Page 21 of 32 FirstFirst ... 1117181920212223242531 ... LastLast
Results 201 to 210 of 312

Thread: Bàn về nền Đệ Nhất Cộng Hoà

  1. #201
    Member
    Join Date
    12-08-2011
    Posts
    163
    Kiêu dân Công Giáo

    http://www.talawas.org/?p=12797


    Tôi trích link bổ xung các bài trích dẫn của Chichchoe th́ Mods có c̣n muốn xoá bài của chinchchoe hay không ?

  2. #202
    Member
    Join Date
    24-09-2011
    Location
    TX
    Posts
    75

    Sủa Bậy

    We really don't know what you are talking about? One has tried to spam the forum by posting the words without links, another has posted the links without words. They have copied the techniques from the chinese by posting either distracting the readers or spam the writers...

    Thật sự người đọc lẫn người viết không biết họ muốn nói về cái ǵ. Một thằng th́ nói mà không có bằng chứng, một thằng đưa bằng chứng mà không diễn giải. Chúng nó giống như những thằng Trung Cộng, chuyên môn làm loăng đề tài để người đọc không thể theo dơi và người viết chán nản...nhưng

    Vàng thiệt không bao giờ sợ lửa, cây ngay không bao giờ sợ đổ, người ngay không bao giờ sợ dèm pha

    So sánh tất cả các lănh đạo cùng thời, không ai mà đạo đức bằng cố TT Diệm. Sau một thời gian dài, Đố ai có thể t́m được cái lăng nhăng của ông???

    Khoảng 90% người chống cố TT là đa thê, rất sợ "Luật Gia Đ́nh" của bà Nhu.

    Thí dụ: Hồ Chí Minh đa thê, Bảo Đại đa thê mặc dù Bảo Đại được du học và sinh trưởng tại Pháp, tư tưởng đa thê nó nằm trong máu của các thanh niên thời đó, ngay người có ăn học như Bảo Đại mà c̣n có tư tưởng đa thê th́ c̣n những tướng tá khác th́ sao.
    Dưới thời Ngô Đ́nh Diệm , Nguyễn Cao Kỳ mà có bà bé Đặng Tuyết Mai, và c̣n nhiều tướng khác sẽ không bao giờ lên cấp, và sẽ bị đ́ v́ Luật Gia Đ́nh...nếu muốn đa thê chỉ có một cách Đảo Chánh.

    Từ chế độ vua chúa đến chế độ dân chủ cũng phải mất một thời gian để cải cách tư tưởng đa thê...

  3. #203
    Member
    Join Date
    28-05-2011
    Posts
    432
    Dù viết cả ngàn cuốn sách để biện hộ , dù dùng đủ mọi mỹ từ để bao che , biện luận , che lấp đi tội ác th́ cũng có ngày sự thật sẽ phơi bày , bởi v́ , giấy th́ không gói được lửa

    Một xă hội ấm no hạnh phúc nó thể hiện nơi mọi tầng lớp của dân chúng , nhất là những người cùng đinh , ai nắm quyền hành , ai độc tài , ai khả kính , kệ , dân chúng đánh giá chính phủ của ḿnh qua cái bao tử và cách được tôn trọng , cư xử nơi công cộng , dân chúng cứ thấy cuộc sống ḿnh được tự do , được có việc làm , có một mái nhà , cuộc sống ổn định là đủ .

    Năm tôi sinh ra là năm TT Ngô bị giết , tôi không được biết những tháng ngày b́nh yên ấy ra sao ? Đệ nhị CH th́ tôi c̣n nhỏ , bắt đầu biết nhận thức sự việc xảy ra chung quanh ḿnh th́ giải phóng , từ đó tôi sống dưới thời XHCN , dù được nhồi nhét , được in vào óc những luận điệu ra rả hằng ngày của cs , tôi luôn nh́n nhận sự việc bằng cách so sánh những hậu quả của các chế độ đă để lại qua nhận xét của người thân và người chung quanh ḿnh .


    V́ thế , những người đă sống trải qua bao năm tháng , thăng trầm của ba chế độ ,và có cảm nhận như thế nào với ba chế độ ấy mới quan trọng , bởi v́, cách mạng tranh đấu là v́ dân , đi t́m đường cứu nước chống ngoại xâm chẳng phải cũng v́ dân đó sao? Những ông có bằng cấp nọ , địa vị kia chỉ nên ghi lại những sự kiện đă xảy ra , để hậu thế nhận xét , chứ không thể thay mặt dân chúng phê phán , rồi viết sai , thêm thắt để bao che cho tội ác của ḿnh , giá như lật đổ Ngô Đ́nh Diệm rồi đệ nhị CH hơn hẳn đệ nhất , giải phóng rồi người ta được ấm no hạnh phúc thật sự hơn hẳn ngày xưa , th́ những bài viết kia mới có giá trị , c̣n hiện tại , hậu quả thế nào th́ sờ sờ trước mắt , làm sao chối căi đây .

    Chế độ Ngô Đ́nh Diệm chỉ có 9 năm , đệ nhị CH 12 năm , chế độ cs 37 năm ,

    Đệ nhất CH chẳng để lại bao nhiêu sách vở viết về ḿnh chỉ để lại những việc công ích cho dân chúng , 9 năm sống với đệ nhất CH những người dân b́nh thường đă sống qua giai đoạn ấy , họ cứ nuối tiếc , cứ ước ao để được quay lại thời ấy .

    12 năm sống với đệ nhị CH dù chiến tranh , bom đạn , chạy giặc liên miên , nhưng sao ai cũng không muốn được giải phóng , thế đấy…….. nói nhiều mà làm ǵ ?

    C̣n lại 37 được giải phóng , người ta biết thế nào là ăn độn , bo bo , khoái lang , củ ḿ , củ sắn , biết thế nào là làm thú vật , hiiiiiii ….. đang làm người tự dưng được giải phóng để làm trâu làm ngựa , rồi viết sách , rồi dùng hết mỹ từ nọ , danh từ kia để ca tụng , bao biện cho việc làm của ḿnh , để nhồi nhét cho mọi người cái tâm trạng phải mang ơn , phải biết vui mừng khi được giải phóng .

    Trời ạ ! …viết sách cho nhiều mà làm ǵ ? Tô vẽ mà làm ǵ ? đệ nhất CH có cần như thế đâu ? Sao lại cần đến bao nhiêu bài viết mạ lỵ , bôi nhọ , bêu riếu mà không làm cho người ta nghĩ khác đi được , đây mới là cốt lơi mà , chế độ đệ nhị CH , và chế độ cs không có được , đây mới là những bài viết hùng hồn nhất

  4. #204
    chichchoe
    Khách
    Nhân cụ Tú Gàn binh vực Dụ số 10 của Tây/BảoĐại mà chế độ Diệm vẫn duy tŕ sau 1955 trong âm mưu Công giáo hóa miền Nam cho Vatican, xin đọc một đoạn trích trong "Sáu tháng Pháp nạn 1963" của Giáo sư Luật Vũ Văn Mẫu (và cũng là Bộ trưởng Ngoại giao thời Ngô Đ́nh Diệm)Chuyển Luân

    Sự Thiên vị Thiên Chúa giáo về Phương diện Pháp lư


    Vũ Văn Mẫu

    Văn kiện pháp lư cơ bản trong một quốc gia là Hiến pháp. Hiến pháp qui định các quyền và nghĩa vụ của công dân, cũng như tổ chức bộ máy chính quyền trong nước, hiến pháp phải được tôn trọng triệt để. Luật pháp nào vi phạm vào hiến pháp sẽ bị coi là vi hiến và không có giá trị trên phương diện pháp lư.

    Lần lượt trong đoạn này, sẽ xét hai vấn đề:

    - Hiến pháp 1956 của nền Đệ nhất Cộng ḥa có thiên vị Thiên Chúa giáo không?

    - Luật pháp thông thường của nền Đệ nhất Cộng ḥa có ưu đăi Thiên Chúa giáo không?

    A – Hiến Pháp 1956 và sự thiên vị Thiên Chúa giáo

    Hiến pháp 1956 do Quốc hội biểu quyết ngày 20/10/1956 được Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ban hành ngày 26/10/1956, thành lập nền Đệ nhất Cộng ḥa. Hiến pháp 26/10/1956 gồm 98 điều, chia làm 8 thiên. Thiên thứ hai qui định về “Quyền lợi và nhiệm vụ của người dân” theo tinh thần bản tuyên ngôn nhân quyền quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.

    Điều 17 của Hiến pháp Việt Nam 1956 đă được giáo sư Bửu Hội chiếu dẫn trước tổ chức Liên Hiệp Quốc để chứng minh rằng tại Việt Nam … không có sự kỳ thi tôn giáo. Điều 17 này qui định như sau: “Mọi người dân đều có tự do tín ngưỡng, tự do hành giáo và tự do truyền giáo, miễn là xử dụng quyền ấy không trái với luân lư và thuần phong mỹ tục.” Hiến pháp 26/10/1956 như vậy đă minh thị công nhận nguyên tắc tự do tín ngưỡng và b́nh đẵng giữa các tôn giáo.

    Tuy nhiên trong phần “Mở đầu” của Hiến pháp, đă có một đoạn phản chiếu của một sự thiên vị Thiên Chúa giáo khá rơ rệt như sau:

    “Ư thức rằng nước ta ở trên con đường giao thông và di dân quốc tế, dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưỡng tiến bộ để hoàn thành sứ mệnh trước Đấng Tạo Hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh nhân bản và phát triễn con người toàn diện....”

    Trong đoạn văn trích dẫn này, phần mở đầu của Hiến pháp 1956 đă đề cập đến “sứ mạng trước Đấng Tạo Hóa” [chứ không phải trước dân tộc], tức là trước Đức Chúa trời trong Thiên Chúa giáo, mà không đề cập tới các tôn giáo khác.

    Đoạn văn này đă đượm sắc thái thiên vị Thiên Chúa giáo. Vô t́nh hay cố ư, đoạn văn này đă tạo cho Thiên Chúa giáo một địa vị ưu đăi đặc biệt tại Việt Nam v́ Hiến pháp 1956 nói rơ là nhằm mục dích hoàn thành sứ mạng trước Chúa tức là Đấng Tạo hóa đă tạo dựng ra trời đất và vạn vật theo như Thánh kinh của Thiên Chúa giáo đă chép.

    Sự thiên vị này cũng không có ǵ lạ v́ chính em Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm là Ngô Đ́nh Nhu, giữ chức “cố vấn chính trị” bên cạnh tổng thống cũng như là một dân biểu đắc cử tại quận Vạn Ninh, Ninh Ḥa (tỉnh Khánh Ḥa) với tư cách ứng cử viên của đảng Cần Lao.

    Vợ Ngô Đ́nh Nhu là Trần Lệ Xuân cũng trúng cử dân biểu tại đơn vị 1 (các quận Gio Linh, Trung Lương , Cam Lộ và Hương Hóa - tỉnh Quăng Trị). Ngoài ra hầu hết các dân biểu khác đều là bộ hạ của gia đ́nh họ Ngô.

    Do đó lời mở đầu của Hiến pháp năm 1956 đă phản ảnh một sự thiên vị đối với Thiên Chúa giáo là điều không có ǵ lạ, nhất là sự thiên vị này chỉ được đề cập đến trên một b́nh diện lư thuyết, không có những hậu quả như Dụ số 10, biệt đăi Thiên Chúa giáo về phương diện thực tế.

    B. - Dụ số 10 và sự ưu đăi Thiên Chúa giáo

    Trong nền luật pháp thông thường của nền Đệ nhất Cộng ḥa, Dụ số 10 ngày 6 tháng 8 năm 1950 là bản văn pháp luật đă bị dư luận chỉ trích rất nhiều, v́ đă minh thị dành cho Thiên Chúa giáo một địa vị ưu đăi và đồng hóa các tôn giáo khác, trong đó có Phật giáo, vào các hiệp hội mà sự thành lập cũng như các sinh hoạt khác phải tuân theo một sự quy định chặt chẽ. Sự hủy bỏ Dụ số 10 này là một trong năm đ̣i hỏi của Phật giáo sau vụ triệt hạ cờ Phật giáo tại Huế.

    Dụ số 10 này đă được Bảo Đại ban hành từ ngày 6/8/1950 để quy định thể lệ lập hiệp hội (Association). Tại sao sự quy định này đă được áp cho tất cả các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng? Tại sao Ngô Đ́nh Diệm không sửa đổi sự quy định ấy?

    Các nét chính của của Dụ số 10:

    ● Điều thứ nhất của Dụ số 10 đă định nghĩa thế nào là một hiệp hội và đồng thời hoạch định phạm vi áp dụng của Dụ này :”Hội là hiệp ước của hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi tức, như là mục đích tế tư, tôn giáo, chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu khiển, thanh niên thể thao va đồng hiệp ái hữu. Muốn có hiệu lực th́ hội nào cũng phải hợp với nguyên tắc chung của pháp luật và khế ước và nghĩa vụ.”

    ● Điều số 4 của Dụ số 10 bắt buộc các hiệp hội phải được các Tổng trưởng Bộ Nội vụ kư nghị định cho phép thành lập mới được hoạt động. Nếu hiệp hội chỉ được hoạt động trong phạm vi một phần Việt Nam, th́ nghị định cho phép thành lập do Thủ hiến kư chiếu ủy nhiệm của Tổng trưởng Bộ Nội vụ.

    ● Theo điều thứ 6, người sáng lập hội phải làm đơn xin phép thành lập kê rơ:

    - Mục đích của hội

    - Tên hiệu của hội

    - Hạn điều ước

    - Thể lệ vào hội, ra hội va trục xuất khỏi hội

    - Nghĩa vụ và quyền lợi các hội viên.

    - Tài sản của hội.

    - Thể lệ về động sản và bất động sản của hội.

    - Họ và tên tuổi của người sáng lập.

    - Thể lệ về việc cử và băi của những người quản trị và những quyền hạn của người ấy.

    - Nguyên cớ giải tán hội.

    - Thể lệ thanh toán va quy dụng tài sản hội.

    ● Điều thứ 8 quy định rằng hạn trong một tháng kể từ ngày được phép thành lập, nhân viên trong ban trị sự của hội phải đăng trong công báo Việt Nam hay trong Hành pháp Tập san tại các phần Việt Nam, một bán báo cáo nói rơ ngày được phép thành lập hội, nghị định do chức vụ nào kư, danh hiệu mục đích của hội và sở.

    ● Điều thứ 10 dự liệu rằng nếu có việc ǵ thay đổi trong việc trị sự của hội th́ hạn trong 1 tháng phải tŕnh cho Tỉnh trưởng, Thị trưởng, Quận trưởng Sài G̣n – Chợ Lớn để tŕnh cho Thủ hiến và Tổng trưởng Bộ Nội vụ biết.

    Những tờ khai ấy phải nói rơ:

    - Những sự thay đổi trong nhân viên ban trị sự hay Giám đốc.

    - Những doanh sở và chi nhánh mới thành lập.

    - Những sự thay đổi về địa chỉ của hội sở.

    - Những việc mua bán bất động sản và đính theo một tờ tŕnh phác tả và kê giá mua, giá bán các bất động sản ấy.

    Các sự thay đổi trong việc trị sự và điều lệ của hiệp hội phải biên rơ trong một cuốn sổ để tại trụ sở của hội và phải biên rơ ngày khai và ngày duyệt y các sự thay đổi ấy.

    ● Điều thứ 13 c̣n đặt ra một điều kiện khó khăn hơn : Các hiệp hội mỗi năm, trong tuần lễ sau khi hội họp đại hội thường niên, phải theo hệ thống cai trị, gởi cho Thủ hiến sở tại để chuyển lên Tổng trưởng Bộ Nội vụ hai bản danh sách các hội viên, và hai bản kê t́nh h́nh tài chánh và tự rơ các căn nguyện cùng việc xữ dụng tiền tài của hội.

    ● Điều thứ 14 liên hệ đến các nguồn lợi tức và tài chánh của các hiệp hội:”Không hội nào có quyền trợ cấp của chính phủ, của các địa phương, quỹ hàng tỉnh và quỹ hàng xă, trừ những hội khoa hoc, mỹ nghệ, tiêu khiển, từ thiện, thanh niên và thể thao.”

    Các hội đều có quyền thu và xử dụng tiền góp của hội viên và quyền thưa kiện tại ṭa án.

    Ngoài ra các hội chỉ có quyền chiếm hữu, tạo măi, quản trị, đứng làm sở hữu chủ những bất động sản thật cần thiết để đạt mục đích của hội. Những người có liên quan và công tố viên có quyền xin ṭa án hủy bỏ những việc tạo măi bất động sản trái với điều này. Bất động sản ấy sẽ đem bán đấu giá và được bao nhiêu tiền sẽ sung vào quỷ hội.

    ● Theo điều thứ 20, điều lệ của hội định rơ nghĩa vụ cùng quyền lợi của các hội viên. Người nào vào hội th́ bắt buộc phải tuân theo điều lệ của hội.

    ● Các điều 25, 26 va 27 qui định về Đại hội đồng của hội: Đại hội đồng có quyền tuyệt đối trong hội. Đại hội đồng do những người thay mặt hội đứng chiêu tập. Sự chiêu tập cứ như điều lệ hoặc khi có một phần tư trong số hội viên thỉnh cầu mà làm. (Đ 25).

    Đại hội đồng sẽ định đoạt về việc nhận hội viên vào hay trục xuất hội viên khỏi hội, cử các người thay mặt hội, kiểm soát việc làm của họ và có thể băi nhiệm vụ của họ, nếu có duyên cớ chính đáng

    Đại hội đồng xét xử mọi việc không thuộc về các cơ quan khác của hội. (Đ.26)

    Hội viên nào cũng có quyền bỏ phiếu như nhau trong kỳ Đại hội đồng.



    ● Các điều 30, 31, 32 và 33 qui định chặt chẽ các hoạt động của hiệp hội và dự liệu các sự chế tài.

    Sau khi hội đă được phép thành lập, ban trị sự phải tŕnh chiếu nhà đương chức sở tại và Tổng trưởng bộ Nội vụ hay Thủ hiến, theo hệ thống cai trị, bản nội qui của hội và nếu sau này có điều ǵ sửa đổi cùng phải tŕnh chiếu những sự sửa đổi ấy. (Đ.30)

    Các hội đă được phép thành lập phải hoạt động theo đúng mục đích của hội đă tự trong điều lệ. Khi nào xét ra một hội đă quả thị trực tiếp hay gián tiếp theo những mục đích khác với mục đích trong điều lệ th́ hội sẽ bị giải tán và các hội viên, nhân viên ban trị sự có thể bị truy tố tại ṭa án. (Đ. 31)

    Những hội không đươc phép thành lập th́ coi như không có và tất cả những hoạt động của hội đều coi như vô hiệu lực và hội sở của hội ấy thuộc quản hạt ṭa án tỉnh ấy có quyền giải tán.

    Người nào cũng có quyền tŕnh ṭa án để xin giải tán các hội không được phép thành lập.( Đ. 32)

    ● Điều 33 dự liệu trong những h́nh phạt đối với những hội viên sáng lập, những hội viên giám đốc và quản trị không được phép thành lập hay đă được phép thành lập nhưng sau lại bị giải tán, mà vẫn cứ hoạt động hay lại tự tiện tự lập trái phép, hay đă hoạt động ra ngoài mục đích định trong điều lệ hội để đạt mục đích trái phép hay trái phong tục.... Trong những phong tục kể trên, h́nh phạt sẽ là phạt bạc 50 đồng đến 5.000 đồng và phạt giam từ 6 ngày cho đến 6 tháng.

    Đối với hội viên thường, h́nh phạt từ 50 đồng tới 200 đồng và phạt giam từ 6 ngày đền 2 tháng hoặc một trong hai thứ h́nh phạt này.

    Những người dung túng cho họp các hội không được phép thành lập hay bị giải tán cũng có thể bị phạt như trên. Ṭa án khi truy tố sẽ giải tán hội.

    ● Điều 43 dự định rằng các nghiệp đoàn phải tuân theo sự quy định của Dụ số 10. Các nghiệp đoàn đă thành lập rồi phải tạm ngưng hoạt động và trong thời hạn một tháng sẽ phải hợp thức hóa theo Dụ số 10.

    ● Điều 44 quan trọng nhất v́ người ta đă căn cứ vào điều này để áp dụng Dụ số 10 cho Phật giáo. Điều 44 quy định: “Chế độ đặc biệt cho các Hội Truyền giáo Thiên Chúa giáo và Gia Tô và các Hoa kiều lư sự Hội sẽ ấn định sau.”

    V́ điều 44 chỉ đề cập tới chế độ riêng biệt cho các Hội Truyền giáo Thiên Chúa giáo và các Lư sự Hội Hoa kiều nên Chính phủ Ngô đ́nh Diệm đă cho rằng Phật giáo – v́ không nằm trong các trừ lệ kể trên - cũng bị Dụ số 10 chi phối.

    Nói khác, mặc dầu Dụ số 10 do Bảo Đại ban hành từ tháng 8/1950, gần 4 năm trước khi Ngô Đ́nh Diệm về chấp chánh, nhưng chính phủ Ngô Đ́nh Diệm vẫn đem Dụ ấy ra áp dụng cho các Hội Phật giáo, không thay đổi, coi Giáo hội cũng như các Hiệp hội thể thao hay từ thiện. Trong khi đó các hội Truyền giáo Gia Tô được biệt đăi v́ điều 44 của Dụ số 10 đă dự liệu quy chế các Hội này sẽ được dự liệu sau.

    Phạm vi áp dung Dụ số 10

    Tại sao lại đem áp dụng Dụ số 10 về các Hiệp hội cho Giáo hội Phật giáo?

    Dụ số 10 đă minh bạch nêu rơ ngay trong nhan đề là “Dụ quy định thể lệ lập hội”

    Mặc dù trong điều thứ nhất, Dụ số 10 có định nghĩa minh bạch: “Hội là hiệp ước của hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục đích không phải là chia lợi tức, như mục đích thuộc về tế tư, tôn giáo...ta không thể nào coi các tổ chức Phật giáo như Tổng hội Phật Giáo Việt Nam là một hiệp hội thông thường giống như các hiệp hội khuyến khích văn hóa hay thể thao và bắt buộc tuân theo Dụ số 10.

    Ngay đối với các nghiệp đoàn, nhà làm luật 1950 cũng thấy cần phải minh thị ghi rơ trong điều 43 là các nghiệp đoàn cũng do Dụ số 10 chi phối. Đối với các hội Truyền giáo Thiên Chúa giáo và các Lư Sự hội Hoa kiều (tức là các Bang Hoa kiều), nhà làm luật 1950 cũng ghi rơ sẽ qui định một chế độ riêng.

    Đối với Phật giáo sỡ dĩ nhà làm luật 1950 không ghi rơ là do Dụ số 10 và chi phối, và cũng không bắt buộc hợp thức hóa như các nghiệp đoàn, v́ sự thật đă quá hiển nhiên: Tự ngàn xưa các tổ chức Phật giáo không bao giờ là một hội. Dân chúng đến chùa đi lễ Phật, để nguyện cầu thoát khỏi bể khổ trần gian và ṿng sinh hóa. Không một Phật tử nào có một ư nghĩ vào hội hay lập hội theo ư nghĩ thông thường phàm tục.

    Đứng trên phương diện thuần túy pháp lư, phải có yếu tố chính yếu là ư muốn lập hội (Animus societatis hay affectio societatis) của các đương sự mới có thể nói đến hội. Thiếu yếu tố ấy như trong cộng đồng Phật tử, không thể nào nói đến hội hay hiệp hội.

    Chính trong điều thứ nhất Dự số 10 đă định nghĩa minh bạch “Hội là Hiệp ước hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi một mục đích...” Ở đây trong các giáo hội hay các tổ chức trong Phật giáo, thiếu hẳn sự thỏa thuận lập hội trong tâm trí của các Phật tử, th́ làm sao gọi được là hội để áp dụng Dụ số 10? Bắt buộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam phải tuân theo Dụ số 10 như một hội khuyến khích thể thao hay một hội văn hóa là một hành động ngu dốt của chính quyền.

    Sở dĩ chúng tôi đă phân rơ nội dung những điều chính yếu của Dụ số 10, chính là để chứng minh rằng sự quy định ấy không thể nào áp dụng cho Giáo hội Phật giáo.

    Chúng tôi chỉ cần nêu một điểm hiển nhiên: Theo điều 13 “Các hội mỗi năm, trong tuần lễ sau khi họp đại hội đồng thường xuyên, phải theo hệ thống cai trị, gởi cho Thủ hiến sở tại để chuyển lên Tổng trưởng Bộ Nội Vụ hai bản danh sách các hội viên và hai bản kê khai t́nh h́nh tài chánh và tự rơ các căn nguyên cùng việc xử dụng các tiền tài của hội.”

    Ai cũng rơ là các Phật tử gồm hơn 80% dân số. Nếu coi các Phật tử là hội viên của giáo hội và hàng năm phải gửi các danh sách lên Bộ Nội vụ, thật là một điều phiền nhiều vô lư!

    Tuy nhiên, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm vẫn công nhiên coi phạm vi áp dụng Dụ số 10 bao gồm cả giáo hội Phật giáo.

    Khi phái đoàn điều tra của tổ chức Liên Hiệp quốc được phái sang Việt Nam vào tháng 10 năm 1963, ông Bùi văn Lượng, Bộ trưởng bộ Nội vụ, đă phải biện luận một cách gượng gạo như sau về sự áp dụng Dụ số 10 cho Phật giáo:

    “Chúng tôi luôn luôn có một thái độ vô cùng cởi mở đối với những vấn đề tôn giáo và nhất là đối với Phật giáo. Nhiều điều khoản trong Dụ, như sự bắt buộc phải khai báo với bộ Nội vụ danh sách những hội viên của chùa, của một ủy ban hay của một hội Phật giáo thường đươc làm ngơ, nhất là taị các tỉnh. Cho đến 1960, thái độ dễ dăi ấy trở thành thông dụng, và khi tôi được bổ nhiệm giữ chức Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ, thái độ ấy vẫn c̣n tiếp tục, và tôi không bắt thi hành một cuộc kiễm tra nào hết. Nhưng năm 1963, tôi tra cứu các sổ bộ và thấy sự hiện diện của một số chùa chiền và Phật giáo đồ, tôi mới nhận ra rằng thật quả chúng tôi không thi hành Dụ số 10! Những sổ bộ ghi chép bỏ dỡ dang, chứng tỏ rằng chúng tôi đă áp dụng Dụ số 10 một cách tự do và mềm dẽo. Những ngôi chùa và những hội Phật giáo được thành lập mà không khai báo. Điều ấy có thể chấp nhận ở thôn quê nhưng ngay ở các đô thị và bộ Nội vụ cũng không có giấy tờ khai báo cả. Từ 1954 đến tháng 1/1963, chúng tôi không nhận được một đơn từ khiếu nại hay yêu cầu sửa đổi Dụ số 10 nào cả. Tôi cần phải minh xác hai điểm sau đây. Chỉ vào tháng 5 năm nay (1963), trong khi vụ Phật giáo bùng nổ, tôi mới tra cứu sổ bộ để xem tổng số chùa chiền. Lúc ấy tôi mới nhận thấy rằng các sổ bộ không được ghi chép một cách đầy đủ, kịp thời và có nhiều chùa và hội không được nhập bộ ngay ở các tỉnh....” (2)

    Như vậy chính Bộ trưởng bộ Nội vụ cũng xác nhận rằng trước năm 1963, trong thực tế, Dụ số 10 không áp dụng cho các chùa chiền và Phật giáo. Danh sách hội viên không được kê khai đầy đủ và bộ Nội Vụ cũng bỏ ngơ không bắt buộc phải gửi các danh sách đến chính quyền.

    Sự thực như đă nêu rơ trên đây, đem áp dụng Dụ số 10 cho Phật giáo là một việc làm trái với mục đích và sự quy định của nhà làm luật 1950. Hơn nữa nếu quả Dụ số 10 có một phạm vi áp dụng dẫn đến sự đối đăi các tôn giáo một cách bất b́nh đẵng, th́ Dụ số 10 vi hiến, trái với điều 17 của Hiến pháp 1956 dự liệu sự tự do tín ngưỡng mà chúng ta đă phân tách.

    Thiếu tướng Trần Tử Oai, đại diện của chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, thuyết tŕnh về vấn đề Phật giáo trước phái đoàn Liên Hiệp Quốc, cũng đă đề cập đến Dụ số 10 và một quan điểm tương tự như Bộ trưởng Bộ Nội vụ: ....“Trong thực tế, chính phủ không áp dụng triệt để Dụ số 10.”:

    “Đối với nhũng hội thuần túy Phật giáo, chính phủ cũng rất khoan hồng, bằng chứng là hàng trăm ngôi chùa được dựng lên mà không cho chính quyền biết chúng thuộc hội nào, cũng không tŕnh điều lệ lập hội hay khai báo ǵ cả.

    Những ngôi chùa ấy , mà sự thống nhất chỉ nằm trong danh từ Phật đà và cái y của nhà sư, thường thường không có một giây liên hệ ǵ với nhau hết. Hiện nay có nhiều chùa và nhiều giáo phái Phật giáo hoàn toàn khác nhau về phương diện thờ cúng và không thống thuộc ǵ với Tổng hội Phật giáo Việt Nam cả.

    Trong thực tế, từ khi ban hành Dụ số 10, chính phủ chỉ áp dụng những điều khoản trong văn kiện ấy đối với những hội tôn giáo mà những hoạt động có những tính cách hoạt dộng xă hội. như hoạt động của Phật giáo xă hội chẵng hạn. Chính phủ chưa bao giờ dùng dụ ấy để nhằm mục đich kỳ thị tôn giáo nào hết.

    Cũng nên ghi nhớ rằng từ năm 1950, nghĩa là từ 13 năm nay, không có một hội tôn giáo nào, Phật giáo hay Thiên Chúa giáo, gợi lên vấn đề liên quan đến căn bản của Dụ số 10 nói trên.

    Mặc dù thế để đáp lại nguyện vọng của phái đoàn Phật giáo, Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa đă chỉ thị cho ông Bộ trưởng Nội vụ tiếp xúc với cơ quan Lập pháp để nghiên cứu những sửa đổi cho Dụ số 10, và Quốc hội đă thành lập một ủy ban đặc biệt có nhiệm vụ xem xét toàn diện vấn đề liên quan đến các hội truyền giáo.

    Bản thuyết tŕnh của Thiếu tướng Trần Tử Oai được thảo bằng Pháp văn và đă được trao tay cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc” (3)

    Về vấn đề sửa đổi Dụ số 10, Tổng trưởng Bộ Nội vụ đă cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc biết :”Từ 1956 đến 1959, chúng tôi đă trải qua hai Quốc hội Lập pháp, và trước khi vụ Phật giáo bùng nổ, chính phủ không được Quốc hội chuyển một dự án nào về sự sửa đổi Dụ số 10. Cái nguồn xuất phát thứ hai của những sửa đổi là chính phủ. Muốn đề cập đến sự sửa đổi một đạo dụ hay không, phải chú ư đến hai điểm. Thứ nhất phải xem xét sự sửa đổi có cần thiết không, thứ hai phải có đơn thỉnh nguyện của dân chúng. Về điểm thứ nhất cho đến khi vụ Phật giáo bùng nổ trong tháng năm 1963, chúng tôi nhận thấy không cần thiết phải sửa đổi dụ ấy v́ mặc dù có những điều khoản rất nghiệt ngă và sự dự trù kiểm soát rất chặt chẽ của nó đối với các hiệp hội, chính phủ chưa bao giờ áp dụng một cách ngiêm khắc...” (4)

    Sự thực, việc áp dụng Dụ số 10 cho Phật giáo, dù là một sự áp dụng lỏng lẻo, cũng là một sai lầm v́ Phật giáo cũng là một tôn giáo, không phải là một hiệp hội. Sở dĩ Dụ số 10 được đem thi hành cho Phật giáo chỉ v́ chính phủ muốn kiểm soát Phật giáo.

    Không những trên phương diện hiến pháp va pháp luật, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă ưu đăi Thiên Chúa giáo, thái độ này c̣n được phản ảnh trong nhiều hành động khác.

    Vũ Văn Mẫu

    [Trích từ “Sáu tháng Pháp nạn”]

  5. #205
    chichchoe
    Khách
    TUYÊN NGÔN CỦA 18 NHÂN VẬT

    THUỘC NHÓM "TỰ DO TIẾN BỘ"

    [Nhóm Caravelle]
    GỞI TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG H̉A

    [Ngô Đ́nh Diệm]


    Thưa Tổng thống,

    Chúng tôi kư tên dưới đây, đại diện cho một nhóm đồng bào, nhân vật và trí thức tên tuổi thuộc mọi xu hướng, nhóm những người thiện chí nhận thấy rằng đối diện với sự trầm trọng của t́nh h́nh chính trị hiện nay, chúng tôi không thể cứ bàng quan với những thực tế của nước ta.

    V́ vậy, chúng tôi chính thức gửi đến Tổng thống hôm nay lời kêu gọi, với mục đích phơi bày với Tổng thống tất cả sự thật trong niềm hy vọng là chính quyền sẽ lưu tâm để gấp rút thay đổi chính sách, hầu cứu văn t́nh h́nh hiện nay để đưa quốc dân ra khỏi cơn nguy biến.

    Chúng ta hăy nh́n lại dĩ văng thời Tổng thống c̣n ở nước ngoài. Đă 8, 9 năm qua, dân tộc Việt Nam trải qua nhiều thử thách do chiến tranh mang lại; từ sự độ hộ của Pháp đến việc chiếm đóng của Nhật, từ cách mạng cho đến kháng chiến, từ việc Cộng Sản núp sau chiêu bài quốc gia để gạt gẫm cho đến nền độc lập giả tạo che dấu nền thực dân, từ kinh hoàng này đến kinh hoàng khác, hy sinh liên tục - nói tóm lại từ hứa hẹn này đến hứa hẹn khác, cuối cùng cho đến khi niềm hy vọng kết thúc bằng một sự thất vọng chua cay.

    V́ vậy, khi Tổng thống sắp sửa hồi hương, toàn dân đă nuôi mối hy vọng là dưới sự lănh đạo của Tổng thống, toàn dân sẽ lại t́m thấy được nền Ḥa b́nh cần thiết để đem lại ư nghĩa cho cuộc sống, để dựng lại ngôi nhà đă bị phá hủy, để đặt lại được cái cày trên những mảnh đất từng bị bỏ hoang. Nhân dân hy vọng rằng không c̣n bị bắt buộc buổi sáng hoan hô một chế độ, buổi chiều hoan hô một chế độ khác, không c̣n là con mồi cho sự tàn bạo và áp lực của một phe phái nào, không c̣n bị đối xử như cu-li, không c̣n một nền độc quyền nào thao túng, không c̣n bị sự cướp bóc của công chức tham nhũng và độc đoán. Nói tóm lại, nhân dân ước mong được sinh sống trong sự an ninh, dưới một thể chế sẽ đem lại cho họ một chút công lư và tự do. Toàn dân nghĩ rằng Tổng thống sẽ là con người của thời thế và sẽ đáp ứng được nguyện vọng của họ.

    Lúc Tổng thống mới về nước th́ t́nh trạng quốc gia như thế đó. Hiệp ước Genève năm 1954 chấm dứt cuộc chiến và sự tàn phá của chiến tranh. Quân đội viễn chinh Pháp tuần tự rút đi và nền độc lập cho miền Nam Việt Nam trở thành một sự thật. Ngoài ra, nước nhà c̣n được sự khích lệ tinh thần và được hưởng sự viện trợ đáng kể của thế giới tự do. Với nhiều yếu tố chính trị thuận lợi như thế thêm vào những điều kiện địa dư may mắn có được đất đai màu mỡ về nông lâm sản và thặng dư về hải sản, đáng lẽ miền Nam Việt Nam đă phải đủ sức để bắt đầu đi đến thắng lợi cuối cùng trong cuộc chiến đấu với miền Bắc, để có thể thỏa măn được ư dân và đưa đất nước đến hy vọng, tự do và hạnh phúc. Ngày này, sáu năm sau, sau khi hưởng được nhiều lợi điểm không thể chối căi đến như thế, Chính phủ đă làm được những ǵ? Chính phủ đă đưa miền Nam đi về đâu? Những ước vọng tha thiết nào của nhân dân đă được thành tựu?

    Chúng ta thử tổng kết t́nh h́nh một cách khách quan, không xu nịnh mà cũng không buộc tội sai lầm, theo đúng đường hướng xây dựng mà chính Tổng thống vẫn hay nói đến với ước vọng là Chính phủ sẽ thay đổi chính sách để tự đưa ḿnh ra khỏi một t́nh trạng hết sức hiểm nghèo cho sự sinh tồn của quốc gia.



    VỀ CHÍNH TRỊ

    Mặc dù chế độ ngoại lai do thực dân tạo ra và che chở đă bị lật đổ và nhiều phe nhóm từng đàn áp nhân dân đă bị triệt hạ, dân chúng vẫn chưa t́m thấy được một cuộc sống khá hơn hay có nhiều tự do hơn dưới chế độ Cộng Ḥa do Tổng thống thành lập. Một hiến pháp đă được lập ra nhưng chỉ có h́nh thức. Và Quốc hội tuy có đấy nhưng những cuộc thảo luận luôn luôn được diễn ra chỉ theo đường hướng của chính quyền. Và những cuộc bầu cử phản dân chủ. Toàn là những phương pháp và “tṛ hề” bắt chước các chế độ Cộng Sản độc tài và lẽ tất nhiên là không thể đem ra để so sánh với miền Bắc được.

    Những vụ bắt bớ liên tục tiếp diễn làm cho nhà giam và khám đường đầy đến tận nóc như hiện nay đang xảy ra; dư luận quần chúng và báo chí phải câm lặng. Cũng thế, ư dân bị khinh nhục và chà đạp trong những cuộc đầu phiếu (ví dụ trường hợp xảy ra trong cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2 mới đây). Tất cả những điều này đă gây ra sự nản chí và bất măn của dân chúng.

    Các chính đảng và giáo phái đă bị loại bỏ. Thay vào đấy là các “Nhóm” và “Phong trào”. Nhưng sự thay thế này chỉ đem đến những điều áp bức mới cho dân chúng mà không che chở được cho dân chúng của các giáo phái từ trước vẫn là những vùng tử địa của Cộng Sản th́ nay không những đă mất hết an ninh (cho người Quốc gia) mà c̣n trở thành những đại lộ cho du kích Việt Cộng mà t́nh trạng chung như thế xảy ra khắp nơi.

    Đây là chứng cớ cho thấy rằng các giáo phái tuy nhỏ nhoi không đáng kể đă là những thành phần chống Cộng hữu hiệu. Việc triệt hạ các giáo phái đă mở lối cho Việt Cộng và vô t́nh dọn đường cho kẻ thù, trong khi một chính sách thực tế và uyển chuyển hơn đă có thể liên kết họ về chung thành một khối để tiếp sức cho trận tuyến chống Cộng.

    Ngày nay, nhân dân muốn được tự do. Đáng lẽ Tổng thống nên mở rộng chế độ, khuyến khích nền dân chủ, bảo đảm các quyền công dân tối thiểu và công nhận đối lập hầu dân chúng được nói lên tiếng nói của ḿnh mà không sợ hăi để dẹp được sự bất măn và căm thù, v́ đối với dân chúng, thế đối lập là lư do độc nhất cho họ tồn tại. Khi Tổng thống thực hiện xong được những điều này th́ nhân dân miền Nam Việt Nam có thế đứng của ḿnh đối với miền Bắc mà nhận ra được giá trị của một nền tự do thật sự và một nền dân chủ chân chính. Chỉ đến lúc đó dân chúng mới sẽ nỗ lực và hy sinh tối đa để bảo vệ sự tự do và nền dân chủ ấy.



    VỀ CHÍNH QUYỀN

    Lănh thổ thu hẹp lại, số công chức lại tăng lên mà việc quản trị lại không chạy. Ấy là v́ chính quyền giống như Cộng Sản, đă để cho các đoàn thể chính trị (của chính quyền) kiểm soát người dân, tách rời nhóm ưu tư ra khỏi hạ tầng và gieo rắc sự nghi ngờ giữa những kẻ liên hệ với “đoàn thể” và những người “ngoài đoàn thể”. Thực quyền không c̣n ở trong tay của những người đáng lư có trách nhiệm của “gia đ́nh”, nơi từ đó các mệnh lệnh được truyền ra. Điều này làm cho guồng máy hành chánh bị chậm lại, làm tê liệt mọi sáng kiến và làm nản ḷng mọi người có thiện chí. Đồng thời, không một tháng nào trôi qua mà báo chí không đăng đầy những chuyện hối lộ không thể che dấu được, những chuyện này trở thành một chuỗi dài những giao dịch phi pháp hằng triệu bạc.

    Guồng máy hành chánh, vốn đă bị đ́nh trệ bây giờ hầu như hoàn toàn trở nên tê liệt. Nền hành chánh cần được cải tổ gấp rút. Những người có khả năng phải được đặt đúng vào những chức vụ từ trên xuống dưới, hệ thống hành chánh và kỷ luật phải được tái lập, quyền lực và trách nhiệm phải đi đôi với nhau; sự hữu hiệu, sáng kiến, ḷng ngay thẳng và tính cần kiệm phải là những tiêu chuẩn để dùng vào việc thăng thưởng, khả năng nghề nghiệp phải được tôn trọng. Phải loại trừ t́nh trạng ban phát ân huệ bằng vào những liên hệ gia đ́nh hay phe phái. Những kẻ buôn bán quyền hành, tham nhũng và lạm dụng quyền thế phải bị trừng trị.

    Có như thế th́ mọi chuyện vẫn c̣n có thể cứu văn được, nhân phẩm c̣n có thể phục hồi, và có thể dựng lại niềm tin vào một chính quyền thành thật và công b́nh.



    VỀ QUÂN ĐỘI

    Quân đội viễn chinh đă ra khỏi nước và một quân đội Cộng Ḥa đă được thành lập; nhờ vào viện trợ Hoa Kỳ quân đội này đă được trang bị với quân trang quân cụ tối tân. Tuy nhiên ngay cả trong lực lượng thanh niên kiêu hănh như Quân đội Việt Nam - nơi mà đáng lư tinh thần danh dự phải được vun xới, gồm những kẻ mà bầu nhiệt huyết và những cánh tay phải được tận dụng vào việc bảo vệ quốc gia, nơi mà đáng lẽ phải vắng bóng đầu óc phe phái - th́ tinh thần “Phong trào Cách mạng Quốc gia” hoặc tinh thần “Nhân vị” đă chia rẽ những kẻ cùng chung một đơn vị, gây ngờ vực giữa những bạn đồng ngũ đồng cấp và lấy “sự trung thành với một đảng để tùng phục mù quáng những kẻ lănh đạo đảng” làm tiêu chuẩn thăng thưởng. Điều này đă tạo ra những điều kiện cực kỳ nguy hiểm, như trong vụ vừa xảy ra ở Tây Ninh. (Bernard Fall ghi chú: Vụ sư đoàn 21 bị Việt Cộng tấn công đầu năm 1960).

    Nhiệm vụ của quân đội, rường cột của việc bảo vệ quê hương, là chận đứng những cuộc ngoại xâm và tiêu diệt các phong trào nổi loạn. Quân đội chỉ phục vụ quốc gia và không nên để cho một phe nhóm hay đảng phái nào lợi dụng. Việc cải tổ toàn diện quân đội là một điều cần thiết. Đầu óc phe phái và sự trung thành với một đảng phải được loại bỏ; tinh thần quân đội phải được tái phục hồi cho mạnh lên, phải tạo ra một truyền thống cao đẹp về niềm hănh diện quốc gia; và tinh thần chiến đấu, lương tâm nghề nghiệp và ḷng can trường phải là những tiêu chuẩn dùng trong việc thăng thưởng. Phải khuyến khích binh sỹ biết kính trọng cấp trên và phải khuyến khích sĩ quan phải biết yêu thương binh sĩ. Phải loại bỏ ḷng ngờ vực, ganh tỵ và đố kỵ giữa những kẻ đồng đội, đồng ngũ.

    Có như thế, gặp thời nguy biến quốc gia sẽ có được một quân đội hào hùng thúc đẩy bởi một tinh thần và có cùng một lư tưởng: bảo vệ cho cái sở hữu chúng ta: quê hương Việt Nam.



    VỀ KINH TẾ VÀ XĂ HỘI

    Một xứ sở giàu có và ph́ nhiêu với thực phẩm dư thừa, một ngân sách không cần phải đối phó với những chi phí Quốc pḥng, (chi phí Quốc pḥng của miền Nam Việt Nam do kinh viện và quân viện của Hoa Kỳ đài thọ: ghi nhận thêm của Bernard Fall) những ngân khoản bồi thường chiến tranh lớn lao, mức lời cao đẻ ra từ công khố phiếu quốc gia, một chương tŕnh ngoại viện khổng lồ, một thị trường bành trướng và đủ sức nhận vốn đầu tư của ngoại quốc. Đó là nhiều điều kiện thuận lợi có thể biến Việt Nam thành một quốc gia sản xuất cao và thịnh vượng. Thế mà hiện nay nhiều người không có việc để làm, không có nhà để ở và không có tiền bạc. Gạo nhiều nhưng bán không được, các tiệm đầy hàng mà hàng hóa lại không di chuyển - nguồn lợi nằm trong tay những kẻ đầu cơ, dùng phe nhóm, đoàn thể của chính quyền để che dấu việc buôn bán độc quyền đem lợi về cho một thiểu số tư nhân. Trong lúc đó, hằng ngàn dân bị huy động đi làm việc cực nhọc, bị ép buộc phải rời bỏ công ăn việc làm, nhà cửa gia đ́nh của ḿnh để tham gia vào công tác xây dựng những “Khu Dinh Điền” tuy đồ sộ nhưng vô ích. Điều này làm họ mỏi mệt và mất thiện cảm với chính quyền càng làm cho mối bất măn thêm trầm trọng và tạo một môi trường lư tưởng cho công tác tuyên truyền của địch.

    Kinh tế là nền móng của xă hội và ḷng dân là yếu tố sống c̣n của chế độ. Chính quyền phải phá tan mọi chướng ngại cản trở việc mở mang kinh tế. Phải hủy bỏ sự độc quyền và đầu cơ dưới mọi h́nh thức; phải tạo môi trường thuận tiện cho việc đầu tư đến từ phía các quốc gia thân hữu cũng như từ chính nhân dân của ta; phải khuyến khích kinh doanh thương mại, khuếch trương kỹ nghệ và tạo công ăn việc làm để giảm thiểu t́nh trạng thất nghiệp. Đồng thời, chính quyền phải chấm dứt sự bóc lột con người dưới mọi h́nh thức trong các công trường lao động của những “Khu Dinh Điền”.

    Có thế nền kinh tế mới lại phát triển, người dân mới t́m lại được cuộc sống an b́nh và mới được thụ hưởng đời sống của ḿnh, xă hội mới được tái thiết trong một bầu không khí tự do và dân chủ.



    Thưa Tổng thống, có lẽ đây là lần đầu tiên Tổng thống mới được nghe lời phê b́nh gắt gao và khó chịu ngược lại với ư muốn của Tổng thống. Tuy nhiên, thưa Tổng thống, những lời tŕnh bày ở đây là sự thật hoàn toàn, một sự thật cay đắng nặng nề mà Tổng thống chưa bao giờ biết được v́ dù vô t́nh hay chủ ư, một khoảng trống quanh Tổng thống đă được tạo ra và chính v́ cái địa vị cao cả của Tổng thống mà không ai để cho Tổng thống nhận ra được thời kỳ nghiêm trọng khi mà sự thật sẽ tràn tới như những làn sóng căm hờn không cưỡng nổi, sự căm hờn của nhân dân đă từ rất lâu phải nhận chịu sự đau khổ khủng khiếp đến một lúc sẽ vùng lên bẻ gẫy những ràng buộc từng cột chặt ḿnh, đè ḿnh xuống. Làn sóng này sẽ quét sạch sự ô nhục và bất công vốn bao quanh người dân đă áp bức họ.

    V́ chúng tôi hoàn toàn thành thật không muốn thấy Quê Cha Đất Tổ phải trải chịu những ngày tháng hiểm nghèo đó nên chúng tôi - không kể đến những hậu quả do hành động của chúng tôi sẽ mang lại cho chúng tôi - hôm nay gióng lên tiếng chuông báo động trước mối nguy cơ cấp thiết đang đe dọa chính quyền.

    Cho đến nay, chúng tôi đă giữ im lặng và để cho chính quyền mặc ư hành động. Nhưng bây giờ đă đến lúc khẩn thiết, chúng tôi cảm thấy rằng bổn phận của chúng tôi - và trong lúc nước nhà gặp cảnh rối loạn th́ ngay cả những kẻ hèn kém nhất cũng phải chia xẻ bổn phận này - là phải nói lên sự thật, thức tỉnh dư luận, báo động với nhân dân, và liên kết những kẻ đối lập, để cho thấy lối thoát.

    Chúng tôi thỉnh cầu chính quyền gấp thay đổi chính sách để cứu văn t́nh thế, bảo vệ chế độ Cộng Ḥa và bảo vệ sự sống c̣n của quốc gia. Chúng tôi giữ vững niềm hy vọng là dân tộc Việt Nam sẽ có một tương lai sáng lạn để được hưởng thanh b́nh và thịnh vượng trong Tự Do và Tiến Bộ.

    Trân trọng

    1. Trần Văn Văn (quê Nam phần, Tam giáo) Bằng Cao học Thương mại, cựu Bộ trưởng Kinh tế và Kế hoạch.

    2. Phan Khắc Sửu (quê Nam Phần, Cao Đài) Kỹ sư Canh Nông, cựu Bộ trưởng Canh Nông.

    3. Trần Văn Hương (quê Nam phần, Tam giáo) Giáo sư Trung học, cựu Đô trưởng Sài G̣n-Chợ Lớn.

    4. Nguyễn Lưu Viên (quê Nam phần, Tam giáo) Bác sĩ Y khoa, cựu Cao ủy Di Cư.

    5. Huỳnh Kim Hữu (quê Nam phần, Tam giáo, một lănh tụ thuộc nhóm Tinh Thần) Bác sĩ Y khoa, cựu Bộ trưởng Y tế.

    6. Phan Huy Quát (quê Trung phần, Tam giáo, một lănh tụ thuộc đảng Đại Việt) cựu Bộ trưởng Quốc pḥng và Giáo Dục.

    7. Trần Văn Lư (quê Trung phần, Thiên Chúa giáo, cựu đồng chí của Tổng thống Diệm trong phong trào Cường Để) cựu Thủ hiến Trung-Việt.

    8. Nguyễn Tiến Hỷ (quê Bắc phần, Tam giáo, một lănh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng) Bác sĩ Y khoa.

    9. Trần Văn Đỗ (quê Nam phần, Tam giáo, lănh tụ nhóm Tinh Thần, nhóm đă ủng hộ lập trường chính trị của ông Diệm vào mấy năm trước kho ông Diệm cầm quyền). Bác sĩ Y khoa. Cựu Bộ trưởng Ngoại giao và Trưởng phái đoàn Việt Nam tại Ḥa Hội Genève năm 1954.

    10. Lê Ngọc Chấn (quê Bắc phần, Tam giáo, một lănh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng) luật sư, cựu Bộ trưởng Quốc pḥng.

    11. Lê Quang Luật (quê Bắc phần, Thiên Chúa giáo, lănh tụ Phong trào Liên hiệp Dân chúng ủng hộ ông Ngô Đ́nh Diệm khi ông Diệm c̣n ở hải ngoại) Luật sư, nhà báo, cựu đại diện Chính phủ tại Bắc Việt sau khi Hiệp ước Genève ra đời, lănh đạo việc đưa 800.000 dân di cư vào Nam, và cựu Bộ trưởng Thông tin.

    12. Lương Trọng Tường (quê Nam phần, Ḥa Hảo) Kỹ sư công chánh, cựu Thứ trưởng Kinh tế Quốc gia.

    13. Nguyễn Tăng Nguyên (quê Trung phần, Phật giáo, một lănh tụ thuộc nhóm Tinh Thần, một sáng lập viên Đảng Cần Lao Nhân Vị) Bác sĩ Y khoa, cựu Bộ trưởng Lao Động và Thanh Niên.

    14. Phạm Hữu Chương (quê Bắc phần, Tam giáo) Bác sĩ Y khoa, cựu Bộ trưởng Y tế và Công tác Xă hội.

    15. Trần Văn Tuyên (quê Bắc phần, Tam giáo, một lănh tụ của VNQDĐ) Luật sư, cựu Bộ trưởng Thông tin và Tuyên truyền.

    16. Tạ Chương Phùng (quê Trung phần, Tam giáo, cựu đồng chí của ông Diệm trong phong trào Cường Để) Tú tài Hán học, cựu Tỉnh trưởng B́nh Định.

    17. Trần Lê Chất (quê Bắc phần, Tam giáo) Tiến sĩ Hán học.

    18. Hồ Văn Vui (quê Nam phần) Linh mục, cựu Cha sở một họ đạo thuộc địa phận Sài G̣n và hiện nay là Cha sở tại Tha La, Tây Ninh.

    Ngày 26 tháng 4 năm 1960

  6. #206
    chichchoe
    Khách
    Phùng Quân

    Ngô Đ́nh Diệm đă chết gần nữa thế kỹ nhưng tương lai của con chiên Ngô Đ́nh Diệm, dưới bàn tay phù thủy của Vatican, th́ vẫn c̣n nhiều hứa hẹn. Thật vậy, ư đồ của Vatican là:

    Về mặt đạo, Diệm sẽ được nhào nặn vẽ vời để bôm lên thành một thánh tử đạo Công giáo Việt Nam như các “thánh” phản quốc đă từng được Giáo hoàng Gioan Phaolồ II hối hả và ồ ạt, thâu ngắn mọi thủ tục, bất chấp sự thực lịch sử, bôm lên 117 con chiên Tây Ta chỉ trong một năm 1988. Hành động gấp rút nầy là để cứu nguy và hà hơi tiếp sức cho cái giáo hội Việt Nam, lúc đó, đang bị tơi tả trong nước và tan tác ngoài nước. C̣n trường hợp “thánh tử đạo” Diệm tương lai, là để tô son trét phấn cho cái tội gần 400 năm theo Tây phản quốc của lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam.Về mặt đời, Diệm sẽ được rửa mặt và đánh bóng để làm một biểu tượng chính trị hầu xây dựng lực lượng Công giáo và tập họp các lực lượng chính trị vệ tinh (loại “đối kháng” trong nước hay “liên tôn chống Cọng” ngoài nước) để bây giờ th́ t́m cách thanh toán thế lực đương quyền tại Hà Nội, và tương lai th́ lại thiết lập một chế độ “Diệm không Diệm” để Công giáo hóa nhân dân Việt Nam.

    “Tương lai” hai vế đạo - đời đó phù hợp hoàn toàn với sách lược bành trướng đạo Công giáo tại Á châu đă được huấn thị trong Tông huấn “Giáo hội tại Á châu” (Ecclesia in Asia – John Paul 2, New Delhi, 1999). Đồng thời, h́nh ảnh tương lai đó cũng sẽ nuôi dưỡng và khích động được đám con chiên Việt Nam ở hải ngoại đang chao đảo trước t́nh trạng mục ră và thoái trào của Giáo hội Công giáo trên toàn thế giới mà cao điểm là đại biến cố hơn 5000 Linh mục sách nhiễu t́nh dục gần 10.000 nạn nhân ấu dâm trên 26 quốc gia kéo dài trên nữa thế kỹ ![1][1].Đó là ư đồ tôn giáo và thế cờ chính trị của Vatican mà ai tinh mắt một chút th́ đều biết.

    V́ thế nên từ gần 10 năm nay, tại hải ngoại, ta thấy một phong trào “tâm lư chiến” mà các Linh mục th́ xảo ngôn về văn hóa (như “ông Trời” trong tín ngưỡng và phong tục Việt Nam vốn là h́nh ảnh … Chúa Trời trong Cựu Ước!; hay Nguyễn Du được gợi hứng từ Kinh Thánh để sáng tác Truyện Kiều, …); c̣n các con chiên loại Lâm Lễ Trinh, Nguyễn Văn Lục, Tú Gàn Nguyễn Cần, Cao Thế Dung, Tôn Thất Thiện, và đám lau nhau mới nổi như Chu Tất Tiến, Minh Vơ, Nguyễn Lư Tưởng, …th́ pha chế tài liệu, ngụy trang nhân chứng để xuyên tạc và viết lại lịch sử thời đệ nhất Cọng ḥa. Phong trào nầy, dĩ nhiên, chỉ huy động được các con chiên múa may ng̣i viết mà thôi, c̣n những thành phần khác của dân tộc th́ tuyệt đại đa số chẳng ai thèm tham dự vào cái màn phịa sử bất lương nầy cả.Hai luận điệu của đám “sử gia” hoài Ngô nầy thường dùng là:

    1- Phong trào Phật giáo chống Diệm là do Cọng sản lănh đạo, c̣n tướng lănh lật đổ Diệm là tay sai của CIA, cả hai phối hợp với nhau để giết ông Diệm v́ ông Diệm bào vệ quyền tự quyết chống lại Mỹ. Đây là một luận điệu vừa phi lịch sử vừa … ngu ! Ông Diệm đă được Mỹ “bồng” về, kinh viện quân viện đổ vào miền Nam như thác cho Diệm làm con cờ xây dựng tiền đồn chống Cọng. Đến lúc v́ độc tài thối nát nên bất lực không đóng nỗi vai tṛ con cờ nữa, lại phản chủ bắt tay với kẻ thù Cọng sản nên bị chủ dẹp đi, th́ đó là thân phận đương nhiên của kẻ, từ đầu, đă chịu nhận làm con cờ cho ngoại bang. “Tự quyết” chổ nào, càng nói càng thêm nhục !

    Thật ra th́ Mỹ không dẹp cũng không được v́ nhân dân miền Nam chống Cọng, trong đó có Phật giáo, muốn như thế. Đó là tất cả cái dynamique của chính trị miền Nam trong 4 năm 1960, 1961, 1962 và 1963. Không có ḷng công phẩn cuồn cuộn của toàn quân toàn dân miền Nam, th́ chẳng CIA nào, chẳng Cọng sản nào, chẳng Phật giáo nào một ḿnh lật đổ được triều đ́nh Diệm-Nhu-Cẩn với 1 đảng Cần Lao sắt đá, 6 cơ quan công an mật vụ tàn bạo, 4 đoàn thể quần chúng, và 1 Giáo hội Công giáo thiên la địa vơng cả. Chỉ trong 8 năm cầm quyền (1955-1963) mà đă 7 lần bị phe cùng chiến tuyến chống đối [2][2] , nghĩa là hầu như năm nào cũng có chống đối, th́ đủ biết dù có Mỹ và Vatican sau lưng, Diệm đă chết trong ḷng quân dân miền Nam từ lâu rồi. Nói như nhà văn Doăn Quốc Sỹ: Mỹ chỉ đến để lượm cái xác của Diệm [3][3] mà thôi2- V́ lật đổ ông Diệm cho nên …..mất nước vào tay Cọng sản ! Làm như ông Diệm bị đổ năm 1963 th́ đến năm 1965 đă phải “tháng tư găy súng” rồi. Tương quan nhân-quả dĩ nhiên là có nhưng sự kiện lật đổ Diệm, sau 12 năm dài và phức tạp (1963 đến 1975), không phải là cái “nhân” chính yếu và duy nhất dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam vào năm 1975. Ta biết rằng đệ nhị Cọng ḥa kéo dài được những 12 năm thăng trầm, vậy th́ “mất nước” chủ yếu là tại v́ những yếu tố ǵ khác trong 12 năm dài đó chứ không thể giản lược quy về chỉ một nguyên nhân “lật đổ ông Diệm” từ hơn một thập kỹ trước như nhóm hoài Ngô gian xảo ngụy biện. Ngược lại là khác, nếu ông Diệm c̣n tại vị th́ miền Nam đă tiêu tùng ngay sau khi Ngô Đ́nh Nhu lén lút quân dân miền Nam (và đạp lên Hiến Pháp nhân vị chống Cọng 1956) để đi đêm với “đồng chí” Phạm Hùng từ năm 1963 rồi !

    Nhưng khổ một nỗi là hai điều ngụy biện đó vẫn có người nghe v́ ở hải ngoại không phải ai cũng chịu khó nghiên cứu, biết cách t́m ṭi và xử lư tài liệu, và nhất là chịu suy nghĩ. Đă thế, tuyệt đại đa số các cơ sở truyền thông đều do Công giáo không chế, tạo thành một bệ phóng để tung hỏa mù lịch sử đầu độc người đọc. Ngoài ra, những cái gọi là “nghiên cứu lịch sử” nầy bao giờ cũng được bảo chứng bằng những con dấu “chống Cọng” to tổ bố và vài cái nón cối phât phơ trên đầu để uy hiếp những ai “dám” phản biện lại họ.

    Tuy nhiên, nỗ lực bất lương chính trị và mạo hóa lịch sử đó của Vatican dù có thuyết phục được một số người nào đó trong một khoảng thời gian nào đó, th́ cũng không thay đổi được lịch sử, và nhất là không thay đổi được bản án mà dân tộc đă dành cho chế độ Diệm. Nhân chứng lịch sử và vong linh những nạn nhân của chế độ Diệm, cả Quốc gia lẫn Cọng sản, c̣n nằm trên bàn thờ hương khói hầu như khắp miền Nam (cũ). Số lượng tài liệu cả bằng Việt ngữ và ngoại ngữ, trong cũng như ngoài nước, c̣n tràn đầy ra đấy…

    Đặc biệt, có một mảng tài liệu mà người viết cho rằng có giá trị trung thực và lâu bền nhất, đó là thơ văn và phong dao truyền tụng trong dân chúng. Những tài liệu nầy th́ trung thực v́ mô tả sự kiện có thực ngay thời điểm vừa xảy ra, và lâu bền v́ được nhân dân chấp nhận có đăi lọc, rồi học thuộc ḷng mà truyền khẩu vượt thời gian từ thế hệ nầy sang thế hệ khác.

    Người viết bài viết nầy đă trên 60 tuổi, hiện ở Mỹ, chỉ căn cứ trên trí nhớ của ḿnh và vài người bạn cùng trang lứa, cọng thêm cái tủ sách Việt ngữ của người con rễ, mà hôm nay cũng có thể ghi lại được một số bài thơ và câu vè “không bao giờ quên” về chế độ Diệm, để gửi đến Vatican với lời khuyên đừng “xía” vô chuyện của dân tộc Việt Nam nữa. Gần 400 năm đào tạo con chiên Việt Nam cúi đầu làm đạo quân thứ Năm cho giặc ngoại xâm chưa đủ sao ?* * *

    Văn hóa nào đă tạo nên con người chính trị Ngô Đ́nh Diệm.

    Con người ông Diệm là tổng hợp của ba chiều kích văn hóa: Văn hóa phong kiến Tống nho, văn hóa Công giáo thời Trung cổ, và văn hóa Tây thuộc địa, trong đó ứng xử chính trị của “ông quan” Ngô Đ́nh Diệm là phần thể hiện rơ nét nhất ba thuộc tính nầy. V́ vậy mà khi nói đến chế độ Ngô Đ́nh Diệm th́ người Việt Nam gọi ngay bằng hai chử “Ngô Triều”.

    Ông Diệm lớn lên và được đào tạo bởi những quan lại già nua lạc hậu không theo kịp với dân trí mỗi ngày một tiến bộ, và đa số những vị quan này là những nịnh thần tham nhũng, làm tay sai cho Pháp. Bài thơ của Cụ Nghè Ngô Đức Kế dưới đây đủ nói lên cái tư cách “cu li” của lớp quan lại áo măo xênh xang nầy:

    Cu li đành phận chớ ra oai,

    Chuyên chế ăn quen thói cũ hoài.

    Quân chủ cờ bay vui trước mắt,

    Dân quyền trống đánh chán bên tai.

    Bài, Liêm giảo hiểm khoe tài trí

    Huề, Thụ thông minh gọi bất tài.

    Cấm hết công môn tiền hối lộ,

    Ngoài ra Tiềm Để mặc ḷng ai.[4][4]


    “Bài, Liêm, Huề, Thụ” là tên bốn vị Thượng thư mà Bài là ông Nguyễn Hữu Bài, người đỡ đầu cho ông Diệm; và Huề là ông Thân Trọng Huề, ông ngoại của bà Ngô Đ́nh Nhu.

    Trong cái môi trường “giảo hiểm”, “bất tài”, “công môn tiền hối lộ” đó mà anh em gịng họ Ngô Đ́nh lại thăng quan tiến chức vượt bực (Trong chế độ phẩm trật phong kiến phức tạp và nặng nề đó mà ông Diệm mới 33 tuổi đă làm Thượng thư đầu triều, tương đương với Thủ tướng) th́ hẵn phải nhờ một lư do đặc biệt nào đó. Lư do đặc biệt đó đă được giới quan trường đương thời thú vị làm thơ chế giễu “vây cánh Ngô Đ́nh” như sau:

    LÀM QUAN NAM TRIỀU

    Lênh đênh chiếc bách buổi ba đào,

    Chèo lái xem chừng khó biết bao.

    Tôi tớ mấy người dâng lễ hậu,

    Quan thầy mấy kẻ nặng hầu bao.

    Chật trong bể hoạn thêm ḿnh nữa,

    Theo hết rừng “Hàn” biết kiếp nao.

    Vây cánh Ngô Đ́nh ghê gớm thật,

    Mềm lưng dẻo gối chóng lên cao. [5][5]

    “Vây cánh Ngô Đ́nh” chủ yếu gồm những ai? Gồm Ngô Đ́nh Khả, Nguyễn Hữu Bài, Thân Trọng Huề … mà con đường hoạn lộ là những bước làm tay sai đắc lực cho hai thế lực là Bộ máy Thực dân đô hộ Pháp và Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris (MEP: Société des Missions Etrangères de Paris).

    Bản chất chế độ Diệm


    Dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, đường Công Lư th́ đi một chiều, đường Tự Do th́ cấm xe xích lô, xe đạp, c̣n cổng chính của Ṭa án th́ bị đóng kín, thường dân phải đi cổng bên, nên thời đó có câu truyền tụng lúc đầu c̣n ở Sài G̣n nhưng sau lan ra khắp nước, rằng:

    Công Lư một chiều

    Tự Do hạn chế

    Ṭa án đi cổng hậu

    để mô tả nền độc tài và xă hội bất công của chế độ lúc đó[6][6], một chế độ tuy gọi là “Cọng ḥa” với tam quyền phân lập, nhưng thực tế là do một gia đ́nh phong kiến và cuồng tín thao túng mọi định chế và sinh hoạt của quốc gia. V́ thế mà từ đầu năm 1961, dân chúng miền Trung đă âm thầm viết thành bản án lịch sử để lại cho hậu thế đời đời qua hai câu ca dao truyền miệng về bốn nhân vật trụ cột của gia đ́nh đó:

    Nhà Ngô có bốn gian hùng

    Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn khùng, Thục điên
    Bản chất của chế độ và chân tướng của cấp lănh đạo lại càng hiện rơ hơn vào tháng 2 năm 1962 trong và sau khi dinh Độc Lập của anh em Ngô Đ́nh Diệm bị 2 phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử oanh tạc. Ông Nguyễn Đôn Dư, bút hiệu Quỳ Ưu, ở Thừa Thiên đă ví sự kiện nầy như t́nh trạng “cháy nhà ra mặt chuột” và đă bí mật phổ biến bài thơ sau đây trong ṿng bạn bè:

    CHÁY NHÀ RA MẶT CHUỘT

    Đục khoét xưa rày núp ở đâu?

    Cháy nhà thấy chuột chạy lao nhao

    Dương oai bà Hỏa vừa lên mái

    Khiếp vía ông Thiên vội ló đầu

    Rường cột ră rời phơi mặt địa

    Cống chù quay quắt chổng hàm râu

    Tai bay vạ gió đà ra rứa

    Chĩnh nếp ḍm vô đă sạch làu.[7][7]

    Rồi đến mùa Hè năm 1963, sau 9 năm kềm kẹp nhân dân miền Nam và đẩy đại bộ phận quần chúng vào ṿng tay “Mặt trận Giải phóng”, đồng thời làm tiêu hao sinh lực quốc gia, gia đ́nh Ngô Đ́nh phóng tay đàn áp Phật giáo và định dứt điểm tôn giáo nầy, ít nhất là trên nước Việt Nam, với kế hoạch Nước Lũ đêm 20 tháng 8. Ngày 22 tháng 8, với tư cách là Ngoại trưởng của chính phủ Diệm, ông Vũ Văn Mẫu cạo trọc đầu và sau đó từ chức Ngoại trưởng để phản đối nhà Ngô.

    “Cảm phục khí phách và phong độ kẻ sĩ Vũ Văn Mẫu, ông Hoàng Đại Sâm (tức thi sĩ Hoàng Hoa Trang), một nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao, bèn nhờ bạn là ông Vơ Khắc Văn viết cho mấy chữ Hán để khắc vào bức hoành phi tặng cho vị chỉ huy khả kính của ḿnh. Ông Văn bèn viết bốn chữ: “Ngoại Vật Hoàn Giao”, vừa có chữ của nhà Phật, vừa có chữ “ngoại giao”, vừa nói lên được ư nghĩa thâm thúy của một hành động đầy triết lư sâu sắc.

    Sau khi viết cho bạn bốn chữ để tặng vị Bộ trưởng v́ chính nghĩa mà “cạo đầu từ quan”, Vơ Khắc Văn cảm xúc trước một biến cố vừa đau thương vừa chua chát bèn làm một bài thơ, ghi lại một sự kiện lịch sử có tính cách “Giai thoại Làng Nho” hầu lên án Ngô triều để làm gương cho hậu thế. Bài thơ này may mắn được một bạn thân của ông Vơ Khắc Văn hiện ở Hải ngoại c̣n nhớ, viết lại rồi gởi cho tôi để hiện diện trọng tập hồi kư này:

    TRANH THỜI SỰ 1963

    Chín năm bốn bận tráo quân bài,

    Lừa lọc toàn tay dễ khiến sai,

    Hót Cụ: Thuần Lương mồm bép xép,

    Ôm Bà: Hiếu Nghĩa miệng lai rai,

    Vỹ đem hiến Cố màu xanh trẻ,

    Khương ước dâng Cha áo đỏ dài,

    Riêng Mẫu cạo đầu, Tâm bị bắt,

    Hỏi hàng khanh tướng đến phiên ai?

    Bài thơ nhằm mô tả và đánh giá bản chất của chế độ qua những nhân sự tay sai mà trong chín năm cầm quyền, nào là cụ Diệm, nào là bà Nhu, nào là Cố vấn Nhu, nào là cha Thục, dù có muốn tráo trở quân bài th́ cũng chỉ dùng toàn những tay “dễ khiến sai” như các Bộ trưởng Nguyễn Đ́nh Thuần, Bùi Văn Lương, Ngô Trọng Hiếu, Huỳnh Hữu Nghĩa. Cũng bị liệt vào “hạng lừa lọc” là Cao Xuân Vỹ, Tổng Giám đốc Thanh niên Cộng ḥa áo xanh, và Nguyễn Xuân Khương, Đại biểu Chính phủ Trung Việt đă quyết liệt đàn áp Phật giáo để Cha Thục được mặc áo Hồng Y màu đỏ. Trong hàng khanh tướng sạch dơ lẫn lộn đó chỉ c̣n ôngVũ Văn Mẫu là khí tiết từ chức và Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, Khoa trưởng Đại học Y khoa Sài G̣n, công phẫn chống đối nên bị Mật vụ nhà Ngô bắt.” [8][8]

    Tội ác của chế độ công an trị Ngô Đ́nh Diệm

    Nói đến chế độ Ngô Đ́nh Diệm là nói đến chế độ gia đ́nh trị, chế độ Công giáo trị. Và dĩ nhiên, Công an trị. Ở ngoài Trung, Ngô Đ́nh Cẩn có cho tân trang chín cái hầm chứa vũ khí của quân đội Nhật dưới đất ở ngoại ô thành phố Huế để nhốt tù chính trị, nhốt Phật tử và những kẻ mà Cẩn định làm tiền. Ái Huyên, một nữ sinh Đồng Khánh Huế, nạn nhân của Cẩn, trong khi bị giam ở Chín Hầm đă sáng tác bài thơ:

    Trước phong cảnh hữu t́nh ai có biết,

    Rằng nơi đây địa ngục trần gian,

    Nơi chứa chấp một chế độ bạo tàn,

    Và cạnh đấy là cung vàng điện ngọc.

    Du khách hỡi! Dừng lại đây nghe tiếng khóc,

    Của oan hồn tử sĩ chết đau thương,

    Những nấm mồ vô chủ suốt đêm trường,

    Như quằn quại theo từng cơn gió buốt!

    Trên nệm ấm kẻ bạo tàn đâu có biết,

    Bao thân người chui rúc dưới tanh hôi,

    Và nghe hồn khóc kể măi không thôi! [9][9]




    Nhà ngục Chín Hầm đó của Ngô Đ́nh Cẩn ghê rợn đến nỗi trong bài thơ Vịnh Chuồng Cọp, một ẩn sĩ ở Huế đă tặng cho ông Cẩn một hỗn danh để lưu truyền lại cho hậu thế:

    Một kiếp tàn hung Hùm Xám đó,

    Muôn dân ghê rợn ác ôn này! [10][10]

    Trong khi đó th́ tại Sài G̣n, gần sở thú đô thành, Ngô Đ́nh Nhu cho xây trại giam P-42 để tra khảo những thành phần quốc gia đối lập với chế độ. Một trong những người đó là cụ Trần Văn Hương, một trí thức “uy vũ bất năng khuất” của miền Nam, và sau nầy là Tổng thống một tuần (từ 21 đến 28-4-1975), đă từng cùng với 17 nhân sĩ khác kư bản Tuyên bố “Caravelle” để phản đối chế độ Diệm..

    Ngồi trong tù, mỗi lần hồi phục được một chút tàn lực sau những lần thẩm vấn và tra tấn, cụ Hương thường làm thơ để giết th́ giờ.

    NGỒI TÙ MỘT LŨ

    Này anh, này cụ, này là chú,

    Lóc cóc vào đây ngồi một lũ,

    Những tưởng buồn như chó mất nhà,

    Nào ngờ vui quá bàn xôm tụ,

    Thân này dẫu vướng chốn lao lung,

    Nỗi ấy vẫn ghi trong phế phủ,

    Xuống chó lên voi lắm chuyện đời,

    Xưa nay diễn biết bao nhiệm vụ. [11][11]


    Và hăy nghe cụ Hương tả cảnh nhà ngục P.42 để thấy chế độ Diệm đă đày đọa người quốc gia như thế nào:

    P.42 – SỞ THÚ

    Danh đồn khét tiếng đă từng nghe,

    P.42 đúng thiệt nè!

    Điện tụ, b́nh quay kêu ới ới,

    Xà bông nước đổ, nuốt the the,

    Tra đi tra lại kinh chưa hả?

    Khai tới khai lui mệt quá hè.

    Cụ, Cố, Cậu trù, Ma trổ ngón,

    Thân tù dưới búa lại trên đe. [12][12]

    (Ghi chú: Cụ là ông Diệm, Cố là ông Nhu, Cậu là ông Cẩn, trù là trù yểm, Ma trổ ngón là bọn mật vụ Cần Lao Công giáo trổ tài tra tấn)



    Bài hịch hài tội chế độ

    Năm 1960, khi binh chủng Nhăy Dù tiến hành cuộc binh biến tại Sài G̣n để định lật đổ chế độ Diệm th́ trong hàng ngũ của họ có sự tham gia của một số đảng viên của các đảng phái quốc gia yêu nước, nhất là các đảng có gốc gác tại miền Trung..

    “Tại Quảng Nam, Một cán bộ cấp cao của Việt Quốc là ông Duy Nghĩa đă làm sẵn bài Hịch để khi cướp được Chính quyền th́ sẽ tung ra kêu gọi toàn dân đứng lên cứu nước, nhưng chẳng may cuộc đảo chánh bất thành, bài Hịch bị chôn vùi trong bóng tối của bí mật cho măi đến sau ngày 1-11-1963, bài Hịch mới được phổ biến. Tôi được một đồng chí của ông Duy Nghĩa là ông Lê Nguyên Long (hiện sống tại tỉnh Fresno, Hoa Kỳ) trao lại cho một bản sao của bài hịch này, xin ghi lại đây như một sử liệu để lưu truyền:



    Hăy đứng lên, đứng lên như vũ băo,

    Răng nghiến răng, tay nắm chặt, vung tràn,

    Mắt long lên, hùng khí ngập không gian,

    Cho điếng lạnh thứ tham tàn Cẩn, Diệm.

    Vạn cánh tay giờ đây cùng tuốt kiếm,

    Để ḷe lên Chính nghĩa của non sông,

    Để ḷe lên t́nh đoàn kết nhiệt nồng,

    Muôn màu sắc quốc gia non nước Việt.



    Hỡi những ai, những con người khí tiết,

    Đang trong tù hay đau khổ trùm chăn,

    Hay khuất thân sống tạm bợ nhục nhằn,

    Hăy đứng dậy giờ vinh quang lâm trận!

    Như thác đổ, mưa nguồn, chớp sấm,

    Như đảo điên một vũ trụ hôm nay,

    Hớp men nồng cách mạng máu cuồng say:

    Xưa “Sát đát” ngày nay ta “Sát địch”.



    Hỡi muôn tim lặng nghe lời truyền hịch:

    Nước diệt vong v́ Cộng Sản bạo tàn,

    Nước nguy vong v́ lũ Diệm tham gian,

    Gây nghiêng ngửa cơ đồ tuy nửa mảnh.

    Muôn tim, muôn tim cùng nhau sát cánh,

    Đạp phăng phăng chướng ngại lũ sài lang,

    Để cùng nhau trong cách mạng huy hoàng,

    Cùng xây dựng một chánh quyền “V́ Dân tộc”,

    Một “Chính quyền Công bộc”

    Với “Tự do, Dân chủ” được nêu cao. ”[13][13]

    Nhiệm ư Thiên Chúa

    Ông Diệm và những người đồng đạo của ông tin rằng mọi sự trên đời đều do Chúa định đoạt. Nhưng khi gặp những sự kiện cực kỳ vô lư không thể giải thích được (như v́ sao Chúa ḷng lành mà lại tạo ra dịch hạch giết hàng vạn người, hoặc tại sao Giáo hoàng có Chúa Thánh Thần che chở mà vẫn phải di hành bằng xe Pop Moble bọc thép chống đạn, …) th́ họ cho rằng đó là Ư muốn mầu nhiệm của Thiên Chúa, loài người kh6ng thể hiểu được. V́ vậy mà cuối những bài diễn văn chính thức gửi quốc dân đồng bào, bất chấp 93% dân chúng không tin vào Chúa, ông Diệm vẫn luôn luôn kết thúc bằng câu “Xin Thượng Đế ban phước lành cho chúng ta”.

    Nhưng mặc bao nhiêu cầu xin của chính ông và đồng đạo, cuối cùng ông vẫn chết thê thảm đúng luật Nhân-Quả. Biết sẽ chết như thế là “Nhiệm ư của Thiên Chúa” nhưng trước đó ông vẫn căi lời Chúa của ông với lời trối trăn cho tàn dư của ông rằng “nếu tôi chết th́ trả thù cho tôi”.

    Một “nhiệm ư Thiên Chúa” khác là sau ngày cách mạng 1-11-1963, một trong các biểu tượng của chế độ là tượng Hai Bà Trưng ở bến Bạch Đằng tại Sài G̣n đă bị sinh viên và dân chúng kép đổ sập. Đây là bức tượng tạc Hai Bà nhưng từ khuôn mặt cho đến vóc dáng th́ lại giống như Bà Nhu và con gái Ngô Đ́nh Lệ Thủy. Bà Nhu là Đệ Nhất Phu nhân, là Thủ lănh Lực lượng Phụ nữ Bán Quân sự, là Chủ tịch Phong trào Phụ nữ Liên đới, và nhất là vợ ông Cố vấn thét ra lữa trong dinh Độc Lập… nên bà nghĩ bà và con gái nếu không hơn th́ cũng bằng hai bà Trưng Trắc Trưng Nhị khởi nghĩa chống quân Hán và dẹp yên 65 thành ở đất Lĩnh Nam, nên bà đáng được dựng tượng cho nhân dân miền Nam tôn thờ..

    Trước hành động kiêu căng vô văn hóa đó của bà Nhu, nhà thơ Đông Hồ đă có bài thơ “Tượng Ai Đâu Phải Tượng Bà Trưng” [14][14] như sau:

    Tượng ai đâu phải tượng bà Trưng

    Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng

    Đón gió lại qua người ưỡn ẹo

    Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng

    Khuynh thành mặt đó y con ả,

    Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!

    Chót vót đứng cao càng ngă nặng

    Có ngày găy cổ đứt ngang lưng.


    Đây một h́nh xưa nhục nước non

    Thay hai h́nh mới đứng thon von

    Ḿnh ni lông xát lưng eo thắt

    Ngực xú chiêng nâng vú nở tṛn.

    Tưởng đứng hiên ngang em với chị

    Hóa ra d́u dắt mẹ cùng con

    Ḍng sông Bến Nghé, ḍng sông Hát

    Lưu xú lưu phương tiếng để c̣n.

    Ngoài ra, khi nh́n gia đ́nh họ Ngô tán gia bại sản để tiếng xấu muôn đời (không biết có do ư Chúa không), nhà văn lăo thành Lăng Nhân Phùng Tất Đắc đă ví von anh em ông Diệm, từ em ruột đến em dâu, như giặc “Hoàng Sào”, một đám giặc cỏ ở tỉnh Sơn Đông cuối đời nhà Đường bên Tàu.:

    NGÔ TRÀO

    Trải qua một cuộc bể dâu,

    Trông vời cố quận biết đâu là nhà?

    Khéo oan gia, của phá gia,

    Này là em ruột này là em dâu!

    Cửa nhà dù tính về sau,

    Ngh́n năm ai có khen đâu Hoàng Sào! [15][15]



    V́ là một loại Hoàng Sào nên dù ông Diệm không chết trong ngày chế độ ông bị lật đổ th́ ông cũng đă chết trong ḷng dân tộc từ lâu rồi. Cái chết của ông Diệm là một sự sụp đổ thê thảm của danh phận phẩm giá. Thê thảm đến độ học giả Lăng Nhân Phùng Tất Đắc và nhân sĩ Hoàng Trọng Thược đă phải ghi vào sách sử lời lên án năm anh em nhà Ngô bằng những câu thơ “ngh́n năm bia miệng” để lại muôn đời [16][16]

    Vùi nông đôi nấm giữa đêm sâu,

    Mười thước sau chùa đủ bể dâu.

    Ba cỗ quan tài bốn lỗ huyệt,

    Năm thằng Trời đánh một con Mầu.

    Mới vừa Hăm Sáu c̣n nguyên thủ,

    Mà đến Mồng Hai đă vỡ đầu.

    Bảy Tám thu trường Ngô với Đĩ,

    Ngô th́ chín rụng Đĩ chơi đâu?

    [Ghi chú : “Năm thằng” là các ông Thục, Diệm, Nhu, Cẩn, và Luyện. Và “con Mầu” là Trần thị Lệ Xuân, tức bà Nhu]

    * * *

    Chép và đọc lại mấy bài thơ trên để thấy một khi dân tộc đă lên tiếng, rằng :



    Nhà Ngô có bốn gian hùng

    Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn khùng, Thục điên

    Và:

    Nước nguy vong v́ lũ Diệm tham gian,

    Gây nghiêng ngửa cơ đồ tuy nửa mảnh.

    th́ nỗ lực của đám tàn dư hoài-Ngô tại hải ngoại, càng theo lệnh Vatican đánh tráo lịch sử th́ càng làm rơ thêm căn tính nô lệ phi dân tộc của họ mà thôi. Thật tội nghiệp !
    Phùng Quân

    Long Beach, cuối tháng 10/2010
    Last edited by chichchoe; 18-04-2012 at 01:16 AM.

  7. #207
    chichchoe
    Khách
    Xin giới thiệu quư độc giả tuyển tập 106 bài viết của 86 tác giả về chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Đây là một dạng internet e-book, chỉ cần bấm vô đường link là có thể đọc được như một cuốn sách điện tử cầm tay.

    Chuyển Luân

    NĂM MƯƠI NĂM NH̀N LẠI
    1963 - 2013

    Tuyển tập 106 bài viết của 86 tác giả và những lời Phê phán của1 00 Chứng nhân về chế độ Ngô Đ́nh Diệm
    Thomas Ahern, Jr. ● Vũ Bằng ● Nguyễn Văn Bông ● Peter Brush ● Nguyễn Trí Cảm ● Nhóm Caravelle ● Niguel Cawthorn ● VũNgự Chiêu ● Vũ Hoàng Chương ● Lê Cung ● Ngô Diệp ● Cao Thế Dung ● Lư Nguyên Diệu ● Phan Quang Đán ● ChínhĐạo ● Cao Hữu Điền ● Lương Hữu Đính ● Trần KiêmĐoàn ● Trần Văn Đôn ● Phan Lạc Giang Đông ● Góp Gió ● Bobby Ghosh ● Nguyễn Phan Hoàng ● Lê Mạnh Hùng ● Nguiễn Ngu Í ● KHHB ● Bùi Kha ● Nguyễn Kha ● Bảo Quốc Kiếm● Phan Kư ● Trần Lâm ● Thái Kim Lan ● Nguyễn Lang ● Nguyễn Hiến Lê ● Lịchsửviệtnam.in fo ● Khúc Hà Linh ● Lê Nguyên Long ● Chính Luận ● Trịnh Bá Lộc ● VũTài Lục ● Nguyên Ly ● Avro Manhattan ● Hoành Linh ĐỗMậu ● Minh Không Vũ Văn Mẫu ● Trần Chung Ngọc ● Định Nguyên ● Minh Nguyện ● Lê Chân Nhân ● Lư Đương Nhiên ● Quán Như ● Trần Ngọc Nhuận ● Hoàng Nguyên Nhuận ● Lê Xuân Nhuận ● Nguyễn Hữu Phiếm ● O.V.V. ● Nguyễn Kỳ Phong ● Trần Gia Phụng ● Nguyễn Phương● Phùng Quân ● Nguyễn Mạnh Quang ● Vơ Văn Sáu ● Nguyễn Tường Tâm● Minh Tân ● Nguyễn Thái ● Lê Quang Thái ● Nguyễn Hy Thần ● Minh Thạnh ● Cao Huy Thuần ● Ngô Đ́nh Thục ● Văn Thư ● Trần Văn Thưởng ● Trần Tam Tĩnh ● Ngô Đắc Triết ● Nguyễn Quốc Tuấn ● Nguyễn Tường ● Phạm Tưởng ● Hồ Hữu Tường ● Trần Thị Vĩnh Tường ● Lê Tuyên ● Phạm Quư Vinh ● VirtualArchivist ● VTruong ● Huyền Vũ ● Hàn Phong Quốc Vũ ● Nguyễn Hạnh Hoài Vy ● Erich Wulff ● 100 Lời phê phán Chế độ Ngô Đ́nh Diệm

  8. #208
    chichchoe
    Khách
    Những điều được trích nêu ra ở đây là vô cùng giới hạn so với những tộc ác mà nhà Ngô thời đó đă gây ra cho những viên chức người Việt Quốc Gia, các đảng phái, các tôn giáo khác lư tưởng với ông Ngô Đ́nh Diệm.


    Bằng cớ không ai có thể chối căi là sau khi chế độ sụp đổ, VNCH đă thành lập "Ủy Ban Tố Cáo Tội Ác Của Nhà Ngô", bắt những ai có liên lệ với tội ác vào nhốt ở khám Chí Ḥa, truy tố ra ṭa án Quân sự, ông Ngô Đ́nh Cẩn bị tuyên án tử h́nh; có những dự định đưa những người có tội đi Côn Đảo như hồi Ngô Đ́nh Diệm c̣n đương quyền đă làm đối với những thành phần trí thức miền Nam và các quân nhân đảo chánh hụt hồi 11.11.1960.Một "Ủy Ban Tố Cáo Tội Ác Của Nhà Ngô" Đ́nh Diệm; truy tố ra ṭa để trả lời là "chế độ đă giết bao nhiêu viên chức" là có hay không? Hay đợi thế hệ có can hệ vào thời cuộc lúc bấy giờ chết hết rồi sẽ viết bài, bóp méo, phủi tay,... bảo rằng không có?

    Lưỡi dao của Đội Phước đi ngang qua cổ của tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh khi tổng thống Diệm bác đơn xin ân xá của ông ta? Những cái chết của Nguyễn Bảo Toàn, Phạm Xuân Gia, Tŕnh Minh Thế, Vơ Côn, Tạ Chí Diệp và nhiều người khác nữa là không có hay sao? Giáo chủ Phạm Công Tắc của Cao Đài Tây Ninh phải chạy sang Campuchea lánh nạn là không có hay sao? Sai Đại úy Không quân Huỳnh Minh Đường lái chiến đấu cơ nhằm đánh ch́m chiến hạm của Hải quân VNCH đang chở tù nhân đi Côn Đảo là không có hay sao? Trung tá nhảy dù VNCH Phạm Trọng Chính, dơng dạc trước vành móng ngựa: "Nếu tôi là chỉ huy th́ tôi đă đánh rốc vào Dinh Độc Lập ngày 11.11.1960. Không chần chờ bỏ lỡ cơ hội" là không có hay sao? Viên đạn đi thẳng vào đầu nữ sinh Quách Thị Trang trước chợ Bến Thành vào sáng ngày 25.8.1963 là không có hay sao?Ngày nay, vẫn c̣n tượng của Quách Thị Trang (được tạc và dựng năm 1967 vào thời Đệ Nhị VNCH) trước chợ Bến Thành, Sài g̣n. Một bức tượng to lớn đang cỡi ngựa, có vẻ như đang che mát bức tượng nhỏ xíu (QTT) qua những tháng năm sương gió là tượng của Tướng quân Trần Nguyên Hăn: Vị tướng tài ba cuối cùng của nhà Trần đă cùng với Nguyễn Trăi pḥ tá B́nh Định Vương Lê Lợi quét sạch quân Minh ra khỏi bời cơi.

    LND

  9. #209
    chichchoe
    Khách
    Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng

    Động lực làm tôi viết bài nầy

    Bài Đảng Cần Lao Nhân Vị được viết bằng máu và nước mắt của Quân Cán miền Nam, và không có mục đích đánh phá tôn giáo, mà chỉ có hai mục đích :

    *-. Sự thật của lịch sử phải được trả lại cho lịch sử.

    *-. Thức tỉnh Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại để đi t́m một chủ thuyết chính nghĩa cho Quân Cán miền Nam trong cuộc tranh đấu một mất một c̣n với Cộng Sản Việt Nam.

    Lịch Sử Đảng Cần Lao Nhân Vị
    Đảng Cần Lao Nhân Vị đă khai hoa nở nhụy từ khoảng năm 1946 với sự căm thù Cộng sản của giáo dân Bùi Chu-Phát Diệm. Sau cuộc Khởi Nghĩa mùa Thu năm 1945, một số lực lượng quốc gia và giáo phái đă chiếm được một vài vùng và đă tổ chức tại những vùng nầy một thứ chính quyền địa phương tự trị mà măi nhiều năm sau Việt Minh (Cộng Sản) mới thanh toán xong. Bùi Chu-Phát Diệm là vùng chịu ảnh hưởng mạnh của Thiên chúa giáo [2].
    Ngày 2 tháng 9 năm 1954, Nghị Định số 116-bNV/CT cho phép Đảng Cần Lao Nhân Vị được hoạt động hợp pháp ; nghị định nầy được kư bởi ông Bộ Trưởng Bộ Nội vụ, Nguyễn Ngọc Thơ [3]

    Lời thề và Sơ Đồ Tổ Chức

    Lời thề giai đoạn của Đảng Cần Lao Nhân Vị ở miền Trung khi chưa có các tướng lănh tham gia : Tam chống tam vâng. Tam chống là chống cộng sản, chống Phật giáo và chống các đảng phái quốc gia Tam vâng là vâng lời các Cha, vâng lời Cậu Ngô Đ́nh Cẩn và vâng lời Tổng Thống [2, 4]. .

    Lời thề giai đoạn có các tướng lănh tham gia : Trung thành với Công giáo. [2, 4]


    Đảng có ba Văn Pḥng Chỉ Đạo Trung Ương : Văn pḥng Ngô Đ́nh Nhu, Văn pḥng Ngô Đ́nh Thục, Văn pḥng Ngô Đ́nh Cẩn.

    Văn pḥng Ngô Đ́nh Nhu gồm :

    (1) Sở Trung Ương T́nh Báo do Trần Kim Tuyến đảm trách, gồm các cơ quan mật vụ.


    (2) Cơ Quan Đặc Trách Áp Chiến Lược, Khu Trù Mật, Dinh Điền để đổi đạo.


    (3) Quân Ủy Hội : Vùng Chiến Thuật, Các tư lệnh quân sự và bán quân sự


    (4) Ban kinh tài gồm các tổ chức buôn lậu ma túy, ...


    (5) Trí Thức Vận


    (6) Công Chức- Giáo chức do một Phật tử đảm trách c̣n sống ở Cali. Người nầy cũng phụ trách luôn Tổ Chức Thanh Niên Cộng Ḥa.


    (7) Các tổ chức Phụ Nữ Bán Quân Sự


    (8) Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam -


    Văn pḥng Ngô Đ́nh Thục gồm : Các trại di cư Bùi Chu, Xóm Mới Phát Diệm, Ông Tạ..., Các ban Đặc Trách Đổi Đạo..., Ban Kinh Tài.


    Văn pḥng Ngô Đ́nh Cẩn gồm :


    (1) Ban Tôn Giáo Vận, phụ trách đổi đạo do Tổng Giám Mục Phạm Ngọc Chi phụ trách.


    (2) Ban Đảng Đoàn Ngoại Vi, với chủ trương tiêu diệt đảng cộng sản, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt,...


    (3) Khu Phan Bội Châu (tại Saigon) chủ trương tiêu diệt đảng phái ở miền Nam như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Duy Dân và các gián điệp nằm vùng trong các cơ sở của Ngô Đ́nh Nhu.


    (4) Quân Ủy Hội : Vùng Chiến Thuật, Các tư lệnh quân sự và bán quân sự


    (5) Trí Thức Vận do một Linh mục Thiên Chúa Giáo đảm nhiệm.


    (6) Ban Kinh Tài


    (7) Ban Đặc Vụ Miền Trung, do một người c̣n sống ở Mỹ và Phan Quang Đông phụ trách ; đặc trách về các vụ tống tiền, và thủ tiêu đối lập, bao trùm toàn miền Nam, đôi khi lấn quyền Ngô Đ́nh Nhu.[2,4]


    Tội Ác của một số cần lao ngông cuồng Việt gian Phản quốc trước ngày Cách mạng 1-11-1963 [5, 4, 12] :


    Tháng 5/1958, thầu khoán Trần Bá Nam bị đám Mật vụ miền Trung giam ở sở vôi Long Thọ, bị gán tội làm gián điệp cho Pháp. Bộ hạ của Phan Quang Đông và NĐ Cẩn ép buộc ông Nam nhận tôi làm gián điệp để cưỡng đoạt tập chi phiếu ba triệu đồng. Không nhận tội, không chịu kư, Nam bị đánh đập cho chết. Sau đó Cẩn và Đông loan tin là Nam đă tự tử. Tại bệnh viện, mật vụ cần lao không cho thân nhân dở tấm vải bao phủ thi hài nạn nhân. Chúng ép buộc gia đ́nh Nam lo việc tống táng gấp dưới sư giám sát của bọn mật vụ.


    Bị can Phan Quang Đông khai trước ṭa " ...Việc bắt ông Trần Bá Nam là do lệnh của ông Ngô Đ́nh Cẩn...". Nhân chứng Hồ Đắc Trọng khai thêm "Mọi chỉ thị mọi lịnh bắt người đều do Ngô Đ́nh Cẩn ra lịnh, và phải hỏi ư kiến ông Cẩn, nếu cơ quan an ninh muốn bắt ai. Từ Ṭa Đại Biểu đến ông Giám Đốc Công An hoặc ông Tỉnh Trưởng đều phải làm như vậy."


    Vụ mưu sát ông Vơ Côn, Chánh văn pḥng Tỉnh trưởng B́nh Định vào ngày 2/9/1958 lại thêm một sư kiện lịch sử của chế độ gia đ́nh trị TT Ngô Đ́nh Diệm. Bị can Phan Quang Đông khai tại dự thẩm răng khoảng tháng 9/1958 Ngô Đ́nh Cẩn kêu y lên tư dinh và lịnh cho y bắt và khai thác Vơ Côn về tội làm gián điệp ..." Kết quả là ông Vơ Côn đă bị đánh chết.


    Chính Phan Quang Đông đă chấp nhận tội lỗi vu khồng các nạn nhân trong vụ án gián điệp Pháp, để tống tiền, một cách bất hợp pháp [14].


    Tư cách ông Cẩn như vậy, c̣n tư cách của Tổng Thống Diệm ra sao ? Đây là vụ án Bắt Giam Trái Pháp luật và Cố Sát Có Dự Mưu được thông qua tổng thống, ông Nhu và Cần Lao Nhân Vị.


    Bị can Nguyễn văn Y khai rằng khoảng tháng 10/1962, Đại úy Nhàn, nguyên Quận Trưởng Tân Châu, cho biết là có 5 người Ḥa Hảo ở Tân Châu lên Saigon xin mở lạc quyên thành lập Tổ Đ́nh. Được lịnh của Diệm, Nhu là phải bắt những người nầy để thủ tiêu bí mật... Bị can đă chuyển lịnh cho thuộc hạ, Thiếu tá Đào Quang Hiển theo dơi và bắt cóc. Vài hôm sau th́ việc ám sát đă được thi hành xong.


    Tôi không vơ đủa cả nắm v́ có những đảng viên Cần Lao chân chính như Chuẩn úy Bùi Thương -siêu mật vụ cho Đảng Cần Lao Nhân Vị- hay Chuẩn tướng Lê Văn Thân ... cũng như các vị chiến hữu Thiên Chúa Giáo chân chính như Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Đại tá Bùi Trạch Dzần, Đại tá Trần Ngọc Huyến vv....

    Lỗi lầm chiến lược chống cộng

    Từ năm 1955 đến 1957, người dân miền Nam chưa thấy rơ tội ác của Đảng Cần Lao Nhân Vị, nên ư dân là ư trời [6], v́ vậy họ tích cực tố giác các tay Cộng Sản nằm vùng; hầu như không c̣n Việt Cộng nằm vùng tại Tỉnh Bến Tre [7] và vùng Gia Định và Củ Chi [8]


    Tuy nhiên chính đầu tháng năm 1958 ông Ngô Đ́nh Nhu đă thừa lệnh Tổng Thống Diệm chỉ thị cho ông Lâm Lễ Trinh, Bộ Trưởng Bộ Nội Vu, bằng giấy trắng mực đen lệnh cho các tỉnh trưởng :


    1. Ngưng việc bắt các cán bộ cộng sản ;

    2. Rút các đồn bót Bảo an và Dân vệ, chỉ để lại những đồn bót canh gác then chốt như cầu cống ;

    3. Rút các trung liên, tiểu liên cấp cho Bảo an, Dân vệ để nạp lại cho trung ương, và thay thế bằng mousqueton indochinois và dao găm [ 9 ]

    Chính sách tiêu diệt đảng phái : (1) Hà Thúc Kư, Đảng trưởng Đảng Đại Việt và nhiều đảng viên bị Đảng Cần Lao Nhân Vị truy nă, bắt cóc và cầm tù, theo lời kể chuyện của Chuẩn úy Bùi Thương và nhiều đảng viên Đảng Đại Việt [3].


    (2) Hạ sĩ Trần Tấn, đảng viên đảng Đại Việt bị truy nă bởi Cộng Sản và Đảng Cần Lao Nhân Vị [4]


    (3) Phạm Hữu Anh, thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng, hệ phái Nam Ngăi, bị ruồng bố quá sức nên phải t́m cách lẫn trốn tại Sài G̣n [10, trang 108]


    (4) Hồ sơ vụ án Lê Quang Vinh, giáo phái Ḥa Hăo, một chiến sĩ chống cộng [11]


    (5) Vụ thủ tiêu nhà cách mạng lăo thành Nguyễn Bảo Toàn thuộc Dân Xă Đảng [4,5]


    Chính sách kỳ thị tôn giáo


    Điển h́nh là Dụ số 10 và việc đàn áp sư săi trong năm 1963.


    Một ít trường hợp điển h́nh về hoạt động quân ủy :


    (1) Lời tuyên bố của một đảng viên Đảng Cần Lao Nhân Vị, Nguyễn Khương : "Các anh có vị thế tốt trong quân đội, nhưng chưa đủ bảo đảm, v́ chưa hiểu thấu về chính trị cần phải nhập cuộc, nghĩa là nên tuyên thệ gia nhập Phong trào th́ tương lai được bảo đảm hơn, và lời phát biểu của Trung tá Trần Văn Trung, Giám đốc Chiến tranh Tâm lư bộ Quốc pḥng "Nếu đứng vào một tổ chức chính trị, th́ ít nhất cũng đă hoạt động chính trị, biết chính trị và cũng phải được sự giới thiệu của vài ba người khác trong tổ chức. Là quân nhân, tôi rất e ngại sẽ dẩm chân lẫn nhau sau nầy.".


    Vài tháng sau, Trung tá Trung bị thuyển chuyển ra Quân Khu I để giữ chức vụ Thanh tra thanh niên, chức vụ. ngồi chơi xơi nước [10, trang 36]


    (2) Thiếu tá Nguyễn văn Châu thay thế chức vụ Trung tá Trung, thường tổ chức các buổi học tập chính trị, mời tất cả tướng tá phải có mặt, ngay cả Đại tướng Lê Văn Tỵ, Thiếu tướng Phạm Xuân Chiểu [10, trang 36]


    (3) Sau nầy Nguyễn Văn Châu tự thú, y là đảng viên Cần Lao Nhân Vị, và Đại Việt, nhưng đă nhận xét rằng tất cả đều là sai cả, chỉ có "Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam mới đem lại ḥa b́nh.". [10, trang 37]


    CIA Đảng Cần Lao Nhân Vị Và Bài Học Lịch Sử


    Sách "Đảng Cần Lao", lời kể chuyện của Chuẩn úy Bùi Thương- siêu mật vụ của Đảng Cần Lao Nhân Vị - và lời kể chuyện của các bạn học của tôi tại Trường CHTMHK, xác nhận rằng CIA đă đào tạo nhiều người Việt Nam để phụ giúp Đảng Cần Lao Nhân Vị cho ông Ngô Đ́nh Nhu, cũng như chính CIA đă cố vấn, ảnh hưởng Đảng Cần Lao Nhân Vị của Ông Ngô Đ́nh Cẩn ; Ṭa Lănh Sự Mỹ tại Huế là cơ quan hoạt động của CIA, trong nhiệm vụ cố vấn và áp lực Đảng Cần Lao Nhân Vị.


    Chính CIA xúi dục một số tướng lănh đảng viên Cần Lao Nhân Vị tham gia với các tướng lănh Phật Giáo trong cuộc Cách Mạng ngày 1-11-1963.


    Chủ trương của ngoại bang là phục vụ quyền lợi của họ. V́ vậy cấp lănh đạo nước nhược tiểu khó mà cầm cái cán của con dao. Hoa Kỳ muốn ǵ ở nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa ? Phải chăng họ muốn một chính phủ tự do dân chủ để chống cộng hữu hiệu ? Phải chăng CIA đă xâm nhập vào Đảng Cần Lao Nhân Vị để tiêu diệt Cộng Sản theo đường lối riêng của họ ? Phải chăng t́nh trạng bất ổn chính trị, như vụ chính biến năm 1960, như vụ Phật giáo năm 1963, hay t́nh trạng bất ổn tại nông thôn, đă làm chính phủ Mỹ thay đổi chính sách mới ? Phải chăng đó là lư do CIA vung dao theo chỉ thị của Tổng Thống Hoa Kỳ ? Làm sao một cấp lănh đạo một nước nhược tiểu không bị tṛ chơi thay ngựa giữa đường của ngoại bang ?


    Tôi không có câu trả lời và xin để dành cho các chiến hữu và các sử gia trả lời các câu hỏi trên.


    Thế lực của Đảng Cần Lao Nhân Vị trong nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Ḥa


    Tại thời điểm nầy tôi chưa tiết lộ các tài liệu tôi có v́ hai lư do, không lợi cho chiến lược chống cộng, và v́ sự đoàn kết dân tộc quan yếu ngày nay.


    (1) Đảng Cần Lao Nhân Vị vẫn c̣n nhiều thế lực trên trường chính trị của nền Đệ Nhị Cộng Ḥa.


    Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Trương Vĩnh Lễ, Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo.. là những đảng viên trung kiên của Đảng Cần Lao Nhân Vị.


    Chính ông Trương Vĩnh Lễ đă dọa nạt và đ̣i mua lại cuốn sách "Đảng Cần Lao" với giá 1 triệu đồng năm 1971,với điều kiện là cuốn sách sẽ không c̣n lưu hành kể từ đó. V́ sợ nguy hiểm cho tính mạng, Chu Bằng Lĩnh đă chấp nhận lời đề nghị của Ông Trương Vĩnh Lễ.


    (2) Rất nhiều đảng viên của Đảng Cần Lao Nhân Vị bắt đầu xâm nhập vào Đảng Đại Việt sau năm 1963. Chính Ông Hà Thúc Kư đă chấp nhận cho họ gia nhập đảng. Số lượng đảng viên Thiên Chúa Giáo của Đảng Cần Lao Nhân Vị là thành phần có thực quyền trong Đảng Đại Việt của Hà Thúc Kư. Phan Ngọc Lương, bí thư Đảng Ủy cũng phải ở đơn vị tác chiến.


    (3) Chiến lược của Đảng Cần Lao Nhân Vị là sử dụng Phật tử để tiêu diệt Phật giáo ; họ đặt Ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ và Phó Tổng Thống Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa để làm v́ mà thôi, hay các Phật Tử nhẹ dạ trong thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Ḥa, và ngày nay họ cũng sử dụng những tay sai Phật tử nhẹ dạ hay có tham vọng chính trị trong Cộng Động Việt Nam Hải Ngoại để tiếp tục đánh phá Phật giáo.


    (4) Theo lời kể chuyện của Chuẩn Tướng Lê Văn Thân và anh Phan Ngọc Lương, Thượng Tọa Trí Quang bất đồng với Ông Hà Thúc Kư về việc để các đảng viên Cần Lao Nhân Vị nhập đảng Đại Việt.


    Một số câu hỏi về lịch sử cận đại


    Ngày nay tôi vẫn kính trọng Đại Tướng Nguyễn Khánh; Ông đă ngang nhiên căi lộn với Bà Ngô Đ́nh Nhu trong vụ chính biến năm 1960. Tôi tin tưởng, Đại Tướng Khánh sẽ trả lời chân thật các câu hỏi của tôi.


    (1) Sự thật lịch sử phải trả lại cho lịch sử có phải cần thiết trong giai đoạn chống cộng hiện nay hay không ?


    (2) Lư do Ông đă xúc tiến việc truy tố Ông Ngô Đ́nh Cẩn và các dư đảng Cần Lao Nhân Vị phạm tội.


    (3) Thượng Tọa Trí Quang có quyền lực ǵ đối với Ông nói riêng và chính phủ của Ông nói chung ?


    (4) Phải chăng hai đại tướng, Ông và Dương Văn Minh, bất đồng trong quan điểm chính trị về sự phục hồi của Đảng Cần Lao Nhân Vị trong thời điểm của Ông ?


    (5) Tại sao nhóm Cần Lao Thiên Chúa Giáo, như Phạm Ngọc Thảo (nằm vùng Cộng Sản ?), Lâm Văn Phát, Hoàng Quỳnh đă t́m cách đảo chính Ông và Chính Phủ Phan Huy Quát ?


    (6) Phải chăng việc từ nhiệm của chính phủ dân sự Phan Huy Quát mở đường cho một chế độ quân nhân của Nguyễn Văn Thiệu ?


    (7) Phải chăng chế độ quân nhân của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ là nguyên nhân vụ Biến Động Miền Trung, do sự tham gia của Quân Cán miền Trung để đ̣i hỏi một chế độ dân chủ có lập hiến ?


    (8) Tại sao một chế độ dân chủ lập hiến là chiến lược chống Cộng Sản Việt Nam một cách hữu hiệu ?


    Âm mưu đánh phá và chia rẽ tôn giáo của Đảng Cần Lao Nhân Vị ở hải ngoại.


    Chính sách tôn giáo vận tại Việt Nam của ngoại bang và Cộng Sản Việt Nam là chia để trị, đă thành công tuyệt đỉnh khi người Việt Nam bị phân hóa v́ bệnh kỳ thị tôn giáo. Tại sao ? Bởi v́ nếu người Việt Nam không kỳ thị tôn giáo để đoàn kết cùng nhau, th́ làm sao người Việt Nam phải đem thân làm nô lệ cho giặc Pháp, rồi chủ nghĩa cộng sản. Lịch sử quá khứ và hiện đại đă biện minh cho cảm nghĩ thô thiển của tôi, một người lính Việt Nam Cộng Ḥa tầm thường.

    Chính bọn bá đạo của Đảng Cần Lao Nhân Vị đă vô t́nh hay cố ư phụ họa với âm mưu tôn giáo vận của ngoại bang và Cộng Sản Việt Nam.

  10. #210
    chichchoe
    Khách
    Cuốn sách "Trong Ḷng Địch" của Trần Trung Quân được Nguyễn Thanh Hoàng, chũ nhiệm báo Văn Nghệ Tiền Phong, tung ra. Ông Nguyễn Thanh Hoàng là ai ? Là một đảng viên cần lao, tôn thờ ông Ngô Đ́nh Diệm như thần thánh. Chủ đích của sách "Trong Ḷng Địch" là ǵ ? Là để đánh phá một số cấp lănh đạo Phật Giáo bằng cách chụp mũ họ là Cộng Sản nằm vùng. Tại sao một số nhỏ cần lao cuồng tín lại ủng hộ việc chụp mũ Cộng Sản của cuốn sách "Trong Ḷng Địch" lên các cấp lănh đạo Phật Giáo ? Bởi v́ một số các cấp lănh đạo Phật Giáo có đủ sức kết hợp quần chúng Việt Nam-Phật Giáo có khoảng 90% dân số-để chống cộng, giải thoát đất nước khỏi sự thống trị của ngoại bang. Nguyên tắc của Đảng Cần Lao Nhân Vị là độc quyền chống cộng. Đây là cái thâm độc phản quốc của một số nhỏ cuồng tín đảng cần lao nhân vị. Tôi không muốn vơ đủa cả nắm bởi v́, trong quá khứ tôi đă chứng kiến thái độ chống cộng đứng đắn và hiệu quả của một số đảng viên cần lao chân chính, như Tướng Lê Văn Thân, Chuẩn úy Bùi Thương, ....
    Dù sao cuối cùng một đảng viên trung kiên của cần lao, Nguyễn Thanh Hoàng, cũng đành chấp nhận cuốn sách "Trong Ḷng Địch" là một cuốn sách ma, toàn là tài liệu giả, sau khi phe phản biện đă nêu lên các bằng chứng khả tín.
    .....
    Trần văn Thưởng (03/07/2010)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 27-05-2012, 01:54 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 16-02-2012, 11:33 AM
  3. Replies: 3
    Last Post: 18-11-2011, 04:27 PM
  4. Replies: 2
    Last Post: 20-02-2011, 06:53 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 29-01-2011, 12:24 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •