, Pháp cho thành lập Ủy Ban Lâm Thời Hành Chánh và Xă Hội. Tại Miền Nam, Bác Sĩ Nguyễn Văn Thinh được Hội Đồng Tư Vấn Nam Kỳ cử ra thành lập Chính Phủ Nam Kỳ. Tại mỗi địa phương đều thành lập lấy Cơ Quan An Ninh riêng để giữ ǵn an ninh và trật tự cho chính quyền địa phương và bảo vệ phần nào dân chúng trở về sau cuộc chiến.

    Về phía người Pháp, lập lại nền đô hộ với Sở Liêm Phóng Liên Bang và Địa Phương, có thẩm quyền và quyền hạn trên cả các Cơ Quan An Ninh địa phương.

    Sau khi Pháp chiếm lại toàn ven lănh thổ, họ cho thành lập những Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời, với các tên gọi như: Hội Đồng Chấp Chánh Lâm thời ở Trung Phần, Hội Đồng An Dân ở Bắc Phần và Chính Phủ Nam Kỳ ở Nam Phần.

    Các Sở Công An được thành lập ở Hà Nội, Huế và Sai G̣n. Ở mỗi thị xă có một Ty Cảnh Sát, nhân viên là cựu công chức thuộc các Ngành An Ninh Pháp hoặc các Ngạch Hành Chánh hay Chuyên Môn trước năm 1945, và có một số được tuyển dụng tạm thời. Lương bổng do địa phương đài thọ. Chưa có hệ thống từ Trung Ương.

    Năm 1948, Hàng Đế Bảo Đại đứng ra điểu đ́nh với Bollaert để thành lập một Chính Phủ Lâm Thời và giao cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng. Sắc Lệnh Số 48/SG ngày 18/2/1948 tổ chức các Cơ Quan trực thuộc Thứ Trưởng Nội Vụ, trong đó có một “Ty Giám Đốc Cảnh Sát và Mật Thám Quốc Gia”.

    Thi hành Thỏa Ước Việt - Pháp ngày 8/3/1949, công bố tại Điện Elysée, liên quan đến chủ quyền Việt Nam, một số bộ phận thuộc các Sở An Ninh Pháp bắt đầu chuyển giao cho chính phủ Việt Nam, nhưng công tác T́nh Báo Chống Cộng vẫn do Sở Liên Phóng của Pháp đảm trách.
    B- Giai Đoạn 2: Thời Kỳ Tổ Chức Có Hệ Thống.

    Nghị Định Số 59/BNV ngày 24/4/1950 của Thủ Tướng, quy định việc tổ chức Ngành Công An và Cảnh Sát Quốc Gia. Một Nha Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Được thành lập tại Trung Ương. Mỗi phần có một Sở Cảnh Sát Công An: Hà Nội, Huế và Saig̣n. Một tỉnh có một Ty Công An, mỗi thị xă có một Ty Cảnh Sát. Về hành chánh và lương bổng trực thuộc địa phương, c̣n chuyên môn trực thuộc Trung Ương. Ở mỗi quận thuộc tỉnh có một Chi Công An.

    Ngày 14/6/1950 Sở Liêm Phóng và Cảnh Sát Pháp tại Hà Nội được chuyển giao cho phủ Thủ Hiến Bắc Việt. Tháng 7/1951, tại Miền Trung, Thủ Hiến Trần Văn Lư cho thành lập Nha Cảnh Sát và Công An Trung Phần.

    Sắc Lệnh Số 81/CA ngày 29/11/1951 thiết lập các Ngạch Cảnh Sát và Công An, ấn định thể thức tuyển dụng, ngạch trật, chỉ số long.v.v… Trong năm 1952 có 2 lần nhập Ngạch Cảnh Sát Công An cho nhân viên tùng sự tại các nơi. Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Công An trong thời kỳ này là Tổng Kiểm Tra Mai Hữu Xuân.

    Ngày 23/6/1954 Ông Ngô đ́nh Diệm về nước lập Chính Phủ với tư cách Thủ Tướng do Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ định. Nền Hành Chánh, Quân Sự và Cảnh Sát Công An tại Bắc Phần và các tỉnh Bắc Trung Phần đều triệt thoái vào Nam, từ Vĩ Tuyến 17 trở xuống.

    Ngày 7/10/1954 các Cơ Quan An Ninh Pháp hoàn tất việc chuyển giao Cảnh Sát Công An cho Việt Nam. Thời kỳ này, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Công An là Lai Văn Sang, thuộc Lực Lượng B́nh Xuyên đảm trách.

    Sắc Lệnh Số 120/CV ngày 25/10/1954 thiết lập các Ngạch Điều Khiển và cải tổ Ngành Cảnh Sát Công An.
    Tổng Nha Cảnh Sát Công An, gồm có các Sở: Hành Chánh, Tư Pháp, Cảnh Sát Đặc Biệt... Sở do Chánh Sở điều khiển. Sở chia ra pḥng do Chủ Sự điều khiển.

    Tại các Nha Phần, có các Pḥng: T́nh báo tổng quát, t́nh báo đặc biệt, hành chánh, kế toán, căn cước, tư pháp... do một Chủ Sự điều khiển. Các Chi ở Quận không thay đổi.

    Ngày 26/3/1955, vào thời kỳ B́nh Xuyên lộng quyền ở Sai G̣n, Nha Cảnh Sát Đô Thành được thành lập, chỉ thuộc quyền Đô Trưởng mà không thuộc quyền Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Công An Lai Văn Sang. Sau những gây rối do Công An Xung Phong của B́nh Xuyên tạo ra, gặp sự phản công của quân đội ở 3 mặt cầu Chữ Y, cầu Nhị Thiên Đường thuộc Xóm Củi và Phú Lâm, Lai Văn Sang được thay thế bởi Đại Tá Nguyễn Ngọc Lễ do Nghị Định ngày 24/4/1955 của Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm. Trong Nghị Định này, cũng giải tán Công An Xung Phong. Sau đó, Giám Đốc Cảnh Sát Công An Nam Phần Nguyễn Văn Tôn cũng bị thay thế bởi Trung Tá Trần Vĩnh Đắt. Trụ Sở Tổng Nha tạm di chuyển về bên hông Nha Cảnh Sát Đô Thành đường Trần Hưng Đạo.

    Ngày 29/4/1955, một Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng được thành lập, từ đó đưa tới “Việc Trất Phế Bảo Đạ”i, và Ông Ngô Đ́nh Diệm “được ủy nhiệm làm” Thủ Tướng để thành lập Chính Phủ mới. Sau những đợt di cư vào Nam, các Pḥng, Sở của Nha Miền Bắc đều sung vào các Pḥng mới thành lập, riêng nhân viên Cảnh Sát Công An các Ty Miền Bắc và các tỉnh Bắc Trung Phần đều sung vào Pḥng Điều Tra Đặc Biệt. Sau đó Tổng Nha được dời về bout Catinat (gần bưu điện) và có thêm một vị Phó Tổng Giám Đốc --ông Nguyễn Văn Hướng, nguyên là Giám Đốc Công An Bắc Phần. Tổng Nha Cảnh Sát và Công An trực thuộc Bộ Nội Vụ, do ông Bùi Văn Thinh làm Bộ Trưởng.

    Cấp chỉ huy của các Nha lúc bay giờ là:
    -Nha Cảnh Sát và Công An Nam Phần, ông Trần Bá Thành làm Giám Đốc.
    -Nha Cảnh Sát và Công An Trung Phần, ông Nguyễn Chữ làm Giám Đốc.
    -Nha Cảnh Sát và Công An Cao Nguyên, ông Nguyễn Văn Hay làm Giám Đốc.
    -Nha Cảnh Sát Đô Thành, ông Trần Văn Tư làm Giám Đốc.

    Ngày 28/5/1955, Đại Sứ Hoa Kỳ Freiderick Rheinardt tŕnh ủy nhiệm thư, đánh dấu giai đoạn chuyển hướng nền Hành Chánh, nói chung, và Ngành Cảnh Sát Công An Việt Nam. Trong chiều hướng canh tân, chính phủ nhờ Phái Bộ Hoa Kỳ phụ giúp việc huấn luyện Cảnh Sát Công An.

    Ngày 24/10/1956, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm thay cựu Hoàng Bảo Đại trong chức vụ Quốc Trưởng. Tổng Thống kư Sắc Lệnh Số 147/a/TTP chia Nha Cảnh Sát và Công An Trung Phần ra làm 2: Nha Cao Nguyên và Nha Trung Nguyên --Nha Cảnh Sát Công An Cao Nguyên và Nha Cảnh Sát Công An Trung Nguyên Trung Phần.

    Tại Tổng Nha có Sở Trung Ương T́nh Báo, pḥng Tư Pháp, Pḥng Hành Chánh, pḥng Ngoại Kiều, pḥng Nhân Viên và pḥng Kế Toán.

    Ngày 8/12/1956, Đại Tá Phạm Văn Chiểu thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Lễ.

    Ngày 6/6/1960, bắt đầu phát thẻ căn cước bọc nhựa cho dân chúng Đô Thành do Cảnh Sát Công An đảm trách.

    Vào thời kỳ này, Ngành Cảnh Sát Công An có các Trung Tâm Huấn Luyện:
    -Trung tâm huấn luyện Trung Cấp, thuộc Tổng Nha.
    -Trung tâm huấn luyện Sơ Cấp tại Vũng Tàu.
    -Trung tâm huấn luyện Tam Hiệp (Biên Ḥa).

    Ngày 13/11/1961, Đại Tá Nguyễn Văn Y được cử làm Tổng Giám Đốc thay Thiếu Tướng Nguyễn Văn Là. Dưới thời Đại Tá Y nhiều thay đổi quan trọng trong Ngành Cảnh Sát Công An Việt Nam. Ngoài những nhiệm vụ thường lệ, c̣n có thêm một Cơ Quan T́nh Báo khác, đó là Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo.

    Theo Sắc Lệnh Số 146/NV ngày 27/6/1962, Ngành Cảnh Sát và Công An được hợp nhất và cải tổ thành Cảnh Sát Quốc Gia. Ở Tỉnh không c̣n Ty Công An và Ty Cảnh Sát; chỉ có một Ty Cảnh Sát Quốc Gia mà thôi. Hành chánh, lương bổng, tiếp liệu, chuyên môn... trực thuộc Tổng Nha. Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia gồm nhiều Sở, nằm trong 3 Khối chính: Khối Cảnh Sát Đặc Biệt, Khối Tư Pháp và Khối Hành Chánh. Mỗi Khối do một Phụ Tá Tổng Giám Đốc điều khiển. Cũng trong dịp cải tổ này, một số Pḥng được nâng lên thành Sở và Ban được nâng lên thành Pḥng:
    - Khối Cảnh Sát Đặc Biệt: Nghiệp vụ về T́nh Báo và Phản T́nh Báo, để ngăn ngừa và đối phó với những hoạt động xâm nhập và phá hoại của Cộng Sản kể cả lo việc huấn luyện chuyên môn cho nhân viên như: T́nh Báo căn bản, T́nh Báo và Phản T́nh Báo cao cấp, Cán Bộ Điều Khiển, Cán Bộ Sưu (Truy) Tầm v.v…
    - Khối Tư Pháp: Cấp phát Căn Cước, Tổng Văn Khố, Giảo Nghiệm, Cảnh Sát Hành Chánh, điều tra Tư Pháp và Ngoại Kiều.
    - Khối Hành Chánh: Nhân Viên, Kế Toán, Tiếp Liệu, Truyền Tin, Nội Dịch và Huấn Luyện.

    Ngày 2/7/1963 bảy (7) Nha Cảnh Sát Quốc Gia được tổ chức lại: Nha Trung Phần (Huế), Nha Nam Trung Nguyên Trung Phần (Nha Trang), Nha Cao Nguyên (Đà Lạt và Ban Mê Thuộc), Nha Miền Đông Nam Phần (Biên Ḥa), Nha Tiền Giang (Mỹ Tho), Nha Hậu Giang (Cần Thơ) và Nha Đô Thành Sai G̣n.

    Đầu năm 1964, do Sắt Luật SL4/QP Ngành Hiến Binh Việt Nam được giải tán và sau đó một phần nhân viên được chuyển qua Cảnh Sát Quốc Gia. Ở các Tỉnh Miền Nam, số Cảnh Sát hương thôn, Cảnh Sát Thị xă (ngoại ngạch) cũng được chuyển ngạch Cảnh Sát Quốc Gia.

    Sắc Lệnh Số 19/NV ngày 27/1/1965, qui định việc thành lập Đoàn Cảnh Sát Dă Chiến tại Tổng Nha. Sau đó, do Sắc Lệnh Số 42/NV ngày 17/7/1965, quy định tại Tổng Nha có thêm Khối Yểm Trợ, gồm có Lực Lượng Cảnh Sát Dă Chiến và Giang Cảnh. Một Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Dă Chiến được thành lập tại Đà Lạt.

    Vào khoảng tháng 7 năm 1965, sau khi can thiệp và được Chính Phủ cho được Miễn Động Viên, Tổng Nha được tuyển dụng những nhân viên có bằng cấp Tú Tài trở lên được theo học các Khóa Sĩ Quan Cảnh Sát để thành những cấp chỉ huy tương lai. Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia được thành lập để đào tạo những người này thành những Biên Tập Viên (có Tú Tài II) và Thẩm Sát Viên (có Tú Tài I) và phải qua một kỳ thi tuyển. Cho đến ngày 12/3/1966, Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia mới được hợp thức hóa bằng Nghị Định Số 416/NĐ/NV. Thời gian học của các Sĩ Quan này là 1 năm. Khóa 1 Sĩ Quan Cảnh Sát Quốc Gia khai giảng ngày 1/3/1966 tại Trai Lê văn Duyệt, trong khu Biệt Khu Thủ Đô Sai G̣n. Viện Trưởng Học Viện đầu tiên là Quận Trưởng Cảnh Sát Đàm Trung Mộc (mất ngày 28/12/1982, nhằm ngày 14 tháng11 Năm Nhâm Tuất tại “Trại Tù Cải Tạo” Hà Sơn B́nh, Bắc Việt). Sau đó. Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia được dời về trụ sở mới ở Thủ Đức vào đầu năm 1969.
    C- Giai Đoạn 3: Thời Kỳ Phát Triển.

    Cuối năm 1966, Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia dự trù tăng từ 22.000 người lên 72.000 người. Theo đó, Tổng Nha tuyển dụng thêm một số nhân viên ngoại ngạch, gọi là Cảnh Sát Viên Phù Động Đồng Hóa Công Nhật, luơng bổng do viện trợ Hoa Kỳ đài thọ.

    Sắc Lệnh Số 160/SL/AN ngày 30/10/1967 và được bổ túc bởi Sắc Lệnh Số 26/SL/NV ngày 12/3/1969 lại cải tổ Ngành Cảnh Sát Quốc Gia. Các Sở thuộc Khối Hành Chánh được chia ra thành Khối Nhân Huấn và Khối Hành Chánh. Hai Khối này, một lần nữa sắp xếp lại thành Khối Huấn Luyện và Khối Quản Trị.

    Trong thời kỳ này, Tổng Nha thay đổi danh xưng của Khối Yểm Trợ thành Khối Hành Quân, thêm Nha An Ninh Cảnh Lực và Trung Tâm B́nh Định và Phát Triển. Bảy (7) Nha Cảnh Sát trước đây được xếp lại thành bốn (4) theo các Vùng Chiến Thuật và Nha Đô Thành Sai G̣n.

    Sắc Lệnh Số 17A/TT/SL ngày 1/3/1971 thành lập Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia thay Tổng Nha trước đây và các hệ thống trực thuộc như sau:
    -Bộ Tư Lệnh.
    -Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Khu I, II, III, IV và Thủ Đô.
    -Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia của Tỉnh, Thành Phố biệt lập (như Đà Nẵng, Vũng Tàu...) hay các Quận ở Thủ Đô.
    -Bộ Chỉ Huy Quận của các Tỉnh hay các Thành Phố biệt lập.
    -Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia ở Xă hay Phường ở Thủ Đô.

    Sắc Lệnh Số 59/SL/NV ngày 22/6/1971, ấn định cấp bậc, chỉ số lương, cấp hiệu nhân viên các cấp của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia giống như Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, gồm có:
    -Cảnh Sát Viên
    -Trung Sĩ, Thượng Sĩ Cảnh Sát.
    -Thiếu Úy, Trung Úy, Đại Úy Cảnh Sát.
    -Thiếu Tá, Trung Tá, Đại Tá Cảnh Sát.
    -Chuẩn Tướng, Thiếu Tướng, Trung Tướng Cảnh Sát.

    Mỗi cấp có nhiều bậc, để được cứu xét trong mỗi kỳ thăng thưởng hàng năm hay đặc biệt (đặc cách v́ chiến công).
    Việc cải chuyển từ Ngạch Trật cũ ấn định bởi Sắc Lệnh 81/CA ngày 19/11/1971 qua cấp bậc mới cho Nhân Viên Cảnh Sát Quốc Gia và cho Nhân Viên Biệt Phái được thực hiện từ tháng 7 năm 1971.

    Ngày 1/6 hàng năm được ấn định là Ngày Truyền Thống Cảnh Sát Quốc Gia từ năm 1971.

    Nhân số Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia đă tăng đến 135.000 người vào năm 1975 để đáp ứng với nhu cầu của việc Việt Nam hóa chiến tranh chống với Cộng Sản Bắc Việt

  4. #94
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Chỉ Huy Cơ Quan T́nh Báo VNCH Đầu Tiên



    Tác Giả: Tổng Hội CSQG/VNCH



    Cố Đại Tá Nguyễn Văn Y (1922-2012)

    Ông Nguyễn Văn Y sinh ngày 6 tháng 3 năm 1922 tại Tây Ninh, sống với song thân tại quận Trảng Bàng, Tây Ninh, cho đến năm 24 tuổi th́ t́nh nguyện nhập ngũ và năm 28 tuổi ghi danh dự thi để gia nhập Trường Vơ Bị Liên Quân Dalat, lúc trường mới được Chính phủ Quốc gia Việt Nam thành lập tại Đà Lạt vào tháng 11 năm 1950. Tốt nghiệp Khóa 3 Vơ Bị Dalat với cấp bực Thiếu Úy, ông được đưa về làm Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 19 kể từ tháng 7 năm 1951. Hai năm sau đó ông lần lượt được thăng cấp Trung Úy, Đại Úy, phục vụ tại Mỹ Tho rồi thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 62.


    Năm 1954 ông được thăng cấp Thiếu Tá, theo học lớp huấn luyện Trung Đoàn Trưởng và được đưa về làm Chỉ Huy Trưởng Tiểu Khu Chợ Lớn, sau đó được thăng cấp Trung Tá và bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng Chợ Lớn. Năm 1957, ông đảm nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Đệ Nhất Quân Khu, đến năm 1959 th́ được thăng cấp Đại Tá hiện dịch thực thụ đồng thời giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Khu Thủ Đô. Năm kế tiếp, ông được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc Các Trung Tâm Cải Huấn toàn quốc.


    Năm 1961, ông Nguyễn Văn Y được Bộ Tư Lệnh Quân Khu Thủ Đô chấp thuận cho giải ngũ v́ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm thành lập Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo và kư sắc lệnh bổ nhiệm ông làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Công An kiêm Đặc Ủy Trưởng Trung Ương T́nh Báo, một chức vụ ngang hàng Thứ Trưởng. Với vai tṛ chỉ huy cơ quan t́nh báo đầu tiên của Việt Nam Cộng Ḥa, ông được cử sang Singapore, Tokyo (Nhật Bản) rồi sang Mỹ để nghiên cứu về ngành t́nh báo tại Cơ Quan T́nh Báo Trung Ương Hoa Kỳ (C.I.A.) ở Langley (Virginia) vào năm 1961, và đến năm 1962 sang Kuala Lumpur (Mă Lai) để thực hiện chuyến viếng thăm thân hữu đồng thời quan sát tổ chức các cơ quan cảnh sát t́nh báo tại quốc gia đồng minh vùng Đông Nam Á. Ông giữ các chức vụ nêu trên cho đến những ngày cuối của Đệ Nhất Cộng Ḥa.


    Năm 1975, khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam, ông bà cùng các con di tản bằng đường biển, sau đó qua Mỹ và định cư tại tiểu bang Virginia. Ông bà có 9 người con ruột và một số nghĩa tử, nghĩa nữ. Bà Nguyễn Văn Y qua đời năm 1996, hưởng thọ 72 tuổi. Ông Nguyễn Văn Y tạ thế ngày 5 tháng 2 năm 2012, hưởng thọ 90 tuổi.


    Ngoài đức độ và sự liêm khiết khi đảm nhận các vai tṛ quan trọng trong quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa, cựu Đại Tá Nguyễn Văn Y c̣n được rất nhiều người ca ngợi về một khả năng đặc biệt là luận đoán Tử Vi Đẩu Số, một lănh vực mà ông đă chuyên tâm nghiên cứu từ thiếu thời và đúc kết hàng chục năm kinh nghiệm để đưa ra những kết quả phân tích chính xác. Ông đă lấy lá số và giải đoán Tử Vi cho hàng ngàn người trong tinh thần bất vụ lợi, không ngoài mục đích giúp họ chọn hướng đi đúng cho cuộc đời, giảm thiểu tai họa khi vào vận xấu, gia tăng thành công khi gặp vận tốt, và nhất là hiểu rơ được nguyên lư "đức năng thắng số".


    Cựu Đại tá Nguyễn Văn Y là thân phụ của nữ ca nhạc sĩ đấu tranh Nguyệt Ánh. Ngoài ra ông c̣n nhận nhiều người làm nghĩa tử, có nam ca nhạc sĩ kiêm MC của trung tâm Asia là Việt Dzũng, kư giả Huỳnh Lương Thiện chủ nhiệm báo Mơ San Francisco Oakland, và cô Nguyễn Thị Ngọc Nhung là Giám đốc đài truyền h́nh Việt Nam tại Honolulu Hawaii.

  5. #95
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Biệt Đội Thiên Nga, Nữ Chiến Sĩ T́nh Báo


    Tuyết Mai. (Vietbao.com)



    Cựu Thiếu tá Nguyễn Thanh Thủy

    Tôi được dịp gặp Cựu Thiếu Tá Cảnh Sát Đặc Biệt Nguyễn Thanh Thủy, Nguyên Biệt Đội Trưởng, Biệt Đội Thiên Nga TrungƯơng, một cơ quan t́nh báo phụ nữ thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia VNCH, trong ngày Đại Hội Nữ Quân Nhân kỳ IV ở California. Qua cuộc tiếp xúc với Cựu Thiếu Tá Thủy, tôi cảm thấy vô cùng cảm kích và thật hănh diện về tinh thần phục vụ của những người phụ nữ VN trong Biệt Đội Thiên Nga. Các chị đă can đảm chấp nhận sự nguy hiểm, sẵn sàng hy sinh tính mạng của ḿnh trong cuộc chiến ngăn chặn CS xâm nhập và xâm lăng Miền Nam.

    Cựu Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy cho biết, trong năm 1968, sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân và cuộc tấn công vào Tháng Năm, 1968, Chính Phủ VNCH thấy cần tăng cường các lực lượng Cảnh Sát trong việc bảo vệ an ninh đất nuớc để ngăn chận VC xâm nhập Miền Nam bằng đường bộ cũng như đường thủy. Từ đó vai tṛ của Cảnh Sát quan trọng hơn, đặc biệt là cần có sự bổ sung một số phụ nữ để thành lập một tổ chức toàn những Nữ Cảnh Sát, hoạt động trong các công tác t́nh báo, hoạt động riêng rẻ hoặc phối hợp với Nam Cảnh Sát.

    Do đó Tháng 8, 1968, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát QG quyết định thành lập một tổ chức toàn là phụ nữ có tên là Biệt Đội Thiên Nga, trực thuộc Khối Đặc Biệt, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát QG VNCH. Tổ chức này hoạt động độc lập. Nhiệm vụ của Biệt Đội Thiên Nga là sưu tầm tin tức các tổ chức VC xâm nhập và phá vở các tổ chức hạ tầng cơ sở của VC tại Thủ Đô Saigon cũng như tại địa phương ở các tỉnh trên toàn lănh thổ Miền Nam VN.

    Về tổ chức th́ Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương có văn pḥng tại Khối Đặc Biệt, Bộ Tư Lệnh CSQG VNCH. Biệt Đội Thiên Nga Thủ Đô gồm mười một quận của Đô Thành, có văn pḥng tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thủ Đô và BCH Cảnh Sát Quốc Gia ở các Quận trong Đô Thành. Ngoài ra c̣n có Biệt Đội Thiên Nga Vùng I, Vùng II, Vùng III, Vùng IV và tại các tỉnh trong toàn quốc. Từ Quảng Trị đến Cà Mau đều có Biệt Đội Thiên Nga.

    Biệt Đội Trung Ương có bốn ban như Ban Hành Chánh, Ban Tổ Chức, Ban Huấn Luyện, Ban Hoạt Vụ. Nhiệm vụ của Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương là tuyển mộ và huấn luyện, t́m đầu mối phát triển công tác, đôn đốc và hướng dẫn cán bộ, thành lập đội Thiên Nga địa phương của mười một quận trong Đô Thành và tại các tỉnh.

    Các đội Thiên Nga địa phưong tuyển mộ nhân viên gởi về Saigon, Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương gởi những chị em mới được tuyển mộ đi thụ huấn các khóa t́nh báo tại Trường T́nh Báo Trung Ương ở đường Cộng Ḥa, Saigon.

    Về tŕnh độ văn hóa, các chị em Thiên Nga ít nhất phải có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp hay cao hơn. Ngoại trừ quả phụ của Cảnh Sát th́ không đ̣i hỏi điều kiện văn bằng như trên, nhưng ít nhất phải có bằng tiểu học. Các sĩ quan Thiên Nga th́ phải có bằng Tú Tài hay cao hơn.

    Các nhân viên được tuyển lựa gồm các chị em ở mọi lứa tuổi, mọi thành phần khác nhau trong xă hội, từ người bán hàng rong cho đến thư kư văn pḥng hay cô giáo, vũ nữ …các nữ nhân viên t́nh báo lần luợt được học qua các lớp “ t́nh báo căn bản” là bốn tuần, khóa “ theo dơi “ sáu tuần và “cán bộ điều khiển “ th́ tám tuần…các khóa sinh phải đủ điểm ở lớp thấp trước rồi mới được lên lớp kế tiếp và trong thời gian huấn luyện th́ các khóa sinh phải ở nội trú và mang ám số.

    Việc giảng dạy do các trường t́nh báo phụ trách, c̣n giám thị th́ do các nhân viên Thiên Nga đảm nhận. Sau khi đă học xong th́ các nhân viên t́nh báo trở về Biệt Đội Trung Ương hoặc địa phương để hoạt động.

    Các công tác đều có ám danh, v́ là phụ nữ nên các ám danh có tên của các loài chim như sơn ca, hoạ mi, hải âu, hoàng oanh, hoàng yến vv… những công tác phối hợp chung với nam Cảnh Sát th́ có tên như Trùng Dương hay Trường Sơn …

    Do sự thay đổi của t́nh h́nh chính trị, Biệt Đội Thiên Nga có ám danh mới để hoạt động cho dễ. Song song với những công tác được huấn luyện, Biệt Đội Thiên Nga thi hành nhiều công tác như xâm nhập, len lơi vào các hội đoàn phụ nữ VN hoặc hội hè ở các chợ hoặc lên lơi vào những phong trào phụ nữ đ̣i quyền sống, hoặc lực lượng thứ ba chống chính quyền VNCH… để kịp thời ngăn chận VC nằm vùng và phá vỡ những âm mưu nguy hại an ninh quốc gia. Ngoài ra Biệt Đội Thiên Nga cũng xâm nhập vào tận mật khu của VC để thu thập tin tức tính báo, góp phần tiêu diệt các cơ sở đầu năo của CS.

    Để thi hành công tác, các chị em Thiên Nga luôn chấp nhận sự hiểm nguy, tính mạng lúc nào cũng bị đe dọa. Qua tài liệu th́ VC bị thất bại nhiều từ khi Biệt Đội Thiên Nga được thành lập, v́ vậy VC luôn đề cao cảnh giác về hoạt động của Biệt Đội Thiên Nga. Để đối phó vấn đề này VC luôn t́m cách bắt cóc, gây tai nạn xe, tạo án mạng hay ám sát những ai mà chúng nghi ngờ là thuộc Biệt Đội Thiên Nga.

    Các nhân viên Thiên Nga phải có những ngụy tích (lư lịch) và ngụy thức (cách trang phục) để len lơi vào các hội đoàn, tham dự các cuộc biểu t́nh nên cũng phải chịu hơi cay hay dùi cui của Cảnh Sát.

    Một trong những công tác điễn h́nh là vấn đề cung cấp thực phẩm cho phái đoàn bốn bên VC, CS Bắc Việt, Mỹ và VNCH sau khi hiệp ước được kư ở Paris. VC và CS Bắc Việt đ̣i để họ chọn nhà thầu. Biệt Đội Thiên Nga cử người vào thầu giống như những nhà thầu tư nhân. Đội Thiên Nga đă hoạt động âm thầm cho đến ngày cuối cùng. Công tác đó có ám danh là Trùng Dương.

    Cựu Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy cho biết trong thời gian hoạt động với các cán bộ nằm vùng, các chị em cố thuyết phục và có những người CS đă giác ngộ, quay lại hợp tác với các chị em Thiên Nga. Công tác này gọi là công tác Hoàng Oanh.

    Biệt Đội Thiên Nga có rất nhiều nhân viên chính thức khắp các vùng chiến thuật, nhưng sau 1975 Cộng sản không t́m ra đuợc nhiều người v́ hồ sơ đă được hủy trước khi Miền Nam mất. Vấn đề t́nh báo luôn được giữ bí mật, trong thời gian thụ huấn ở Trung Tâm Huấn Luyện T́nh Báo các chị em có bí danh, bí số. Sau khi ra trường, trở về đơn vị các chị em hoạt động độc lập, nhận lệnh và báo cáo với cấp chỉ huy trực tiếp, chứ giữa các chị em trong Biệt Đội Thiên Nga không có sự liên lạc với nhau như ở các đơn vị Cảnh Sát sắc phục hay các quân binh chủng khác.

    Các Nữ chiến sĩ t́nh báo Thiên Nga bị CS liệt kê là thành phần phản động, nguy hiểm, tích cực chống Cộng chứ không phải v́ hoàn cảnh, v́ sinh kế mà gia nhập ngành này. Sau 1975, chị em người nào bị bắt th́ bị trừng trị rất nặng, ở tù rất lâu. Riêng Cựu Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy bị tù mười ba năm và bị biệt giam hơn một năm, măi ba năm sau mới được giam chung với các chị em nữ quân nhân từ cấp bực Đại Uư trở lên.

    Các Nữ chiến sĩ t́nh báo Thiên Nga thật xứng đáng là con cháu của hai Bà Trưng, Bà Triệu; là niềm hănh diện của người phụ nữ Việt Nam, đă đóng góp một phần không nhỏ trong việc tô thấm màu cờ và làm vẻ vang những trang sử oai hùng của dân tộc Việt.

    Tuyết Mai

  6. #96
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Trận chiến Tống Lê Chân 1973 - Tiền Đồn Quá Xa
    P1



    Trần Đỗ Cẩm




    Trong lịch sử chiến tranh cận đại, có nhiều trận đánh lớn quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn, hoặc với tầm mức quan trọng “dứt điểm” như trận Normandie, Stalingrad, Okinawa, Iwo Jima v.v… Trong cuộc chiến tranh vừa qua tại Việt Nam, chúng ta cũng thường nghe nói tới những trận đụng độ ác liệt như trận Hạ Lào, An Lộc, Quảng Trị, Pleiku v.v… So với những cuộc hành quân nổi tiếng kể trên, trận đánh tại Tống Lê Chân giữa một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân QLVNCH và quân Cộng Sản không những chỉ nhỏ bé về tầm vóc mà c̣n cả về mức độ quan trọng.

    Trại Tống Lê Chân chẳng qua chỉ là một tiền đồn hẻo lánh gần biên giới Việt – Miên thuộc Vùng III Chiến Thuật có nhiệm vụ phát hiện sự xâm nhập của địch quân vào lănh thổ VNCH. Tuy chỉ là một trận đánh nhỏ lại không mấy quan trọng, nhưng nếu kể về tinh thần chiến đấu can trường và sức chịu đựng phi thường của người lính chiến trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng, các chiến sĩ TĐ 92 BĐQ đă vượt trội và tạo nhiều thành tích có một không hai khiến trận đánh Tống Lê Chân trở thành có tầm vóc lịch sử, khác biệt và đáng chú ư hơn nhiều trận đánh lớn khác. Nhân dịp kỷ niệm ngày QLVNCH 19 tháng 6, chúng tôi tường thuật lại trận đánh oai hùng của TĐ 92 BĐQ tại Tống Lê Chân qua những tài liệu thâu thập được để tôn vinh các chiến sĩ Cọp Rừng Mũ Nâu. Đây cũng là dịp tri ân toàn thể QLVNCH đă đổ nhiều xương máu bảo vệ quê hương.


    Tống lê chân

    Tống Lê Chân? Địa Danh Xa Lạ.

    Cuộc chiến tranh dai dẳng tại Việt Nam ngoài mức độ khốc liệt, c̣n tạo ra những địa danh xa lạ. Nếu không có trận Tân Cảnh, Kon Tum, làm ǵ có những tên Charlie, Delta? Nếu không có trận Hạ Lào chắc cũng chẳng có LoLo, Sophia, BĐQ Bắc, BĐQ Nam v.v… Tống Lê Chân cũng là một tên rất lạ. Dân địa phương người Miên gọi vùng này là Tonlé Tchombe. Tonlé tiếng Miên có nghĩa là sông, hồ, suối hoặc nơi nào có nước. Thí dụ như Biển Hồ có tên Miên là Tonlé Sap. Khi mới thành lập, trại này chưa có tên nên Thiếu tá Đặng Hưng Long, vị chỉ huy trưỏng đầu tiên phiên âm tiếng Miên Tonlé Tchombe thành tiếng Việt Tống Lê Chân. Sau này, phần đông các quân nhân trong binh chủng BĐQ biên pḥng gọi tắt là Tống Lệ để ám chỉ một căn cứ đầy máu và nước mắt, không có một ngày yên vui kể từ khi ra đời.

    Tiền đồn Tống Lê Chân nguyên thủy là một trại Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ) (Civilian Irregular Defense Group gọi tắt là CIDG) do Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ thành lập từ năm 1967 để phát hiện và ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân từ bên kia biên giới. Đến năm 1970 trong chương tŕnh cải biến Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu thành Biệt Động Quân Biên Pḥng, phần đông những binh sĩ của trại Tống Lê Chân thuộc sắc dân ngưởi thượng Stieng đều t́nh nguyện ở lại để trở thành Tiểu Đoàn 92 BĐQ Biên Pḥng, tổng cộng gồm 292 binh sĩ lúc khởi đầu, chưa kể một số sĩ quan QLVNCH giữ các chức vụ chỉ huy.

    Trại Tống Lê Chân thuộc Vùng III Chiến Thuật được thành lập vào đầu năm 1967 cùng với trại Prek Klok tại vùng Chiến Khu C của Việt Cộng. V́ chận ngay yết hầu nên ngay từ khi thành lập, các trại này đă bị địch quân đe dọa thường xuyên. Trong hệ thống LLĐB, trại Tống Lê Chân mang ám danh A-334 và được biến cải thành trại BĐQ Biên Pḥng vào ngày 30 tháng 11 năm 1970. Toàn thể quân số trong trại lúc đó có 318 người (gồm 292 người nguyên thuộc DSCĐ và các sĩ quan cùng Hạ Sĩ Quan QLVNCH mới được bổ nhiệm tới để chỉ huy) trở thành TĐ 92 BĐQ Biên Pḥng thuộc hệ thống chỉ huy của BĐQ/QLVNCH.

    Trại Tống Lê Chân trấn giữ một địa điểm quan yếu, chận ngay đường vào khu Tam Giác Sắt và án ngữ vùng Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Cam Bốt. Đây là những an toàn khu và cũng là đại bản doanh Cục R của Việt Cộng như hai mũi dao nhọn chĩa vào cạnh sườn Quân Khu III. Trong các trận hành quân vượt biên của Quân Đoàn III do Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy vào năm 1970, trại Tống Lê Chân đă đóng một vai tṛ quan trọng trong nhiệm vụ phát hiện và diệt địch. Căn cứ được thiết lập trên một ngọn đồi cao chừng 50 thước, trông xuống hai con suối nhỏ dân địa phương gọi là Takon và Neron. Đây là những lạch nước khởi nguồn của sông Sài G̣n chảy qua Dầu Tiếng, Bến Súc, Phú Cường v.v…. Tống Lê Chân, như trên đă nói là một trong chuỗi trại Dân Sự Chiến Đấu do LLĐB thiết lập dọc theo biên giới Miên – Việt thuộc lănh thổ Quân Khu III.

    Về vị trí, trại Tống Lê Chân nằm trong vùng ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và B́nh Long, cách An Lộc chừng 15 cây số về hướng Tây Nam và mũi nhọn của chiếc Mỏ Vẹt chứng 13 cây số về hướng Đông Nam. Dưới chân căn cứ là con đường 246 nối liền Chiến Khu C và Chiến Khu D của Việt Cộng. Đây cũng là trục giao liên Nam – Bắc huyết mạch nối liền bản doanh của Cục R bên Cam Bốt và vùng Dầu Tiếng với Khu Tam Giác Sắt của Cộng Quân.

    Với vị trí chiến lược vô cùng quan trọng có thể kiểm soát được các trục giao liên Nam – Bắc và Đông – Tây của Cộng Quân tại vùng biên giới, lại trấn giữ sườn Tây cho thị trấn An Lộc, Tống Lê Chân như chiếc gai nhọn cần phải nhổ bằng mọi giá trên sa bàn trận liệt của địch. Vào mùa hè năm 1972, cùng với các trận cường tập có pháo binh và chiến xa nặng của Công quân vào vùng Lộc Ninh, Chơn Thành và An Lộc, các căn cứ biên pḥng lân cận Tống Lê Chân như Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập đă phải di tản. Tống Lê Chân chơ vơ c̣n lại như một hải đảo cô đơn giữa biển người cộng quân trùng điệp.

    Tứ Bề Thọ Địch

    Nhằm mục đích mở rộng đường giao liên cũng như giữ bí mật các cuộc chuyển quân xâm nhập từ biên giới Miên – Việt vào lănh thổ Quân Khu III, ngày 10 tháng 5 năm 1972, Cộng quân dồn lực lượng đánh biển người vào căn cứ Tống Lê Chân quyết nhổ cái gai trước mắt. Quyết san bằng căn cứ, địch quân dùng đại pháo 130 ly cùng với đủ loại súng cối, sơn pháo bắn phủ đầu như mưa vào căn cứ theo đúng chiến thuật lấy thịt đè người “tiền pháo hậu xung”. Trận pháo kích khốc liệt này chính thức mở đầu cho gần hai năm trời vây hăm. Sau loại pháo ṿng cầu, nhiều đợt pháo cấp tập bắn thẳng vào Tống Lê Chân như muốn san bẳng căn cứ nhỏ bé nằm lẻ loi trên ngọn đồi. Trong khi đó, một rừng pḥng không từ thượng liên đến cao xạ 37 ly, 57 ly và cả hỏa tiễn tầm nhiệt thuộc sư đoàn Pháo Pḥng Không tân lập 377 khoá kín không phận khiến các phi cơ không thể nào tới gần để yểm trợ. Sau những đợt pháo kích dữ dội, Tiểu Đoàn độc lập 200 của Việt Cộng lănh nhiệm vụ tấn công vào Tống Lê Chân với sự yểm trợc của các đơn vị bộ binh thuộc hai Công Trường 7 và 9.

    Tuy bị bao vây và cô lập, các chiến sĩ Mũ Nâu thiện chiến của TĐ 92 BĐQ đă b́nh tĩnh bố trí trong các giao thông hào đào sâu trong ḷng đất chờ địch ngay khi các quả đạn pháo kích đầu tiên rơi vào căn cứ. Một đơn vị đặc công địch theo sát những trái pháo mở đường đă xâm nhập được ṿng đai pḥng thủ bên ngoài. Những chiến xa hạng nặng T-54 của Cộng quân yểm trợ cũng nă đạn như mưa rất chính xác khiền t́nh h́nh có vẻ nguy kịch. Nhưng quân trú pḥngvẫn không nao núng v́ rất tin tưởng vào hệ thống bố pḥng vững chăi và nhất là băi ḿn dầy đặc bao quanh căn cứ. Dưới sự chỉ huy đầy kinh nghiện của Thiếu Tá TĐT Lê Văn Ngôn, các chiến sĩ BĐQ vẫn chưa khai hỏa. Họ chờ bộ binh chủ lực địch xung phong mới bắt đầu nổ súng. Quả nhiên, khi thấy không bị bắn trả, Cộng quân bắt đầu tràn vào căn cứ v́ tưởng quân trú pḥng đă bị chết hết hay mất tinh thần v́ các đợt pháo kích ác kiệt cũng như v́ chiến xa với đại bác 100 ly trực xạ. Đúng lúc đó, các chiến sĩ Mũ Nâu mới đồng loạt khai hỏa. Từng đợt “biển người” của Cộng quân bị bất ngờ nhưng v́ đă tiến tới quá gần không kịp t́m nơi ẩn trú nên bị đốn ngă như rạ. Sau đợt tấn công đầu tiên bị thiệt hại nặng, địch lui ra để pháo binh tiếp tục nă vào căn cứ, sau đó bộ binh lại tấn công. Sau nhiều đợt xung phong vô hiệu quả, cuối cùng Cộng quân phải rút lui, bỏ lại hàng trăm xác chết phơi thây trên hàng rào pḥng thủ.

    Cũng trong thời gian này, các mặt trận lớn khác tại vùng Hỏa Tuyến, Tây Nguyên, An Lộc … bùng lên dữ dội với những cuộc đụng độ đẫm máu của một Mùa Hè Đỏ Lửa, trận đánh tại Tống Lê Chân tuy là một chiến thắng lớn của các chiến sĩ BĐQ nhưng không được nhiều người biết tới. Nhưng từ khi cuộc “thử lửa” ban đầu bị thất bại nặng nề, Cộng quân biết rằng không thể dễ dàng nuốt chửng Tống Lê Chân nên chúng chủ trương dùng chiến thuật tiêu hao, bao vây chặt chẽ và pháo kích thường xuyên với đặc công xâm nhập quấy phá. Chúng tin rằng chiến trường An Lộc lân cận có tầm mức quan trọng hơn và nếu đạt được chiến thắng, Tống Lê Chân không cần phải đánh cũng sẽ tự tan ră. Cuộc bao vây dài nhất trong quân sử bắt đầu …

    Cứ như vậy, tiền đồn Tống Lê Chân bị Cộng quân vây chặt. Địch pháo kích thường xuyên vào căn cứ, trong khi màng lưới pḥng không dầy đặc cắt đứt nguồn tải thương và tiếp vận duy nhất bằng phi cơ. Thoạt tiên, các phi cơ vận tải C-130 của Không Quân Việt Nam đă phải bay rất cao để thả dù tiếp tế khiến nhiều kiện hàng bay lạc ra ngoài, rơi vào tay Cộng quân. Theo lời kể lại của một hồi chánh viên, vào khoảng tháng 6-1973, Cộng quân đă tổ chức một đại đội có nhiệm vụ chuyên đi “lượm dù” để lấy đồ tiếp tế. V́ vậy, đă có dư luận từ các nguồi tin ngoại quốc cho rằng đôi bên đă ngầm thỏa thuận để các vận tải cơ được tự do thả dù mà không bị pḥng không bắn lên, miễn là quân trú pḥng không bắn vào toán Cộng quân lượm dù bên ngoài. Sau này, khi rút tỉa kinh ngiệm, KQVN đă hoàn chỉnh được kỹ thuật thả dù tiếp tế nên số lượng đồ tiếp vận thất thoát không c̣n dáng kể.

    Riêng các phi cơ trực thăng, phương tiện duy nhất để tản thương hay chở quân tăng viện không thể nào bay lọt lưới pḥng không dầy đặc của địch. Nhiều toán trực thăng đă liều lĩnh bay vào Tống Lê Chân chẳng những không đạt được nhiều thành công, lại bị thiệt hại khá nặng. Trong khoảng thời gian từ tháng 10-73 đến cuối tháng 1-74, có khoảng 20 phi vụ trực thăng nhằm tản thương và tiếp tế cho Tống Lê Chân, nhưng chỉ có 6 trực thăng hạ cánh được, trong số này có 3 chiếc bị bắn hư hại trên băi đáp. Cuối tháng 12-73, một trực thăng Chinook CH-47 cũng bị bắn rơi khi hạ cánh. Đây là chiếc trực thăng thứ 13 bị trúng đạn pḥng không địch chỉ nội trong tháng 12/73. Thiệt hại về phía KQVN gồm 9 chết, 36 bị thương. Tới tháng 1-1974 tức là một năm sau khi kư kết hiệp định ngưng bắn, vẫn c̣n có 12 chiến sĩ BĐQ bị thương nặng vẫn chưa được tản thương khỏi căn cứ.

    Ngưng Chiến Kiểu Việt Cộng

    Tuy căn cứ Tống Lê Chân bị Cộng quân khởi sự tấn công vào tháng 5 năm 1972, nhưng bị vây hăm và tấn công dữ dội nhất vào lúc thỏa ước nhưng bắn được thi hành tại Việt Nam theo khuôn khổ hiệp định Paris. Đây cũng là một điểm đặc biệt có một không hai trong cuộc chiến tại Việt Nam cũng như trong lịch sử chiến tranh thế giới: môt hiệp ước ngưng bắn bị vi phạm ngay sau khi vừa kư kết! Cộng quân, có lẽ đang cay cú v́ thất bại chua cay không chiếm được An Lôc, nay cố chiếm một mảnh đất khỉ ho c̣ gáy gần biên giới Việt – Miên để có một chỗ cho Cục R ra mắt. Trong lúc toàn thể thế giới thở phài nhẹ nhỏm v́ ng̣i lửa chiến tranh tại Việt Nam có thể đưa đến hiểm họa chiến tranh giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản không c̣n nữa, th́ tại Tống Lê Chân, TĐ 92 BĐQ vẫn đơn độc ngày ngày hứng pháo và dành dựt với Cộng Quân từng thước đất để sống c̣n.

    Tuy Cộng Quân trắng trợn và công khai vi phạm thỏa ước ngưng bắn, nhưng ngưới bạn đồng minh Hoa Kỳ của VNCH vẫn dửng dưng không hề có một lời phản đối dù lấy lệ, dường như c̣n say men rượu mừng v́ đă t́m thấy “ánh sáng ở cuối đường hầm”. Dĩ nhiên họ cũng chẳng có một phản ứng hay hành động tích cực nào thuận lợi cho VNCH. Ngay cả Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến cũng không can thiệp. V́ vậy, trước những vi phạm trắng trợn và lộ liễu của Cộng quân tại Tống Lê Chân, trong phiên họp ngày 17-3-73, trưởng phái đoàn VNCH là tướng Dư Quốc Đống đă phải đặt vấn đề Tống Lê Chân lên bàn hội nghị với ba giải pháp như sau:

    1. Cử một tổ Liên Hợp Quân Sự bốn bên đến Tống Lê Chân để điều tra tại chỗ các sự vi phạm.
    2. Nếu phe CS phản đối, sẽ yêu cầu UB Kiểm Soát Đ́nh Chiến can thiệp.
    3. Yêu cầu các đơn vị Cộng quân quanh Tống Lê Chân không được bắn lên phi cơ của UBQT.


    biệt động quân

    Dĩ nhiên đề nghị hợp lư của phái đoàn VNCH bị phe Cộng Sản phản đối v́ chính chúng là kẻ vi phạm. Trần Văn Trà, trung tướng trưởng phái đoàn MTGPMN cố ư vắng mặt để tên đạt tá Đặng Văn Thu thay thế. Tên Thu một mặt vu khống chính VNCH mới là phe vi phạm ngưng bắn, một mặt tự coi là không đủ thẩm quyền quyết định nên yêu cầu mở một cuộc họp khác để bàn về Tống Lê Chân với sự hiện diện của Trần Văn Trà. Về các đề nghị thứ hai và thứ ba của phái đoàn VNCH, phe Cộng sản cũng “nhất trí” phản đối, ngoài ra c̣n dọa dẫm các thành viên trong UHQT rằng t́nh h́nh tại Tống Lê Chân “chưa rơ rệt” nên họ không bảo đảm an ninh cho phái đạn cũng như phi cơ của Ủy Hội.

    Tóm lại, cả phe Cộng sản trong UBLH và UHQT đều đồng thanh tránh né việc điều tra vi phạm ngưng bắn tại Tống Lê Chân, lúc th́ chờ chỉ thượng cấp quyết định, khi lại không bảo đảm an ninh.

    Đến ngày 23-3-73 tức là chỉ c̣n 4 hôm nữa là hết hạn 60 ngày làm việc của UBLH bốn bên, phái đoàn Hoa Kỳ mới yêu cầu chiếu lệ Gia Nă Đại là chủ tịch UBQT điều tra về vụ Tống Lê Chân. Phía Việt Cộng đưa tên đại tá một mắt Vơ Đông Giang ra thảo luận với đại tá Lomis của Gia Nă Đại và thỏa thuận cử sĩ quan liên lạc của MTGPMN theo UHQT tới Tống Lê Chân vào ngày 24-3-73. Nhưng đó cũng chỉ là mánh lới tiểu xảo cố hữu của Cộng Sản: tới ngày hẹn, viên sĩ quan liên lạc này đă “trễ trực thăng” nên máy bay của UHQT không đi Tống Lê Chân được!

    Như vậy, với sự tráo trở và lọc lừa cố ư của Cộng sản, việc điều tra tại Tống Lê Chân đă không bao giờ được thực hiện. Số phận của Tống Lê Chân đành phó thác cho định mệnh và TĐ 92 BĐQ phải tự chiến đấu một ḿnh để sống c̣n.

    Ṿng Vây Xiết Chặt

    Suốt năm 1973 kể từ ngày ngưng bắn, trong lúc Việt Cộng giở thủ đoạn hèn hạ tại bàn hội nghị, Tống Lê Chân bị bao vây chặt chẽ và bị tấn công hàng chục lần nhưng vị trí vẫn đứng vững như một khúc xương khó nuốt. Nhả ra không được v́ bị Tống Lê Chân chận nghẹn ngay yết hầu, nuốt vào th́ không xong v́ các chiến sĩ Mũ Nâu rất kiên cường không chịu nhượng bộ một tấc đất, Cộng Quân chỉ c̣n cách bao vây “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Tuy pḥng không địch dầy đặc bao quanh căn cứ nhưng phi cơ VNCH đôi khi vẫn liều lĩnh bay lọt qua màng lưới của tử thần để tản thương và tiếp tế. Việc tiếp tế cho Tống Lê Chân bằng dù khá hiệu quả, nhưng v́ chu vi pḥng thủ quá hẹp nên có một số đồ tiếp liệu bị lọt vào tay địch.

    Qua năm 1974, trong khi các phái đoàn “Kiểm Soát” tranh luận dằng co, t́nh h́nh tại Tống Lê Chân ngày càng nguy ngập sau cả năm trời bị bao vây. Thời gian càng trôi qua, phần bất lợi càng nghiêng về phía quân trú pḥng. Bị cả sư doàn địch quân phong tỏa chặt chẽ và bị tấn công thường xuyên, quân số BĐQ ngày càng hao hụt không được bổ xung. Lúc này, TĐ 92 BĐQ chỉ c̣n lại 255 người, trong số đó có nhiều thương binh. Việc tiếp tế lại không được đầy đủ v́ phi cơ thả dù bị pḥng không chận bắn. Về mặt tinh thần cũng sa sút phần nào v́ bị vây hăm quá lâu ngày và áp lực liên miên . Tuy vậy, Tống Lê Chân vẫn c̣n đứng vững như một biểu tượng hùng hồn cho ḷng quả cảm và sức chiến đấu kiên cường của các chiến sĩ BĐQ.

    Nhưng để giữ vững Tống Lê Chân, QLVNCH tính ra đă phải trả một giá quá đắt: sự thiệt hại về nhân mạng mỗi ngày một cao, việc dùng phi cơ để yểm trợ và thả dù tiếp tế đă trở thành một gánh quá nặng cho KQVN lúc đó phương tiện không c̣n được dồi dào như lúc Hoa Kỳ c̣n tham chiến. Hơn nữa, tuy Tống Lê Chân chiếm giữ một vị trí khá quan trọng nhưng vẫn chỉ là một tiền đồn nên giá trị quân sự không thể so sánh với các căn cứ chính cần phải bảo vệ khác, do đó không nhất thiết phải giữ bằng mọi giá. V́ không thể chia bớt lực lượng để yểm trợ Tống Lê Chân, đă đến lúc BTL/QĐ III phải có một quyết định dứt khoát để giải quyết vấn đề Tống Lê Chân để chấm dứt t́nh trạng bất lợi.

    Do đó, vào ngày 23-3-73, tướng Phạm Quốc Thuần, Tư Lệnh QĐ III đề nghị với Bộ TTM/QLVNCH chọn một trong ba giải pháp sau đây:

    1. Mở một cuộc hành quân cấp sư đoàn từ An Lộc để giải tỏa áp lực, tăng cường, thay thế hay di tản TĐ 92 BĐQ tại Tống Lê Chân.
    2. Cho phép thương lượng với Cộng quân, giao Tống Lê Chân cho chúng để đổi lấy sự di tản an toàn của các chiến sĩ Mũ Nâu trú pḥng.
    3. Cho lệnh TĐ 92 BĐQ được di tản khỏi căn cứ bằng những toán nhỏ để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn.

    Về giải pháp một, theo t́nh h́nh lúc đó, toàn bộ vùng Lai Khê, An Lộc chỉ có đơn độc một sư đoàn 5 chống giữ, hiện đang phải đương đầu với các Công Trường 5, 7 và 9 của Cộng quân. V́ vậy, ngay cả việc giữ an ninh trục lộ huyết mạch 13 cũng c̣n khó khăn, chưa đủ quân số, nói chi đến việc mở đường tới tận Tống Lê Chân để tăng viện? Hơn nữa, dù một sư đoàn có thể đảm đương trọng trách tiếp viện, nhưng kiếm đâu ra sư đoàn này trong lúc các đại đơn vị QLVNCH tuy đă phải phân tán rất mỏng nhưng cũng vẫn chưa đủ để trám vào những vùng quan trọng Hoa Kỳ vừa rút quân để lại?

    Như vậy, giải pháp 1 coi như không thể thực hiện được. Nhưng nếu giải pháp 1 bất thành v́ lư do quân sự th́ giải pháp 2 cũng thiếu thực tế v́ lư do chính trị. Nếu “bàn giao” Tống Lê Chân cho Cộng quân, hậu quả tai hại về chính trị sẽ không thể lường được. Quân và dân Miền Nam sẽ vô cùng hoang mang. Tổng Thống Thiệu sẽ rất khó ăn khó nói v́ mới hô hào “dành dân chiếm đất” trước đây không lâu. Vả lại, nếu giao Tống Lê Chân cho Cộng Quân, việc này có thể sẽ trở thành tiền lệ đưa tới nhiều cuộc bàn giao kiểu Tống Lê Chân khác.

    Do đó, tuy đề nghị ba giải pháp, nhưng tướng Thuần biết rỏ chỉ c̣n một con đường khả trợ duy nhất: đó là cho phép TĐ 92 BĐQ rút khỏi Tống Chân. Nhưng quyết định rút bỏ này không phải là không có hậu quả nghiêm trọng về quân sự cũng như chính trị. Hơn nữa, việc rút quân qua ṿng vây trùng điệp của Cộng Quân cũng không phải là điều dễ dàng. Chính v́ những lư do này mà BTL/QĐ III phải hội ư trước với Bộ TTM. Rất có thể, ngay Bộ TTM cũng không quyết định được, mà việc rút quân phải do chính Tổng Thống cho phép.

    Trong khi chờ đợi quyết định dứt khoát từ trung ương, t́nh h́nh tại Tống Lê Chân trở nên hết sức căng thẳng và sôi động từng giờ, từ trầm trọng đến nguy kịch. Bị bao vây cả năm trời, thiếu lương thực, thiếu đạn dược, quân số hao hụt, thương binh ngày càng nhiều không được di tản, bị pháo liên miên, đặc công đánh phá ngày đêm … khiến TĐ 92 BĐQ ngày càng suy yếu. Tuy nhiên, các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn kiên cường giữ vững căn cứ bằng mọi giá. Và cuộc bao vây dài nhất trong quân sử vẫn tiếp tục.

    Tử Thủ Đến Cùng

    Để giảm bớt phần nào áp lực vô cùng nặng nề của khoảng 3 Sư Đoàn địch quanh Tống Lê Chân, vào ngày 23/7/74, phi cơ của Không Quân VNCH bay trên 30 phi vụ dội bom vào các vị trí Cộng Quân trên trận địa. Nhưng pḥng không địch rất dầy đặc nên phi cơ oanh tạc không mấy hiệu quả. Ngoài ra, lực lượng địch quá đông nên chúng vẫn không chịu rút lui để tránh thiệt hại mà ngược lại c̣n gia tăng cường độ tấn công để sớm thanh toán mục tiêu.

    Trong khoảng thời gian liên tiếp 3 ngày từ 22 đến 24/3/74, Cộng Quân dùng đủ loại đại pháo 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, súng cối 82 ly v.v… nă hơn 1,000 quả đạn vào tiền đồn Tống Lê Chân nhỏ bé, nơi có khoảng 300 chiến sĩ TĐ 92 BĐQ đang bị vây hăm. Tuy phi cơ được gọi đến oanh kích và thả trái sáng yểm trợ, nhưng hỏa lực pḥng không vô cùng dữ dội của Sư Đoàn Pḥng Không 377 địch với các loại hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7, đại bác 57 ly, 37 ly và thượng liên đă đan một màn lưới lửa đầy đặc quanh Tống Lê Chân khiến mọi hoạt động của phi cơ đều vô h́ệu. Bên trong trại, các chiến sĩ Mũ Nâu chỉ c̣n cách co ḿnh chịu pháo. Nhiều công sự pḥng thủ cũng như vị trí chiến đấu bị hư hại v́ cơn mưa pháo. Tuy nhiên, Trung Tá Lê Văn Ngôn, vị Tiểu Đoàn Trưỏng, tuy mới có 25 tuổi nhưng dầy dạn kinh nhiệm chiến trường vẫn b́nh tĩnh đôn đốc và ra lệnh cho binh sĩ trực thuộc chuẩn bị phản công sau mỗi đợt pháo kích. Quả nhiên, liên tiếp trong 2 đêm 21 và 22/3/74, sau khi “tiền pháo”, khoảng một trung đoàn bộ binh địch “hậu xung” dữ dội cả bốn phía định san bằng tiền đốn nhỏ bé bị vây hăm đă lâu ngày. Nhưng TĐ 92 BĐQ bắn trả dữ dội, tuy đạn dược khan hiếm nhưng họ tác xạ rất chính xác, đẩy lui nhiều đợt tấn công biển người. Có lúc v́ Cộng Quân quá đông, các chiến sĩ Mũ Nâu bắn không xuể nên một số đă lọt vào lớp hàng rào pḥng thủ. Nhiều trận cận chiến bằng lựu đạn diễn ra ác liệt. Quân trú pḥng được lợi thế v́ trú ẩn trong các hầm hố kiên cố nên đă gây thiệt hại nặng cho địch quân. Cuối cùng, trước tinh thần chiến đấu dũng mănh và can trường của TĐ 92 BĐQ, địch đành ôm hận rút rui để lại nhiều xác đồng bọn và đủ loại vũ khí.

    Tuy vẫn giữ vững được vị trí nhưng t́nh trạng bên trong căn cứ vô cùng bi đát. Thương binh mỗi lúc một nhiều thêm v́ không được tản thương. Đạn dược gần cạn v́ các trận đánh liên tục, lương thực thiếu thốn v́ không được tiếp tế đă nhiều ngày, ngay cả đên nước uống cũng khan hiếm. Hơn nữa, sau mỗi đợt tấn công bị thất bại, Cộng Quân lại điên cuồng pháo kích dữ dội hơn.

    Trước t́nh thế nguy ngập như chỉ mành treo chuông, Trung Tá Ngôn biết rơ nếu không được tản thương, tăng viện, yểm trợ và tiếp tế hữu hiệu ngay tức khắc, việc giữ Tống Lê Chân hầu như không thể làm nổi. Trong lúc đó, biết được t́nh trạng cực kỳ bi đát của quân trú pḥng, Cộng Quân chung quanh đồn dùng loa phóng thanh uy hiếp tinh thần và kêu gọi TĐ 92 BĐQ đầu hàng. Nhưng Trung Tá Ngôn vẫn không rối trí. Một mặt ông ra lệnh cho các binh sĩ bố pḥng chặt chẽ để nhất định đánh tới người cuối cùng. Mặt khác, ông gửi công điện khẩn cấp cho Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn, CHT Liên Đoàn 3 BĐQ tại An Lộc yêu cầu thả dù tiếp tế gấp khí giới, đạn dược và lương thực cho quân trú pḥng. Trung Tá Ngôn cũng yêu cầu gửi quân tiếp viện và gia tăng sự yểm trợ của phi cơ. Nhưng các phi cơ dù liều lĩnh cũng không thể nào bay qua được hàng rào pḥng không và quân tiếp viện cũng chẳng bao giờ tới. Tuy nhiên, dù trong t́nh trạng tuyệt vọng, các chiến sĩ anh dũng của TĐ 92 BĐQ vẫn nhất quyết không hàng địch. Trung Tá Ngôn c̣n cho biết nếu bị địch tràn ngập, ông sẽ yêu cầu dội bom phá hủy Tống Lê Chân để cùng chết với địch quân.
    Last edited by alamit; 15-08-2012 at 04:14 AM.

  7. #97
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Trận chiến Tống Lê Chân 1973 - Tiền Đồn Quá Xa
    P2



    Trần Đỗ Cẩm




    Trong khoảng thời gian liên tiếp 3 ngày từ 22 đến 24/3/74, Cộng Quân dùng đủ loại đại pháo 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, súng cối 82 ly v.v… nă hơn 1,000 quả đạn vào tiền đồn Tống Lê Chân nhỏ bé, nơi có khoảng 300 chiến sĩ TĐ 92 BĐQ đang bị vây hăm. Tuy phi cơ được gọi đến oanh kích và thả trái sáng yểm trợ, nhưng hỏa lực pḥng không vô cùng dữ dội của Sư Đoàn Pḥng Không 377 địch với các loại hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7, đại bác 57 ly, 37 ly và thượng liên đă đan một màn lưới lửa đầy đặc quanh Tống Lê Chân khiến mọi hoạt động của phi cơ đều vô h́ệu. Bên trong trại, các chiến sĩ Mũ Nâu chỉ c̣n cách co ḿnh chịu pháo. Nhiều công sự pḥng thủ cũng như vị trí chiến đấu bị hư hại v́ cơn mưa pháo. Tuy nhiên, Trung Tá Lê Văn Ngôn, vị Tiểu Đoàn Trưỏng, tuy mới có 25 tuổi nhưng dầy dạn kinh nhiệm chiến trường vẫn b́nh tĩnh đôn đốc và ra lệnh cho binh sĩ trực thuộc chuẩn bị phản công sau mỗi đợt pháo kích. Quả nhiên, liên tiếp trong 2 đêm 21 và 22/3/74, sau khi “tiền pháo”, khoảng một trung đoàn bộ binh địch “hậu xung” dữ dội cả bốn phía định san bằng tiền đốn nhỏ bé bị vây hăm đă lâu ngày. Nhưng TĐ 92 BĐQ bắn trả dữ dội, tuy đạn dược khan hiếm nhưng họ tác xạ rất chính xác, đẩy lui nhiều đợt tấn công biển người. Có lúc v́ Cộng Quân quá đông, các chiến sĩ Mũ Nâu bắn không xuể nên một số đă lọt vào lớp hàng rào pḥng thủ. Nhiều trận cận chiến bằng lựu đạn diễn ra ác liệt. Quân trú pḥng được lợi thế v́ trú ẩn trong các hầm hố kiên cố nên đă gây thiệt hại nặng cho địch quân. Cuối cùng, trước tinh thần chiến đấu dũng mănh và can trường của TĐ 92 BĐQ, địch đành ôm hận rút rui để lại nhiều xác đồng bọn và đủ loại vũ khí.

    Tuy vẫn giữ vững được vị trí nhưng t́nh trạng bên trong căn cứ vô cùng bi đát. Thương binh mỗi lúc một nhiều thêm v́ không được tản thương. Đạn dược gần cạn v́ các trận đánh liên tục, lương thực thiếu thốn v́ không được tiếp tế đă nhiều ngày, ngay cả đên nước uống cũng khan hiếm. Hơn nữa, sau mỗi đợt tấn công bị thất bại, Cộng Quân lại điên cuồng pháo kích dữ dội hơn.


    Biệt động quân Việt Nam

    Trước t́nh thế nguy ngập như chỉ mành treo chuông, Trung Tá Ngôn biết rơ nếu không được tản thương, tăng viện, yểm trợ và tiếp tế hữu hiệu ngay tức khắc, việc giữ Tống Lê Chân hầu như không thể làm nổi. Trong lúc đó, biết được t́nh trạng cực kỳ bi đát của quân trú pḥng, Cộng Quân chung quanh đồn dùng loa phóng thanh uy hiếp tinh thần và kêu gọi TĐ 92 BĐQ đầu hàng. Nhưng Trung Tá Ngôn vẫn không rối trí. Một mặt ông ra lệnh cho các binh sĩ bố pḥng chặt chẽ để nhất định đánh tới người cuối cùng. Mặt khác, ông gửi công điện khẩn cấp cho Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn, CHT Liên Đoàn 3 BĐQ tại An Lộc yêu cầu thả dù tiếp tế gấp khí giới, đạn dược và lương thực cho quân trú pḥng. Trung Tá Ngôn cũng yêu cầu gửi quân tiếp viện và gia tăng sự yểm trợ của phi cơ. Nhưng các phi cơ dù liều lĩnh cũng không thể nào bay qua được hàng rào pḥng không và quân tiếp viện cũng chẳng bao giờ tới. Tuy nhiên, dù trong t́nh trạng tuyệt vọng, các chiến sĩ anh dũng của TĐ 92 BĐQ vẫn nhất quyết không hàng địch. Trung Tá Ngôn c̣n cho biết nếu bị địch tràn ngập, ông sẽ yêu cầu dội bom phá hủy Tống Lê Chân để cùng chết với địch quân.

    Nhận được công điện cầu cứu của TĐ 92 BĐQ, Đại Tá Chuẩn lập tức chuyển lời yêu cầu tiếp viện lên BTL/QĐ II. Nhưng Tướng Thuần cho biết vẫn chưa nhận được chỉ thị nào của Bộ TTM về đề nghị tăng viện hay di tản căn cứ! Trong lúc Tống Lê Chân như ngọn đèn leo lét trước trận cuồng phong, có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào, nhưng lệnh trên vẫn là “chờ”!

    Cho tới giờ phút này, quân số tại Tống Lê Chân gồm có 254 BĐQ, 4 binh sĩ Pháo Binh, 12 lao công chiến trường và 7 nhân viên phi hành đoàn trực thăng bị bắn rơi. Tuy tổng cộng gần 300 nhân mạng nhưng thật sự hầu hết trong số này đă bị thương ít nhất một lần. Hơn nữa, bị vây hăm lâu ngày trong t́nh trạng thiếu thốn nên khả năng chiến đấu đă bị yếu đi rất nhiều.

    Về phía Cộng Quân, tuy đă bị thiệt hại rất nặng nhưng lại được tăng viện và bổ xung nhanh chóng từ các an toàn khu bên Cam Bốt nên sức mạnh coi như không suy giảm. Trong lúc chỉnh đốn hàng ngũ, địch ngơi tấn công nhưng vẫn pháo kích dữ dội. Rút kinh nghiệm những trận tấn công trước đă bị thất bại chua cay, Cộng quân biết tuy TĐ 92 BĐQ sẽ chiến đấu cho đến phút chót nhưng như cá nằm trong rọ nên chúng thong thả nghỉ ngơi dưỡng quân, cố ư để quân trú pḥng kiệt quệ tới mức tối đa mới tấn công dứt điểm để đỡ bị thiệt hại. Và chuyện phải đến đă đến!

    Những Đợt Cường Tập Liên Tiếp

    Ṛng ră trong các đêm 24, 25 và 26/3/74, Cộng quân sau khi bổ xung đầy đủ đă ĺên tiếp mở những đợt xung phong biển người ồ ạt quyết san bằng Tống Lê Chân. Tuy đă gần kiệt sức, các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn cắn răng chờ địch trong những giao thông hào đổ nát v́ đạn pháo kích. Trung tá Ngôn và các cấp chỉ huy cũng sát cánh trong các công sự pḥng thủ với thuộc cấp, ra lệnh phải tiết kiệm từng viên đạn, chỉ được bắn khi thật “chắc ăn”. Giá của mỗi viên đạn phải là một quân thù. Rồi hàng hàng lớp lớp Cộng Quân tràn tới giữa tiếng ḥ la man đại “hàng sống, chống chết”! Đúng lúc này, các chiến sĩ BĐQ mới cắn răng xiết chặt c̣ súng. Địch đă xâm nhập hàng rào kẽm gai pḥng thủ ngoài cùng, nhưng lập tức bị khựng lại v́ gắp phải bức tường lửa từ trong bắn ra rất chính xác. Xác địch chồng chất trên trận địa hay vất vưởng trên hàng rào kẽm gai. Nhưng địch quá đông, nhất định “dứt điểm” nên chúng vẫn liều lĩnh xung phong. Chẳng bao lâu, chúng tràn tới hàng rào thứ hai. Lúc này một loạt ḿn “Claymore” nổ tung khiến nhiều xác giặc tan thành mảnh vụn. Tiếng súng nổ, tiếng la hét cùng với mùi thịt, mùi máu, mùi thuốc súng tạo nên một khung cảnh khủng khiếp. Nhiều chiến sĩ BĐQ quá mệt mỏi và căng thẳng gần như ngất xỉu v́ những trận tấn công liên tiếp đêm này qua đêm khác nhưng vẫn không rời tay súng.

    Địch quân quá đông, lớp này chết, lớp khác đạp lên xác đồng bạn tiến tới. Trong đêm tối, phi cơ không thể yểm trợ hỏa lực; dù có ban ngày đi nữa cũng khó bay qua màng lưới pḥng không. Trên bầu trời đen kịt, chỉ có vài đóm hỏa châu do phi cơ bay thật cao thả xuống, không đủ soi sánh trận địa, trông leo lét và mong manh như số phận của gần 300 chiến sĩ đang tử chiến với quân thù. Địch đă tràn gần tới hàng rào pḥng thủ sau cùng, đôi bên giáp mặt. Các chiến sĩ Mũ Nâu buông những cây súng đỏ ṇng, với tay t́m lựu đạn. Nhiều tiếng nổ chát chúa giúp hàng loạt những con thiêu thân thực hiện lời thề “sinh Bắc tử Nam”. Lại một loạt lựu đạn thứ hai tung ra giết hết những tên địch c̣n sống sót trong đợt xung phong này. Bên ngoài hàng rào, không c̣n những bóng người đầu đội nón cối, chân đi dép râu di động như trước. Sau đó, mặt trận bỗng nhiên im bặt không c̣n những tiếng la hét hô xung phong man dại. Những tên địch ngoài xa may mắn c̣n sống sót biết không thể xâm nhập căn cứ nên vội vă lẩn vào bóng đêm. Đợt xung phong cuối cùng của địch đă bị chận đứng tuy chúng đă lọt được gần tới hàng rào pḥng thủ sau cùng.

    Một lần nữa, Cộng Quân tuy đông hơn nhưng lại bị thất bại chua cay trước sự quả cảm và tinh thần chiến đấu gan dạ vô song của các chiến sĩ TĐ 92 BĐQ. Cùng với lời nguyền “Thà chết không hàng giặc”, căn cứ Tống Lê Chân tuy tan nát như TĐ 92 đang tan nát, nhưng vẫn đứng vững như một phép lạ. Vỏn vẹn một Tiểu Đoàn QLVNCH vẫn giữ vững được vị trí sau khi bị bao vây hàng năm trời với nhiều đột tấn công của hàng Sư Đoàn địch? Các “cố vấn” Hoa Kỳ c̣n sót lại tại BTL/QĐ III đă vô cùng kinh ngạc. Trước đây họ đă cho rằng số phận của Tống Lê Chân coi như đă “xong”, v́ theo ước tính của những người lạc quan nhất, ngay cả quân đội Hoa Kỳ với hỏa lực khủng khiếp của thảm bom “Arc Light” B-52 và đại pháo 175 cũng khó ḷng giữ nổi Tống Lê Chân trong ṿng vài ba tuần. Phía Công quân lại càng sững sờ v́ chúng tưởng sẽ ăn tươi miếng mồi béo bở nhưng lại gặp phải cục xương khó nuốt. Sau nhiều cuộc tấn công thất bại và bị thiệt hại nặng nề, chúng đành ôm hận, lập lại sa bàn trận địa, bổ sung quân số, rút ưu khuyết điểm chờ ngày rửa hận.

    Trong những ngày kế tiếp và suốt tuần lễ đầu tiên của tháng 4/74,Cộng Quân không giám tấn công mạnh vào Tống Lê Chân. Chúng chỉ dùng đặc công quấy rối nhưng mức độ pháo kích vẫn không giảm. Nhưng “mănh hổ nan địch quần hồ”, các chiến sĩ Mũ Nâu đă không c̣n sức chiến đấu. Đến lúc này, thượng cấp vẫn chưa có quyết định dứt khoát về việc tăng viện hay rút bỏ Tống Lê Chân. Cả Phủ Tổng Thống, Bộ TTM lẫn BTL/QĐ III đều lâm vào thế “tiến thối lưỡng nan” không có cách nào giải quyết vấn đề. Sau 17 tháng trời ṛng ră bị vây hăm, pháo kích và tấn công liên miên TĐ 92 BĐQ hầu như không c̣n phương cách nào để thoát khỏi viễn ảnh bị tiêu diệt.

    Trận Đánh Sau Cùng Của TĐ 92 BĐQ

    Nhưng t́nh trạng tạm thời sống lây lất không c̣n kéo dài được bao lâu. Tống Lê Chân như một con cá phơi ḿnh trên thớt không c̣n phương cách tự vệ, nằm chờ lưỡi dao chém xuống. Và lưỡi dao đă rơi …

    Ngày 11/4/74, sau khi tái điều nghiên, bổ xung lực lượng, Cộng quân mở những cuộc tấn công ác liệt quyết đạt được chiến thắng bằng mọi giá. Trong ngày chúng pháo kích mù mịt không dưới 1,000 quả đạn vào căn cứ đă tan nát trong các cuộc tấn công trước. TĐ 92 BĐQ lúc này đă kiệt lực, hết đạn, một số lớn binh sĩ lại bị thương nên không c̣n sức chống trả những đột tấn công mănh liệt của đối phương. Nhưng dù t́nh thế đă đến lúc tuyệt vọng nhưng Trung Tá Ngôn vẫn không ra lệnh rời bỏ căn cứ khi chưa có lệnh của thượng cấp. Trước những loạt đạn pháo kích chính xác và các đợt tấn công biển người, vị TĐT anh hùng biết chắc không thể nào pḥng thủ được nữa nên khẩn cấp yêu cầu thượng cấp cho lệnh di tản trước khi căn cứ bị địch quân tràn ngập. Trung Tướng Thuần, Tư Lệnh QD III – không rơ có tham khảo ư kiến của Bộ TTM hay Phủ Tổng Thống hay không – ra lệnh cho Trung Tá Ngôn phải “tử thủ bằng mọi giá”!

    Nhưng TĐ 92 BĐQ sau hơn một năm trời bị vây hăm, bị pháo kích và tấn công liên miên bởi một lực lương địch quân đầy đủ vũ khí và đông hơn nhiều lần, lại thiếu đạn dược, lương thực, quân số hao hụt không được bổ xung nên đă chẳng c̣n giá nào để trả! Các chiến sĩ Mũ Nâu không c̣n nhiều chọn lựa: ở lại căn cứ chắc chắn sẽ bị chết hay bị bắt hết v́ không c̣n cách nào ngăn chận địch quân hoặc đầu hàng để t́m con đường sống. Nhưng theo truyền thống hào hùng của binh chủng Mũ Nâu, dù trong lúc thập tử nhất sinh cũng vẫn không hàng địch. Trung Tá Ngôn đă đưa ra một quyết định vô cùng táo bạo: dùng toàn lực phá ṿng vây, rời bỏ căn cứ, tuy có thể bị chết hết nhưng may ra sẽ đưa đơn vị tới một nơi an toàn.

    Sau khi quyết định xong, vào khoảng nửa đêm 11/4, căn cứ Tống Lê Chân báo cáo nguy cơ sắp bị địch quân tràn ngập. Sau đó, mọi giấy tờ, tài liệu quan trọng đă được thiêu hủy đúng theo kế hoạch di tản để không bị lọt vào tay địch. Lúc dó, chỉ có phi cơ bay thật cao thả hỏa châu yểm trợ. TĐ 92 BĐQ yêu cầu phi cơ ngưng thả trái sáng để đơn vị nương theo bóng tối rời bỏ căn cứ. Dưới sự chỉ huy gan dạ của vị TĐTtrẻ tuổi vả tinh thần kỷ luật của toàn thể binh sĩ, TĐ 92 BĐQ đă di tản trong ṿng trật tự, mang theo tất cả những thương binh. Liên lạc vô tuyến với BTL/QĐ III bị gián đoạn ngay sau đó.

    Măi tới 9 giờ sáng ngày hôm sau 12/4, BTL/QĐ III mới bắt được liên lạc với TĐ 92 BĐQ trên tần số hành quân lúc đó đă rời khỏi Tống Lê Chân đang trên đường di chuyển về hướng An Lộc, khoảng trên 15 cây số về hướng Đông Bắc. Cuộc hành tŕnh xuyên qua rừng rậm dưới sự ŕnh rập của Cộng Quân, lại phải mang theo nhiều thương binh nên vô cùng gian nan vất vả. Suốt đêm, Tiểu Đoàn 92 BĐQ phải kịch chiến với địch, vừa đánh vừa t́m đường rút lui khiến thêm 14 binh sĩ tử thương, 34 người nữa bị thương. Cuối cùng, may mắn như một phép lạ, TĐ 92 BĐQ tới được An Lộc tương đối an toàn, chỉ có thêm 4 chiến sĩ can đảm ở lại chận đường truy kích của địch quân để thành phần chủ lực rút lui anh dũng hy sinh. Tất cả các thương binh, kể cả xác chết của những người bị thiệt mạng đều được mang về.

    Biệt Động Quân: Sát!

    Nh́n chung, Tống Lê Chân chỉ là một tiền đồn nơi đèo heo hút gió gần biên giới Việt – Miên không được nhiều người biết đến. TĐ 92 BĐQ lại là một đơn vị tương đối trẻ trung mới được thành lập từ năm 1970. Vị TĐT, Trung Tá Lê Văn Ngôn, con Cọp đầu đàn của TĐ 92 BĐQ cũng là một sĩ quan rất trẻ mới 25 tuổi, xuất thân khóa 21 Vơ Bị Đà Lạt. Trận đánh tại Tống Lê Chân cũng không phải là một cuộc đụng độ lớn. Cuối cùng, Tống Lê Chân lại rơi vào tay địch.

    Như vậy, về mặt quân sự, rơ ràng trận đánh tại Tống Lê Chân cũng chỉ “tầm thường” như những trận đánh cùng tầm cỡ khác, kết thúc bằng việc quân trú pḥng phải di tản. Tuy nhiên, về phương diện tinh thần chiến đấu và sức chịu đựng phi thường của các chiến sĩ Mũ Nâu, Tống Lê Chân đă vượt xa những trận đánh lớn nhỏ khác trong quân sử với nhiều điểm rất đặc biệt. Đây là cuộc bao vây lâu dài nhất trong quân sử, một trận dánh trong chiến cuộc Việt Nam mà lực lượng đôi bên chênh lệch nhất và sau cùng, một cuộc lui binh thần t́nh nhất do một vị TĐT trẻ tuổi nhất, can trường nhất chỉ huy.

    Cuộc Bao Vây Dài Nhất Trong Quân Sử

    Kể từ khi trại Tống Lê Chân bị Cộng Quân khởi sự uy hiếp vào năm 1972 cho tới khi TĐ 92 BĐQ phải di tản vào tháng 4 năm 1974, căn cứ đă bị bao vậy ṛng ră 17 tháng trời! Ṿng vây của địch vô cùng chặt chẽ khiến “Nôi bất xuất, ngoại bất nhập”, kể cả đường hàng không. Chẳng những việc gửi quân tăng viện, tản thương và tiếp đạn dược, lương thực v.v… đều bị giới hạn nhỏ giọt mà ngay cả đến cặp lon Trung Tá thăng cấp đặc cách ngoài mặt trận của TĐT Lê Văn Ngôn cũng phải thả dù vào trong trại, không có người gắn lon và việc “rửa lon” truyền thống của nhà binh có lẽ đă được thực hiện bằng máu của Cộng quân. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến chiếc lon thăng cấp của Đại Tá De Castries, người hùng cùa đoàn quân viễn chinh Pháp tại Điện Biên Phủ vào năm 1954 cũng đă được thả dù vào khu ḷng chảo. Nhưng De Castries trước kia đă không quá cô đơn và bị bao vây ngột ngạt như Lê Văn Ngôn tại Tống Lê Chân v́ ít ra cũng có một số quân nhẩy dù tăng viện. Ngoài ra, De Castries c̣ có những “nàng hầu” thân yêu như Béatrice, Éliane, Huguette, Dominique để … tâm sự. C̣n Lê Văn Ngôn và TĐ 92 BĐQ chỉ có độc nhất một quả đồi trơ trụi với ṿng cao độ không quá 50 thước trên bản đồ UTM, một vị trí vuông vức mỗi bề không quá 300 thước để sống chết ôm ấp ṛng ră gần một năm rưỡi trời! Cuộc bao vây ngặt nghèo tới nỗi vào những ngày tháng chót, cả đến việc thả dù tiếp tế cũng bị gián đoạn, c̣n nói ǵ đến việc tản thương hay tiếp viện bằng trực thăng.

    Về các cuộc bao vây nổi tiếng khác trong chiến sử, Điện Biên trước kia cũng chỉ kéo dài 57 ngày. Địa ngục Khe Sanh, niềm tự hào của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ cũng chỉ bị bao vây dăm ba tháng, nhưng với thảm bom dầy đặc đêm ngày của B-52, và lúc nào cũng có ba tầng phi cơ chiến thuật chờ sẵn trên không để dội bom, binh sĩ trú pḥng coi như được đi nghỉ mát dưỡng quân theo tiêu chuẩn lính Việt Nam, v́ họ không thiếu một thứ ǵ, kể cả nuớc đá để uống giải khát! Trong kỳ đệ nhị thế chiến, Stalingrad lừng danh cũng chỉ bị quân Đức bao vây gần ba tháng. Tobruk của người Anh cũng chỉ cần tử thủ hơn 8 tháng. C̣n Tống Lê Chân? Suốt 17 tháng truờng ṛng ră trong những điều kiện tăng viện và tiếp vận khó khăn nhất. Như vậy, sức chịu đựng của người lính VNCH phải được coi là bền bỉ siêu đẳng vô địch.

    Lực Lượng Chênh Lệch Một Trời Một Vực

    Về tương quan lực lượng đôi bên, khi xảy ra trận đánh tại Tống Lê Chân, phía Cộng quân có các Sư Đoàn 5, 7 và 9 cùng Sư Đoàn Pháo Pḥng Không 377 tân lập, cộng thêm dăm ba Tiểu Đoàn địa phương và đặc công “lẻ tẻ”. Tuy Công Trường 5 đă bị thiệt hại khá nặng trong những cuộc hành quân vượt biên đánh sang vùng Lưỡi câu – Mỏ Vẹt trước đây của QLVNCH, nhưng đă được tăng viện nhanh chóng và thường lẩn quất tại vùng biên giới để uy hiếp các trại BĐQ Biên Pḥng. Ngoài ra, Công Trường 7 cùng với Tiểu Đoàn Pháo 22 và Tiểu Đoàn Đặc Công 28, sau khi tràn ngập các căn cứ Chí Linh nẳn trên Liên Tỉnh Lộ 13 giữa Chơn Thành và Đôn Luân, cũng đè nặng áp lực trên quăng đường bộ từ Lai Khê đến An Lộc Riêng Công Trường 9 của Cộng Quân với 3 Trung Đoàn c̣n đầy đủ quân số vừa từ Cam Bốt xâm nhập được dùng làm mũi dùi tiến công chính đánh Tống Lê Chân, sau khi đă buộc các trại BĐQ Biên Pḥng khác như Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập phải di tản.

    Tống Lê Chân là căn cứ biên pḥng duy nhất c̣n lại trong vùng v́ tất cả binh sĩ đều t́nh nguyện ở lại giữ trại. TĐ 92 BĐQ với quân số vỏn vẹn khoảng 300 người, đă bị hàng sư đoàn địch quân thay nhau tấn công và vây hăm hàng năm trời không được tăng viện. Thế mà các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn anh dũng bền gan chiến đấu, nhất định không hàng địch! Đây quả là một thành tích phi thường ngoài sức tưởng tượng!

    Cuộc Lui Binh Thần T́nh

    Sau gần một năm rưỡi trời giữa ṿng vây trùng điệp, lại bị tấn công liên miên, đương nhiên TĐ 92 BĐQ phải kiệt sức. Cho tới khi t́nh trạng tuyệt vọng, đơn vị chỉ c̣n đường rút lui để bảo toàn lực lượng nhưng cũng không quên dùng chất nổ phá hủy doanh trại, không để lọt vào tay Công Quân. Sau đó, tuy bị truy kích, nhưng các con Cọp Rừng Mũ Nâu đă về được tới An Lộc với tổn thất nhẹ không ngờ: trong số 277 binh sĩ gồm nhiều thương binh, một số lớn đă về được An Lộc. Đây là một thành quả quá sức mong đợi cho một cuộc hành quân lui binh sâu trong ḷng địch. Với tài chỉ huy khôn khéo, tinh thần kỷ luật và sức chiến đấu bền bỉ gan dạ, các chiến TĐ 92 BĐQ đă làm nhiều người ngạc nhiên và thán phục khi rút quân thành công trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, bi đát.

    Cuộc lui quân thành công ngoài sức tưởng tượng này đă khiến dư luận phía Hoa Kỳ nghi ngờ rằng TĐ 92 BĐQ đă “thương lượng” với Cộng Quân, bằng ḷng bàn giao căn cứ Tống Lê Chân để đổi lấy việc rút lui an toàn. Quả thật, việc TĐ 92 BĐQ phá được ṿng vây về được đến An Lộc phải coi như một phép lạ nên “dư luận” thương thuyết không phải là không có lư. Vả lại, đây cũng là một trong ba giải pháp mà BTL/QĐ III đă đề nghị lên thượng cấp cách đó không lâu. Ngoài ra, rất có thể những lời đồn đại nói trên là do Cộng Quân tung ra để đỡ bị mất mặt v́ TĐ 92 BĐQ đă vượt khỏi ṿng vây như chỗ không người.

    Thật sự, TĐ 92 BĐQ đă chỉ giết giặc chứ không bao giờ thương lượng với chúng và cuộc rút lui thành công v́ tinh thần kỷ luật cũng như khả năng chiến đấu tuyệt vời của các chiến sĩ Mũ Nâu. Bằng cớ xác thực nhất là chính những tài liệu bắt được sau đó tại mặt trận cùng những lời khai của tù hàng binh Cộng Quân đă cho thấy không hề có chuyện “thương lượng”. Một hồi chánh viên tham dự trận đánh sau cùng vào đêm 12/4 tại Tống Lê Chân đă thuật lại khá chi tiết về biến cố này. Sau trận pháo kích dữ dội, bộ binh địch có chiến xa yểm trợ đă mở các cuộc tấn công mạnh. TĐ 92 BĐQ không c̣n đạn dược và nhất là không có vũ khí chống chiến xa nên bắt buộc phải rời bỏ vị trí. Tống Lê Chân bị bỏ ngỏ từ đêm 12/4 nhưng v́ hàng rào pḥng thủ quá kiên cố, lại có nhiều băi ḿn, hơn nữa Cộng quân sợ TĐ 92 BĐQ c̣n tử thủ sẽ gây cho chúng nhiều thiệt hại như những lần trước nên măi tới ngày 13/4 chúng mới vào được trại. Lúc đó, các chiến sĩ Mũ Nâu đă rời xa căn cứ trên đường về An Lộc. Tống Lê Chân đă bị đặt chất nổ phá hủy. Địch chỉ t́m thấy xác của 2 BĐQ và bắt sống một người khác.

    Một bằng chứng rơ ràng khác là bản báo cáo của Cộng quân bị QLVNCVH tịch thu. Tài liệu này tiết lộ một đơn vị Cộng Quân có nhiệm vụ chặn đường rút lui của TĐ 92 BĐQ đă bất tuân thượng lệnh, không bố trí quân tại những vị trí đă ấn định v́ sợ bị phi pháo VNCH tiêu diệt. Cuối cùng, bản báo cáo c̣n đưa ra nhận xét rằng trong trận đánh tại Tống Lê Chân, tinh thần binh sĩ TĐ 92 BĐQ rất cao, c̣n cao hơn cả nhiều đơn vị chính qui của Cộng Quân có nhiệm vụ tấn công.

    Đường Vào Lịch Sử

    Trận đánh tại Tống Lê Chân chính thức chấm dứt vào ngày 15 tháng 4 năm 1974 khi binh sĩ cuối cùng của TĐ 92 BĐQ về tới An Lộc. Trước đó, vào ngày 13/4, phi cơ của Không Quân VNCH đă bay 19 phi vụ thả bom đánh vào lực lượng Cộng Quân tại Tống Lê Chân. Tuy trận đánh đă chấm dứt từ lâu, nhưng qua cuộc bao vây dài nhất trong quân sử và cuộc lui binh thành công mỹ măn, huyền thoại của TĐ 92 BĐQ tại Tống Lê Chân vẫn sống măi. Các chiến sĩ Mũ Nâu dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Ngôn đă tô đậm một nét son cho truyền thống hào hùng của binh chủng Biệt Động Quân và viết một trang sử huy hoàng trong pho quân sử QLVNCH.

  8. #98
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Trận chiến Tống Lê Chân 1973 - Tiền Đồn Quá Xa
    P3




    Nguyễn văn Khiết, Australia (bietdongquan.com)

    Cùng với việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự cho Việt Nam và rút quân về nước, các đơn vị Dân Sự Chiến Đấu cũng được giải thể. Những người lính thuộc lực lượng này một số được cải tuyển sang Địa Phương Quân và một số đông hơn t́nh nguyện sang binh chủng Biệt Động Quân để phục vụ trong các tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Pḥng mới được thành lập để trấn giữ những căn cứ trước đó thuộc các toán Dân Sự Chiến Đấu.

    Tại Phước Long, Căn cứ Bù Đốp do A-341 trấn giữ được chuyển thành Tiểu Đoàn 97 Biệt Động Quân Biên Pḥng vào ngày 31 tháng Chạp 1970. Tại B́nh Long, Căn cứ Lộc Ninh của A-331 chuyển sang Tiểu đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Pḥng ngày 30 tháng Chín 1970 và cũng tại B́nh Long, ngày 31 tháng Mười Một 1970, đơn vị A-334 chính thức giải thể và Chỉ Huy Trưởng Căn cứ Tống Lê Chân là Thiếu tá Đặng Hưng Long chính thức bàn giao căn cứ cho Đại uư Lê Văn Ngôn, người chỉ huy đơn vị mới được thành lập để trấn giữ căn cứ này là Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng với quân số lúc đó là 318 người mà hơn một nửa là người Thượng thuộc sắc tộc S’tieng mang họ Điểu và một số khá đông là người Việt gốc Miên mang họ Châu, Danh và Thạch. Đại uư Lê Văn Ngôn xuất thân Khoá 21 Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, lúc đó chưa tṛn 24 tuổi.

    Nằm bên cạnh hai con suối Takon và Neron là thượng nguồn của Sông Sàig̣n và trên một ngọn đồi cao hơn 50 thước cách An Lộc khoảng 15 cây số về hướng đông-bắc, Tống Lê Chân (dọc trại từ tiếng Miên Tonlé Tchombe) có nhiệm vụ ngăn chặn đường tiếp tế của Việt Cộng từ Chiến khu C theo trục lộ 246 sang Chiến khu D. Vào thời điểm này, Tống Lê Chân ngoài căn cứ chính c̣n có thêm hai tiền đồn nhỏ nằm án ngữ đường tiến quân của địch vào trại chính. Với tham vọng thôn tính miền Nam cho bằng được, Trung Ương Cục R của Việt Cộng trong suốt 5 năm qua đă cho nhiều đơn vị của chúng thay phiên nhau đánh chiếm Tống Lê Chân để dễ dàng chuyển quân và vũ khí về các mặt trận phía đông Sài G̣n mà không bị cản trở nhưng không thành công mà c̣n phải trả những giá thật đắt trong những cuộc tấn công tự sát. Sau đi tung những đại đơn vị tấn công Lộc Ninh, An Lộc và một số vùng phụ cận trong tỉnh B́nh Long vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, cộng quân cho các lực lượng chính qui Bắc Việt tấn công Tống Lê Chân.

    Thật ra th́ ngay sau khi Công Trường 9 Cộng sản Bắc Việt tấn công vào Lộc Ninh, Việt Nam Cộng Hoà chúng ta đă nh́n thấy trước ư đồ của cộng quân nên Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu 3 quyết định cho Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng rút khỏi Tống Lê Chân để về An Lộc cùng với những đơn vị khác chuẩn bị đối đầu với đại quân Bắc Việt. Tuy nhiên, Đại úy Lê Văn Ngôn đă tŕnh lên Đại tá Nguyễn Thành Chuẩn, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu 3 khi ông ghé xuống đây vào những ngày đầu tháng Tư 1972 rằng có ba lư do để đơn vị này ở lại trấn giữ Tống Lê Chân. Thứ nhứt là dồn quá nhiều quân vào An Lộc để lănh đạn đại pháo của Việt Cộng là điều không nên (lúc đó, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân do Đại Tá Nguyễn Văn Biết chỉ huy đă nhảy vào An Lộc rồi). Thứ hai, Tống Lê Chân nằm trong chiến khu của địch, tại một vị trí giống như yết hầu đối với đường tiếp tế và chuyển quân của giặc và hơn nữa, từ trên đồi có thể quan sát được mọi di chuyển của địch ngay trong chiến khu của chúng. V́ thế, càng nên giữ căn cứ cho tới cùng để gây thêm khó khăn cho các hoạt động quân sự của chúng. Thứ ba là toàn thể quân nhân các cấp trong đơn vị muốn ở lại giữ Tống Lê Chân chớ không muốn rút đi. Kể từ lúc đó, một trang sử bi hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bắt đầu.


    Ngày 10 tháng Năm 1972, sau khi đặc công đă đột nhập vào bên trong ṿng đai pḥng thủ và bắt đầu phá hoại, đại quân Bắc Việt tổ chức nhiều đợt tấn công biển người có chiến xa yểm trợ nhưng lần lượt bị đẩy lui và chúng phải bỏ cuộc. Đại uư Lê Văn Ngôn được vinh thăng thiếu tá nhờ những chiến công liên tiếp này. Sau đó, An Lộc và các vùng phụ cận được giải toả, các lực lượng cộng quân c̣n sót lại tháo chạy qua biên giới về mật khu an toàn của chúng trong vùng Mỏ Vẹt và Lưỡi Câu. Tống Lê Chân được tạm yên một thời gian ngoại trừ những cuộc tấn công quấy rối và những vụ pháo kích lẻ tẻ vốn không đáng kể so với những trận mưa pháo và tấn công biển người liên tiếp trước đó. Sau Hiệp định Paris kư kết ngày 27 và có hiệu lực kể từ ngày 28 tháng Giêng 1973, giữa lúc Việt Nam Cộng Hoà, Việt Cộng và Cộng Sản Bắc Việt đang thực hiện các cuộc trao trả tù binh th́ Việt Cộng đem một lực lượng chính qui bao vây Tống Lê Chân, trắng trợn vi phạm hiệp định mà chính chúng đă kư kết.

    Ngày 17 tháng Ba, một phiên họp cấp trưởng đoàn của Ban Liên Hợp Quân Sư Bốn Bên (BLHQSBB) được triệu tập. Trưởng đoàn của Việt Cộng là tướng Trần Văn Trà biết t́nh h́nh không có lợi nên lánh mặt và cho Đại tá Đặng Văn Thu thay mặt tới tham dự. Tại phiên họp này, trưởng đoàn Việt Nam Cộng Hoà là Trung tướng Dư Quốc Đống đề nghị những biện pháp cấp bách gồm có việc cử ngay một tổ Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên đi Tống Lê Chân để điều tra vi phạm, nếu điều đó được thoả thuận tại hội nghị. Nếu hai phe cộng sản không thoả thuận th́ Hoa Kỳ, với tư cách chủ vị của BLHQSBB, sẽ yêu cầu Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát Đ́nh Chiến (1) (International Commission for Ceasefire and Supervision = ICCS) cử người đi điều tra và trong trường hợp này, Việt Cộng, tức cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam phải ra lệnh cho các đơn vị của chúng quanh Tống Lê Chân không được bắn lên phi cơ của ICCS khi họ tới đó.



    Đương nhiên là hai phái đoàn của cộng sản không đồng ư với biện pháp này nên t́m cách lảng sang chuyện khác. Đặng Văn Thu luôn mồm lảm nhảm rằng Việt Nam Cộng Hoà đă vi phạm (!) ngưng bắn ở Đức Cơ thuộc tỉnh Pleiku, Đức Phổ và Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngăi nên có lỗi chớ chúng không có lỗi. Bên phái đoàn Bắc Việt cũng lập lại như vẹt những lời của đám tay sai của chúng. Khi chúng ta bàn sang biện pháp thứ hai th́ chúng nhứt định không chịu để cho một phái đoàn của ICCS đi Tống Lê Chân điều tra và rồi cả hai tên đại diện cho bên cộng sản này “nhứt trí” với nhau bỏ pḥng họp ra về. Sau đó, chính bọn này đă thông báo cho hai thành viên của khối Cộng tại ICCS là Ba Lan và Hung Gia Lợi rằng nếu có văn thư Hoa Kỳ yêu cầu đi Tống Lê Chân điều tra th́ hăy từ chối với lư do ở nơi đó không được an ninh. Nghe Việt Cộng hù dọa như vậy, thử hỏi có phái đoàn nào c̣n đủ can đảm đáp trực thăng đi Tống Lê Chân để mà ăn đạn pḥng không dầy đặc của chúng. V́ vậy mà Tống Lê Chân cứ tiếp tục bị bao vây tháng này qua tháng khác và năm này qua năm khác.

    Khi Việt Cộng bắt đầu bao vây Tống Lê Chân th́ quân số của Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng chỉ có 274 quân nhân các cấp. Bao vây tấn công đơn vị cô độc này là các tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 271 (2) của Công trường 9 được tăng cường thêm các đội pḥng không của trung đoàn này và Trung đoàn 42 cùng với Tiểu đoàn 28 Pháo binh có trang bị đại bác 130 ly.

    Trong sáu tháng đầu Tống Lê Chân bị tấn công và bao vây, Không Quân Việt Nam Cộng Hoà đă thực hiện hơn 3 ngàn phi vụ yểm trợ và tiếp tế cho căn cứ này, thả xuống hơn 3 trăm kiện thực phẩm và tiếp liệu nhưng quân trú pḥng chỉ thu được 134 kiện và số c̣n lại rớt xuống các vị trí của địch. Cũng trong thời gian này, cộng quân pháo kích vào Tống Lê Chân hơn 3 trăm lần với khoảng 1300 trái đạn đủ loại. Chúng tấn công căn cứ này 11 lần và đặc công của chúng đột nhập vào được bên trong căn cứ chín lần nhưng không một tên nào sống sót chạy ra.

    Nhờ các đơn vị của Không Quân thay phiên nhau tích cực yểm trợ và tiếp tế, các chiến sĩ tử thủ Tống Lê Chân càng thêm tinh thần chiến đấu, không những đẩy lui được các đợt tấn công của cộng quân mà c̣n mở các cuộc hành quân ṿng đai, loại hàng chục tên ra khỏi ṿng chiến mỗi lần hành quân và phá hủy một súng pḥng không và một đại bác.

    Cho đến đầu tháng Bảy 1973 th́ quân số tại Tống Lê Chân chỉ c̣n 258 người kể cả 34 bị thương nặng nhẹ hoặc bị bịnh sốt rét không di tản được trong đó có một số vẫn tiếp tục chiến đấu với đồng đội. Bên địch, có thêm các lực lượng thuộc Trung đoàn 301 Chủ Lực Miền được cử đến tăng phái cho Trung đoàn 271. Thấy lực lượng tử thủ bị vây khốn đă nửa năm, giặc cộng tưởng tất cả đều không c̣n tinh thần chiến đấu nên cứ tối đến là chúng bắc loa vừa kêu gọi anh em ra đầu hàng vừa đem bom đạn ra hù doạ theo kiểu “hàng sống chống chết”. Chúng c̣n “tử tế” tới mức dặn ḍ kỹ lưỡng rằng “Anh Ngôn” hăy dẫn anh em ra chỗ này chỗ nọ để được “nhân dân đem về vùng hoà b́nh”.

    Việc Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng bị giặc cộng vây khốn suốt nửa năm trời đă gây được sự chú ư của dư luận quốc tế. Việt Cộng và Cộng Sản Bắc Việt thấy vậy ra vẻ làm theo lời yêu cầu của ICCS nhưng thật ra đây cũng chỉ là một hành động lừa dối trắng trợn của bọn chúng mà thôi. Chúng cử tên đại tá khét tiếng mất dạy Vơ Đông Giang (3) sang gặp Trưởng Phái đoàn Gia Nă Đại là Đại tá Lomis để cho biết là Việt Cộng đồng ư để cho ICCS đến Tống Lê Chân điều tra nhưng trước hết phải để cho Giang cử một đại diện đi trực thăng tới Tống Lê Chân liên lạc trước với các đơn vị của chúng tại đây để đề pḥng ngộ nhận. Sau đó, một tên đại diện của Việt Cộng đáp trực thăng đi B́nh Long nhưng thay v́ xuống Tống Lê Chân, tên này lại yêu cầu phi công đáp xuống một nơi cách Tống Lê Chân tới cả chục cây số gọi là Sóc Con Trăn mà theo lời của tên này thiø y phải liên lạc với “địa phương” trước. Tên này biến vào rừng một lúc lâu rồi trở ra, miệng lảm nhảm tố cáo rằng “bộ phận đường dây” của chúng đă bị Mỹ-Nguỵ giết hại hết rồi nên y không t́m được một ai. Sau đó, thay v́ trở về Biên Hoà để báo cáo cho Ban Liên Hợp Quân Sự Khu V, tên này lại yêu cầu trực thăng chở y về Sàig̣n. Việt Nam Cộng Hoà lại làm dữ nhưng chúng vẫn không thay đổi thái độ. Cuối cùng, trong một việc làm đầy tính cách giả nhân giả nghĩa, chúng cho phép trực thăng của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà đáp xuống Tống Lê Chân để di tản đúng 20 thương binh. Đây là lần duy nhất trong hai năm bị tấn công và vây hăm, trực thăng của Việt Nam Cộng Hoà đáp xuống Tống Lê Chân mà không bị pḥng không bắn lên cũng như đại bác pháo vào căn cứ. Sau đó, Việt Cộng lại tiếp tục bao vây, pháo kích và tấn công Căn cứ Tống Lê Chân.

    Khi Việt Nam Cộng Hoà tiếp tục tố cáo giặc cộng vi phạm Hiệp định Paris th́ chúng trơ tráo trả lời rằng việc pháo kích vào Tống Lê Chân là để cảnh cáo lính trong căn cứ liên tục lấn ra ngoài, xâm phạm vào “vùng giải phóng” của chúng (chỉ có hai trăm quân nhân c̣n đủ khả năng tác chiến th́ làm sao lấn nổi cả một sư đoàn của chúng?). Khi chúng ta khiếu nại về việc chúng dùng loa phóng thanh dụ các chiến sĩ trong căn cứ ra đầu hàng chúng th́ chúng trơ tráo nói rằng chúng chỉ giảng “đạo lư hiệp định Paris” cho “anh em lính Sàig̣n” nghe để anh em hiểu về “đạo lư hoà hợp hoà giải dân tộc” và rằng đó là “quyền lợi của anh em”.

    Sau hơn nửa năm trời chúng ta không ngừng khiếu nại, dư luận quốc tế cũng không c̣n chú tâm đến Tống Lê Chân nữa và Việt Cộng vẫn tiếp tục tấn công và pháo kích. Trong khi đó th́ những người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà nói chung và những người lính của Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng nói riêng c̣n bị thêm những nhát dao chí tử của ngay chính đồng bào của ḿnh. Những tay tu sĩ bội đạo phản đời như Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan luôn mồm chống phá chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Những tay dân biểu và nghị sĩ đối lập như Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường và Trương Gia Kỳ Sanh lợi dụng vị trí của ḿnh luôn mồm tiếp tay cho giặc. Hai phái đoàn Việt Cộng và Cộng Sản Bắc Việt đương nhiên là lợi dụng tối đa điều này và chúng luôn xem đó là những bằng chứng để tố cáo vu vơ và bôi xấu Việt Nam Cộng Hoà tại những phiên họp giữa hai bên hoặc bốn bên.

    Đầu năm 1974, giữa lúc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang điên đầu đối phó với chiến dịch gây rối đội lốt “phong trào chống tham nhũng” do Trần Hữu Thanh cầm đầu th́ tại Tống Lê Chân, Thiếu tá Lê Văn Ngôn được vinh thăng trung tá lúc mới 27 tuổi. Chẳng có một thượng cấp nào của ông tại Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu 3 lên Tống Lê Chân gắn lon cho ông cả mà chỉ có cặp lon trung tá được trực thăng thả xuống cùng với tiếp phẩm (4). Đúng lúc đó th́ xảy ra trận Hoàng Sa khiến người ta tạm quên mất Tống Lê Chân và Việt Cộng tung toàn lực của chúng tại đây đánh vào căn cứ với quyết tâm chiếm hoặc san bằng cho bằng được.

    Vào cuối tháng Giêng và đầu tháng Hai 1974, những tên chỉ huy cao cấp nhứt của Công trường 9 Cộng Sản Bắc Việt họp liên miên để rút ưu khuyết điểm của các đợt tấn công của chúng vào Tống Lê Chân suốt một năm trước đó. Sau đó, Tống Lê Chân lại được chúng đem lên sa bàn nghiên cứu từng chi tiết nhỏ. Sau mấy đợt tấn công thăm ḍ, ngày 5 tháng Tư, Trung đoàn 271 cùng với một trung đoàn pháo và một lữ đoàn chiến xa có thêm một số đơn vị chủ lực miền tiếp ứng, ồ ạt tấn công Tống Lê Chân. Được tin t́nh báo cho biết trước, các chiến sĩ Biệt Động Quân chuẩn bị sẵn sàng và sau đó giao chiến ngang ngửa với đại quân Bắc Việt được đúng sáu ngày. Đến quá trưa ngày 11, chiến xa của chúng xuất hiện trong tầm mắt của các chiến sĩ pḥng thủ trong khi các phi vụ tiếp tế của Không Quân đă mấy ngày liền không thể thực hiện được v́ một trung đoàn pḥng không của cộng quân sẵn sàng bắn đạn che kín bầu trời. Hết đạn dược và thực phẩm, Trung tá Lê Văn Ngôn hướng dẫn anh em mở đường máu về được An Lộc. Chỉ việc các chiến sĩ can trường này đem được cả thương binh thoát khỏi ṿng vây dày đặc của địch để về đến An Lộc cũng đă là một việc nói lên t́nh đồng đội và tinh thần chiến đấu của người lính Việt Nam Cộng Hoà ngay cả trong t́nh thế bi đát nhứt. Ngoài ra, người ta cũng phải nghĩ rằng chỉ có phép lạ mới che chở được đơn vị lẻ loi và anh hùng này: trong một tuần lễ ác chiến sau cùng, chỉ có hơn hai chục chiến sĩ bị thương.

    Sau khi đem đơn vị về đến An Lộc, Trung tá Lê Văn Ngôn được cử đi học khoá Tham Mưu Trung Cấp và sau đó về Sư Đoàn 5 Bộ Binh giữ chức vụ trung đoàn phó. Sau ngày đất nước chúng ta rơi vào tay giặc cộng, Trung tá Ngôn cũng như biết bao chiến sĩ khác, lọt vào tay giặc và bị đưa ra miền Bắc. Một tối mùa thu 1977, ông lặng lẽ qua đời tại liên trại Yên Báy. Chính Phan Nhật Nam đem người đàn em vắn số của ḿnh ra huyệt chôn.

    CHÚ THÍCH:

    (1) Uỷ ban này có bốn quốc gia thành viên. Hai quốc gia thuộc Thế Giới Tự Do là Gia Nă Đại và Nam Dương. Hai quốc gia thuộc Khối Cộng là Ba Lan và Hung Gia Lợi.
    (2) Theo nhà văn Phan Nhật Nam th́ đơn vị này là Đoàn 27.
    (3) Có lần Vơ Đông Giang suưt bị Chuẩn Tướng Phan Hoà Hiệp của Phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà ném chiếc gạt tàn thuốc lá vào mặt v́ thói mất dạy và ngôn ngữ hạ cấp.
    (4) Theo lời một số anh em cựu quân nhân thuộc Quân Chủng Không Quân th́ có một chiếc trực thăng trong khi thực hiện phi vụ tiếp tế cho Căn cứ Tống Lê Chân đă bị trúng đạn pḥng không của địch và phải đáp khẩn cấp xuống căn cứ. Cả phi hành đoàn đă ở lại Tống Lê Chân tử thủ cùng các chiến sĩ Biệt Động Quân cho đến khi được các trực thăng tiếp tế khác từ Biên Hoà lên đáp xuống căn cứ bốc về.

  9. #99
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Trận chiến Tống Lê Chân 1973 - Tiền Đồn Quá Xa
    P4



    Phan nhật Nam

    Kính tặng anh linh cố Trung Tá Lê Văn Ngôn và chiến hữu Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng.

    Khi người dân trên toàn thế giới rung chuông, mở rượu, tung giấy ngũ sắc để chào mừng Ḥa b́nh Việt Nam, trên ngọn đồi cao năm mươi thước giữa ranh giới hai tỉnh Tây Ninh, B́nh Long, một cứ điểm quân sự trông xuống hai con suối bắt đầu nổ súng như tia chớp giữa ngày quang. Trận đánh Tống Lê Chân bắt đầu nặng độ. Lợi dụng ngưng bắn, Cộng sản ra mặt tấn công ngay. Không ai trên thế giới biết đến, tất cả muốn xóa đi bỏ qua tai nạn cục bộ của Việt Nam rắm rối. Ḥa b́nh, thứ rượu nhạt mà thế giới hằn lâu không được uống. Tống Lê Chân, trận chiến cuối mùa và cô đơn nhất của ḍng thời gian binh lửa. Tính đến nay, căn cứ bị bao vây đúng 17 tháng, hay 510 ngày. Không ai trong chúng ta nghĩ đến con số nhỏ bé ghê gớm đau đớn này, chúng ta cũng là những kẻ có tội.

    Stalingrad bị người Đức bao vây 76 ngày, người Mỹ giữ cứ điểm Balaam 66 ngày. Quân lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk trong 241 ngày và ở Việt Nam "thiên đường" của chiến tranh, nơi binh đao tung hoành không giới hạn. Chúng ta cũng đă có những cứ điểm với tên tuổi để đời như Điện Biên Phủ bị bao vây với số lượng 57 ngày. Gần gũi và c̣n được nhớ hơn hết là những trận đại chiến khởi đầu trong mùa hè 72, những trận đánh vượt quá hẳn chiến sự thế giới tại các địa danh Kontum, An Lộc, Quảng Trị, những Delta, Charlie ở Kontum cũng chỉ kéo dài trong 1 ngày, An Lộc 110 ngày và Quảng Trị thực sự đến ngày 25 tháng 7/1972 đă được giải tỏa phần lớn...

    Thế nên, Tống Lê Chân với 510 ngày bị vây hăm phải được xem là trận đánh dai dẳng nhất lịch sử chiến tranh của nhân loại. Căn cứ nhỏ bé đó từ ngày 10 tháng 5/1972 đă bị mờ khuất sau làn khói lớn của An Lộc, Quảng Trị, Kontom và đến nay, sáu tháng sau ngày ḥa b́nh độc hại, chiếc tiền đồn lại càng có khuynh hướng bị xóa mờ để che dấu và vô hiệu hóa tội ác của những người Cộng Sản. Chúng ta phải nhỏ giọt nước mắt thật nóng để cầu nguyện cho số người trong 510 ngày đă phấn đấu để chứng tỏ cùng thế giới: tội ác đă đồng nghĩa với con người cộng sản. Tống Lê Chân, giọt nước mắt tinh tuyền của sức đối kháng vô bờ của người Việt miền Nam.

    Căn cứ được thiết lập trên ngọn đồi cao 50 thước, trông xuống hai con suối Takon và Neron, những con suối đầu tiên của sông Saigon dày đặt khắp miền Tây Ninh, B́nh Long, nằm trên đường ranh của hai tỉnh này, cách An Lộc 15 cây số về phía đông bắc và ở miền nam biên giới Việt-Miên khoảng 13 cây số, điểm nhọn của chiếc Mỏ Vẹt, đại bản doanh của Cục R chĩa thẳng vào căn cứ. Tống Lê Chân trước kia là một trong những trại Dân Sự Chiến Đấu thuộc Lực Lượng Đặc Biệt mà người Mỹ đă thành lập từ năm 1967. Trong lănh thổ Quân Khu 3 dọc theo biên giới Việt-Miên từ Tây Ninh qua Phước Long có những trại Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân, Lộc Ninh, Quan Lợi, Bù Gia Mập, chỉ riêng trại Bến Sỏi nằm trong nội địa Tây Ninh, các trại c̣n lại làm thành một hàng rào hệ thống tiền đồn ngăn chận, báo động sự xâm nhập và điều động của Cộng Sản từ bên kia biên giới nơi có những địa danh đă một lần vang động như Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt, hệ thống trại c̣n lại là nơi xuất phát những cuộc hành quân tuần tiểu phát hiện và tiêu diệt các đơn vị địch trong vùng.

    Vùng hoạt động của trại cũng là chiến khu của giặc, Chiến Khu C và cũng như hệ thống đường liên tỉnh mà chính quyền ông Diệm đă thành lập từ những năm 1960, 1961, những trại Lực Lượng Đặc Biệt, sản phẩm đắc ư của Tổng Thống Kennedy, người được yêu chuộng nhất của 37 đời tổng thống Mỹ. Nhưng đến bây giờ, năm 1973 tại Việt Nam, lúc người Mỹ đă quay mũi phi cơ về Clark Field, Guam, bỏ lại xứ sở Đông Dương mịt mù tiếng đạn trong âm vọng ḥa b́nh, các trại kia chỉ c̣n lại là những chiến trường địa phương bị cô lập với thế giới bên ngoài đành đoạn.

    Không phải là chiến tranh nữa, đây chỉ c̣n là những cơn sốt vỡ da cho "ḥa b́nh" nguy hiểm. Tống Lê Chân, cơn sốt cuối cùng và dai dẳng. Dưới chân đồi căn cứ về phía Bắc c̣n có đường 246 nối Tây Ninh và B́nh Long xuyên qua lớp rừng xanh lá, đây là con lộ huyết mạch để mặt trận nối liền hai vùng sinh tử, khu C và khu D. Tống Lê Chân cũng là yết hầu chận ngang đường dây Bắc Nam, nơi bản doanh Cục R và vùng Dầu Tiếng, để từ đây xâm nhập xuống B́nh Dương, Gia Định. Với vị trí chiến thuật quan trọng như thế, Tống Lê Chân không c̣n là mục tiêu quân sự thông thường. Căn cứ nhỏ bé này có một tầm quan trọng khẩn thiết kiểm soát được bốn hướng tây đông, bắc nam của hệ thống giao liên quan trọng trong ḷng căn cứ địa đối phương.

    Từ ngày thành lập, Tống Lê Chân chưa bao giờ có một ngày thanh b́nh, tên địa phương là Tonle Tchombe, vị chỉ huy trưởng đầu tiên, Thiếu Tá Đặng Hưng Long gọi trại thành Tống Lê Chân. Những người ngoài binh chủng Lực Lượng Đặt Biệt phần đông gọi theo danh từ hàm xúc này, Tống Lê Chân tên tiền định cho số kiếp nghiệt ngă.

    Năm 1970, trong chương tŕnh cải tuyển binh chủng, binh sĩ trại Tống Lê Chân phần đông là những dân sự chiến đấu thuộc sắc dân Stieng t́nh nguyện ở lại cùng căn cứ để biến cải thành Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng. Tháng 4 năm 1972, song song với các cuộc cường tập vào Lộc Ninh, An Lộc, Cộng quân đă có ư định "ủi láng" hết dăy căn cứ biên pḥng trên để rộng đường điều quân cùng chuyển vận quân nhu, quân cụ. T́nh h́nh khẩn trương của thời gian ấy đă khiến Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân ở Quân Khu 3 quyết định rút hết lực lượng của bốn căn cứ Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân và Bù Gia Mập. Nhưng người chỉ huy của Tống Lê Chân đă có câu trả lời sau khi nhận được lệnh:

    - Xin ở lại chiến đấu bảo vệ căn cứ. Di tản tiếc quá. Biệt Động Quân mà di tản yếu quá.

    - T́nh h́nh có giữ nổi không?

    - Tất cả binh sĩ đều xin ở lại bằng mọi giá để bảo vệ uy tín binh chủng.

    Định mệnh đă điểm giờ phút đó, lực lượng nhỏ bé của Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng trở nên những anh hùng lặng lẽ của trận đánh cuối cùng làm sáng tỏ ḷng chiến đấu bền bỉ của người Việt cho ḥa b́nh. Ḥa b́nh Việt Nam, giấc mơ tội nghiệp của cả một dân tộc được tưới thêm bởi máu nóng của những người lính vô danh của Tiểu đoàn 92 trong một hốc của núi rừng miền đông Nam Bộ. Thế giới giữ được cân bằng trên ḥa b́nh vật vă này, toàn thể nhân loại có biết thế không?

    Giữ một vị thế trọng yếu trong hệ thống giao liên giữa căn cứ địa của địch, bảo vệ được cánh sườn phía tây cho An Lộc, Tống Lê Chân trên bản đồ hành quân của Ban Tham Mưu R (Việt Cộng) đă được xác định là một mục tiêu cần phải "dứt điểm". Ngày 10 tháng 5/1972, Cộng quân dồn lực lượng đánh trận biển người vào căn cứ có chiến xa yểm trợ sau khi đặc công xâm nhập được vào ṿng đai pḥng thủ. Nhưng căn cứ vẫn đứng vững như lời nguyền người chỉ huy của trại tên Lê Văn Ngôn với số tuổi khiêm nhường, 25 tuổi đă giữ được lời thề

    Ngôn thuộc Khóa 21 Đà Lạt, ra trường năm 1966, bây giờ tháng 9 năm 1972, Ngôn mang cấp bậc trung tá, một thời gian kỷ lục, nhưng không ai tỵ hiềm. Không thể tỵ hiềm được v́ t́nh h́nh quân sử thế giới không có một đơn vị nào bị vây trong thời gian 510 ngày vẫn c̣n đơn độc chiến đấu. Ngôn và Tiểu Đoàn 92 của anh là một biệt lệ, một hiện thực ư niệm cao cả về trách nhiệm và giá trị mà người lính muôn đời luôn nghĩ đến. Những người lính khắp nơi của thế giới đă nhiều lần chứng tỏ tầm vóc vĩ đại của ḿnh trên đảo Saipan, trong buồng lái của những chiếc máy bay Rero, trong những phi vụ trên vùng trời Âu châu được đan kín bởi một lưới lửa đạn pḥng không trong đệ nhị thế chiến… Ở Việt Nam, trận Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971 và suốt 510 ngày, cùng một lúc sức chiến đấu lại tăng trưởng theo chiều cao, theo cường độ tấn công và pháo kích của quân giặc.


    Tống Lê Chân bắt chúng ta suy nghĩ khi biết được Gilles, viên tướng Nhảy Dù lừng danh của Quân đoàn Viễn chinh Pháp đă nói cùng Cogny và Navarre: "Hăy móc tôi ra khỏi Điện Biên Phủ, tôi vừa sống 6 tháng ở ổ chuột Na San rồi. Tôi quá sợ những cứ điểm bưng bít như thế này!" Sáu tháng ở cứ điểm Na San trong vị thế một người chỉ huy cùng với phương tiện vật chất thừa thăi cũng đủ làm cho ông tướng gốc người Corse phải kinh khiếp, thế nhưng trên ngọn đồi 50 thước, dưới hầm sâu lạnh tanh, viên trung tá trẻ nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, Lê Văn Ngôn đă sống đến ngày thứ 510 cùng với Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân với số quân thiếu hụt và thực phẩm phải dè sẻn từng túi cơm sấy. Đau đớn hơn cả, Ngôn chiến đấu trong ḥa b́nh giả tạo và gian dối mà đối phương cùng thế giới đang nhân danh mỗi giờ, mỗi phút.

    Những phút Tiểu Đoàn 92 ẩn ḿnh dưới giao thông hào đợi cơn pháo qua, giờ phút của 510 ngày thiếu ánh sáng mặt trời. Vậy vấn đề được đặt ra cùng sự kiện như đă tŕnh bày. Chúng ta phải làm ǵ cho số người nhỏ bé cao cả trên cao điểm năm mươi này? Ngăn chận, phát hiện địch, giữ căn cứ để làm bàn đạp, tung quân tuần tiểu, tấn công và truy kích địch, những mục tiêu đầu tiên mà ư niệm hành quân đă đặt để cho căn cứ không c̣n nữa. Chúng ta chỉ c̣n lại một biểu tượng bi tráng, chỉ có một chiến trường phi lư để những người anh hùng âm thầm ngă xuống trong lặng lẽ, làm sáng tỏ sự tàn ác, khiếp nhược của nền ḥa b́nh độc hại. Chúng ta sẽ làm ǵ nếu bỏ qua hay thụ động buông thả để duy tŕ t́nh trạng phi lư độc địa này.

    Phiên họp đặt biệt cấp trưởng đoàn ngày 17 tháng 3/1973 do Việt Nam yêu cầu và Hoa Kỳ chủ vị, chính thức đặt Tống Lê Chân lên bàn hội nghị. Trưởng đoàn Việt Nam Cộng Ḥa, tướng Dư Quốc Đống đề nghị ba biện pháp cấp bách:

    1. Cử ngay một toán Liên Hiệp Quân Sự Bốn-Bên trung ương đi Tống Lê Chân để điều tra vi phạm ngay lập tức sau khi có thỏa thuận hội nghị.

    2. Nếu phe Cộng Sản không thỏa thuận đề nghị, Hoa Kỳ trên tư cách chủ vị gởi văn thư yêu cầu Ủy Ban Quốc Tế cử người đi điều tra.

    3. Yêu cầu phía Mặt Trận Giải Phóng ra lệnh ngay cho các đơn vị của ḿnh chung quanh Tống Lê Chân phải ở nguyên vị trí, không được bắn lên phi cơ Ủy Ban Quốc Tế khi đến điều tra.

    Nhưng lọc lừa là tính chất cơ bản, phía Mặt Trận Giải Phóng biết chắc phiên họp đặc biệt này sẽ thảo luận một vấn đề nghiêm trọng mà họ chưa có chỉ thị để giải quyết: dù Trần Văn Trà mang quân hàm trung tướng đi chăng nữa, Trà cũng không bao giờ quyết định được một vấn đề ǵ, dù vấn đề đó thuộc về nguyên tắc, thủ tục nếu chưa có chỉ thị trước, nên Trà đă vắng mặt để cho viên đại tá Đặng Văn Thu đại diện họp thay.

    Trước ba đề nghị xác đáng của một vấn đề cụ thể, Thu không ngập ngừng bối rối né qua tố cáo: Việt Nam Cộng Ḥa đă vi phạm ngưng bắn tại Đức Phổ, Sa Huỳnh (Quảng Ngăi), Đức Cơ (Pleiku) và kết luận ung dung: chính Việt Nam Cộng Ḥa vi phạm tại các địa điểm trên! Không một lời nói, không một từ ngữ nhắc đến sự kiện, địa danh Tống Lê Chân. Trưởng phái đoàn Bắc Việt gật gù chiếc đầu tán đồng lập lại lời phát biểu của Mặt Trận Giải Phóng với thứ tự chữ nghĩa nói khác đi một chút. Bài học đă được học từ nhà, các cậu học tṛ cộng sản lập lại không sai một chữ, bất chấp nội dung rơ rệt của ba đề nghị…Ư kiến - một sự kiện không có bao giờ có trong đầu của cá nhân người cộng sản khi chưa "hội ư!"

    Thấy hai phái đoàn Cộng Sản không đá động ǵ đến ba đề nghị vừa tŕnh bày, phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa lập lại đề nghị lần thứ hai: Nếu Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn-Bên chưa thống nhất ư kiến th́ yêu cầu Hoa Kỳ gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế để Ủy Ban này đi điều tra. Mặt Trận Giải Phóng cùng Bắc Việt lại hát lên một nội dung: "Không đồng ư việc gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế đến để điều tra." Phiên họp ngưng ở kết luận này. "Tính nhất trí" của Hiệp định, tính chất không bao giờ có ở bàn hội nghị!

    Cho chắc ăn hơn nữa, phía Cộng Sản mớm lời cho hai phái đoàn Ba Lan, Hung Gia Lợi khi tiếp nhận văn thư của Hoa Kỳ đi điều tra Tống Lê Chân: "UBQT không đồng ư đi điều tra ở một nơi khi nơi đó chưa được an ninh." Muốn chắc ăn hơn, hai phái đoàn quốc tế cộng sản này lại đưa thêm điều kiện: Sẽ chịu đi nếu phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng cử sĩ quan liên lạc tháp tùng cùng trực thăng. Lẽ dĩ nhiên điều kiện không bao giờ được thực hiện v́ Mặt Trận Giải Phóng chắc chắn không đồng ư cử sĩ quan liên lạc tháp tùng.

    Một tuần lễ trôi qua, kể từ phiên họp ngày 17 tháng 3/1973 tất cả nỗ lực về Tống Lê Chân đều bị chấn lối bởi hai ngón đ̣n: "T́nh h́nh Tống Lê Chân chưa rơ rệt, phái đoàn Mặt Trận chờ chỉ thị của thượng cấp và đơn vị Mặt Trận Giải Phóng không cử sĩ quan liên lạc đi cùng nên Ủy Hội Quốc Tế không thể đến điều tra." Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt, Ba Lan, Hung Gia Lợi nương vào nhau nhồi quả bóng vô liêm sỉ, né tránh hẳn vấn đề.

    Ngày 23 tháng 3/1973, chỉ c̣n 4 ngày nữa là hết thời hạn 60 ngày làm việc của Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn-Bên, Hoa Kỳ thúc dục phái đoàn Gia Nă Đại (chủ tịch Ủy Ban Quốc Tế) trực tiếp thu xếp với Mặt Trận Giải Phóng để sớm điều tra sự kiện Tống Lê Chân. Mặt Trận Giải Phóng trốn không nỗi, đưa Đại Tá Vơ Đông Giang, phó trưởng đoàn ra gặp Đại Tá Lomis (Gia Nă Đại) thỏa thuận cử sĩ quan liên lạc của Mặt Trận theo Ủy Ban Quốc Tế đến Tống Lê Chân vào ngày 24 tháng 3/1973…Nhưng rốt cuộc cũng là tṛ đánh tráo. Theo thỏa thuận của Giang, sĩ quan Mặt Trận sẽ từ Tân Sơn Nhất đi Tống Lê Chân tiếp xúc trước với lực lượng Cộng Sản ở đây xong trở về Biên Ḥa (Biên Ḥa là khu V Liên Hợp Quân Sự - tức là cùng của Việt Nam Cộng Ḥa) để đón Ủy Ban Quốc Tế vào Tống Lê Chân. Tên sĩ quan liên lạc của Mặt Trận nhận chỉ thị trước, nên từ Tống Lê Chân y trở về Tân Sơn Nhất, làm cho Ủy Ban Quốc Tế đợi ở Biên Ḥa suốt ngày 24 tháng 3/1973. Cuộc điều tra Tống Lê Chân của Ủy Ban Quốc Tế không bao giờ có thể thực hiện được. Không bao giờ.

    Về phía Liên Hợp Quân Sự, sau một tuần lễ cố gắng liên tục kể từ phiên họp 17 tháng 3/1973, Việt Nam Cộng Ḥa buộc Mặt Trận Giải Phóng phải cùng sĩ quan liên lạc đến Tống Lê Chân để thực hiện tản thương. Nhưng ngày 23 tháng 3/1973, thay v́ xuống Tống Lê Chân như đă dự liệu, tên sĩ quan liên lạc Mặt Trận xuống "Sóc Con Trăn" cách Tống Lê Chân 10 cây số về phía tây, viên sĩ quan này lấy cớ phải liên lạc với "địa phương" y trước, sau một hồi t́m kiếm trong vùng, y trở lại trực thăng lấy cớ v́ bom Mỹ và Việt Nam Cộng Ḥa đă đánh đứt đường giây y không t́m ra ai. Chiếc trực thăng trở về Saigon, không một thương binh được di chuyển.

    Phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa vẫn duy tŕ yêu cầu Mặt Trận Giải Phóng thảo luận để Việt Nam Cộng Ḥa tản thương ở Tống Lê Chân. Mặt Trận Giải Phóng hết cớ từ chối, ngày 24 tháng 3/1973, hai mươi thương binh đầu tiên và cuối cùng được di tản. Mặt Trận Giải Phóng "ḥa hợp, ḥa giải dân tộc" với giá máu này một lần độc nhất, Tống Lê Chân đóng cửa vĩnh viễn với nỗi bi hùng của nó. Cấp trưởng phái đoàn, cấp trưởng tiểu ban liên tiếp họp để dọn sạch vấn đề Tống Lê Chân. Nhưng sự thật là một việc, và cách nh́n của người Cộng Sản lại là một việc khác, nên sự kiện quân đội cộng sản bao vây, cường tập tấn công vào vị trí của ta biến thành một cuộc hành quân của "quân đội Saigon" lên chiếm khu vực Tống Lê Chân, một nơi nằm sâu trong vùng giải phóng của chính phủ Cách Mạng Lâm Thời!

    Kèm theo luận cứ, lực lượng Mặt Trận Giải Phóng pháo vào trại là rất tự kềm chế v́ phải cảnh cáo đơn vị trong đồn muốn "nống nấn" ra ngoài khu vực Mặt Trận Giải Phóng (một đơn vị chỉ hơn hai trăm người có thể nào tấn công vào ṿng vây của một sư đoàn). Về việc gọi loa đầu hàng, Mặt Trận Giải Phóng giải thích: Đó là giảng "đạo lư, hiệp định" cho binh sĩ trong đồn biết "đạo lư về ḥa hợp, ḥa giải dân tộc". Ư nghĩa đích thực của ngôn từ đă biến mất trên lưỡi của người Cộng Sản. Những điều vô lư thô bỉ đă được dựng đứng, đài phát thanh Việt cộng ào ào tố cáo. Trần Văn Trà, Lê Quang Ḥa gởi kháng thư tố giác, các thành viên Hung Gia Lợi, Ba Lan nghiêm chỉnh nghiên cứu kháng thư. Và biết đâu trên thế giới có một số đông người tin vào kháng thư gian dối đó. Không hiểu Đức Giáo Hoàng khi đọc bản tin của ṭa báo Ṭa Thánh đề cập đến bản kháng thư đó ngài có biết đến những con mắt nổ lửa dưới hầm sâu Tống Lê Chân đang mong ngày mau đến.

    Đau đớn hơn, khi tại Saigon, nơi chỉ cách Tống Lê Chân trăm cây số đường chim bay, có những người đă không biết hoặc không muốn biết những người lính Việt Nam đang ở chiếc đồn bị bao vây vào ngày thứ 510. Và nhiều kẻ lại nh́n vấn đề ngược lại, như đám Ngọc Lan, Chân Tín, như thứ chính khách đối lập Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường, Trương Gia Kỳ Sanh (những nghị sĩ, dân biểu được Mặt Trận Giải Phóng nhắc nhở nhiều lần ở bàn hội nghị khi muốn tố cáo chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa). Những người này là ǵ trong khi đồng lơa với tội ác đẫm máu này? Tính đến ngày của phiên họp đầu tiên đề cập đến Tống Lê Chân, hai mươi ngày sau khi ḥa b́nh 28 tháng 1/1973, căn cứ có thêm bốn chết và hai mươi hai bị thương, những người chết này chết cho ai? Phải chăng để bảo vệ miền Nam, trong đó có những người vừa kể đang nhân danh ḥa b́nh.

    Quả t́nh chúng ta đang ở trong một "trạng thái ḥa b́nh" sau hai mươi sáu năm nghe tiếng súng nổ và lửa cháy. Chúng ta đă nghe quen tiếng nổ đại bác hỏa tiễn, chúng ta cũng quen với độ cao của ngọn lửa Mậu Thân, hơi nóng của An Lộc, Quảng Trị nên h́nh như khi hưởng được sự yên ổn đau đớn của ngày hôm nay, chúng ta đă vội vă xóa tan vết tích chiến tranh, muốn quên đi những h́nh ảnh tàn khốc của tháng kia, năm trước và trong hạnh phúc tội nghiệp này, giữa ḷng cơn lốc túng đói, chúng ta cũng đă không đủ khả năng để nhớ đến h́nh ảnh một căn cứ lẻ loi cố gắng khỏi bị hủy diệt để thể hiện ư muốn sống trong tự do và ḥa b́nh, nỗi mơ ước của toàn dân tộc…Mơ ước đó có ta dự phần. Vậy, chúng ta phải làm ǵ được cho Tống Lê Chân.

    Tôi viết lên tiếng kêu bi hùng về Tống Lê Chân vào tháng 6 năm 1973, thời gian quân đội Cộng Sản đang chuẩn bị dứt điểm vào Tống Lê Chân trong dịp mùa mưa sắp tới của năm 1973. Suốt năm 1973, chiếc đồn nhỏ bé này đă đứng vững được trước hàng chục cuộc tấn công và bị pháo kích hàng chục ngàn quả đạn, viên chỉ huy căn cứ, Trung Tá Lê Văn Ngôn, h́nh như định mệnh đă gắn chặt tên anh cùng chiếc đồn nhỏ bé đó, lời nói quyết chí của ngày tử thủ đầu tiên đă được giữ trọn như tên anh đă định trước. NGÔN --một ḷng son sắt giữ măi một lời nói. Trong nguy nan của mỗi giờ sát cùng cái chết, người anh hùng lặng lẽ với số tuổi quá nhỏ so với chiến trường kia quả là một hiên thực h́nh ảnh linh diệu kết tinh bởi sức chịu đựng vô bờ của dân tộc. Ng̣i bút viết ra cũng hỗ thẹn trước nỗi can trường này.

    Những phiên họp của tháng 3, tháng 4/1974 tại Ban Liên Hợp Quân Sự Hai-Bên trung ương, phía Việt Nam Cộng Ḥa lại lớn tiếng báo động: Công Trường 9 (Cộng Sản) nhất định rút ưu khuyết điểm của năm qua, tập dượt trên sa bàn cùng Trung Đoàn 27 quyết ủi láng trại. Trung Đoàn 27 sẽ được yểm trợ trực tiếp bởi một trung đoàn pháo, một trung đoàn pḥng không và lữ đoàn chiến xa, không kể thành phần trừ bị và tăng viện. Một năm trời thử lửa, một hai tháng thực tập trên sa bàn và trên địa thế tương tự… quân cộng sản dùng địa đạo chiến, công kiên chiến khởi từ 5 tháng 4/1974 đến 1:00 giờ ngày 11 tháng 4/1974 đoạt được đồn. NGÔN làm ǵ với quân số 259 người với 50 người bị thương từ trước, hai chục người bị thương ở đợt tấn công sau cùng?

    Tiểu Đoàn 92 đă chiến đấu hơn tất cả mọi đơn vị bộ chiến của lịch sử chiến tranh, con người NGÔN hơn hẳn những người anh hùng chiến trận của nhân loại: Alamo, Saipan, Wake, hàng trăm ngàn chiến binh của thế giới đă dựng lên tấm bia can trường về bổn phận cao cả của lính. NGÔN và Tiểu Đoàn 92 Biệt Động dựng lên tấm bia lớn nhất, rực rỡ nhất. Cao quư hơn tất cả, NGÔN và 259 Biệt Động Quân của Tống Lê Chân là những người chiến sĩ chiến đấu cho ḥa b́nh. Ḥa b́nh của quê hương Việt Nam. Chúng ta trong thành phố b́nh yên có nghĩ ǵ khi hay tin Tống Lê Chân bị đoạt mất. Tiểu đoàn 92 mở đường máu rời căn cứ. Chỉ c̣n giọt nước mắt, phải, chỉ c̣n một giọt nước mắt ngập bi hùng.

  10. #100
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Tống Lê Chân

    Wikipedia


    Tống Lê Chân là một địa danh thuộc địa bàn 2 xă Minh Đức và Minh Tâm, đều thuộc huyện B́nh Long, tỉnh B́nh Phước. Nơi đây từng được biết đến như một căn cứ quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, nổi tiếng với sự kiện tiểu đoàn 92 Biệt động quân Việt Nam Cộng ḥa cầm cự 510 ngày trong sự phong tỏa của Quân đội Nhân dân Việt Nam từ ngày 10 tháng 5 năm 1972 và rút hầu như nguyên vẹn lực lượng khỏi căn cứ này vào ngày 11 tháng 4 năm 1974. Sự kiện này được phía Việt Nam Cộng ḥa tuyên tuyền như một chiến tích nổi bật.

    Nguồn gốc tên gọi

    Đây là vùng đất gần biên giới Việt Nam - Campuchia, v́ vậy có rất nhiều người địa phương gốc Khmer. Họ gọi vùng này là Tonlé Tchombe. Tonlé tiếng Miên có nghĩa là nơi có nước. Nơi đây chính là nơi giao nguồn của 2 nhánh sông nhỏ thượng nguồn của sông Sài G̣n, v́ vậy có tên gọi như trên.

    Đặng Hưng Long, một thiếu tá Quân lực Việt Nam Cộng ḥa là người đă phiên âm chữ Tonlé Tchombe thành tiếng Việt là Tống Lê Chân[1].

    Theo những bô lăo trong vùng th́ tên gọi này đă có từ năm 1956, khi Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm thực hiện chính sách dân tộc chủ nghĩa, đă cho thay đổi và Việt hóa nhiều địa danh trên lănh thổ Việt Nam Cộng ḥa, như Bù Đốp đổi thành Bố Đức, B'lao đổi thành Bảo Lộc...và Tonlé Tchombe đă trở thành Tống Lê Chân. Tuy nhiên, thông tin này chưa được kiểm chứng bởi bất kỳ tư liệu nào.

    Tiền đồn quân sự trong chiến tranh

    Nguyên ủy, từ tháng 2 năm 1955, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam đă cho đặt một tiền đồn quân sự tại đây nhằm pḥng ngừa các nguy cơ chống chính phủ từ lực lượng vũ trang của giáo phái Cao Đài vốn đang đóng tại Tây Ninh. Vị trí này kiểm soát giao điểm của nguồn nước, đồng thời có thể kiểm soát một tuyến giao thông về B́nh Long, một cửa ngơ vào thành phố Sài G̣n.

    Cũng từ những vị trí tương tự, quân chính phủ đă tấn công tiêu diệt quân Cao Đài trong thời gian diễn ra chiến dịch Nguyễn Huệ. Thắng lợi của chiến dịch này đă đặt dấu kết thúc cho các lực lượng vũ trang thân Pháp, củng cố thế đứng chính trị của Ngô Đ́nh Diệm. Bốn tháng sau đó, ông thực hiện việc phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và trở thành Tổng thống, tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng ḥa.

    Sau năm 1956, tiền đồn này hầu như không được sử dụng nữa. Từ năm 1961, bộ phận CIA tại Sài G̣n đă thực hiện chương tŕnh CIDG (viết tắt từ Civilian Irregular Defense Group), hay c̣n gọi là chương tŕnh Dân sự Chiến đấu, hay Xít-gi [2]

    Căn cứ Tống Lê Chân sau khi bàn giao nằm trong địa bàn thuộc quân khu III. Đây là một vị trí quân sự khá quan trọng, nằm trong vùng ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và B́nh Long, cách An Lộc 15 km về hướng Tây Nam và mũi nhọn của khu Mỏ Vẹt 13 km về hướng Đông Nam. Vùng Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Campuchia, là những bàn đạp xuất phát của Quân Giải phóng từ hướng Campuchia vào Tây Ninh. Dưới chân căn cứ là con đường 246, trục giao liên Nam - Bắc giữa căn cứ Trung ương Cục miền Nam với vùng kiểm soát Tam giác sắt của quân Giải phóng. Căn cứ c̣n nằm trong hệ thống căn cứ liên hoàn canh pḥng hướng biên giới Việt Nam - Campuchia và từng là một trong những bàn đạp hành quân của quân Việt Nam Cộng ḥa trong chiến dịch vượt biên giới năm 1972.

    510 ngày trong ṿng phong tỏa

    Trong chiến cuộc năm 1972, quân Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa mở chiến dịch Nguyễn Huệ tấn công vào Lộc Ninh, Chơn Thành và An Lộc. Sau khi chiếm được Lộc Ninh ngày 8 tháng 4 năm 1972, Sư đoàn 5 thuộc lực lượng này hành quân tiến theo Quốc lộ 13 xuống phía Nam, uy hiếp mặt Bắc thị xă An Lộc. Sư đoàn 7 cũng của miền Bắc xuất phát từ vùng biên giới Campuchia, đi ṿng qua An Lộc, tiến xuống phong tỏa Quốc lộ 13 ở phía Nam An Lộc, tức là con đường bộ duy nhất tiếp tế cho thị xă này, đồng thời uy hiếp các căn cứ biên pḥng, phối hợp với Đoàn C30B để cầm chân Sư đoàn 25 bộ binh Việt Nam Cộng ḥa tại Tây Ninh, ngăn cản không cho tiếp viện An Lộc. Sư đoàn 9 là lực lượng chủ lực tấn công An Lộc, cũng xuất phát từ vùng biên giới Campuchia, tiến xuống và tấn công An Lộc từ phía Tây. Các căn cứ tiền đồn biên pḥng như Thiện Ngôn, Katum, Bổ Túc, Bù Gia Mập lần lượt bị bức rút trước sức mạnh của đội quân miền Bắc. Riêng căn cứ Tống Lê Chân c̣n lại bơ vơ giữa vùng kiểm soát của 4 sư đoàn quân miền Bắc sau khi Lộc Ninh bị chiếm giữ và thị xă An Lộc cũng bị bao vây dày đặc. Xem thêm Trận An Lộc.

    Về cơ bản chiến dịch, phía quân miền Bắc chủ trương phong tỏa, uy hiếp và bức rút các căn cứ biên pḥng, v́ vậy họ đă không dùng quân chủ lực để tấn công tiêu diệt. Tuy nhiên, căn cứ Tống Lê Chân không rút lui mà vẫn duy tŕ trạng thái pḥng ngự với lực lượng tiểu đoàn 92 Biệt động quân Biên pḥng, do Thiếu tá Lê Văn Ngôn [3]làm tiểu đoàn trưởng, với quân số khoảng 300 người.


    Trại giam Tống Lê Chân

    Sau năm 1975, trại giam Tống Lê Chân được hoán cải làm trại tù cải tạo.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 27-12-2011, 03:37 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 05:14 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 13-08-2011, 02:18 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 28-04-2011, 12:11 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 15-08-2010, 05:09 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •