Page 4 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 31 to 40 of 47

Thread: Dấu hiệu "Nổi dậy" và Nội bộ Đảng CS Vn "Đấu Đá" Trước Khi Tan rả!?

  1. #31
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Kiến nghị Hiến pháp bỏ Điều 4
    Cập nhật: 05:54 GMT - thứ tư, 23 tháng 1, 2013


    BBC
    Những người ký kiến nghị nói Đảng CSVN nên chấp nhận cạnh tranh để lấy lại lòng tin

    Hàng trăm trí thức đã ký tên vào một bản Bấm Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 92, hiện đang lưu hành trên mạng internet.

    Hiện danh sách ký tên đã có tới trên 350 người, trong đó có các nhân sỹ trí thức hàng đầu Việt nam và người Việt ở nước ngoài.

    Nhóm những người chấp bút bản kiến nghị, với những cái tên như TS Nguyễn Quang A, TS Lê Đăng Doanh, GS Nguyễn Huệ Chi, Nhà báo Tống Văn Công... cho hay họ muốn thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc góp ư kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.

    "Hiến pháp của một quốc gia do dân làm chủ bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân và được h́nh thành từ sự thỏa thuận giữa các thành phần đa dạng trong xă hội."

    Những người kiến nghị cho rằng dự thảo hiến pháp hiện đang đưực trưng cầu ý kiến "chưa thấu suốt bản chất của một hiến pháp dân chủ, chưa thể hiện sự tin cậy, tín nhiệm của nhân dân với chính quyền theo tinh thần thỏa thuận kiến tạo một môi trường có sự kiểm soát bên trong và bên ngoài đối với quyền lực".

    Bởi vậy, những người này đề xuất kiến nghị 7 điểm cho dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
    Cạnh tranh là xu thế lịch sử

    Một trong những kiến nghị quan trọng liên quan tới Điều 4 của Hiến pháp hiện hành, nói Đảng Cộng sản Việt Nam là "lực lượng lănh đạo Nhà nước và xă hội", tuy không nhắc trực tiếp Điều 4.
    Hiến pháp 1946

    Những người kiến nghị cho rằng: "Nếu Hiến pháp thực sự do nhân dân quyết định th́ việc định trước vai tṛ lănh đạo nhà nước và xă hội thuộc về một tổ chức chính trị hay một tầng lớp là trái với quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân và ngược với bản chất của một nhà nước pháp quyền".

    Bởi vậy, người dân phải được bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ để lựa chọn lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

    "Một chính đảng thực sự có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy."

    Bản kiến nghị viết rõ: "Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đ̣i hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước".

    Chỉ có tiếp thu ý kiến trên, theo những người viết kiến nghị, Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể "lấy lại niềm tin đă từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lănh đạo chính trị được xă hội chấp nhận".

    Tiếp theo kiến nghị đầu tiên này, là sáu kiến nghị khác về quyền con người; sở hữu đất đai; tổ chức Nhà nước; lực lượng vũ trang; trưng cầu dân ư đối với Hiến pháp và thời hạn góp ư kiến sửa đổi Hiến pháp.
    Sở hữu đất đai

    Đáng chú ý, kiến nghị về sở hữu đất đai nói: "Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân kể từ Hiến pháp Việt Nam 1980 là sự sao chép Hiến pháp Liên Xô, một điều hoàn toàn xa lạ với nhân dân Việt Nam và đă gây ra rất nhiều bất ổn xă hội".

    Đây cũng là lý do gây ra các vụ khiếu kiện về đất đai, tao điều kiện cho tham nhũng "gây thiệt hại cho nhân dân, đặc biệt là nông dân".

    "V́ thế chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 57 của Dự thảo, trở lại như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959."

    Gợi ý của kiến nghị là: “Sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng và nhà nước về đất đai được tôn trọng. Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ và thống nhất quản lư đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản và các tài nguyên, nguồn lợi khác ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư”.

    Về lực lượng vũ trang, những người kiến nghị viết: "Mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn của lănh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân".

    " Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, như quy định tại Điều 70 của Dự thảo."

    Bởi vậy, họ yêu cầu bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Những người có tên trong danh sách cũng đề nghị kéo dài thời hạn trưng cầu ý kiến tới hết năm 2013 chứ không chỉ ba tháng như đã định.

  2. #32
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Dự thảo hiến pháp: Thử thách sự sống c̣n của chế độ
    Mặc Lâm, biên tập viên RFA
    2013-01-24

    Sau tuyên bố không có vùng cấm trong việc đóng góp sửa đổi Hiến pháp 1992 đă xuất hiện một bản dự thảo Hiến pháp gần như hoàn chỉnh của hơn 800 trí thức và được báo chí thế giới đánh giá như một cuộc cách mạng mềm trong chính trường Việt Nam.


    Đề nghị bỏ lời nói đầu của hiến pháp 1992

    Có thể nói sự chờ đợi sửa đổi bản hiến pháp năm 1992 lần này khác hẳn như sự thay đổi Hiến pháp năm 1946 vào năm 1992. Nhà nước chứng tỏ đă chuẩn bị dư luận rất kỹ trong việc kêu gọi người dân tham gia vào tiến tŕnh đóng góp ư kiến của ḿnh vào bản hiến pháp này. Tuyên bố mạnh mẽ của ông Phan Trung Lư. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đă tăng thêm sự mạnh dạn của quần chúng khi biết rằng không có vùng cấm nào trong các ư kiến tham gia.

    Trong khi báo chí quốc doanh loan tải một vài bài viết lác đác trên hệ thống thông tin nhà nuớc không được ai chú ư th́ tại nhiều trang blog như trang Bauxitvn, Basàm lại nóng lên với bản dự thảo hiến pháp được kư tên bởi hơn 700 chữ kư của các nhân vật trí thức. Bản dự thảo này ngay lập tức lan truyền rộng răi trên mạng và các cơ quan thông tấn của Đức, Pháp, Hoa kỳ loan tin lại với những nhận xét khá tích cực về một cuộc đổi thay lớn trong mặt bằng chính trị tại Việt Nam.

    Điều khiến dư luận chú ư trước tiên của bản dự thảo là đề nghị bỏ lời nói đầu của bản hiến pháp năm 1992. Đề nghị này hợp lư và hấp dẫn người theo dơi bởi tính chất bản hiến pháp của một nước không thề viện dẫn tính cao cả của bạn bè quốc tế hay sự những chiến thắng có tính giai đoạn lịch sử không thể kéo dài để biện minh cho lư lẽ cai trị của chế độ. Lời nói đầu bản hiến pháp năm 92 đă viết:

    "Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội, nhân dân Việt Nam nguyện phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một ḷng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà b́nh, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp, giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc."

    V́ trước mắt chưa có Chủ nghĩa xă hội cho nên trở lại với cái tên của nó là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa chứ không có ǵ mới, chỉ là tên cũ đặt lại cho chuẩn thôi.
    Ông Nguyễn Đ́nh Lộc

    Tính chất vi hiến lộ ra rất rơ khi Mác-Lê Nin và Hồ Chí Minh chỉ đạo toàn bộ hiến pháp của nước Cộng ḥa Xă Hội chủ Nghĩa Việt Nam. Lời nói đầu này đă khiến Hiến pháp không c̣n do nhân dân Việt Nam quyết định mà rơ ràng do một chủ thuyết đă tỏ ra lạc hậu, một nhân vật không c̣n tinh khôi như thời cầm quyền đă ngang nhiên chiếm lĩnh đời sống chính trị cũng như toàn bộ nền tảng của một bản hiến pháp của đất nước.

    Phủ nhận lời nói đầu này là phủ nhận toàn bộ tính chất áp đặt của Đảng cầm quyền hiện nay lên hiến pháp để từ đó gợi ư một nội dung khác, một tính chất khác, một hiến định khác nhằm giải tỏa những áp đặt đè nặng lên dân tộc trong nhiều chục năm qua.

    Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học một trong những người vận động chữ kư cũng như soạn thảo bản hiến pháp cho biết:

    Trong số những người có ư tưởng đề xuất bản kiến nghị này tất nhiên có những người hiểu biết luật pháp, có luật sư nên bản kiến nghị đưa ra chặt chẽ. Chúng tôi không ở trong một tổ chức nào hết mà chỉ là những con người, cá nhân, những công dân quan tâm đến vận mệnh đất nước và nhân việc nhà nước tuyên bố cần sự góp ư cho hiến pháp và không có giới hạn ngăn cấm nên chúng tôi thấy cần phải đề xuất cho đến cùng. Đến cái chỗ mà dân tộc Việt Nam hiện nay đang mong muốn, quan tâm nhất. Bản kiến nghị này h́nh thành là như vậy.

    GS-TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cũng là người kư tên trong bản kíên nghị cho biết lư do khiến bản dự thảo hiến pháp này ra đời. Với ông không ǵ khác hơn là tạo cơ hội để chính quyền có tính chính danh trong khi vận hành đất nước, đặc biệt là những người Đảng viên Đảng Cộng sản có cơ hội nh́n lại ḿnh và Đảng của ḿnh:

    Theo như ông chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lư đă nói th́ khi góp ư xây dựng hiến pháp sẽ không có vùng cấm nào cả. Bản thân tôi là một Đảng viên Đảng Cộng sản tôi cũng không muốn Đảng ḿnh đóng vai tṛ lănh đạo chính quyền, lănh đạo xă hội do áp đặt. Mà chúng tôi muốn lănh đạo xă hội, lănh đạo chính quyền một cách danh chính ngôn thuận, dựa trên uy tín, phẩm chất, năng lực thật sự của ḿnh. Thứ hai nữa nếu bây giờ mà đặt ra trong hiến pháp điều cố định là tổ chức nào đó như Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ vĩnh viễn lănh đạo xă hội th́ đó là cách làm hư Đảng. Nó sẽ làm cho Đảng viên không c̣n phấn đấu, không c̣n phải rèn luyện, chinh phục cái tâm của người dân nữa mà dần dần sẽ hư hỏng đi, mà như thế th́ làm Đảng yếu đi.

    Đề nghị đổi tên nước

    Bản dự thảo thay đổi Hiến pháp bác bỏ tên nước là Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với nguyên nhân chính là thời kỳ xă hội chủ nghĩa vẫn chưa xuất hiện tại Việt Nam th́ việc lấy cái đuôi này áp vào tên nước cho thấy tính mơ hồ của một bản Hiến pháp có giá trị của một quốc gia. Luật gia Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh cho biết:

    Trong cuộc họp của “Hội đồng dân chủ pháp luật” do Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Hà Nội vừa rồi mà tôi có tham dự th́ một số ư của vài vị đưa ra là chúng ta phải xác định thời kỳ này có phải là thời kỳ xă hội chủ nghĩa hay chưa? Hay là đang trong quá tŕnh xây dựng một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa? Bởi v́ thật ra khi có hiến pháp năm 1946 th́ sau đó là chiến tranh rồi chia hai đất nước, thành ra thể chế cộng ḥa đó nó chưa thể hiện một cách rơ ràng trong thực tế bằng một tổ chức nhà nước của chúng ta. Do đó tính chất vẫn là thời kỳ nối tiếp của năm 1946 chứ chưa phải là chủ nghĩa xă hội hay quá độ. Vả lại sau tất cả các bản hiến pháp từ năm 1946 là một hiến pháp rất tiến bộ có tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa - Độc lập, Tự do, Hạnh phúc - Ba chữ Độc lập Tự do Hạnh phúc nó rất bao quát. Một đất nước độc lập rồi phải dân chủ tự do và đem lại hạnh phúc cho người dân.

    Nguyên Bộ trưởng Bộ tư Pháp Nguyễn Đ́nh Lộc cũng nhận xét việc đổi tên nước là cần thiết nhưng không có ǵ mới so với bản hiến pháp năm 1946 khi Đảng Cộng sản chưa nhúng tay vào thực hiện việc thay đổi hiến pháp mà nhiều người vẫn cho là dân chủ nhiều lần hơn bản năm 1992.

    Thật ra bây giờ gọi là nhà nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhưng xă hội chủ nghĩa chỉ là một định hướng lâu dài mà thôi v́ trước mắt chưa có Chủ nghĩa xă hội cho nên trở lại với cái tên của nó là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa chứ không có ǵ mới, chỉ là tên cũ đặt lại cho chuẩn thôi.

    Một nét mới của bản dự thảo hiến pháp này là mạnh dạng thay đổi hệ thống chính quyền từ Chủ tịch nước theo hệ thống cộng sản sang Tổng thống chế như của nhiều nước tư bản Tây phương. Nói về thay đổi này luật gia Lê Hiếu Đằng cho biết:

    Dự thảo này cũng chỉ là gợi ư thôi chứ không có tính chính thức. Nó theo tổng thống chế, mô h́nh của các nước có chế độ lưỡng viện tức là Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Nó làm cho chức năng của từng viện rơ ràng và bao quát hơn, có tính chất đại diện rộng răi hơn.

    Hai viện này đại diện cho cả nước và đồng thời đại diện cho địa phương nên có tính chất tiêu biểu. Thượng viện chẳng hạn, rất quan trọng. Thật ra mô h́nh này đă có một số nước người ta áp dụng và có hiệu quả v́ vậy ḿnh nên theo. Điều ǵ mà con người tiến bộ đă áp dụng th́ ḿnh theo chứ không nên sáng tạo một con đường nào khác, rất mù mờ không có hiệu quả, v́ nó không đặt lợi ích đất nước, dân tộc lên trên.

    Những thay đổi cốt lơi của bản dự thảo hiến pháp c̣n nằm ở chỗ giải phóng quyền tham gia chính trị một cách thật sự của các Đảng phái đối lập, điều mà cả hai bản hiến pháp năm 1946 và 1992 hoàn toàn không nêu ra.

    Câu nói nổi tiếng của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết mà nhiều người vẫn nhớ đó là: “bỏ điều 4 hiến pháp là tự sát”.

    Nội hàm quan trọng của điều 4 hiến pháp là ǵ khiến chủ tịch một nước phải xác định với ngôn ngữ không cần bóng gió như vậy? Câu trả lời nhanh nhất: Điều 4 hiến pháp cho phép quyền lực Đảng Cộng sản Việt Nam bao trùm lên cả ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp theo hiến pháp quy định.

    Những quyền lực tuyệt đối của điều 4 vô hiệu hóa mọi quy định mà hiến pháp đưa ra. Từ quyền tối thiểu của người dân như sự đi lại cho đến cao hơn là quyền phát biểu chính kiến. Riêng trong lĩnh vực ṭa án sự tha hóa và bất công lộ ra rơ hơn khi Đảng toàn quyền đưa ra những bản án bỏ túi cho từng phạm nhân, những ai phạm tới quyền lực của Đảng cầm quyền.

    Điều 4 hiến pháp cho phép Đảng làm bất cứ thứ ǵ có lợi cho Đảng và hệ thống, trong đó có toàn quyền quyết định về chủ quyến đất nước thông qua các cuộc đàm phán không công khai. Đảng cũng đuợc quyền chấp thuận trong bóng tối ai là người được phép khai thác tài nguyên quốc gia và cứ mỗi lần đại hội Đảng là việc sắp xếp nhân sự lại diễn ra, người dân không một chút quyền hạn ǵ trong việc bỏ phiếu cho ai là người lănh đạo đất nước.

    Đề nghị bỏ điều 4 hiến pháp


    Điều 4 hiến pháp năm 1992 xuất hiện khi hiến pháp 1946 thay đổi. Trong bối cảnh Liên xô lúc ấy, điều 4 hiến pháp của Việt Nam rập khuôn điều 6 hiến pháp của Liên xô. Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xă hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Vơ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM cho biết tại sao có điều 4 hiến pháp của Việt Nam:

    Trước đây ở hiến pháp năm 46 thực chất lúc bấy giờ Đảng Cộng sản Đông Dương là Đảng lănh đạo và đương nhiên việc đó cũng thể hiện vào trong việc soạn thảo hiến pháp 1946 nhưng lúc bấy giờ có đưa vào đâu? Vả lại muốn đưa cũng không đưa được.

    Nhưng rồi sau đó vận dụng vào điều 6 của hiến pháp Xô viết để đưa điều 6 của Xô viết vào v́ nghĩ rằng sẽ tăng cường vai tṛ lănh đạo của Đảng nhưng trên thực tế th́ ngược lại. Thứ nhất, với đ́êu 6 đó th́ Đảng Cộng sản Liên xô vẫn không tránh khỏi sự sụp đổ. Với điều 4 trong hiến pháp của năm 92 mà bây giờ đang đưa ra lấy ư kiến th́ không tránh đuợc sự thoái hóa biến chất của một bộ phận rất lớn và nó càng ngày càng làm cho uy tín của Đảng suy sút nghiêm trọng trong dân. Điều này th́ chính Đảng nói chứ không phải ai nói cả.

    Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, nguyên cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc cho rằng không thể áp đặt lên nhân dân những ǵ mà Đảng muốn, ông nói:

    Bởi v́ Đảng lănh đạo th́ Đảng sinh ra v́ dân v́ nước chứ không phải sinh ra v́ quyền lợi của Đảng cho nên không cần ghi là Đảng lănh đạo bởi v́ quyền lănh đạo do dân tín nhiệm trao cho chứ không thể áp đặt được.

    Chính điều 4 hiến pháp giao cho Đảng mọi chiếc ch́a khóa quan trọng trong việc điều hành đất nước nên Đảng đă dùng nó để khóa trái những cánh cửa tự do mà người dân được quyền hưởng v́ muốn bảo vệ sự độc đảng của ḿnh. Chiếc ch́a khóa mở cánh cửa dùng quyền biểu t́nh mà hiến pháp quy định để chống lại xâm lược cũng bị Đảng khống chế do đó Đảng quyết định luôn vận mệnh đất nước trong các cuộc đi đêm nếu có lợi cho Đảng.

    Ông Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư kư Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM người kư tên vào bản kiến nghị dự thảo hiến pháp nghi ngờ sự mong manh của bản hiến pháp lần này:

    Tôi thấy rằng họ có thể ghi những điều mà dự thảo yêu cầu nhưng nếu điều 4 c̣n th́ nó sẽ phủ định hết tất cả. V́ họ độc quyền lănh đạo mà nếu họ ghi những điều đó đồng thời với điều 4 th́ điều 4 nó sẽ phủ định hết tất cả những cái cải lương, thay đổi đó.

    Cũng từ điều 4 hiến pháp này Đảng đă tận dụng nó như một quyền năng tuyệt đối để quay lại ra lệnh cho chính hiến pháp quy định lực lượng vũ trang phải hết ḷng bảo vệ cho Đảng. Đ́êu này làm cho nhân sĩ trí thức nổi giận, trong đó có thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, ông nói:

    Tôi đứng trên quan điểm chung của mọi nước và như tôi đă phân tích quân đội phải bảo vệ tổ quốc chứ không phải bảo vệ một tổ chức, cá nhân nào. Bởi v́ nếu bảo vệ tổ quốc th́ trong đó có cả Đảng Cộng sản rồi, cũng trong tổ quốc Việt Nam thôi th́ có ǵ mà họ phải phản ứng mà phản ứng là vô lư cho nên tôi tôi cứ nói theo ư của tôi và tôi không sợ ǵ sự phản ứng cả.

    Tôi thấy rằng họ có thể ghi những điều mà dự thảo yêu cầu nhưng nếu điều 4 c̣n th́ nó sẽ phủ định hết tất cả.
    Ông Huỳnh Kim Báu

    Ông Huỳnh Kim Báu chia sẻ những ư kiến của tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và nh́n lại những nỗ lực mà trí thức đang vận động trong dự thảo thay đổi hiến pháp này, ông nói:

    Thực tế ra nói là v́ tương lai của đất nước, lo cho dân thôi chứ c̣n chúng tôi không tin dù một chút. Thường thường tất cả đều đă được chuẩn bị hết chẳng qua nếu mà hỏi ư kiến dân th́ người ta chỉ chọn những ǵ phù hợp với người ta mà thôi chứ c̣n dứt khoát như điều 4 họ không giải quyết đâu, hay là luật đất đai điều 86 sẽ không giải quyết được đâu nhưng mà nói th́ vẫn phải nói. Tôi không tin nhưng về lương tâm phải nói để bảo vệ đất nước.

    Quân đội là của nhân dân. Quân đội được nuôi bởi tiền thuế của nhân dân th́ phải phục vụ nhân dân, làm sao chỉ một nhóm người? Đây là quyền lợi cả một dân tộc mà lại vĩnh viễn luôn th́ không bao giờ có chuyện đó.

    Giáo sư Hoàng Xuân Phú, tác giả của các bài viết nảy lửa về Hiến pháp trong những lúc gần đây cho rằng “Quy định trong Hiến pháp về quyền lănh đạo đương nhiên của ĐCSVN đối với Nhà nước và xă hội tưởng để Đảng trường tồn, nhưng lại là điều khoản khai tử của ĐCSVN, khai tử khỏi ḷng Dân và khai tử khỏi cuộc sống chính trị.”
    Số phận ĐCS sẽ ra sao?


    Câu hỏi mà nhiều đảng viên có ḷng với vận mệnh đất nước hiện nay quan tâm là nếu bỏ điều 4 hiến pháp th́ số phận của Đảng Cộng Sản Việt Nam ra sao? Những đảng viên thuộc nhiều thế hệ sẽ như thế nào và liệu họ có thoát khỏi ḍng chảy đào thải của cuộc thay đổi này hay không?

    Sự sụp đổ chế độ Cộng sản tại Liên xô và Đông âu cho thấy không có bất cứ cuộc tắm máu nào hay sự rối loạn xă hội bởi thay đổi thể chế cầm quyền. Lư do mà nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đưa ra là các cuộc cách mạng ấy diễn tiến trong nội bộ của Đảng Cộng sản Liên xô và tác động lên các nước c̣n lại. Nguồn gốc của những cuộc cách mạng này nằm trong tính tất yếu của các cuộc vận động lịch sử, khi sự tha hóa, độc tài đă đến lúc chín ră th́ phải bị đào thải bởi các ḍng chảy cách mạng của nhân dân. Chân lư này đă xảy ra trong quá khứ và không nghi ngờ ǵ nó sẽ lập lại khi điều kiện đă chín muồi và không ai, thế lực nào có khả năng năng ngăn lại sự chín muồi đó.

    Bản dự thảo hiến pháp rơ ràng là một sự chín muồi có điều kiện. Những nhận thức từ căn bản của một hiến pháp không phù hợp với tiêu chí của các nước văn minh đă và đang tŕ kéo sức bật của cả dân tộc, v́ vậy nếu thay đổi đúng với tinh thần một bản hiến pháp cần có th́ đảng cầm quyền hiện tại phải chấp nhận tṛ chơi công bằng của các đảng phái chính trị ngang hàng nhau trong mọi điều kiện để cạnh tranh một cách công bằng hầu cải thiện đời sống dân chủ của người dân.

    Đ́êu kiện cần có ấy sẽ gây ra tổn thất cho nhiều bên, trong đó không thể không nhắc tới Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Mất mát tất cả quyền lực hiện nằm trong tay và viễn ảnh về hưu cay đắng không dễ ǵ thuyết phục người ta chấp nhận như Miến Điện đang thay đổi, mặc dù trước đây ít lâu chính quyền Miến được xem độc tài và bạo chúa gấp nhiều lần Việt Nam. Câu hỏi về niềm tin sẽ thay đổi tư duy của đảng cầm quyền có làm cho những vị vận động bản dự thảo hiến pháp nghĩ đến hay không được Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trả lời:

    Chúng tôi từ lâu đă suy nghĩ về những điều ấy nhưng vận động của lịch sử là một cái ǵ không thể cưỡng được cho nên tôi nghĩ là Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước những thách thức về dân chủ và về quyền con người, quyền công dân. Nếu như ḿnh tranh thủ được sự đồng t́nh của toàn dân th́ Đảng Cộng sản sẽ giữ được vai tṛ lănh đạo như trước. Cho nên không có sự ǵ gọi là xáo trộn, làm cho những người cộng sản tự biến mất vị trí, hoàn toàn không.

    Chúng ta chỉ thực hiện quyền b́nh đẳng dân chủ trước pháp luật của toàn dân và người Cộng sản muốn đóng được vai tṛ trách nhiệm trước lịch sử th́ họ phải làm thế nào cho xứng đáng với tư cách người lănh đạo của một đất nước có công bằng, dân chủ, văn minh không thoái hóa về nhiều phương diện th́ đương nhiên người cộng sản sẽ vẫn được tín nhiệm như thường. V́ thế tôi không nghĩ có một sự xao trộn ǵ lớn trong việc này và Đảng Cộng sản Việt Nam chắc chắn phải phấn đấu nhiều hơn, đưa hết sức lực ra th́ tự nhiên họ sẽ giữ đựơc vị trí của ḿnh thôi.

    Già thuyết về sự mất trắng quyền bính của Đảng Cộng sản cũng như ba triệu đảng viên của nó là lực cản lớn nhất cho dự thảo thay đổi hiến pháp lần này được Giáo sư Tương Lai giải thích:

    Không nên khẳng định nếu bản hiến pháp này thông qua th́ quyền bính của họ mất trắng v́ nói như vậy cũng không sát với kiến nghị của chúng tôi. Kiến nghị của chúng tôi trong đó có những người là Đảng viên như bản thân tôi. Tôi không kiến nghị về việc bác bỏ sự lănh đạo của một Đảng nếu Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn được nhân dân tin phục thông qua trưng cầu dân ư và bỏ phiếu tín nhiệm. Việc Đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử. Là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đ̣i hỏi của nhân dân kể cả các Đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước.

    Khi được hỏi ảnh hưởng tích cực sau khi bản dự thảo hiến pháp thành h́nh là ǵ Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết người kư tên vào bản dự thảo cho biết:

    Tôi nghĩ ảnh hưởng th́ chắc chắn là có lợi cho sự phát triển của đất nước, có lợi đối với toàn dân th́ rất rơ ràng. Khi chúng ta xây dựng được một bản hiến pháp dân chủ, có một hệ thống pháp luật dân chủ, một xă hội dân chủ thật sự th́ không có quyền lợi chính đáng nào của người dân sẽ bị coi nhẹ, tước bỏ.

    Tôi lấy ví dụ, hiện nay cũng có những người cứ lo lắng mơ hồ là nếu có sự thay đổi th́ ḿnh không đảm bảo được lương hưu chẳng hạn. Sự lo lắng ấy là không có cơ sở trong xă hội dân chủ bởi v́ lương hưu nó thuộc hệ thống bảo hiềm xă hội. Có đóng tiền bảo hiểm xă hội th́ ḿnh có lương hưu, chuyện ấy không cần bàn căi.

    Việc Đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử. Là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đ̣i hỏi của nhân dân trước bối cảnh hiện nay của đất nước.
    Giáo sư Tương Lai

    Hai nữa tôi cũng xin nói lại, kiến nghị này của anh em trí thức là một kiến nghị xây dựng hiến pháp dân chủ chứ đây không phải là ḿnh làm cuộc lật đổ hay “Cách mạng nhung”, “Cách mạng hoa” ǵ cả. Vấn đề là toàn dân thống nhất xây dựng nguyên tắc dân chủ đưa vào hiến pháp th́ chắc chắn dân chủ sẽ tốt hơn.

    Giáo sư Tương Lai tin tưởng vào sự hiểu biết của đảng cầm quyền. Trong t́nh h́nh khá chín muồi hiện nay sẽ thúc đẩy họ có cái nh́n tỉnh táo hơn về thực trạng mà họ phải đối phó để đi đến quyết định có lợi cho quốc gia dân tộc:

    Đành rằng không thể nào những người đang làm công tác soạn thảo sẽ theo tinh thần mà người dân muốn để người ta dễ dàng chấp nhận điều này. Không có đâu. Nói như vậy là hết sức ảo tưởng. Nhưng chân lư chỉ có một, chính nghĩa chỉ có một, công lư chỉ có một, tùy theo điều kiện lịch sử mà nó thể hiện ra. Nếu những người cầm quyền, những người đang soạn thảo dự thảo hiến pháp này họ hiểu ra được việc th́ họ phải có những hành động cần thiết.

    Đương nhiên giữa hiểu biết, nhận thức và lợi ích thực tế, lợi ích phe nhóm, lợi ích của nhóm cầm quyền nó có một cuộc đấu tranh gay gắt. Nhưng tôi tin rằng trong lương tâm mỗi một người đều có một đốm sáng, và chính cái đốm sáng ấy là cái mà chúng tôi thức tỉnh để nó bùng lên, để họ cùng với nhân dân thực hiện sứ mệnh lịch sử của họ.

    GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng cái lợi lớn nhất cho người dân là họ sẽ thực sự làm chủ vận mệnh của ḿnh nếu hiến phảp thay đổi theo bản dự thảo này:

    Hiến pháp là một khế ước xă hội, trong đó người dân giao ước với nhau về thể chế mà ḿnh muốn thành lập để giới hạn quyền lực của bộ máy chính quyền ấy. Và cao hơn hết là về quyền con người trong xă hội được hưởng những quyền ǵ. Cái ǵ ảnh hưởng tới người khác tới cộng đồng th́ không được làm, cụ thể nó như thế nào.

    Theo tôi nếu chúng ta sửa hiến pháp như thế và có bản thảo hiến pháp kèm theo để cho người dân tham khảo th́ tôi chắc chắn là người dân sẽ có quyền tự do dân chủ rộng răi và xứng đáng là người chủ của xă hội, của đất nước chứ không phải chỉ là người chủ trên danh nghĩa.

    Một cán bộ cao cấp kư tên trong bản kiến nghị dự thảo cho chúng tôi biết góc nh́n của ông:

    Kết quả về kiến nghị th́ hiện nay chưa thấy ǵ cả nhưng tôi hy vọng trong thời đại hiện nay th́ phải t́m ra cái lợi ích hài ḥa giữa lực lượng và lợi ích của toàn dân không thề tôn trọng lợi ích của một bên nào cả. Hiện nay cái không khí dân chủ nó đang mở rộng, việc đ̣i hỏi dân chủ của người dân nó đang lên cao th́ tôi hy vọng Đảng sẽ chấp nhận ở mức độ nào đó, từng bước dần dần hai bên sẽ gặp nhau.

    Gác lại những hy vọng nếu những kịch bản từng xảy ra trong nhiều năm nay được lập lại, đó là sự im lặng đối với những ǵ mà trí thức lên tiếng. Khả năng các cuộc truy lùng trong bóng tối cũng không phải là hiếm hoi khi đảng cầm quyền cho rằng bản dự thảo này là một thách thức có thể bùng lên thành gịng chảy cách mạng như từng xảy ra trên nhiều nước. Ông Huỳnh Kim Báu khẳng định sự quyết tâm của ḿnh:

    Tất nhiên họ c̣n như vậy th́ vẫn c̣n tranh đấu tới hơi thở cuối cùng chứ không nhân nhượng chuyện đó. Hai nữa th́ hy vọng trong những người lănh đạo cộng sản cũng có thề có những người họ thức tỉnh, th́ cũng chỉ hy vọng vậy thôi. Tôi nghĩ đây là chuyện lâu dài chứ không phải một ngày nhưng mà làm cái ǵ cũng phải lâu dài chuẩn bị cho việc trả giá cũng như t́nh h́nh trước đây ở Đông âu vậy cho nên chúng tôi sẳn sàng trả giá.

    Báo chí quốc tế có cái nh́n tích cực đối với cuộc vận động này không phải là không có nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân ấy là nền chính trị độc đảng của Việt Nam đă chạm đáy, nó cần nổi lên để thở, và nhất là để tránh một cuộc thay đổi dưới h́nh thức bạo động qua gợi mở một cuộc rút lui trong danh dự từ bản dự thảo hiến pháp này.

  3. #33
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Nguyễn Bá Thanh, người tạo thời thế?
    Việt-Long, RFA – theo The Economist, Jan 26, 2013
    2013-01-25

    "...Ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ c̣n bám giữ cheo leo vào chức vụ Thủ tướng. Ông Nguyễn Bá Thanh được điều về Hà Nội có vẻ như để “cắt cánh” ông Thủ tướng thêm nữa. Tuy nhiên ông Dũng đang phản công."

    Uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh
    Tuyên phạt nặng để trấn áp đối lập

    Hôm 9 tháng 1 ṭa án Việt Nam tuyên án nặng nể đối với 14 người trẻ tuổi, gồm những bloggers và người hoạt động cho dân chủ. Họ bị kết tội “lật đổ chính quyền” với những bẳng chứng hời hợt nhất. Dù với tiêu chuẩn “đáng hối tiếc” của những người Cộng Sản lănh đạo Việt Nam, th́ việc này cũng đánh dấu một tầm thấp kém mới của hành vi đàn áp tàn nhẫn, quá đáng. Sự vi phạm chính của 14 người trẻ tuổi này chỉ là tham dự một buổi huấn luyện do môt đảng chính trị tổ chức tại Bangkok, không mang tính cách thù nghịch ǵ hơn thế.

    đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đứng trước nguy cơ đánh mất ḷng tín nhiệm của toàn dân về đức độ và tài năng lănh đạo để cai trị người dân.

    Đảng Cộng sảnViệt Nam có thể chỉ muốn có phiên ṭa “tŕnh diễn” này để biểu tỏ dấu hiệu của sức mạnh chính trị, hầu hăm dọa mọi phía đối lập. Nhưng hầu hết người Việt Nam xem xét sự kiện đó với nhăn quan mang nhiều tính phê phán hơn. Họ coi đó là một hành động tuyệt vọng của một đảng chính trị càng ngày càng rối loạn tâm thần. Tuy nền kinh tế có tiến bộ nhờ một phần tư thế kỷ đổi mới và tương đối cởi mở, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đứng trước nguy cơ đánh mất ḷng tín nhiệm của toàn dân về đức độ và tài năng lănh đạo để cai trị người dân.

    Do báo chí Việt Nam bị Nhà nước kiềm soát hoàn toàn, hành động đàn áp người bất đồng chính kiến hầu hết nhắm vào internet. Có lúc Việt Nam ước tính trong nước có ít nhất 2 triệu blog, hay trang nhật kư cá nhân- hầu hết tán gẫu những chuyện vô thưởng vô phạt về cách sống, cuộc sống… Tuy nhiên một số không ít lại bàn căi về những đề tài xă hội, kinh tế và chính trị gọi là “nhạy cảm”, gây khó chịu theo cách mà đảng Cộng sản không ưa thích.

    Kinh tế thất bại, gia tăng đàn áp

    Cuộc đàn áp gia tăng mức độ tàn bạo trong hai năm qua, hiển nhiên tỉ lệ thuận với những chuỗi vấn đề ngày càng dài lê thê của xứ sở này. Về tự do internet, Việt Nam xếp hạng gần dưới đáy trong danh sách toàn cầu những nước có internet, chỉ hơn được Trung Quốc và Iran. Trong một khu vực đổi mới nhanh chóng, đáng chú ư nhất là Miến Điện, Việt Nam hơn bao giờ hết trông cứ như con khủng long quái dị về chính trị - mà c̣n là một con khủng long lạc hướng.

    các doanh nghiệp Nhà nước bị hoen ố v́ tham nhũng, và điều đó huỷ hoại cả uy tín quyền năng của một đảng được lập ra do ông Hồ Chí Minh khắc khổ


    Lư do chính của hành động tự vệ của đảng Cộng sản Việt Nam là những sai lầm trong sự điều hành kinh tế. Chỉ mới 5 năm trứơc Việt Nam được hoan hô như con hổ châu Á mới, đạt những kỷ lục tăng trưởng. Vậy mà ngày nay những vấn đề liên quan đến cấu trúc cũ kỹ của một hệ thống kinh tế xă hội chủ nghĩa, mà phần cực lớn không chịu đổi mới, đă đuổi bắt kịp (để níu lại) đà phát triển kinh tế - nhanh chóng và liên tục sinh ra lạm phát cao, tiền tệ mất giá, hệ thống ngân hàng ngập nợ và đà tăng trưởng đổ nhào, xuống mức 5% quá khiêm tốn vào năm 2012. Tất cả mọi người, kể cả các nhà lănh đạo Cộng sản, đều đồng ư rằng thủ phạm chính yếu là các doanh nghiệp Nhà nước, mà qua đó đảng Cộng sản cố điều hành nền kinh tế theo cung cách xă hội chủ nghĩa cổ điển. (LND: Diễn đàn Kinh tế của đài Á Châu Tự do đă cảnh báo liên tục về việc này suốt bốn năm nay, nhưng vô hiệu!) . Hệ thống quốc doanh được ghi nhận sản xuất 40% sản phẩm của nền kinh tế của quốc gia, nhưng bị điều hành tồi tệ, phí phạm và không có sức cạnh tranh. Năm 2011 một trong những công ty quốc doanh lớn nhất, Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ VINASHIN, gần như sụp đổ hoàn toàn.

    Tai hại hơn nữa, hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước bị hoen ố v́ tham nhũng, và điều đó huỷ hoại cả uy tín quyền năng của một đảng được lập ra do ông Hồ Chí Minh khắc khổ. Thành phần quản trị cấp cao (của các doanh nghiệp Nhà nước) đều được bổ nhiệm theo (đẳng cấp và quá tŕnh) chính trị. Thông thường các doanh nghiệp này xem ra chỉ hoạt động v́ quyền lợi của các đảng viên Cộng sản, mà đông đảo những người đó nay rất giàu có. Năm ngoái là một năm “kinh hoàng” cho tiếng tăm của hệ thống xí nghiệp quốc doanh, và cả danh tiếng của đảng Cộng sản Việt Nam cũng vậy, với nhiều vụ những giám đốc tổng giám đốc bỏ chạy ra nước ngoài hay bước vào cổng nhà tù. Tham nhũng đă trở thành hệ thống từ lâu. Một bản báo cáo của Pḥng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam hồi năm ngoái cho thấy 50% các doanh nhân nh́n nhận đă từng hối lộ các viên chức để chiếm được hợp đồng. Tỉ lệ thực sự có thể c̣n cao hơn.

    Có rất nhiều cuộc bàn luận về việc cải tổ hệ thống quốc doanh cùng vô số những cuộc thảo luận về vấn đề chống tham nhũng, nhưng nói càng nhiều làm càng ít. Tuy nhiên sau cùng Đảng cũng ra tay, mả chỉ là hành động tượng trưng. Thay v́ bắt buộc nhiều người (đảng viên) phải từ chức hay bị sa thải, là điều có thể huỷ hoại cái tăm tiếng tự nhận là “không thể sai lầm” của đảng (Cộng sản Việt Nam), th́ đảng đưa một nhân vật của chính họ ra để sắp xếp lại mọi thứ hỗn loạn.

    Người tạo thời thế?

    được giao vịêc cụ thể, ông sẽ bước thẳng vào giữa cuộc đấu tranh gay go giành quyền lực giữa một bên là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bên kia là chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng

    Người xông ra để cấp cứu là (ông) Nguyễn Bá Thanh, 59 tuổi, bí thư đàng bộ Đà Nẵng, thành phố lớn thứ ba của Việt Nam. Ông vửa được bổ nhiệm vào chức vụ đứng đầu một cơ quan mới (?) đầy uy quyền của đảng Cộng sản: Ban Nội chính Trung ương Đảng (LND: cơ chế này trực thuộc Đảng Cộng sản, từng được hợp nhất về Văn pḥng Trung ương Đảng vào tháng 5 năm 2007; nay được tái lập theo quyết định số 158-QĐ/TW của Bộ Chính trị ngày 28 tháng 12 năm 2012)

    Ông Thanh được giao nhiệm vụ hạ giảm tham nhũng. Ông về Hà Nội với danh tiếng là có uy tín và ăn ngay nói thẳng theo cách có hiệu quả. Ông đem theo niềm hy vọng của những nhà đổi mới là có thể “nói được là làm được", như ông từng tuyên bố, ở cấp lănh đạo quốc gia.

    Ông sẽ được giao vịêc cụ thể, sẽ bước thẳng vào giữa cuộc đấu tranh gay go giành quyền lực giữa một bên là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bên kia là chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ông Dũng bị tai tiếng v́ sự thất bại ở tập đoàn VINASHIN cùng nhiều vụ tai tiếng khác; ông bị cho là gần gũi với dăm ba cấp lănh đạo của VINASHIN cũng như với “đại gia” ngân hàng Nguyễn Đức Kiên, người bị tống giam hồi tháng 8 v́ cáo buộc “vi phạm luật lệ kinh tế".

    Ông Dũng chỉ c̣n bám giữ cheo leo vào chức vụ Thủ tướng. Ông Thanh về Hà Nội có vẻ như để “cắt cánh” ông Thủ tướng thêm nữa. Tuy nhiên ông Dũng đă phản công. Một cơ quan chính phủ (Thanh tra Chính phủ) vừa công bố một báo cáo khác thường trong tháng giêng, đả kích nạn điều hành sai trái và tham nhũng ở Đà Nẵng, trong thời gian ông Thanh coi sóc nơi đó.

    Sụ kiện những đấu đá ồn ào ở thượng từng trở nên công khai là một hiện tượng căng thẳng thêm nữa bên trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Giữa lúc ấy, sự phẫn nộ và thất vọng của công chúng đối với đảng Cộng sản ngày càng tăng, dù chưa tăng tới mức độ (bùng nổ) cách mạng. Dù sao chăng nữa sự đương đầu với nhà cầm quyền, chẳng hạn như với những vụ chính quyền cưỡng chế/thu hồi đất đai, rất dễ biến thành bạo động.

    Rất có thể nhiệm vụ của ông Thanh sẽ chỉ cho phép ông chắp vá cái hệ thống hiện tại. Những đổi thay thêm nữa c̣n phải chờ thời, nếu không sẽ đi ngược với ḷng mong muốn của đảng Cộng sản.

  4. #34
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Nguyễn Bá Thanh nói về chống tham nhũng ám chỉ trực tiếp “đồng chí X”?
    Cầu Nhật Tân
    -



    Tân Trưởng ban Nội chính Nguyễn Bá Thanh nói về chống tham nhũng: ông tưởng ông ngon lắm đấy, ông tưởng họ kính nể, họ chắp tay, họ bái phục ông á? Người ta làm sai th́ từ chức, ḿnh làm sai th́ nhơn nhơn, tỉnh queo, không có vấn đề ǵ. Biểu anh từ chức th́ ảnh không từ. Cùng lắm là rút kinh nghiệm. Không có dây ǵ dài hơn dây kinh nghiệm đó. Rút miết mà không bao giờ hết. Năm (5) nhiệm kỳ lănh đạo Đảng (từ thời Nguyễn Văn Linh) đến nay hô hào rất mạnh, nhưng càng hô th́ càng yếu kém, hô nhiều nhưng không làm được bao nhiêu. Lần này làm (chống tham nhũng) từ trên làm xuống, bắt đầu từ Tổng Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị tới Ban Bí thư, tới từng anh Ủy viên Trung ương. Không tự phê b́nh nữa. Không đợi anh tự nói ra để tôi nghe. Anh không nhận á? Sẽ có người chỉ ra cho anh.


    https://caunhattan.wordpress.com/201...ep-dong-chi-x/

  5. #35
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Wikileaks: Nguyễn Bá Thanh từng bị chặn đường chuyển công tác rà Hà nội

    V́ bị chặn đường chuyển ra Hà Nội, viên bí thư chủ tịch Đà Nẵng đánh đ̣n nặng nề để trả thù kẻ địch trong đó có cả một thiếu tướng công an.

    Điều này được tường thuật lại trong một công điện đánh đi từ Ṭa Tổng Lănh Sự Mỹ tại Sài G̣n đề ngày 1 tháng 4, 2009, với tựa đề “Người khổng lồ chính trị thoát án tham nhũng, c̣n công an và phóng viên th́ đi tù.”

    Vụ án xử Thiếu Tướng Trần Văn Thanh tới nay vẫn c̣n nhiều người nhớ. Đó là phiên xử mà viên tướng công an, tuy đang bệnh hôn mê liệt giường, vẫn bị đẩy vào pḥng xử với đầy đủ dây nhợ và máy trợ thở oxygen, để bị nghe tố cáo và tuyên án. Bàn tay đằng sau vụ xử dă man ấy được bức công điện khẳng định là ông Nguyễn Bá Thanh, chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân và bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

    Gọi ông Nguyễn Bá Thanh là “người khổng lồ chính trị” là đúng. Vào đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1980, ông đi từ chức vụ phó bí thư huyện ủy leo dần lên tới chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân TP. Đà Nẵng từ năm 1995 và nắm quyền tại đó cho tới nay, lúc đầu trong vai tṛ chủ tịch UBND, sau đó qua chủ tịch Hội đồng Nhân dân và bí thư Thành ủy. Là bí thư thành ủy, ông Thanh cũng trở thành ủy viên trung ương đảng.

    Ở Đà Nẵng, Nguyễn Bá Thanh là một ông vua con. Quyền tổng lănh sự Charles Bennett gọi ông này là “chủ nhân của đất và gió”. Ông kể lại:

    “Những nhà đầu tư phát triển địa ốc nào dại dột xây cất vườn tược trước khi hỏi ư Bá Thành là trồng cây ǵ và lối đi xây làm sao, chẳng hạn, sẽ bị đóng cửa và phải bới lên xây lại từ đầu.”

    “Những nhà đầu tư nào không chịu nói chuyện trước với Nguyễn Bá Thanh từ trước khi nộp đơn, đều nói rằng họ chẳng bao giờ được cấp giấy phép,” công điện cho biết.

    Ông vua con c̣n đặt hàng một bài hát chính thức cho thành phố - công điện không nói tên, nhưng đó là bài “Đà Nẵng tôi yêu” với lời thơ Nguyễn Bá Thanh. Bài hát này ca ngợi Đà Nẵng, từ đất lên tới gió và tất cả mọi thứ ở giữa. Nhưng ở Đà Nẵng người ta truyền miệng một bản “lời 2” trong đó nói tài sản của ông Thanh gồm từ đất lên tới gió và tất cả mọi thứ ở giữa, chừa lại một con chim. Con chim này, bản công điện viết, là tài sản ông Hoàng Tuấn Anh, chủ tịch UBND thành phố. (Ông Hoàng Tuấn Anh sau này là bộ trưởng Văn hóa Thể thao Du lịch.)

    Ngược lại, bức công điện viết, nếu nhà đầu tư nào chịu chơi đúng luật của Thanh, mọi loại giấy tờ sẽ dễ dăi và suôn sẻ, hơn tất cả chỗ nào khác tại Việt Nam. “Các nhà đầu tư ngoại quốc cho biết thành phố hứa hẹn rất nhiều và luôn giữ lời,” công điện viết. Ông Thanh được cho là không ăn hối lộ trực tiếp, mà làm giàu bằng cách mua rẻ đất của dân rồi bán lại cho các nhà đầu tư, theo lời giới làm ăn ở Đà Nẵng thuật lại cho TLS Mỹ.

    Tuy làm vua một cơi, nhưng ông Thanh vẫn muốn leo lên chức vụ cao hơn. Bản công điện cho rằng ông Thanh muốn đi, là v́ không muốn bị ép về hưu khi nhiệm kỳ chấm dứt năm ông 57 tuổi và không thể ở lại thêm 5 năm nữa. Tuy nhiên, nhận định này của quyền TLS Bennett không đúng: Ông Thanh vẫn có thể ở lại thêm một nhiệm kỳ tới năm 62 tuổi, v́ phải tới 65 tuổi mới đụng hạn hưu của một ủy viên trung ương.

    Đường vào Hà Nội bị chặn

    Với ư đồ chính trị muốn leo cao nữa, ông Thanh biết rằng ông không thể ngồi măi một chỗ không bước chân ra khỏi Đà Nẵng. Cơ hội đến với ông năm 2008.

    Vào tháng 8 năm đó, chính quyền Việt Nam sáp nhập tỉnh Hà Tây (tự nó đă gồm hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây thời xưa) vào thành phố Hà Nội. Chỉ qua một đêm, Hà Nội bỗng lớn lên gấp 3 lần diện tích cũ, và bỗng có một chỗ trống cho một phó chủ tịch phụ trách vùng đất mới sáp nhập.

    Theo lời công điện, ông Thanh vận động trung ương đảng để được đặt vào chỗ đó. Vào tháng 7 năm 2008, trong lúc chuẩn bị mở rộng Hà Nội, trung ương đảng đề nghị ông Thanh vào ghế phó chủ tịch mới có. Nhưng phía thành phố Hà Nội lại không thích bị một người từ nơi khác vào làm phó chủ tịch Hà thành. Để có thể vận động Bộ Chính Trị đi ngược lại “đề nghị” của trung ương đảng, họ lại lôi ra vụ án tham nhũng dính líu tới ông Thanh.

    Nhận định này của viên quyền tổng lănh sự cần phải xét lại. Ghế phó chủ tịch, dù của thủ đô Hà Nội và phụ trách một miếng đất rộng lớn, vẫn không cao bằng ghế chủ tịch Đà Nẵng. Khác với vị trí lúc đó của ông Thanh là chủ tịch Đà Nẵng và ủy viên trung ương, nếu “xuống” ghế phó chủ tịch Hà Nội sẽ không thể là ủy viên trung ương.

    Theo dư luận thời bấy giờ, cái ghế ở Hà Nội mà ông bí thư Thanh muốn, không phải là phó chủ tịch thành phố, mà là một chân đại biểu Quốc Hội.

    Dù v́ động cơ nào, tin tức về vụ tham nhũng này được tuồn ra cho giới báo chí và blogger, kể cả báo Công An. Ông Thanh bị tố cáo nhận hối lộ 4 tỷ đồng Việt Nam (tương đương 200,000 đô la Mỹ) hồi năm 2007 khi giải tỏa đất. Tin tức cũng rộ lên về người dân oan viết thư tố cáo lên thủ tướng rồi bị chết bí hiểm.

    Một doanh gia ngân hàng, người Singapore làm ăn tại Đà Nẵng, giải thích về vụ này cho TLS. Theo ông này, tuy đảng Cộng Sản vẫn biết về sự tham nhũng của ông Thanh, nhưng họ sẽ không làm ǵ, thứ nhất là “v́ mức độ tham nhũng của ông Bá Thanh không quá đáng và không ảnh hưởng tới sự phát triển của thành phố,” và thứ nh́ là “ông chia phần làm giàu cho rất nhiều thế lực chính trị ủng hộ”.

    Chuyện tham nhũng ngày xưa bị đem ra xem lại, theo ông này, chỉ là v́ quan chức Hà Nội không thích người ngoài nhảy vào nhận một chức vụ trong thành phố của họ. Và họ đă thành công. Bộ Chính Trị ra chỉ thị chính quyền Hà Nội mới chỉ gồm nhân sự chính quyền Hà Nội và Hà Tây cũ.

    Khi trâu ḅ húc nhau, ruồi muỗi phải chết. Trong vụ này, “ruồi muỗi” không phải là từ chính xác để miêu tả nạn nhân - v́ chính những nạn nhân cũng có thế lực.

    Ngày 24 tháng 2 năm 2009, nhiều tháng sau khi ông Thanh đă lỡ chuyến tàu ra Hà Nội, công an Đà Nẵng ra tay truy tố nguyên chánh thanh tra Bộ Công An Việt Nam, Thiếu Tướng Trần Văn Thanh. Ông này là người đứng đầu cuộc điều tra vụ án tham nhũng.

    Ông Thanh bị tố cáo là đứng đầu một âm mưu triệt hạ uy tín lănh đạo Đà Nẵng. Ba con “ruồi muỗi” khác đă bị truy tố từ trước đó, gồm cựu thiếu tá công an Đinh Công Sắt; trung tá công an Dương Ngọc Tiến là trưởng đại diện báo công an TP. HCM tại Hà Nội; và ông Nguyễn Phi Duy Linh, một người bạn thân của Tướng Thanh.

    Vụ án ông Sắt, ông Tiến, lẽ ra diễn ra tháng 9 năm 2008, nhưng bất ngờ vào tháng 8 năm đó (là lúc Hà Nội mở rộng) phiên ṭa dời lại v́ hai ông Sắt và Tiến đều khai ra người chủ mưu là Tướng Thanh.

    Ông Sắt bị tố cáo “rải truyền đơn và tố cáo sai sự thật nhằm hạ uy tín lănh đạo Đà Nẵng”. Công điện không nói, nhưng theo đài RFA, những tờ “truyền đơn” này thật ra là công văn của Viện Kiểm Sát Nhân Dân thành phố Đà Nẵng gửi Viện Kiểm Sát Nhân Dân tối cao và ông Phan Diễn (lúc đó là bí thư Thành ủy Đà Nẵng). Cả hai công văn đều đề cập việc ông Nguyễn Bá Thanh nhận hối lộ 4.4 tỷ đồng trong các công tŕnh xây dựng Cầu Sông Hàn và đường Bắc Nam ở Đà Nẵng.

    Ông Tiến và ông Linh bị tố cáo đă hỗ trợ cho ông Sắt trong việc phân phát những công văn này. Tội danh của họ là “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.

    Phiên ṭa “dă man”

    Phiên ṭa mở màn tháng 7 năm 2009 tại nhà hát Trưng Vương. Khi đó, mặc dù Tướng Trần Văn Thanh bị tai biến, nhưng ṭa vẫn ra lệnh phải đẩy ông này từ bệnh viện lên xe cứu thương đưa vào nhà hát, trong t́nh trạng hôn mê, phải thở bằng máy oxygen và phải truyền dịch. (Trong một bài viết mang tựa đề “Chánh án ṭa Đà Nẵng lập kỷ lục vi phạm nhân quyền” đăng trên Bô Xít Việt Nam và được đăng lại nhiều nơi, Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ gọi đây là “hành vi dă man chưa từng thấy trong lịch sử pháp đ́nh hiện đại.”)

    Tướng Thanh là người gốc Đà Nẵng và “có tiếng lương thiện,” bức công điện viết. Trước khi làm chánh thanh tra Bộ Công An, ông là giám đốc công an Đà Nẵng. Bức công điện kể lại nguồn gốc vụ án tham nhũng:

    “Năm 2000, ông Thanh khi đó là đại tá bắt giữ một nhà thầu về tội hối lộ trong công tŕnh xây dựng cầu sông Hàn. Nhà thầu này (công điện không nói tên, nhưng là ông Phạm Minh Thông) bị kết tội 13 năm tù.” Ông Thông khai là đă hối lộ cho Nguyễn Bá Thanh. Phía công an và viện kiểm sát muốn truy tố ông bí thư, nhưng không được.

    Ông bí thư t́m cách trả thù, th́ ông công an chạy ra khỏi Đà Nẵng. Mặc dù bị chủ tỉnh đ́, ông công an Thanh ra được Hà Nội, được lên lon, và trở thành chánh thanh tra. Ông Tướng Thanh trở thành công cụ lư tưởng để kẻ thù ông bí thư Thanh lôi kéo.

    Điều xui xẻo cho ông công an Thanh, là cuộc điều tra đă không được chuẩn bị đúng luật. Bức công điện nêu thí dụ: “Trong cuộc điều tra năm 2000, Tướng Thanh là người trực tiếp lấy cung nhiều nhân chứng quan trọng chống ông Bá Thanh, kể cả ông nhà thầu.” Nhưng thay v́ cho người khai viết tay biên bản, ông cho đánh máy biên bản rồi cho nhân chứng kư tên.

    Mặc dù đây là chuyện ai cũng làm, “nhưng riêng trong vụ này, điều này khiến Tướng Thanh bị hở sườn”. Khi người của Bí thư Thanh nói chuyện thẳng với những nhân chứng này, “phép lạ” là họ đều lắc đầu và chối rằng ông Tướng Thanh tự ư đánh máy tờ khai rồi ép họ kư.

    Ông tướng, bị lôi vào ṭa trên băng ca trong lúc hôn mê, thở bằng máy, đang truyền dịch, bị tuyên án 18 tháng tù treo. Lên phúc thẩm (cũng tại Đà Nẵng), Viện Kiểm Sát yêu cầu đ́nh chỉ vụ án với ông Tướng Thanh nhưng ṭa phúc thẩm vẫn tuyên bố ông tướng có tội, chỉ giảm án xuống 12 tháng tù treo v́ lư lịch tốt. Cuối cùng, phải tới khi Tướng Thanh gởi đơn lên giám đốc thẩm, ông mới được tuyên bố vô tội.

    Cựu Thiếu Tá Đinh Công Sắt bị tuyên án 12 tháng tù treo. Trung Tá Dương Ngọc Tiến bị 17 tháng 5 ngày tù, ngang với thời gian tạm giam. Ông Nguyễn Phi Duy Linh bị 36 tháng tù.

    Mục đích? Dằn mặt công an nhúng tay vào đấu đá

    Vụ án “dă man” nhưng rồi kết thúc với những án treo dành cho công an, được viên quyền tổng lănh sự cho là một hành động dằn mặt. Ông Bennett nói không ai thắng trong vụ. Thua nặng nhất là báo chí, “Như vụ PMU 18, báo chí nằm trong hạng ‘ruồi muỗi’ bị giết trong vụ húc nhau của người khổng lồ.”

    Quyền TLS Bennett cho rằng mặc dù Bí thư Thanh tạm thắng, ông vẫn bị dừng chân tại chỗ ở Đà Nẵng. “V́ có tiếng tham nhũng và tương đối bị cô lập ở Đà Nẵng, nếu ông không t́m được đường tới th́ có thể gặp nguy khi quyền lực và ảnh hưởng của ông bị thuyên giảm.”

    Nhưng lư do ông Bí thư Thanh truy tố được một tướng, một nhân vật của Bộ Công An, là v́ ông lôi kéo được thành phần lănh đạo đảng Cộng Sản là phải duy tŕ nguyên tắc quan trọng về vai tṛ của công an trong hệ thống cộng sản. Công điện viết:

    “Sau khi bị thua nhục nhă tháng 7 năm 2008, ông (Bá Thanh) muốn trả thù và thuyết phục được các nhân vật cao cấp khác trong ĐCSVN là, cũng như trong vụ PMU 18, Bộ Công An và báo chí bị dạy cho bài học là không được nhúng vào các cuộc tranh chấp chính trị nội bộ.”

    Nói cách khác, phe phái trong đảng cộng sản có thể đấu đá nhau, nhưng các loại công cụ như công an, báo chí, không được dính vào.

    Vũ Qúy Hạo Nhiên

    (Người Việt)

  6. #36
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Có áp bức là có đấu tranh!
    Quanlambao



    - Từ trước đến nay bất cứ ai khi nói đến đa nguyên đa Đảng đều bị 'tai họa', mở đầu là Trần Xuân bách cũng bị phế truất về vườn, các Bloggers trên mạng ai mở miệng đ̣i Đa đảng đều đă bị tống giam, xử án nặng, điển h́nh là thầy giáo Định, hay Luật sư họ Cù không bị bắt ngay khi đ̣i đa Đảng và dám kiện Thủ Tướng, th́ cũng đă bị bắt v́ mấy cái bao cao su rách!

    Nhà tù và sự tàn bạo là viễn cảnh của những người dám lên tiếng đ̣i đa nguyên đa Đảng ở Việt Nam!

    Các Blog hôm nay đưa tin một đoàn đại biểu gồm những trí thức tên tuổi đă đệ tŕnh kiến nghị sửa đổi Hiến Pháp, bỏ điều 4 để cho phép đa nguyên đa đảng... Biết rằng chẳng khi nào Đảng cộng sản lại tự nguyện chia sẻ quyền lực và quyền lợi cho bất cứ ai. Nhất là những thế lực 'Nhóm lợi ích' trong Đảng CS nhuw đồng chí X lại càng không bao giờ dễ dàng chấp nhận cho đa nguyên đa đảng chính là tự kư tên vào bản kết án chính ḿnh sao!

    Việt Nam xem ra đang tụt hậu và ngày càng tụt hậu, những ngày gần đây tổng hợp ngay tin tức trên các Lề Đảng th́ thấy rơ: Chính Phủ đang ban hành những chính sách từ 20 năm trước và đă được xóa bỏ hàng chục năm nay:
    Nào là thu hồi băng đĩa của Thúy Nga, Không cấp phép cho nghệ sĩ chống đối ! Rồi đến ông Bộ trưởng Phạm Vũ Luận mới đây lại c̣n "Cấm các cháu dưới 5 tuổi học trường Quốc Tế"!

    Xem ra Chính Phủ Việt Nam lo sợ cả thế hệ tương lai 'tiêm nhiễm' tư tưởng tự do và dân chủ nên ngăn chặn từ bây giờ! Cái việc lấy cớ 'phải rành tiếng Việt' thật tức cười! Ông Phạm Vũ Luận lại lo thay cho cha mẹ của các cháu khi mà ông thấy 2000 điểm ZÊ-RÔ môn lịch sử là "b́nh thường"! Nay ông quan tâm như vậy th́ roofi Việt Nam sẽ 'cho ra' những thế hệ với những cái đầu cũng chỉ là ZÊ-RÔ mà thôi!

    Thật đáng thương cho nhân dân Việt Nam đang bị những băng nhóm tội phạm trong Đảng, trong Chính Phủ kéo lùi lại hàng thế kỷ!

    Nền kinh tế tồi tệ, nạn thất nghiệp tràn lan, người dân nghèo đói gia tăng, trộm cắp, giết chóc tăng chóng mặt, dân oan bức xúc khiếu kiện, người yêu nước biểu t́nh chống xâm lược th́ bị bắt, người đ̣i được dân chủ, được b́nh đẳng trước pháp luật th́ bị tống giam, bị 'phong' cho tội khủng bố! Bầu không khí nghẹt thở và lầm than bao trùm cả đất nước th́ "Phó Thủ Tướng thăm chiến sĩ hy sinh bắt gà lậu", hay Bộ VHTT c̣n bận quy định 'cấm không được nh́n mặt người chết' và chính ông Thủ Tướng th́ cũng đang 'bận rộ' ra giảng "Ḷng tự trọng" cho học sinh, đang bận "Quyết liệt bắt cho được Dương Chí Dũng" - Con đẻ của chính ḿnh và chặn họng những tiếng nói vạch trần tham nhũng của Chính Phủ bằng 'Luật' 7169 của ḿnh. Không những thế c̣n huy động cả lực lượng hùng hậu từ Bộ 4T đến an ninh, cảnh sát, gián điệp.... đủ loại để săn lùng 'Quan làm báo'! Thật nực cười cho những kẻ tàn bạo mà hoang tưởng bệnh hoạn.

    Không có Quan làm báo này, th́ sẽ có Quan làm báo khác - Đó chính là sự thật! Ngày nào c̣n chế độ độc Đảng, ngày nào c̣n những kẻ độc tài, tham nhũng như Thủ Tướng X điều hành đất nước bằng nhà tù, bằng cướp bóc, trấn lột doanh nghiệp, làm giàu qua đêm; ngày nào c̣n bóp nghẹt dân chủ và tiếng nói phản kháng của nhân dân th́ ngày đó sẽ c̣n hàng triệu triệu Quan làm báo! Liệu ông Thủ Tướng có thể diệt hết được không?

    Quan làm báo là nguyện vọng cháy bỏng thiết tha chống tham nhũng của nhân dân Việt Nam trước sự oằn oại bởi nạn tham nhũng đă đến mức trầm kha, đục ruỗng cả trí tuệ, cả nhân cách, tham nhũng đă ḅ đến tận hang cùng, ngơ hẻm, đă hành hạ, tước đi cả đến miếng cơm, manh áo, thửa ruộng của người nghèo. Thử hỏi có bất cứ việc ǵ từ làm giấy chứng sanh, chứng tử , đến chứng nhận lư lịch xin việc .... tại xă, tại phường mà không phải chi tiền? Có ai làm được giấy 'Đỏ' cho miếng đất của ḿnh mà thoát khỏi 'lót tay'? ... Những người dân lam lũ dù không có cái ăn cho vào miệng nhưng vẫn phải rút ruột ra 'lót tay' để cho được việc nếu không muốn bị ngâm tôm, bị buộc chầu chực đi lên đi xuống bỏ cả ngày giờ ra đồng...

    Hăy đến trước cổng Số 1 Hoàng Hoa Thám để thấy hàng hà xe con biển số trắng của chính các quan chức chính phủ tự bỏ tiền túi ra mua dù cho không có tiêu chuẩn xe nhà nước cấp! 10 năm về trước kẻ tham nhũng c̣n dấm dúi, có cái xe 'Dream' phải trùm mềm, đố dám đi! Vậy mà bây giờ ngang nhiên sắm xe hơi đi làm việc ngay trong Chính Phủ!

    Ai có dịp đến các Bộ ngành th́ chứng kiến người ta đưa và nhận phong b́ cứ tự nhiên 'như ở nhà'! Ngay tại Bộ Giáo dục của ông Phạm Vũ Luận người ta cũng đưa và cầm phong b́ ngay chỗ hành lang qua lại như thể chỗ không người...!

    Rơ ràng, hơn lúc nào, tham nhũng đă trở thành 'Văn hóa' ở Việt Nam khiến người ta xem đó là b́nh thường! Văn hóa 'mắc cỡ, xấu hổ' hoặc ít nhất che dấu v́ biết đó là 'Tội' đă biến mất từ lâu.

    Nhà dột từ nóc, hàng tỷ tỷ đô la của nhà nước như Vinashin, Vinalines... đă không kèn không trống cuốn gói ra đi mà ai cũng biết nói đi về đâu. Cha mẹ lem nhem th́ đàn con thi nhau bắt chước!

    Quan làm báo chính là tiếng nói của dân tộc Việt Nam yêu đất nước đ̣i tự do và dân chủ, đ̣i quyền được làm một con người b́nh thường như hàng tỷ tỷ người trên thế giới - Một thứ sa sỉ mà người Việt Nam không có! "Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh" - H́nh như chính những người cộng sản như thầy tṛ đồng chí X lại cố t́nh quên mất chính lời dậy từ ông tổ của họ!

    Chắc chắn nhân dân Việt Nam sẽ làm lên lịch sử, nhanh hay chậm các thế hệ trẻ Việt Nam sẽ vứt bỏ cái điều 4 Hiến Pháp vào sọt rác nếu hôm nay Đảng CS vẫn tiếp tục bám víu như là vỏ áo giáp chống đạn. Môn học lịch sử sẽ đến ngày giảng dạy về sản phẩm của chế độ độc Đảng là Sâu chúa, là tham nhũng mà từ điển Việt Nam đă mặc nhiên được thêm vào cụm từ "đồng chí X" đă cô đọng, bao hàm đầy đu!

    Lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ đến ngày nhân dân được tự do vạch trần tội ác của bè lũ thầy tṛ X đă đẩy nhân dân Việt Nam đến lầm than, tước bỏ cả những quyền làm người tối thiểu nhất: Quyền được nói!

    Bao nhiêu năm, Đảng Lao động vIệt Nam gắn với tên tuổi Hồ Chí Minh, với Đại Tướng Vơ Nguyên Giáp... đă có công giành độc lập dân tộc th́ đến nay những bè lũ X đă và đang phá nát thành quả đó, đă đẩy Đảng CS thành vật cản trở tiến tŕnh phát triển đất nước "Công bằng, dân chủ, văn minh và giàu mạnh"!

    90 triệu dân Việt Nam, nếu loại trừ 3 triệu đảng viên, nếu cho họ cái quyền lựa chọn th́ chắc chắn không ai chọn 'nhà tù' và bị đối xử như thời kỳ ăn lông ở lỗ như hiện nay. Chắc chắn nhân dân Việt Nam mưu cầu "Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc" và sẽ đấu tranh để những điều đó trở thành hiện thực, để có được một "Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa" như Bác Hồ đă đặt tên cho đất nước!

    Trần Ái Quốc

  7. #37
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Xe bốn bánh nhăn hiệu 'NKG' (Bùi Tín)



    “…Năm 1988, Nguyễn Kiến Giang cảnh báo đảng Cộng sản Việt Nam phải thức thời, dẹp bỏ ngay thái độ kiêu ngạo, cần khiêm tốn tự nâng cao tŕnh độ, sẵn sàng ganh đua b́nh đẳng với các đảng anh em khác…”





    Cuộc thảo luận về hiến pháp mới đang được mở rộng. Đă có kiến nghị kéo dài thời gian góp ư kiến suốt cả năm để cuộc góp ư được đầy đủ, đến nơi đến chốn. Cũng có ư kiến nên mở đầu bằng một quyết định lịch sử là chuyển hẳn hệ thống độc đảng sang hệ thống dân chủ đa đảng, như tuyệt đại đa số các nước dân chủ trên thế giới.


    Học Giả Nguyễn Kiên Giang - Anh: Bùi Việt Dũng


    Tôi bỗng nhớ đến Nguyễn Kiến Giang, một cán bộ nghiên cứu, một nhà báo trẻ nổi bật trong tư duy độc lập, do đó gặp nhiều trắc trở, oan khiên. Anh có tâm huyết đặc biệt xây dựng một nước Việt Nam dân chủ đích thật. Dạo này anh rất ít lên tiếng, do sức khỏe anh sa sút nhanh, sau nhiều đợt bị kết án “chống đảng “, mỗi đợt là những năm dài trong tù, rồi bị quản thúc nghiêm ngặt.

    Anh bị đảng của ḿnh trừng phạt v́ dám cứng đầu đ̣i từ bỏ những điều cổ lỗ có hại mà đảng quyết tâm kiên định, như kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, chế độ độc đảng, coi quốc doanh là chủ đạo nền kinh tế. Bản án thứ nhất nằm trong 34 nhân vật “xét lại - chống đảng”, năm 1964 bị tù 5 năm, đến năm 1990 lại dính vào vụ án đ̣i đa nguyên liên quan đến các ông Trần Xuân Bách, rồi Phạm Quế Dương, Lê Hồng Hà, Hà Sỹ Phu … lại ở tù CS năm năm nữa. Đảng Cộng sản ở đâu cũng vậy, cứ như nghiện ăn thịt những đứa con xuất sắc nhất, có tư duy độc lập sáng tạo. Thế là anh chào “bai” đảng, một đi không trở lại, như các “đồng chí” Phạm Đ́nh Trọng, Nguyễn Chí Đức gần đây.

    Nguyễn Kiến Giang sinh năm 1931 ở Quảng B́nh, bên ḍng sông Kiến Giang. Khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, anh mới 15 tuổi. Chăm học, thông minh, có tinh thần tự lập, anh là một cán bộ xuất sắc cấp tỉnh khi mới 20 tuổi. Năm 1954 anh ra Hà Nội đảm nhận trách nhiệm phó giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật. Tại đây anh có dịp tiếp nhận đủ các loại sách báo từ Nga, Pháp, Anh… mở rộng hiểu biết ra thế giới. Anh mê say đọc, suy tư, tranh luận, lật qua lật lại vấn đề. Cuốn sách sưu tầm lịch sử đầu tiên do anh biên sọan là “Việt Nam - Năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám“ viết vào năm 1947 nhưng đến nay vẫn bổ ích cho các nhà nghiên cứu. Nay anh 72 tuổi rồi mà hoài băo dân chủ vẫn chưa thành. Chắc anh đau ḷng lắm.

    Nguyễn Kiến Giang xác quyết: Độc quyền trên lĩnh vực nào cũng tệ hại, mang sức tàn phá. Về kinh tế, độc quyền của quốc doanh buộc toàn dân nhiều khi phải ăn gạo mốc, thịt thiu, cá ươn, nước mắm thối, dùng xà pḥng chảy nước do không có sự lựa chọn, thay thế. Độc quyền văn hóa nghệ thuật làm văn thơ, âm nhạc, hội họa chỉ có một phong cách hiện thực, nhàm chán. Độc quyền đảng trị c̣n nguy hiểm gấp bội v́ không có ganh đua, kiểm soát, kiềm chế, can ngăn, lại không thời hạn.

    Trên sách báo Nguyễn Kiến Giang thường kư tên Lương Dân hay Lê Diên. Anh là một cây bút trẻ trong suy tư, già dặn, uyên thâm, luôn có ư mới, kịp thời đại.

    Tôi nhớ rất rơ ư kiến của anh về một nền chính trị lành mạnh, tiên tiến, đa nguyên đa đảng, trong đó đảng Cộng sản sẽ có vai tṛ quan trọng, tùy theo khả năng trí tuệ và đạo đức của đảng. Có thêm 1 hay 2 đảng cùng ganh đua trong t́nh đồng bào, nghĩa anh em với nhau là điều b́nh thường, cần thiết, có lợi chung. Năm 1988, Nguyễn Kiến Giang cảnh báo đảng Cộng sản Việt Nam phải thức thời, dẹp bỏ ngay thái độ kiêu ngạo, cần khiêm tốn tự nâng cao tŕnh độ, sẵn sàng ganh đua b́nh đẳng với các đảng anh em khác. Đó có thể là các đảng yêu nước, hậu duệ tinh thần của những nhà lănh đạo đă qua, như Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Tạ Thu Thâu, Nguyễn Tường Tam, Trương Tử Anh, Nguyễn Ngọc Huy… Có tranh ganh đua tự nhiên đảng Cộng sản sẽ phải giữ ḿnh tiến bộ, trong sạch, không sa sút, hư hỏng do một ḿnh một chiếu như lâu nay. Quần chúng sẽ sung sướng có khả năng lựa chọn qua lá phiếu tự do của ḿnh những đại biểu mà ḿnh tín nhiệm. Sinh hoạt nghị trường sẽ sôi nổi khởi sắc, khác hẳn sự xuôi chiều tẻ nhạt hiện nay.

    Để minh họa cho nền dân chủ đa nguyên tiến bộ, Nguyễn Kiến Giang đưa ra h́nh ảnh của một xe ô tô hiện đại có bốn bánh. Bánh thứ nhất là bánh “Kinh tế thị trường“, không cần cái đuôi tư bản hay vô sản, hay xă hội chủ nghĩa. Bánh thứ hai là bánh “Xă hội công dân“, cho phép người công dân thực thi mọi quyền tự do trong xă hội khai phóng. Bánh thứ ba là bánh “Nhà nước pháp quyền“, trong đó pháp luật được mọi người tôn trọng nghiêm minh, b́nh đẳng. Bánh thứ tư là bánh “ Chính trị dân chủ “ biểu hiện ở nề nếp dân chủ trong quản lư, cai trị xă hội của bộ máy nhà nước, nghị viện, các chính đảng, tổ chức quần chúng, có phối hợp nhịp nhàng, hài ḥa, hợp tác và đấu tranh, lấy cuộc sống an lành, tiến bộ, b́nh đẳng, hạnh phúc của toàn dân làm mục tiêu ganh đua chung.

    Tôi rất tán đồng với ư kiến sâu sắc, có h́nh ảnh minh họa dễ hiểu dễ nhớ của nhà nghiên cứu thật sự có tâm và có tầm Nguyễn Kiến Giang.

    Đây là cỗ xe Peugeot, xe Ford, hay xe Mercedes chính trị của Việt Nam mang nhăn NKG, xin tŕnh làng nhân dịp đang thảo luận về hiến pháp mới, trong khi tôi được tin là anh Giang v́ bị đối xử tàn nhẫn trong lao tù nên đang bị xuống sức cả về thể lực và trí tuệ, nhưng ư chí không hề suy giảm.

    Tôi tin rằng anh sẽ chứng kiến sự chuyển biến tất yếu của đất nước ta từ hệ thống độc đảng hủ lậu tệ hại sang hệ thống đa đảng tiến tiến của thời đại mới, tiến nhanh, tiến vững trên cỗ xe 4 bánh NKG, giữa niềm vui vô hạn dâng trào của toàn dân, mở ra Kỷ nguyên Dân chủ Tự do của nước Việt Nam ta

    Bùi Tín
    Nguồn: blog Bùi Tín – VOA

    Phụ Lục:

    Học Giả Nguyễn Kiến Giang (Nguyễn Thanh Giang)

    Có lẽ Nguyễn Kiến Giang là một trong những người đầu tiên nêu yêu cầu bỏ điều 4 của Hiến pháp nuóc ta. Trong bài phát biểu tại Hội thảo do Câu lạc bộ Liên hiệp các hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 20 tháng 2 năm 1990 và sau đó đăng trên tạp chí Khoa học và Tổ quốc dưới tiêu đề “Bàn về sự lănh đạo của Đảng” ông đă nêu mấy kiến nghị ;

    • ”Xóa bỏ điều 4 trong hiến pháp qui định về mặt pháp lư vai tṛ lănh đạo của Đảng trong xă hội, để cho các tổ chức Đảng và đảng viên không thể dựa vào ưu thế pháp lư của ḿnh trong sự lănh đạo, và sự lănh đạo của Đảng chỉ dựa vào phương pháp thuyết phục. Tất cả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng không mang tính chất bắt buộc đối với các công dân về mặt pháp lư ( trừ những trường hợp đă biến thành luật );

    • Đảng không độc chiếm các cơ quan dân cử, các cơ quan lănh đạo và quản lư xă hội; chỉ dành một tỉ lệ không quá 50% thành phần các cơ quan này cho đảng viên, như vậy sẽ tập hợp được những người ngoài Đảng ưu tú vào công việc quản lư đất nước;

    • Ban lănh đạo các cấp, kể cả trung ương, tiến hành những cuộc đối thoại b́nh đẳng, tôn trọng lẫn nhau với những người tiêu biểu cho các xu hướng khác nhau trong xă hội, cả với những người có ư kiến ngược với ư kiến của Đảng, không định kiến, không trù dập;

    • Tiến hành những cuộc tranh luận công khai trên báo chí về các vấn đề quốc kế dân sinh, không hạn chế tự do tư tưởng, chỉ với điều kiện không trái với hiến pháp và luật pháp được xây dựng thật sự dân chủ;

    • Các cơ quan thuộc bộ máy Đảng không được trực tiếp chỉ huy điều hành những cơ quan, những tổ chức không thuộc hệ thống tổ chức của Đảng (cụ thể: ban tuyên huấn không trực tiếp chỉ huy báo chí, ban tổ chức không được trực tiếp quyết định công việc nhân sự...).

    • Cuối cùng, giải quyết tất cả những vụ án oan về tư tưởng và chính trị trước đây, ṣng phẳng với những sai lầm của Đảng trong quá khứ; thật sự khôi phục đầy đủ các quyền công dân cho người bị oan ức; thực hiện ḥa hợp dân tộc một cách chân thành”.

    Ông giải thích lư do kiến nghị là để giải quyết tệ trạng: “Từ chỗ là một sự lựa chọn lịch sử khách quan, sự độc quyền lănh đạo của Đảng dần dần được hiểu và được thực hiện thành sự thống trị tuyệt đối của Đảng trong mọi lĩnh vực đời sống xă hội, có khi cả đời sống cá nhân, thành “Đảng trị” (partocratie), Đảng biến thành “Đảng - Nhà nước”, thành một thứ “siêu nhà nước”, có toàn quyền quyết định tất cả, từ những chủ trương lớn đến những biện pháp thực hiện nhỏ, và mọi người dân chỉ được phép nghĩ theo, nói theo và làm theo những quyết định của Đảng, có khi chỉ là của một cấp lănh đạo, thậm chí của một cá nhân lănh đạo nào đó. Mọi ư kiến khác với ư kiến những người lănh đạo của Đảng bị coi là chống Đảng, mà chống Đảng cũng có nghĩa là chống Nhà nước, chống chế độ, chống cách mạng. Cho đến khi Đảng nhận ra được những sai lầm của ḿnh ( triệt để hay không triệt để ) th́ xă hội đă gánh chịu những hậu quả cay đắng, chưa nói tới một số người phải chịu đựng sự trừng phạt trái pháp luật mà đến nay vẫn chưa giũ bỏ dược hết số phận oan trái của ḿnh” .
    Kết quả của việc đăng kiến nghị này là tạp chí Khoa học và Tổ quốc bị đ́nh bản và tổng biên tập Phạm Quế Dương suưt bị khởi tố.

    Nguyễn Kiến Giang sinh ngày 22-1-1931 tại một làng quê Quảng B́nh bên con sông Kiến Giang. Ông tham gia Mặt trận Việt Minh rất sớm và năm 1945 đă trở thành đảng viên Cộng sản khi mới 14 tuổi. Năm 1947 ông được cử vào huyện ủy rồi được điều lên công tác ỏ tỉnh ủy Quảng B́nh ( 1945-1955 ). Năm 1956 ông được chuyển về công tác tại Hà Nội và đă từng được đề bạt làm Phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật. Năm 1962 ông được cử đi học trường Đảng cao cấp tại Liên Xô. Khi Trung ương Đảng ra Nghị quyết 9 chống chủ nghĩa Xét lại th́ tất cả anh em trong khóa học của ông đều bị gọi về nước. Từ 1964-1967 ông bị đưa đi « công tác thực tế » tại Quảng B́nh và Thái B́nh; sau đó bị tống giam cho đến 1973. Ra khỏi tù, ông vẫn bị đưa đi quản chế tại Thanh Ba, Vĩnh Phú cho đến năm 1976. Ông tâm sự: “Cho đến bây giờ tôi cũng không biết là tôi có tội gì nữa cơ. Nghe người ta bảo là tôi phản động, tay sai nước ngoài, thì cũng nghe nói thế thôi, chứ còn trên thực tế từ giam ở xà lim mấy năm, và mấy năm quản chế, khoảng gần 10 năm. Khi tôi trở về Hà nội với tư cách là một người công dân thì tôi cũng không biết là tôi có tội gì. Cho tới nay cũng không ai nói với tôi là tôi có tội gì nữa”.
    Từ tháng 9-1976 được về với gia đ́nh tại Hà Nội sống như một người ngoài lề xă hội, ông ngồi dịch và viết sách báo dưới nhiều bút hiệu khác như Lương Dân, Lê Diên, Lê Minh Tuệ...

    Sách đă viết gồm có:
    - Phác qua t́nh h́nh ruộng đất và đời sống nông dân trước Cách mạng Tháng Tám (1959)
    - Việt Nam năm đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám ( 1961 )
    - Việt Nam – Khủng hoảng và lối ra
    - Tuyển tập Nguyễn Kiến Giang (1993)

    Cùng viết với Nguyễn Khắc Viện có:

    - Liên Xô 70 năm trên đường khai phá (1987)
    - Cách mạng 1789 và chúng ta (1989)

    Những bài viết của Nguyễn Kiến Giang trong thập niên 90 đă đăng rải rác trên báo chí trong ngoài nước hoặc tán phát chuyền tay được Talawas gom thành một tập hợp mang tên “Suy tư 90”. Trong tập hợp này có nhiều bài giá trị như:

    - Đi t́m cách tiếp cận bản tính gốc người Việt.
    - Một cuộc chiến chống lại “phi lư tính”
    - Nên đặt vấn đề Nho giáo như thế nào?
    - Khủng hoảng và lối ra
    - Thử ḍ t́m một cách tiếp cận mới đối với thế giới hiện đại
    - Một quan niệm về hiện đại hóa ở Việt Nam
    - Đời sống tâm linh và ư thức tôn giáo
    - Từ Duy tân đến Đổi mới
    - Nh́n nhận thực trạng văn hóa Việt Nam hiện nay
    - Công bằng xă hội và kinh tế
    - Nh́n lại quá tŕnh du nhập chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam

    - 1 -
    Bàn về nguồn gốc bản sắc văn hóa Việt Nam ngoài các học giả thường quy nạp vào nền văn minh trồng trọt và trồng lúa nước để phân biệt với nền văn minh chăn nuôi, du mục; có người nhấn mạnh tới tính chất sửa vặt ( bricolage ) của văn hóa Việt Nam, Nguyễn Kiến Giang th́ chứng minh rằng: “văn hóa Việt Nam là một "hệ thống mở” trong hàng ngh́n năm tồn tại của tộc người Việt. Nó là một hệ thống có nhiều cơ tầng có liên quan tới những "đợt" tiếp xúc với những nền văn hóa bên ngoài (cũng tương tự như tiếng Việt gồm nhiều cơ tầng khác nhau mà các nhà ngôn ngữ học đă t́m thấy). Với những cơ tầng h́nh thành nối tiếp nhau trong lịch sử như vậy, rơ ràng người Việt chúng ta đă tiếp nhận (như một "cái phễu" ngày càng rộng miệng) rất nhiều nguồn văn hóa khác nhau trong lịch sử (Trung Quốc, Ấn Độ, Chiêm Thành, Pháp, Nhật Bản, Liên Xô, Mỹ...). …Nhưng vẫn có một cái ǵ đó làm cho văn hóa của chúng ta trở thành của chính chúng ta mà không trộn lẫn với bất cứ một thứ văn hóa nào khác. Cái ǵ đó, theo tôi nghĩ, có lẽ là một “bộ lọc”. “Bộ lọc” này gồm ba yếu tố là ứng xử, ngôn ngữ và tâm thức, ba yếu tố này quyện chặt với nhau đến mức không thể tách riêng từng yếu tố, nói cho đúng, "tuy ba mà một" (cũng có thể gọi là "tam vị nhất thể" (trinité) như ở một số tôn giáo, nhưng ở đây không có "ba ngôi" theo thứ bậc, mà là cùng tồn tại và ḥa vào nhau)” (1)

    Ông có ư “chê”: “Óc khái quát chưa bao giờ là mặt mạnh của người Việt cả. Những đỉnh cao trí tuệ và tâm linh, in đậm sức sáng tạo và tính độc đáo, gần như rất hiếm hoi, có lẽ chỉ trừ lĩnh vực y học và đánh giặc, hai lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến sống chết của con người. Năng lực tư duy của người Việt quá kém cỏi chăng? Tôi không muốn nghĩ như vậy, v́ trong lịch sử, thời nào cũng có những trang tài giỏi mà năng lực tư duy không kém ai. Nhưng chính họ cũng không đẩy được những kết quả tư duy của ḿnh lên thành học thuyết, thành hệ thống có tính phổ quát, mà nói chung, chỉ dừng lại ở tŕnh độ “vận dụng “như ta nói hiện nay, dù là "vận dụng sáng tạo" hay “vận dụng tuyệt vời “đi nữa ” (1). Ông giải thích điều này là do : “Chưa kịp xây dựng những hệ thống tư tưởng riêng của ḿnh, th́ người Việt đă có sẵn những câu giải đáp về đời sống tâm linh và hiện hữu của con người nằm sẵn trong những tôn giáo và triết thuyết của hai nền văn minh khổng lồ ấy. Từ Trung Quốc truyền sang (có kèm theo những đạo quân xâm lược hay không) nhiều học thuyết khác nhau, chủ yếu là Khổng giáo và Đạo giáo. Phật giáo th́ từ Ấn Độ truyền sang bằng những con đường khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp, với sức thuyết phục của nó là chính. … ảnh hưởng của những tư tưởng Trung Quốc và Ấn Độ giống như hai bóng cây khổng lồ trùm phủ lên mảnh đất nước ta ngày xưa, khiến cho mọi thứ "cây tư tưởng" của người Việt bị "cớm nắng". T́nh trạng này đưa tới một hệ quả nặng nề: dựa dẫm vào những tư tưởng bên ngoài, và như vậy trong gần hai ngh́n năm. Sức sáng tạo tư tưởng bị c̣i cọc: lối suy nghĩ giáo điều, sao chép và học thuộc ḷng sách vở nước ngoài trở thành một tâm thức quá quen thuộc, như một thứ thuộc tính khó dứt bỏ” (1). Ông b́nh luận: “người Việt ngày xưa lấy Khổng giáo làm hệ tư tưởng chính thống, tạo ra tâm thức phục tùng chính thống gần như vô điều kiện. …Tâm thức này có mặt tốt: những lúc đất nước đứng trước nguy cơ lớn đối với sự tồn tại của nó, một “hệ tư tưởng chính thống” là cần thiết để có thể tập hợp tất cả những sức mạnh của dân tộc thành một sức mạnh thống nhất có sức chiến đấu cao. Nhưng chính tâm thức này đă cản trở không ít những sức mạnh sáng tạo về tư tưởng. Mọi sáng tạo tư tưởng ít nhiều đều không ăn khớp, thậm chí ngược lại với “hệ tư tưởng chính thống”. Nếu duy tŕ hệ tư tưởng chính thống như cái ǵ duy nhất đúng, th́ xin dùng lại h́nh ảnh trên đây, sẽ tạo ra một thứ bóng cây trùm phủ lên tất cả và mọi tư tưởng sáng tạo chắc chắn bị "cớm". Phải chăng trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, khi phải t́m kiếm những con đường, những phương pháp để hiện đại hóa, sự thống nhất về tư tưởng là cần thiết, nhưng chỉ nên thống nhất ở những mục tiêu, c̣n về những con đường, những phương pháp th́ nên để cho sức sáng tạo được phát triển một cách tự do, dù có những cái không theo chính thống” (1).

    - 2 -
    Một tuần lễ sau ngày chiếc máy bay của bọn khủng bố đâm sập hai ṭa nhà chọc trời của Trung tâm thương mại thế giới ở New York, cũng như cộng đồng nhân loại, Nguyễn Kiến Giang thảng thốt kêu lên : “Loài người chưa tận thế, tôi tin như vậy, nhưng sẽ sống với những thời khắc, thời điểm, thời đại không dễ ǵ minh định được. Bằng những bước ḍ dẫm và khủng khiếp này, loài người - một sinh vật có lư trí duy nhất được biết cho đến nay - đang đi vào một cuộc tự sát chăng? Những vũ khí hạt nhân đă có và đang có trong tay một số quốc gia trước đây và hiện nay, dù sao cũng không gây ra những cảm giác hăi hùng như những vũ khí thông thường trong tay một nhóm người cảm tử bước vào cái chết một cách không phải dửng dưng mà với một đam mê lớn nhất trong đời họ: lên thiên đàng” (2). Ông bầy tỏ: “Tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố là mệnh lệnh cấp bách của nền văn minh loài người” (2), “tôi hoàn toàn ủng hộ mọi hành động không chỉ của Mỹ mà của bất cứ lực lượng nào trừ diệt được những tay thủ lĩnh khủng bố nguy hiểm như kiểu Bin Laden. Đó là những ổ ung thư trên cơ thể cộng đồng loài người, mà để nó lan rộng, di căn th́ cơ thể này không thể tồn tại b́nh thường được” (2)

    Tuy nhiên, nhận thức rằng chủ nghĩa khủng bố là sự kết hợp của 3 yếu tố: cuồng tín tôn giáo + vũ khí hiện đại + tổ chức toàn cầu, cho nên ông khẳng định không thể có cuộc tấn công trả đũa ồ ạt nào có thể diệt trừ sạch sanh chủ nghĩa khủng bố.

    Ông đi t́m nguyên nhân sâu xa của chủ nghĩa khủng bố và … từ nỗi xót đau hơn cả nỗi xót đau trước cái tang gần chục ngàn người chết, ông lên án: “Phương Tây nói chung và Hoa Kỳ nói riêng không làm bất cứ một điều ǵ cần thiết để lấp sự ngăn cách giữa hai thế giới cả. Họ vẫn tiếp tục đường lối đào sâu hố ngăn cách khi từ chối những trách nhiệm của ḿnh đối với sự nghèo khổ và lạc hậu ở nhiều nước Á, Phi và Mỹ Latin” (2). Bằng cái tâm nhân ái và cái tầm thấu đáo của ḿnh, ông đặt vấn đề: “chữ tâm phải đóng vai tṛ chủ yếu trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa khủng bố. Đó là “một sự thanh toán lịch sử ” công bằng, với những sự bù đắp cần thiết cho con cháu những người bị bán làm nô lệ trong thời kỳ “tích lũy tư bản nguyên thủy”. Đó là thái độ công bằng, không thiên vị trong cuộc xung đột giữa Israel và người Palestin. Đó là sự giúp đỡ tận t́nh của Hoa Kỳ và Phương Tây cho những người nghèo khổ và lạc hậu để họ cùng với Phương Tây bước vào nền văn minh của loài người” (2).

    Cho nên, để giải quyết thảm họa chủ nghĩa khủng bố, thay v́ chỉ quan tâm lập mặt trận thế giới chống khủng bố, học giả Nguyễn Kiến Giang kêu gọi: “C̣n cần phải lập Liên minh thế giới chống nghèo khổ và lạc hậu nữa!” (2).
    - 3 -
    Đầu thập kư 90, trước hiện tượng xuất hiện những “con rồng”, “con hổ” Châu Á như Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Singapore, các học giả Đại Hán khởi xướng cuộc bàn luận về tác dụng to lớn của Nho giáo đối với những thành công đáng kinh ngạc đó. Và, tuồng như có sự chỉ đạo, một số khoa học chính trị gia Việt Nam đă tích cực phụ họa. Thậm chí trong bài “Nho giáo đă thành vấn đề thế nào với nước Việt Nam hiện nay?” đăng trên báo Văn hóa và Đời sống thành phố Hồ Chí Minh số tháng 11 năm 1992, tác giả Trần Đ́nh Hượu c̣n nêu một định đề lớn: “Phải chăng cũng có thể nghĩ đến một con đường phương Đông để hiện đại hóa? Và như vậy th́ nhiều hay ít – và có lẽ nhiều hơn ít – con đường đó sẽ có quan hệ với Nho giáo”.

    Điều trớ trêu là, trong khi vào đầu thế kỷ 20, chống lại thuyết của nhà xă hội học Đức Max Weber gắn công sinh thành chủ nghĩa tư bản Tây Âu với đạo Tin Lành, Marx quy bước tiến lịch sử này vào mối quan hệ chặt chẽ với các quá tŕnh kinh tế th́ các nhà nghiên cứu Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam ngày nay lại bỏ Marx để theo hướng Max Weber.

    Trước “sự cố” này, Nguyễn Kiến Giang đă đi tiên phong phát động cuộc đấu tranh tư tưởng-văn hóa qua vấn đề đang được nêu ra. Ông viết: “phải chăng các nước Đông Á đă thành công trong sự nghiệp hiện đại hóa nhờ có Nho giáo (hay Khổng giáo, để nói thật chính xác)? Tôi nghi ngờ về điểm này. Công cuộc hiện đai hóa ở Nhật Bản, chẳng hạn, bắt đầu từ thời “Minh Trị Duy Tân” (mà một học giả Nhật c̣n gọi là “Cách mạng Minh Trị”). Ư tưởng Duy Tân ấy và toàn bộ những biện pháp để thực hiện ư tưởng ấy đều không bắt nguồn từ Nho giáo như vốn có. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà duy tân ở Đông Á vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đều coi Nho giáo là vật cản cần phải vượt qua để hiện đại hóa đất nước” (3). Và ông đă kết luận bài viết của ḿnh như sau: “Riêng tôi, tôi không tin lắm vào tác dụng có ư nghĩa quyết định của Nho giáo đối với tiến tŕnh hiện đại hóa ở nước ta. Và càng không tin rằng Nho giáo có thể trở thành một “hệ tư tưởng” của con đường phát triển xă hội Việt Nam. Tôi không hề phủ nhận những giá trị tích cực, vững bền nào đó do truyền thống Nho giáo để lại trong tâm thức và văn hóa người Việt. Nhưng nói rằng Nho giáo có thể là cơ sở của con đường phát triển xă hội Việt Nam hiện nay th́ tôi xin được phép không đồng ư. V́ điều đó không những không thích hợp với những điều kiện xă hội - lịch sử và cả những điều kiện trí tuệ của dân tộc ta hôm nay, mà c̣n có thể nguy hiểm nữa” (3).
    Tuy nhiên, tôi ngỡ ngàng khi đọc những ḍng này của Nguyễn Kiến Giang: “Hiện đại hóa là một biến đổi xă hội tận gốc, xét về mặt nội dung của nó. Nhưng đây không phải là một sự nghiệp phá hoại mà là một sự nghiệp xây dựng. V́ thế nó đ̣i hỏi một sự ổn định xă hội, một trật tự xă hội chặt chẽ và nghiêm khắc. Không một sự nghiệp hiện đại hóa nào thành công trong bối cảnh hỗn loạn xă hội cả. Chính v́ thế, khi Nho giáo cung cấp được một hệ giá trị lấy kỷ cương và phục tùng làm gốc, th́ điều đó đáp ứng được một trong những yêu cầu cơ bản của hiện đại hóa” (3).
    Phải chăng gốc của kỷ cương đạo Nho là “tam cương, ngũ thường”; là “tam ṭng, tứ đức”?

  8. #38
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Xe bốn bánh nhăn hiệu 'NKG' (Bùi Tín)
    P2



    Ngày nay, không chỉ phụ nữ mà bất cứ ai cũng không thể chấp nhận được cái thứ kỷ cương tam ṭng đối với phụ nữ ( tại gia ṭng phụ, xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử ).

    Tam cương th́ lại càng kinh dị hơn: quân xử thần tử, thần bất tử bất trung (vua khiến bầy tôi chết, không chết không trung); phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu (cha khiến con chết, con không chết không hiếu), phu xướng phụ tùy (chồng nói ra, vợ phải theo).

    Một gia đ́nh mà chỉ có con phải nhất nhất nghe cha th́ gia đ́nh đó vô phúc (con hơn cha là nhà có phúc). Một đất nước mà nhân dân bị buộc phải “tuyệt đối tin tưởng ở sự lănh đạo của Đảng” th́ không thể nào khai thác triệt để trí tuệ của quần chúng, không thể ngóc đầu lên cho bằng người được, không thể tiến kịp trào lưu nhân loại được.

    T. Jefferson chí lư hơn Khổng Tử khi ông nói: “Chống lại bạo chúa là vâng lời Thượng Đế”. ( Nghĩ rằng: Thượng Đế là hiện thân của bác ái, công lư, chân lư … )

    Không ai phải nhất nhất nghe theo, tuyệt đối phục tùng ai cả. Xă hội sẽ thực sự ổn định khi mọi người đều tuân thủ luật pháp, hiến pháp và tôn trọng đạo lư.

    - 4 -
    Tôi cũng nhận thức về tôn giáo như Nguyễn Kiến Giang: “Tôi đã và vẫn không phải là tín đồ một tôn giáo nào ( trong lý lịch, ở mục “theo tôn giáo nào”, tôi luôn luôn ghi chữ “không” ), nhưng tôi tin vào cái thiêng liêng, tôi tin con người có đời sống tâm linh, có ý thức tôn giáo hiểu theo nghĩa hướng tới cái tuyệt đối, cái vô hạn, cái toàn năng và cái siêu việt. Không theo tôn giáo nào, nhưng lại có ý thức tôn giáo” (4).

    Cũng như Nguyễn Kién Giang, không là tín đồ nhưng tôi thờ phụng ( chỉ bằng tâm tưởng ) cả Phật, cả Chúa. Tôi quư mến những tín đồ chân chính. Tôi cho rằng không thể để tôn giáo thiếu vắng trong đời sống xă hội.

    Vậy mà, trên cơ sở coi tôn giáo h́nh thành từ sự bất lực của con người trước thiên nhiên và xă hội mà dốt nát và nghèo khổ vừa là nguyên nhân vừa là kết quả, Engels cho tôn giáo là “sự phản ảnh hoang đường những hoàn cảnh bên ngoài thống trị con người, dưới hình thức những sức mạnh siêu nhiên”. Từ điển triết học Liên Xô ( 1983 ) định nghĩa tôn giáo là “một hiện tượng bị qui định về mặt xã hội và, do đó là một hiện tượng lịch sử nhất thời”. Theo cách nhìn này, trong một thời kỳ lịch sử rất dài, con người chưa biết tới tôn giáo, vì tôn giáo chỉ xuất hiện ở một trình độ phát triển nhất định của xã hội nguyên thủy. Đến xã hội có giai cấp, sự tồn tại của tôn giáo còn gắn thêm với sự bất lực của con người trước những quá trình phát triển tự phát của xã hội trong sự bóc lột lẫn nhau và trong tình cảnh thiếu thốn. Tôn giáo, do đó, là phương tiện giải thoát bằng ảo ảnh của người nghèo khổ. Mác nói tôn giáo là “tiếng thở dài của người bị áp bức”. Chủ nghĩa cộng sản cho rằng xóa bỏ chế độ người bóc lột người sẽ chấm dứt nạn nghèo khổ của quần chúng nhân dân, từ đấy cũng đồng thời là sự kết thúc của tôn giáo.

    Với những người theo chủ nghĩa duy vật, dù xem xét về mặt nhận thức luận hay về mặt xã hội học, tôn giáo chỉ là một hiện tượng nhất thời, tạm thời và nằm ở bên ngoài con người. Nó thuộc về quá khứ mà không thuộc về tương lai của con người. Nó kìm hãm sự phát triển của xã hội, mà không phải là một nhu cầu của con người. Nó đáng bị lên án, bài xích và phải bị xóa bỏ càng sớm càng tốt. Lênin từng nói: “Chúng ta phải đấu tranh chống tôn giáo. Đó là toàn bộ chủ nghĩa duy vật và, do đó, của chủ nghĩa Mác. Nhưng chủ nghĩa Mác không phải là chủ nghĩa duy vật dừng lại ở a b c. Chủ nghĩa Mác đi xa hơn. Nó nói rằng: cần phải biết đấu tranh chống tôn giáo, và để làm điều đó, cần phải giải thích một cách duy vật về nguồn gốc của lòng tin và của tôn giáo ở quần chúng”.

    Nguyễn Kiến Giang nghiêng về mặt bản thể luận khi xem xét vấn đề tôn giáo, và, như một số nhà nghiên cứu, ông coi cái cốt lơi của tôn giáo là ḷng tin vào một cái ǵ siêu nhiên. Ông cho rằng: “trong đời sống con người, không phải cái gì lý trí cũng có thể nhận biết. Cái thiêng liêng là một trong những cái không thể nhận biết bằng lý trí. Vì một khi đã nhận biết được một đối tượng thiêng liêng bằng lý trí ( bằng khám phá và kiểm nghiệm khoa học ), thì nó không còn là thiêng liêng nữa. Cũng có thể nói như vậy về chân, mỹ, thiện. Người ta bao giờ cũng hướng tới những cái đó, nhưng không bao giờ có thể đạt tới ở mức cuối cùng. Tất cả những gì là thiêng liêng, là cao cả bao giờ cũng vẫy gọi con người, làm cho nó luôn luôn tự vượt mình, hướng tới cái cao hơn ( hướng thượng ), hướng tới cái siêu việt, tới trạng thái chân hơn, mỹ hơn, thiện hơn. Xu hướng ấy của con người tạo ra một mặt cơ bản của đời sống con người: đời sống tâm linh” (4); “Cái thiêng liêng gắn với sự thăng hoa, với sự tự vươn lên của con người tới cái tuyệt đối, cái vô cùng, cái toàn năng, cái hoàn thiện. Những cái đó là có thể nhận thức được, tất nhiên không phải bằng lư trí, bằng khoa học, mà bằng sự cảm nhận tính toàn bộ (holisme) của vũ trụ. Chẳng hạn trong Phật giáo, con người bằng trực giác có thể “ngộ” cái “chân như”, cái “chân tâm” với tư cách bản thể của sự vật, mặc dầu không coi đó là cái thần bí. Trong Phật giáo, có cái thiêng liêng nhưng không có cái thần bí” (4).

    Không phải chỉ những kẻ nghèo khổ, dốt nát mới t́m đến tôn giáo, nhiều nhà khoa học vĩ đại từng là những tín đồ ngoan đạo. Mọi khám phá khoa học chỉ được thực hiện trong một phạm vi nhất định mà sự chiếm lĩnh tôn giáo là không hạn chế, nó đem lại cho con người khả năng cảm nhận vũ trụ nói chung, cùng với nguyên ủy và cứu cánh của vũ trụ ( dù với sự sáng thế và tận thế của Kitô giáo hay với trạng thái “vô thủy vô chung” của Phật giáo...).

    Đức Phật nói rằng thế giới là “sắc sắc không không”, có mà không, không mà có. Cái triết thuyết “vô minh” ấy chỉ có thể hiểu được khi vật lư lượng tử ra đời. Vật lư lượng tử chỉ ra rằng những hạt – sóng ánh sáng có “ư thức”. Những hạt tưởng là vật chất ấy chỉ là kết quả của sự vận động giữa các trường, mà trường lại là một phạm trù phi vật chất.

    Cho nên tôi rất nể phục Nguyễn Kiến Giang khi ông đưa ra được định nghĩa này: “tôn giáo là sự chiếm lĩnh thế giới chung quanh một cách vô hạn, toàn bộ, thông qua cái thiêng liêng được đối tượng hóa hay một đối tượng được thiêng liêng hóa làm môi giới”. Đó là một sự chiếm lĩnh đặc biệt, khác với mọi sự chiếm lĩnh khác.

    - 5 -
    Bàn về sự điều tiết giữa công bằng xă hội và phát triển kinh tế là rơi vào một lĩnh vực hắc búa. Đ̣i hỏi kinh tế phát triển nhanh nhưng vẫn phải bảo đảm công bằng xã hội tuyệt đối là một bài toán không giải được, vì cho đến nay, hai mặt này dường như mâu thuẫn nhau đến mức khó điều hòa. Đặt công bằng xã hội lên trên hết và coi đó là mục tiêu trực tiếp phải được thực hiện dưới dạng gần như tuyệt đối, thì khó có thể bảo đảm hiệu quả kinh tế ( như “chủ nghĩa xã hội hiện thực” cho thấy ). Ngược lại, đặt hiệu quả kinh tế lên cao, coi đó là thước đo duy nhất của sự phát triển kinh tế, thì lại không tránh khỏi những bất công xã hội ( như “chủ nghĩa tư bản tự do” cho thấy ). Có điều là giữa hai cách giải quyết, cách giải quyết thứ hai thực tế đă đem lại những kết quả khách quan có lợi hơn cho xă hội nói chung và cả cho những người lao động. Nguyễn Kiến Giang đưa ra hình ảnh “Một bên chúng ta có một chiếc bánh đem chia thành những phần gần đều nhau cho mọi người, dần dà chiếc bánh ấy cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Cho tới lúc gần như không còn gì để chia nữa, và nếu trong hoàn cảnh đó lại có những kẻ đòi phần hơn thì những người khác mất phần. Một bên khác, chúng ta có một chiếc bánh chia không đều nhau, kẻ được miếng to, người được miếng bé, nhưng do chiếc bánh to dần lên nên kẻ được miếng bánh bé chẳng những không mất phần mà còn có thể được khá hơn một chút. Rốt cuộc, chẳng có công bằng xã hội, chỉ có các cách chia khác nhau và mỗi bên bất công gần giống nhau” (5)

    Chủ nghĩa Mác do quan niệm duy vật của mình, coi sản xuất vật chất là nền tảng của tất cả các mặt đời sống xã hội, coi kinh tế là cơ sở hạ tằng của xã hội, vì thế, khi bàn tới công bằng xã hội, trước hết và gần như, chỉ bàn về công bằng xã hội trong lĩnh vực kinh tế. Từ đây, coi việc xóa bỏ chế độ tư hữu làm điều kiện tiên quyết để giải quyết công bằng xă hội.

    Để gỡ nút một phần cho kinh tế phát triển, đồng thời cho công bằng xă hội, chủ nghĩa xă hội-dân chủ chủ trương: Việc xóa bỏ chế độ tư hữu không thể làm ngay một lúc, đó phải là một quá tŕnh lâu dài, tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đi xa hơn, Nguyễn Kiến Giang cho rằng: “Không thể đạt tới công bằng xă hội bằng sự triệt tiêu cá nhân và những lợi ích cá nhân” (5). Ông ủng hộ quan điểm của John Rawls – tác giả cuốn “Một lư luận về sự công bằng ”- chủ trương: một xă hội công bằng là một xă hội xác định được những giới hạn và những bối cảnh cho các cá nhân nỗ lực hoạt động, đồng thời đem lại cho họ một nền tảng quyền hạn, một cơ hội có hiệu quả nhất.

    Cho rằng nếu chỉ dừng lại ở văn minh công nghiệp thì xă hội loài người sẽ c̣n bế tắc khi muốn giải quyết vấn đề công bằng xă hội, Nguyễn Kiến Giang kỳ vọng vào nền văn minh hậu công nghiệp mà ở đây nền sản xuất dựa chủ yếu vào tri thúc, vào trí tuệ cá nhân chứ không phải vào sức mạnh của những phương tiện vật chất nằm trong tay các lực lượng xă hội. Ông giải thích: “Xét về mặt công bằng xã hội, ít ra tri thức có hai thuộc tính phù hợp với việc giải quyết vấn đề này. Thứ nhất, tri thức bao giờ cũng nằm ở cá nhân ( dù đó là “trí tuệ tập thể” đi nữa, thì cũng do các cá nhân mang nó ), cá nhân và năng lực của cá nhân là điểm xuất phát để tính những giải pháp kinh tế tối ưu. Thứ hai, tri thức mang bản chất dân chủ, không phải và không thể là độc quyền của bất cứ ai, và như A. Toffler, nó “mang thuộc tính thật sự cách mạng ở chỗ là những người yếu kém nhất và những người nghèo khổ nhất cũng có thể chiếm lĩnh nó” (5).

    Dẫu sao, như một tiếng thở dài nhân ái, Nguyễn Kiến Giang vẫn phải thừa nhận: “Nói cho cùng, công bằng xã hội là một cái đích không bao giờ đạt tới một cách tuyệt đối cả. Cả trong tương lai xa vời, sẽ không bao giờ loài người có thể xoa tay và dơng dạc tuyên bố: “Đã có công bằng xã hội rồi!”. Nhưng cũng giống như sự vận động của tri thức và nhận thức trên đường đi tới nhưng chân lý không bao giờ đạt tới, công bằng xã hội chỉ có thể vận động theo hướng ngày càng ít bất công hơn mà thôi. Nghĩa là, công bằng xã hội, với tư cách một lý tưởng xã hội, vẫn cứ là một ảo tưởng, nhưng là một ảo tưởng cần thiết” (5)

    - 6 -
    Khi bàn về quá tŕnh t́m đường đánh đuổi ngoại xâm tạo cơ hội chấn hưng đất nước Nguyễn Kiến Giang đă từng đánh giá rất cao các chí sỹ Duy Tân: “Tôi xin nói thật rằng: nếu ngày nay, giới trí thức chúng ta ( lớp “kẻ sĩ” hiện đại ) có được tầm trí tuệ và khí phách ngang với những sĩ phu Duy Tân, th́ đă là điều đáng mừng lắm rồi” (6). Ông viết: “Ngày nay chúng ta đă có tiền đề độc lập dân tộc và đang nói tới “văn minh” trong bối cảnh một nền văn minh khác, nhưng hệ vấn đề “dân giàu nước mạnh, xă hội công bằng và văn minh” là sự phục hồi và sự tiếp tục của hệ vấn đề đă đặt ra đầu thế kỷ, từ thời Duy Tân. Một sự trùng lập đáng ngạc nhiên: Ngày nay từ “đổi mới ” được dùng như tên gọi một sự nghiệp lịch sử của toàn thể dân tộc nhằm “hiện đại hóa” đất nước cũng là từ “duy tân” ở đầu thế kỷ, chỉ khác nhau ở một từ là thuần Việt c̣n từ kia là Hán Việt” (6).

    Tiếp nối Duy Tân, ngoài những người lúc đầu chống Cộng sản quyết liệt như Huỳnh Thúc Kháng, một số thanh niên yêu nước cấp tiến ngả sang sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản ở những mức độ khác nhau, đồng thời, vẫn truyền bá những tư tưởng của cách mạng Pháp 1789 ( tiêu biểu là Nguyễn An Ninh ). Một số khác lựa chọn con đường trung gian không chống cộng cũng không theo cộng sản, đặt cách mạng quốc gia lên trên “cách mạng thế giới” ( tức cách mạng giai cấp ) như Việt Nam Quốc Dân Đảng. Số c̣n lại từng bước hướng vào chủ nghĩa cộng sản như Hồ Tùng Mậu, Trần Hữu Độ, Trần Huy Liệu ….

    Trả lời câu hỏi “Ai du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam?”, Nguyễn Kiến Giang viết: “Đúng là Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam ( không có ai trở thành đảng viên Đảng cộng sản từ 1920 như Nguyễn Ái Quốc cả, nếu tính tuổi đảng th́ Nguyễn Ái Quốc hơn tuổi đảng của lớp cộng sản đầu tiên khoảng trên dưới 10 năm ), và cũng đúng là Nguyễn Ái Quốc là người viết về chủ nghĩa cộng sản sớm nhất trên sách báo cách mạng Việt Nam ( lúc đầu là trên Le Paria, trong cuốn Le procès de la colonisation francaise, sau đó là trên tờ Thanh niên và trong cuốn Đường Cách Mệnh ). Nhưng không phải chỉ có Nguyễn Ái Quốc làm công việc giới thiệu chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam trong những năm 20. Xin nêu lên vài tên tuổi đă đóng góp vào công việc này: Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Đào Duy Anh… Chúng ta biết Phan văn Trường là người từng cộng tác với Nguyễn Ái Quốc và Phan Chu Trinh để khởi thảo ra Bản yêu sách Tám điều do Nguyễn Ái Quốc mang tới Hội nghị Versailles năm 1919” (6).

    Nguyễn Kiến Giang c̣n quả quyết: “Một số người cộng sản ngày nay nói một cách khẳng định rằng: “chủ nghĩa xă hội, chủ nghĩa cộng sản là sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam”. Đúng thế chăng? Tôi xin phép được nghi ngờ. Có lẽ không có ǵ rơ hơn sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ cách mạng Tháng Tám. Hồi đó, nhân dân lựa chọn cái ǵ? Lựa chọn độc lập, tự do, hạnh phúc, lựa chọn Nhà nước cộng ḥa dân chủ, lựa chọn Việt Minh như một mặt trận thống nhất dân tộc thật sự với những thành viên khác nhau của nó, lựa chọn những người có đức có tài lănh đạo quốc dân. Lựa chọn bằng những cuộc khởi nghĩa tháng tám đầy khí thế. Lựa chọn bằng tham gia Giải phóng quân, Vệ quốc đoàn, Nam tiến… Lựa chọn bằng Tổng tuyển cử (6-1-1946) một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do, có sự tham gia của nhiều tổ chức và cá nhân thuộc những xu hướng chính trị khác nhau. Lựa chọn bằng Hiến pháp thật sự dân chủ tháng 11-1946 do Quốc hội đầu tiên thông qua. Sự lựa chọn của người dân là như vậy. C̣n sự lựa chọn chủ nghĩa xă hội, chủ nghĩa cộng sản là sự lựa chọn của những người cộng sản, một bộ phận ( dù là cách mạng nhất đi nữa th́ cũng là một bộ phận ) mà không phải của nhân dân nói chung, của toàn dân” (6).

    Ông thừa nhận: “Tất cả những người lựa chọn chủ nghĩa cộng sản đều nung nấu tinh thần yêu nước mạnh mẽ. Việc lựa chọn chủ nghĩa này trong phần lớn các trường hợp là do nh́n thấy nó đem lại những sức mạnh mới từ trong nước và trên thế giới có thể giúp giải phóng dân tộc một cách có hiệu quả hơn. Nói cách mạng vô sản nhưng chủ nghĩa yêu nước vẫn là một nền tảng tư tưởng của tất cả những người cộng sản”. (6)

    Nhưng đến nay, ông cho rằng: “Cuộc sống đă chứng minh khá đầy đủ rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đă thuộc về quá khứ ( một quá khứ thật oanh liệt, đầy những hào hùng và những bi kịch ), mà không thuộc về hiện tại, lại càng không thuộc về tương lai. Ở một mức độ nào đó, “số phận” của nó cũng giống như “số phận” của Nho giáo ngày xưa”. (6).

    Nguyễn Kiến Giang không phủ định sạch trơn, không phỉ báng chủ nghĩa Mác. Ông tâm sự trong bài trả lời phỏng vấn BBC ngày 1 tháng 2 năm 2004: “Trước đây tôi để chủ nghĩa Mác Lênin lên đầu và coi là giá trị lớn nhất, giá trị cao nhất của tư tưởng loài người và tôi bị cái ṿng kim cô của chủ nghĩa Mác Lênin xiết chặt đầu tôi lại. Bây giờ tôi làm một việc khác, tức là tôi đặt bàn thờ chủ nghĩa Mác Lênin sang một bên, chứ không đặt lên đầu tôi nữa, tức là ngang với những nhà tư tưởng lớn của loài người như Rousseau, Robespierre, Montesquieu v.v. Tôi coi mỗi nhà tư tưởng đều có đóng góp của ḿnh vào trong tiến triển của tư tưởng loài người cả”.

    Trở thành đảng viên Cộng sản ở tuổi 15, từng đảm lănh trách nhiệm phó giám đốc một cơ quan chuyên xuất bản sách Mác- Lênin, Nguyễn Kiến Giang đă từng vật vă quằn quại: “khi tôi viết xong để ḿnh từ giă chủ nghĩa xă hội khoa học th́ gần như không ăn. Uống th́ có nhưng gần như không ăn, v́ nó mệt quá... Bởi v́ đây là một niềm tin, một cái ǵ đó rất thiêng liêng, mà tự ḿnh phải lột bỏ đi. Cái đó là một sự đau đớn ghê gớm” .

    *
    Viết xong bài này, tôi gọi điện thoại định đến xin ư kiến Nguyễn Kiến Giang nhưng người nhà bảo ông đă vào Sài G̣n tránh rét và dưỡng bệnh.

    Cách đây hơn một năm, tiễn tôi ra cửa, ông nắm tay rất lâu và như nén xúc động, dặn ḍ: “Thanh Giang ơi, c̣n sống th́ hăy c̣n gặp nhau nhé !”. Thế mà, bẵng đi cho đến hôm nay.

    Ôi cái tuổi già ! ( Ông đă bát tuần, c̣n tôi, không chỉ ngoại thất thập mà đến nỗi đă ở giữa thất -bát thập ). Dẫu có là Bá Nha – Tử Kỳ chúng tôi cũng không thể năng đến với nhau để cùng tấu khúc tương cầu. Nhưng sao, tuồng như cả hai vẫn cứ c̣n vấn vít măi cái “Thế sự du du nại lăo hà” này? Chỉ mong sao, rồi tất cả sẽ không c̣n phải “ẩm hận đa”.

    Nguyễn Thanh Giang(2010)
    Nguồn: vietvungvinh.net

    Ghi chú:
    (1) - Đi t́m cách tiếp cận bản tính gốc người Việt ( viết tháng 4 năm 2000 ).
    (2) Một cuộc chiến chống lại “phi lư tính” ( 18 tháng 9 năm 2001 )
    (3) Nên đặt vấn đề Nho giáo như thế nảo? ( 1993 )
    (4) Dời sống tâm linh và ư thức tôn giáo ( tháng 5 năm 1993 )
    (5) Công bằng xă hội và kinh tế ( tháng 12 năm 1992 )
    (6) Nh́n lại quá tŕnh du nhập chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam ( tháng 1 năm 1995 )

  9. #39
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đến lượt thủ tướng phản công
    Phạm Nhật B́nh – Lê Vĩnh


    Đến nay th́ phần lớn công luận đều thừa nhận hội nghị trung ương 6 là một thất bại thảm hại của phe Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Tuy nhiên, sở dĩ có nhận định đó là v́ mức chờ đợi của xă hội đă lên quá cao cùng với các tuyên bố đầy hứa hẹn trước hội nghị, chứ khó có thể xem hội nghị 6 là thắng lợi của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

    Tuy kết quả sau cùng là xé được bản quyết định kỷ luật của Bộ Chính Trị nhưng uy tín và sĩ diện của ông Nguyễn Tấn Dũng cũng bị sứt mẻ đáng kể, từ việc trở thành tṛ cười "đồng chí X" đối với cả nước đến việc bị coi là không xứng đáng nắm ghế trưởng ban chỉ đạo chống tham nhũng nữa, v.v. Chính v́ vậy mà nhiều người chờ đợi ông Nguyễn Tấn Dũng, với quyền lực tài chính và công cụ công an c̣n nguyên trong tay, sẽ lập tức phục hận.

    Nhưng quả đúng với bản chất nhiều mưu trí của ông Dũng – mà tùy góc nh́n, có người xem là "bản lănh", có người gọi là "hiểm độc" – ông đă tạm án binh bất động để ổn cố lại hàng ngũ dưới trướng. Ông chỉ đi đó đây thăm các đơn vị công an, sinh viên để hô hào phải có “liêm sỉ”.

    Trong khi đó, phe 2 ông Sang - Trọng liên tục ra tay: Từ việc chính thức chỉ định ông Nguyễn Bá Thanh, bí thư Đà Nẵng, ra Hà Nội làm Trưởng ban Nội chính Trung ương vừa tái lập; đến ŕnh rang công bố các thành viên thuộc 3 ban của đảng gồm Ban Nội Chính, Ban Kinh Tế, Ban Chống Tham Nhũng; đến tường thuật rôm rả buổi họp Ban Chống Tham Nhũng đầu tiên do ông Nguyễn Phú Trọng chủ tọa.

    Hiển nhiên, với quá nhiều các ban tương tự trong quá khứ, đặc biệt là những ǵ vừa xảy ra ở Hội nghị 6, công luận vừa dè dặt vừa hy vọng về 3 ban lần này. Nhưng đến khi nghe ông Nguyễn Phú Trọng cất tiếng: "Tay nhúng chàm không thể chống tham nhũng" th́ giới đại gia và tập thể các quan chức cấp cao đều thở phào nhẹ nhơm. Câu nói này không khác ǵ câu "kỷ luật sẽ tạo thù hận" của cùng tác giả vào tháng trước. V́ giới nắm tiền và nắm quyền ở thượng tầng hiện nay đều biết rơ TẤT CẢ các thành viên thuộc cả 3 ban, kể cả 3 trưởng ban, đều dính chàm không chỉ trên tay mà c̣n khắp người nữa. Riêng ông Dũng th́ không chỉ biết mà c̣n có luôn con số "chàm" ai đă nhận từ ông bao nhiêu và có luôn hồ sơ "chàm" từ công an – an ninh về các vụ tham ô của thành viên khác. Tóm tắt lại, ông Dũng biết tất cả các thành viên 3 ban đều đang đeo găng tay đi họp mà thôi và v́ vậy cái ban của ông Trọng chỉ là đ̣n hù.

    Có lẽ chỉ có 1 người mà ông Nguyễn Tấn Dũng quan ngại là ông Nguyễn Bá Thanh. Một phần lư do, v́ ông Thanh nổi tiếng về bản tính đánh thí mạng — nghĩa là nhắm mắt ra đ̣n cực độc và bất chấp đối phương sẽ phản công và làm thiệt hại ḿnh thế nào. Vụ giao tranh với tướng công an Trần Văn Thanh từ 2007 đến 2009 là một thí dụ điển h́nh. Và phần lư do c̣n lại là lời hứa đă lọt ra tới công luận, đó là lời hứa từ Bộ Chính Trị sẽ giao cái ghế thủ tướng của ông Dũng cho ông Thanh.

    Với bản tính và lời hứa nặng kư đó, người ta không ngạc nhiên khi từ Đà Nẵng, Bí thư thành ủy Nguyễn Bá Thanh trong những ngày chưa chính thức nhậm chức trưởng Ban Nội Chính, đă hăng hái nổ nhiều phát súng nhắm về hướng của phe nhóm thủ tướng. Hàng ngũ cán bộ và cả một vài tờ báo nhanh chóng truyền tai nhau các câu hăm dọa của ông Thanh: "Sắp tới tôi sẽ rà vô một số cái, cho hốt liền, không nói nhiều", hay "Một số ông giờ đang ngồi run", hay "Bắt liền chứ không cần phải đợi có bằng chứng chung chi ǵ hết." …. Tóm tắt lại, ông Thanh đă tuyên chiến lập tức: ông sẽ tỉa dần hàng ngũ quanh ông Dũng trước khi tiến vào tâm điểm chính là cá nhân thủ tướng. Rơ ràng ông Thanh dám làm điều mà ông Sang, ông Trọng rụt rè trong những tháng qua v́ sợ đối phương vạch luôn bàn tay "chàm" của gia đ́nh 2 ông.

    Và đó là lư do mà ông Nguyễn Tấn Dũng phải lấy quyết định chuyển sang thế phản công. Đ̣n phản công của ông Dũng bao gồm cả hai mặt: thủ và công.

    Thứ nhất về mặt thủ, ông Dũng cố hạ tối đa uy tín của Trưởng Ban Nội Chính trước khi ban này khởi động làm việc. Đó là việc xuất hiện ngày 17/1/2013 hồ sơ thanh tra và kết luận của Thanh tra Chính phủ trên báo chí, dù hồ sơ này mới đóng dấu “mật” chỉ mấy ngày trước đó. Kết luận này nói rằng thành phố Đà Nẵng mà ông Thanh vẫn đang nắm ghế bí thư thành ủy đă "gây thất thu ngân sách" hơn 3,400 tỷ đồng do định giá đất đai không chính xác hay giảm giá đất không theo quy định của nhà nước. Ngay sau đó Bộ Công an được Thủ tướng Dũng nhanh chóng và công khai giao nhiệm vụ nhập cuộc điều tra, "làm rơ dấu hiệu cố ư làm trái". Nghĩa là hăm dọa sẽ truy tố hình sự một khi "tìm thấy chứng cứ".

    Hai ngày sau, 19/1/2013, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Đà Nẵng, ông Văn Hữu Chiến lập tức kêu oan về cả kết luận điều tra lẫn cách thức điều tra, bằng một văn bản dài và hàng loạt phỏng vấn với báo chí. Ông Chiến phản đối kết luận của Thanh tra Chính phủ v́ "không có cơ sở"; phản đối việc "Thanh tra không chịu nghe giải tŕnh của Thành phố"; phản đối việc "Thanh tra đưa kết luận này ra thông báo trên báo chí".

    Ngày 29/1/2013, văn pḥng thủ tướng, qua miệng của ông Vũ Đức Đam, một lần nữa công bố giữ nguyên kết luận về sai phạm của lănh đạo Đà Nẵng và tiếp tục tiến hành lệnh của thủ tướng cho công an điều tra để truy tố. Ông Đam c̣n nói: "Thủ tướng chưa nhận được ư kiến phản ánh nào… của thành phố Đà Nẵng".

    Cho đến nay, hầu như tất cả công luận đều xem đây là một đ̣n công khai của ông Nguyễn Tấn Dũng đánh vào uy tín của ông Nguyễn Bá Thanh, đặc biệt nếu so với cách hành xử đầy tính châm chước của ông Dũng đối với chính quyền Thành phố Hải Pḥng ngay sau vụ tai tiếng lớn ở Tiên Lăng.

    Có xác suất cao trong những ngày tới, trưởng Ban Nội Chính Trung Ương sẽ phải dành một phần thời giờ để trả lời các đoàn điều tra từ bộ công an và thậm chí có thể phải ra trước ṭa để trả lời về các "sai phạm" trong quá khứ tại Đà Nẵng. Và dĩ nhiên các buổi này nhiều phần sẽ được công bố thoải mái trên báo chí.

    Và dĩ nhiên, mọi đ̣n đánh nhắm vào ông Nguyễn Bá Thanh đều là lời cảnh cáo dằn mặt cho từng thành viên của cả 3 ban Nội Chính, Kinh Tế, và Chống Tham Nhũng của Bộ Chính Trị.

    Thứ nh́ trong thế công, ngày 21/1/13, tức là chỉ 3 ngày sau khi tung ra “hồ sơ mật” nêu trên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đă quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Pḥng Chống Tội Phạm (Ban Chống Tội Phạm) trực thuộc Văn pḥng Thủ tướng. Ban chỉ đạo này do cánh tay mặt của thủ tướng là Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đứng đầu và Bộ trưởng Công an, tướng Trần Đại Quang, giữ vai trò Phó ban thường trực.

    Thoạt nh́n trên lư thuyết, người ta thấy có sự tách bạch khá rơ giữa Ban Nội Chính của Trung ương Đảng và Ban Chống Tội Phạm của chính phủ. Trên giấy tờ, Ban Nội chính có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về pḥng chống tham nhũng cho chủ trương; định hướng xử lư một số vụ việc, vụ án; thực hiện nhiệm vụ cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về pḥng chống tham nhũng. Tức là những nhiệm vụ mang tính đối phó với nội bộ đảng.

    Trong khi đó, cũng trên giấy tờ, nhiệm vụ của Ban Chống Tội Phạm là "phối hợp các cơ quan chức năng, các lực lượng để đấu tranh với các băng nhóm tội phạm nguy hiểm”, nghĩa là nhắm vào việc đối phó với xă hội bên ngoài.

    Tuy nhiên, chỉ nh́n sâu hơn một chút, người ta đă có thể thấy rơ ngay mưu trí của ông Dũng khi tạo lập Ban Chống Tội Phạm như một vũ khí tấn công mới. Trước hết, Ban Chống Tội Phạm không bị giới hạn vào một lănh vực phạm pháp nào. Cụ thể nó được cho phép “hoạt động trên nhiều địa bàn, các vụ án nghiêm trọng, phức tạp về an ninh, kinh tế, trật tự an toàn xă hội nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, giữ ǵn trật tự, an toàn xă hội”. Đây là những thuật ngữ khá quen thuộc để cho phép loại quyền hạn không biên giới. Thế nào là "nghiêm trọng, phức tạp" hoàn toàn do văn pḥng thủ tướng hay chính ban này định đoạt. Và tất cả mọi loại "sai trái" dù trong bất kỳ lănh vực nào đều có thể qui về phạm trù mơ hồ của "an ninh quốc gia, trật tự an toàn xă hội".

    Nói cách khác, Bộ Chính Trị vừa tước ghế trưởng Ban Chống Tham Nhũng khỏi tay thủ tướng, ông Dũng cho lập ngay một Ban mới với quyền hạn c̣n rộng hơn nữa và hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của thủ tướng.

    Kế đến Ban Chống Tội Phạm cũng không bị hạn chế trong phạm vi đối tượng. Nó không bị dừng lại ở cấp bộ nào, dù là địa phương hay trung ương, một khi đă tự kết luận đó là một vụ "nghiêm trọng, phức tạp". Và khi nhân danh đối phó với những kẻ phạm pháp, ban này không cần phân biệt đó là đảng viên hay dân thường. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay ở Việt Nam, chỉ những người có quyền chức mới có cơ hội và phương tiện để phạm pháp nghiêm trọng, và đặc biệt, mới có khả năng lập "băng nhóm tội phạm". Và tuyệt đại đa số những người đang nắm chức quyền đều là đảng viên trung và cao cấp. Do đó, đối tượng chính của Ban Chống Tội Phạm là thành phần đảng viên có máu mặt, y như 3 ban của Bộ Chính Trị.

    Về mặt bắp thịt, Ban Chống Tội Phạm của ông Dũng không kém ǵ Ban Chống Tham Nhũng của ông Trọng. Ban Chống Tội Phạm không những do phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, cánh tay mặt của ông Dũng, cầm đầu mà c̣n đặt Bộ trưởng Bộ Công An Trần Đại Quang ở vị trí phó ban. Đây là yếu tố hệ trọng v́ Công An là nơi đảm trách hầu hết công việc điều tra để các Ban dựa vào kết quả điều tra đó mà ra đối sách. Kinh nghiệm cho thấy, trong các vụ án chính trị cũng như kinh tế, những hồ sơ của cơ quan điều tra Bộ Công an có thể thay đổi, thêm bớt hoặc ngay cả dựng đứng, bịa đặt cho phù hợp với từng đối tượng, từng “chuyên án” đă được chỉ đạo. Với cách sắp xếp này trong Ban Chống Tội Phạm, ông Nguyễn Tấn Dũng có thể thực hiện được hai điều: (1) Có thể ngăn chận hoặc ra lệnh sửa đổi bất kỳ bản điều tra nào của công an nếu xét thấy không có lợi cho phe nhóm ông; hoặc tùy tiện tung ra công luận các bản điều tra có nhiều thiệt hại cho các đối thủ. (2) Có thể ra lệnh cho công an tấn công các đối thủ dưới dạng mở hồ sơ điều tra, khám xét nhà cửa, kiểm tra tài sản, tạm giữ, tạm giam,…

    Và một vũ khí trong bóng tối khác của ông Dũng cũng góp phần khiến bắp thịt của Ban Chống Tội Phạm đáng sợ hơn tất cả mọi ban khác. Đó là hệ thống riêng của cựu thượng tướng công an Nguyễn Văn Hưởng, người được xem là một hung thần theo truyền thống của trùm mật vụ Beria dưới thời Stalin trên đất Liên Xô. Công luận Việt Nam, báo chí lề trái vẫn tiếp tục ngờ vực bàn tay ông Hưởng trong những vụ đột tử, như cái chết mờ ám của ông Đào Duy Tùng năm 1994 khi đang là thường trực Bộ Chính Trị; cái chết v́ ngộ độc của thứ trưởng bộ Công An Nguyễn Văn Rốp (Tư Rốp) năm 2001; cái chết bất ngờ của cựu thủ tướng Vơ Văn Kiệt ở Singapore; kể cả vụ ám sát hụt ông Ba Kiên Tham mưu trưởng Quân Khu 7 ở Campuchia,…. Tin tức về bàn tay trong bóng tối này đă trở nên thông thường trong dân chúng đến độ khi nghệ sĩ Kim Chi từ chối đề nghị ban khen của ông Dũng, bà nghĩ ngay đến xác suất một cái chết sắp được dàn dựng cho bà.

    Với vũ khí Ban Chống Tội Phạm mang thẩm quyền vô giới hạn và có cả phương tiện công khai lẫn bí mật như vậy, ông Dũng thừa sức vô hiệu hóa cả 3 ban của Bộ Chính Trị. Điều này có thể thấy ngay qua một vài phóng chiếu cụ thể. Chẳng hạn như khi Ban Nội Chính sắp sửa truy tố một nhân vật nào đó thuộc phe ông Nguyễn Tấn Dũng theo lời khai của một số nhân chứng, th́ các nhân chứng trong vụ án đột nhiên mất tích hay qua đời trong thầm lặng. Ở mức thấp nhất, các nhân chứng này bỗng nhiên bị công an bắt giam khẩn cấp v́ những tội danh khác và bị điều tra về nhiều loại tội khiến các lời khai của họ với Ban Nội Chính không c̣n đáng tin và không đáng làm cơ sở buộc tội nữa. Đây là việc làm quá dễ trong chức năng phó Ban Chống Tội Phạm kiêm Bộ trưởng Công An của tướng Trần Đại Quang. Ở mức chủ động tấn công hơn nữa, khi Ban Nội Chính sắp điều tra một vụ việc ǵ không có lợi cho phe ông Nguyễn Tấn Dũng, Ban Chống Tội Phạm c̣n có thể lập tức dùng một sai phạm nào đó ở hiện tại hay trong quá khứ, để mở màn "điều tra người điều tra" và tung ngay tin tức này ra báo chí.

    Và dĩ nhiên Ban Chống Tội Phạm cũng sẽ rất hiệu quả trong việc tấn công ngược vào hàng ngũ của ông Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng để đánh trả mỗi khi Ban Nội Chính làm thiệt hại hàng ngũ dưới trướng ông Dũng. Diễn tŕnh ăn miếng trả miếng này đă và đang liên tục xảy ra kể từ sau vụ đổ bể hệ thống ngân hàng. Thí dụ điển h́nh là các tấn công nhắm vào chị em bà Đặng Thị Hoàng Yến và ông Đặng Thành Tâm, những người được xem là thành viên trong hệ thống làm ăn của ông Trương Tấn Sang.

    ***

    Các đ̣n phép, và từ đó danh sách các "nạn nhân", sẽ gia tăng nhanh trong cuộc chiến giữa Ban Chống Tội Phạm và 3 ban của Bộ Chính Trị trong những tháng trước mặt.

    Nhưng giữa lúc các ban giương cờ xí lên chuẩn bị đánh nhau lớn, chẳng ai thấy có ban nào nhắc tới vụ tham nhũng lớn nhất trong lịch sử đất nước, đó là số tiền hàng trăm tỉ mỹ kim đă thất thoát qua các tập đoàn kinh tế và tổng công ty. Núi tiền khổng lồ đó không thể tan biến mà không để lại dấu tích ǵ. Phải chăng chẳng ban nào dám nói tới v́ số "chàm" đó đă được chia và gởi lên quá nhiều cửa ở thượng tầng?

    Nếu viết lại các phân tích của ḿnh vào thời điểm giành giật "chống tội phạm - chống tham nhũng" hiện nay, hy vọng ông Nguyễn Văn An sẽ bổ túc vào cái tên mà ông đă khéo đặt cho cốt lơi của các tệ nạn và t́nh trạng không thể tự chữa của Đảng CSVN. Đă đến lúc gọi đó là các LỖI HỆ THỐNG CHÀM cho rơ nghĩa hơn chăng?

    http://viettan.org/%C4%90en-luot-thu...phan-cong.html

  10. #40
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đại biểu QH chửi nhau -
    Lăng Tần Hoàng Hữu Phước: Dương Trung Quốc Tứ Đại Ngu
    Đại biểu Quốc hội đả phá đồng nghiệp


    Ông Nghi "điên" Hoàng Hữu Phước

    Phàm ở đời, cứ luận cổ suy kim th́ các nhận định của Thầy Khổng cùng môn đồ ắt không phải không có phần đúng và có thể trên nền đúng cổ đó mà phát triển xum xuê kim thêm rằng (a) người nào khi mẹ cha sinh ra đời đă tự ḿnh biết tất tần tật lẽ phải điều hay ấy là đấng thánh nhân; (b) người nào sinh ra đời biết tự ḿnh t́m đến bậc thầy thiên hạ để quỳ xin theo chí thú học hành tới nơi tới chốn để biết lẽ phải điều hay là đấng đạt nhân; (c) người nào sinh ra đời nhờ mẹ cha chọn thỉnh bậc thầy thiên hạ đến dạy mà trở nên biết lẽ phải điều hay là đấng hiền nhân; (d) người nào vừa không được – hoặc không có – mẹ cha biết chọn bậc thầy thiên hạ, vừa bản thân cũng chẳng biết ai là bậc thầy thiên hạ để quỳ xin theo học tập để biết lẽ phải điều hay là người không có phúc phận; (e) người nào đă được mẹ cha chọn thỉnh bậc thầy thiên hạ đến dạy nhưng dù cố gắng học hành kết quả học tập cũng không khá hơn được, khiến chẳng thể phân biệt lẽ phải điều hay, là người ngu; (f) c̣n người nào dù có điều kiện hơn thiên hạ vẫn vừa không biết ai là bậc thầy trong thiên hạ để t́m đến quỳ lạy người ấy xin theo học, vừa bê tha bê bối bê trễ việc học tập học hỏi học hành nên không thể biết lẽ phải điều hay, lại hay to mồm phát ngôn toàn điều càn quấy là kẻ đại ngu. Nay thiên hạ trong cơn u u minh minh tối tối sáng sáng của thời Mạt Pháp lúc tôn giáo suy đồi, sư săi ngứa ngáy nhảy cà tưng cà tưng trên nóc ô-tô rống loa kích động chống lại chính quyền, linh mục điên loạn gào thét co gị đạp đổ vành móng ngựa giữa chốn pháp đ́nh uy nghiêm khiến ngay ngoại bang cũng phải giật ḿnh cười chê c̣n Ṭa Thánh cũng buộc phải ngó lơ, chân lư lung lay, tà mỵ huyễn hoặc hoành hành dù nhấp nha nhấp nhổm rúc chui cống đấy cống này blog nọ blog kia cũng rống loa rao truyền sứ điệp, Lăng Tần tôi đây theo sách thánh nhân xin góp một đường chổi quét, vừa thử nêu bật phân tích Dương Trung Quốc như một tấm gương cho giới trẻ xem qua điều dở, nghiệm lấy điều ghê, vừa thử xem đối tượng được phân tích này có nhờ vậy học được đôi điều để cải hóa mà bớt xấu đi chăng.

    ĐBQH Dương Trung Quốc
    Giới Thiệu Đôi Nét Về Dương Trung Quốc:

    Dương Trung Quốc quê quán tỉnh Bến Tre, sống ở Hà Nội, tŕnh độ học vấn: tốt nghiệp đại học môn Sử, tự dưng có danh xưng “Nhà Sử Học” trên trời rơi xuống, không rơ do tự xưng hay do thuộc hạ tung hê, ắt do ở Việt Nam và trên thế giới chỉ có “Thạc sĩ” và “Tiến sĩ” mới được gắn học vị vào tên, chứ “tốt nghiệp đại học” (tức “Cử nhân”) hay “tốt nghiệp phổ thông” (tức “Tú tài”) th́ theo quy định bất thành văn của thời hiện đại không được nêu ra kèm theo tên họ, nên tức ḿnh đau mẩy phải áp cụm từ “nhà sử học” vào tên để cho có với người ta chăng. Tuy nhiên, việc Dương Trung Quốc không chọn danh xưng “Sử Gia” cũng là một điều khá khen là khôn ngoan, v́ đă là “sử gia” th́ phải là giáo sư tiến sĩ Sử, dù trong tiếng Hán Việt th́ “gia” cũng là “nhà”, nhưng “gia” th́ … to lắm, thế nên mới có chuyện các nhà tài phiệt chỉ được gọi là “đại gia” chứ đố ai dám vặn vẹo kiểu “giữ ǵn sự trong sáng của tiếng Việt” mà nói đó là…“nhà lớn”

    Nhất Đại Ngu của Dương Trung Quốc: Đĩ

    Cái đại ngu thứ nhất của Dương Trung Quốc là lập lại lời thiên hạ thế gian này hay nói khi tuyên bố danh chính ngôn thuận giữa nghị trường quốc hội rằng mại dâm là nghề cổ xưa nhất của nhân loại, rằng các nước luật hóa mại dâm nên Việt Nam đừng có đạo đức giả nữa đối với nghề mại dâm mà phải công nhận nghề này, và rằng nhất thiết phải đưa mại dâm lên bàn nghị sự của quốc hội. Ba điểm Dương Trung Quốc nêu lên cho thấy những bảy điều xằng bậy như sau:

    1) Mại dâm không là nghề cổ xưa nhất của nhân loại mà là nghề…đạo chích, tức trộm cắp. Thánh Kinh Cựu Ước của Thiên Chúa Giáo có cho biết thủa hồng hoang mới có một nam tên Adam và một nữ tên Eva, tất nhiên chưa thể phát sinh nhu cầu giải quyết sinh lư với người nữ khác nên chưa thể có mại dâm. Song, Eva và Adam đă đồng lơa ăn trộm trái táo xơi để khai sinh ra ngành công nghiệp thời trang cho nhân loại. Việc to mồm nói mại dâm là nghề cổ xưa nhất chỉ có thể là lời khẳng định sự bó tay của nhân loại trước thân phận bọt bèo của nữ giới và tệ nạn của ma cô đàng điếm, của “nô lệ t́nh dục”, và của “sex trade” chứ sao lại vin vào đó để đ̣i “công nhận” là một “nghề” chính danh chính thức?

    2) Cũng trong chương Sáng Thế Kư Genesis của Thánh Kinh Cựu Ước của Thiên Chúa Giáo có ghi việc Chúa Trời sai các thiên sứ bay đến hai thành phố Sodom và Gomorrah vung gươm tàn sát giết sạch nam (đàn ông), phụ (phụ nữ), lăo (bô lăo), ấu (trẻ em, hài nhi) để trị tội dâm ô đồi trụy. Tuy Genesis không có nêu đặc biệt vấn đề đĩ điếm mại dâm nữ, song trong các chương khác của Thánh Kinh Cựu Ước và Thánh Kinh Tân Ước của Thiên Chúa Giáo như Châm Ngôn (Proverbs 23:27-28), Lu-ca (Luke 7:36-50), Ma-thi-ơ (Matthew 21:31-32) và II Cô-rinh-tô (II Corinthians 5:17), v.v. đều ghi rơ Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jesus sẵn sàng xóa sạch “tội lỗi” cho đĩ điếm nào tin vào Chúa. Đă là “tội lỗi” ắt đó không bao giờ là “nghề nghiệp” cả.

    3) Dương Trung Quốc là đại biểu quốc hội ứng cử tại địa bàn tỉnh Đồng Nai là nơi có rất nhiều giáo xứ. Tôi đă là giáo viên chủ nhiệm một lớp do tỉnh Đồng Nai gởi đến nhờ trường Cao Đẳng Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh giúp đào tạo nên một đội ngũ giáo viên tiếng Anh thật giỏi để phục vụ ngành giáo dục tỉnh Đồng Nai. Đa số các sinh viên này của tôi đều thuộc gia đ́nh công giáo, và những chuyến đi thăm phụ huynh tại Đồng Nai, dù đó là thành phố Biên Ḥa, hay thị trấn Xuân Lộc, Long Khánh, Long Thành, v.v., cho tôi cảm nhận được mức độ đạo hạnh cao, mẫu mực gia phong tốt lành nơi các gia đ́nh và nơi bản thân các sinh viên này. Việc Dương Trung Quốc phát biểu linh tinh về mại dâm là việc làm không chút khôn ngoan do động đến vấn đề liên quan đến đạo đức mà Kinh Thánh đă nêu và các cử tri là giáo dân các giáo xứ tỉnh Đồng Nai khó thể chấp nhận được sự xúc phạm, nhất là kiểu ăn nói quàng xiên rằng “không công nhận mại dâm tức là đạo đức giả”.

    4) Dương Trung Quốc đă hoàn toàn không biết ǵ về ư nghĩa của cụm từ “đạo đức giả” cũng như các minh họa làm rơ nghĩa cụm từ này trong thực tế đời sống, trong thực tế hùng biện hàn lâm, và trong thực tế tôn giáo, mà tôi sẽ biện luận làm rơ trong một bài viết sau này.

    5) Dương Trung Quốc đă hoàn toàn không biết rằng ngay tại Mỹ chỉ có vài tiểu bang và tại các tiểu bang này chỉ có một hay hai thị trấn đưa mại dâm vào danh sách “nghề” để quản lư. Mà ngay cả khi thế giới đảo điên này có công nhận “nghề” mại dâm, cũng không phải là lư do để đặt đĩ nằm ch́nh ́nh trên bàn nghị sự của quốc hội Việt Nam!

    6) Dương Trung Quốc đă không có tầm nh́n bao quát, sâu rộng, về vấn đề mại dâm. Dương Trung Quốc chỉ nghĩ đến mại dâm như việc đơn giản người phụ nữ có quyền bán thân để kiếm tiền và để đáp ứng nhu cầu xă hội. Dương Trung Quốc hoàn toàn không biết rằng mại dâm bao gồm đĩ cái, đĩ đực, đĩ đồng tính nữ, đĩ đồng tính nam, và đĩ ấu nhi. Dương Trung Quốc hoàn toàn không biết rằng khi “công nhận” cái “nghề đĩ” để “quản lư” và “thu thuế”, th́ phát sinh … nhu cầu phải có trường đào tạo nghề đĩ thuộc các hệ phổ thông đĩ, cao đẳng đĩ, đại học đĩ; có các giáo viên và giáo sư phân khoa đĩ; có tuyển sinh hàng năm trên toàn quốc cho phân khoa đĩ; có chương tŕnh thực tập cho các “môn sinh” khoa đĩ; có tŕnh luận văn tốt nghiệp đĩ trước hội đồng giảng dạy đĩ; có danh sách những người mua dâm để tuyên dương v́ có công tăng thu nhập thuế trị giá gia tăng cho ngành công nghiệp đĩ; có chính sách giảm trừ chi phí công ty hay cơ quan nếu có các hóa đơn tài chính được cấp bởi các cơ sở đĩ, đặc biệt khi cơ quan dùng vé “chơi đĩ cái” tặng nam nhân viên và vé “chơi đĩ đực” cho nữ nhân viên nào ưu tú trong năm tài chính vừa qua; ban hành quy định mở doanh nghiệp cung cấp đĩ, trường dạy nghề đĩ, giá trị chứng chỉ văn bằng đĩ trên cơ sở so sánh giá trị nội địa, khu vực, hay quốc tế; và có các hướng dẫn về nội dung tờ bướm, tờ rơi, bảng quảng cáo ngoài trời, quảng cáo bên hông xe buưt và trên thân máy bay, cũng như quảng cáo online về đĩ, tập đoàn đĩ lên sàn (chứng khoán), v.v. và v.v.

    7) Dương Trung Quốc đă không thể phân biệt giữa nội dung “nhân quyền” tức “quyền con người” trong việc “tự do bán thân”, với “quyền công dân” mà một đạo luật đĩ có thể điều chỉnh hành vi. Việt Nam đă chấm dứt việc bố ráp đưa mại dâm nữ vào cơ sở chữa bệnh-phục hồi nhân phẩm, và đây là do Việt Nam tôn trọng “quyền con người”. C̣n việc ra sức giáo dục, tuyên truyền để hạn chế sự hoành hành tác tệ của mại dâm đối với trật tự xă hội, nhân cách công dân, đạo đức xă hội, v.v., là việc mà nhà nước nào, dù thần quyền hay thế tục, đều cố gắng làm tốt. Dương Trung Quốc dường như rất vô tư đối với nội hàm làm băng hoại xă hội Việt Nam, cứ như xuất phát từ ḷng căm thù bịnh hoạn nào đó đối với chế độ hiện tại của nước này vậy.

    Nhị Đại Ngu của Dương Trung Quốc: Đa Đảng

    Trong một video clip trả lời phỏng vấn của PhốBolsaTV, Dương Trung Quốc đă vừa nháy mắt vừa nói với nhà báo rằng các anh ấy ở Việt Nam Cộng Ḥa nên biết rơ thế nào là “đa đảng”. Có cái mác “Nhà Sử Học” nhưng Dương Trung Quốc đă hoàn toàn không biết ǵ về lịch sử Việt Nam Cộng Ḥa. Như tôi đă nói rơ trong nhiều bài viết trên các trang mạng, Việt Nam Cộng Ḥa hoàn toàn không có bất kỳ đảng phái chính trị nào cả! Chỉ đến năm 1974 Nguyễn Văn Thiệu mới thành lập cái gọi là Đảng Dân Chủ, với đảng kỳ là cờ vàng sao đỏ, có cùng kích cỡ như cờ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (trước 1975) và Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (từ sau 1975 đến nay), và với Nguyễn Văn Thiệu làm Đảng Trưởng. Buổi lễ thành lập Đảng Dân Chủ của Nguyễn Văn Thiệu được tổ chức tại nơi mà nay là Trung Tâm Thể Thao Quận B́nh Thạnh, gần Ủy Ban Nhân Dân Quận B́nh Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là chi tiết mà không bất kỳ một người Mỹ gốc Việt nào biết trước khi đọc thông tin của tôi đăng trên các blog. Ăn nói hồ đồ và xằng bậy về Việt Nam Cộng Ḥa là điều đại ngu thứ hai của Dương Trung Quốc.

    Tam Đại Ngu của Dương Trung Quốc: Biểu T́nh

    Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội Việt Nam khóa XIII, tháng 10 năm 2011, sau khi phát biểu xong về sự cần thiết có cái gọi là “Luật Biểu T́nh”, Dương Trung Quốc nổi nóng khi nghe đại biểu Hoàng Hữu Phước phát biểu phân tích về ngữ nghĩa, ngữ nguyên, và lịch sử xuất hiện của cụm từ “protest demonstration” trong tiếng Anh mà tiếng Việt đă dịch sai thành “biểu t́nh” để từ đó kiến nghị chưa thể đưa lên bàn nghị sự cái gọi là “luật biểu t́nh” do ư tứ chưa thông, chắc chắn sẽ gây cảnh rối loạn an ninh trật tự. V́ nổi nóng trước hiện tượng chưa từng có tiền lệ tại quốc hội Việt Nam khi đại biểu Hoàng Hữu Phước được nghị trường vỗ tay đồng t́nh, Dương Trung Quốc đă có cái đại ngu thứ ba, gồm 5 điều xằng bậy sau:

    1) Nhấn nút phát biểu tiếp lần thứ hai để chống lại đại biểu Hoàng Hữu Phước, biến nghị trường quốc hội thành nơi đấu khẩu, chà đạp “tự do ngôn luận”, trong khi nhiều trăm đại biểu khác đang chờ đến lượt họ phát biểu, như vậy đă giành giật thời gian chính đáng chính danh chính thức chính đạo của – và gây thiệt tḥi cho – 499 đại biểu quốc hội thuộc các tỉnh khác của Việt Nam.

    2) Do hấp tấp, hiếu chiến, háo thắng, Dương Trung Quốc đă nói xằng bậy rằng “biểu t́nh” xuất hiện đầu tiên tại Chicago thế kỷ XIX, v́ nếu không có kiến thức về ngữ nguyên học, không ai dám tự xưng là “nhà sử học” cả, v́ sẽ đến ngày Dương Trung Quốc tuyên bố “biểu t́nh” đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam đời Nhà Trần với cuộc “biểu t́nh Diên Hồng”.

    3) Do hấp tấp, hiếu chiến, háo thắng, Dương Trung Quốc đă nói xằng bậy rằng đại biểu quốc hội không đại diện cho dân mà chỉ cho cá nhân, và như vậy chính Dương Trung Quốc khẳng định Dương Trung Quốc không đại diện cho cử tri Tỉnh Đồng Nai, tức là từ chối đại diện cho cử tri Tỉnh Đồng Nai, càng không đại diện cho bất kỳ người dân Việt nào. Đó là chưa kể Dương Trung Quốc không những xúc phạm 499 đại biểu quốc hội Việt Nam, mà lại c̣n nhổ toẹt vào các đạo luật về tổ chức quốc hội Việt Nam.

    4) Do hấp tấp, hiếu chiến, háo thắng, Dương Trung Quốc đă nói xằng bậy rằng đại biểu Hoàng Hữu Phước hăy nghiên cứu trước khi phát biểu, mà không thể hiểu rằng đại biểu thạc sĩ Hoàng Hữu Phước luôn có trách nhiệm trong từng lời phát biểu tại nghị trường và nghiên cứu sâu về lịch sử Việt Nam Cộng Ḥa và lịch sử các từ ngữ tiếng Anh trong tương quan tiếng Việt.

    5) Do hấp tấp, hiếu chiến, háo thắng, Dương Trung Quốc đă tự làm lộ cho toàn quốc biết rằng Dương Trung Quốc không biết ngoại ngữ trong khi bản thân là “nhà sử học”.

    Tứ Đại Ngu của Dương Trung Quốc: Văn Hóa Từ Chức

    Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội Việt Nam Khóa XIII tháng 11 năm 2012, Dương Trung Quốc đă phát biểu chất vấn tại nghị trường quốc hội, đặt vấn đề “văn hóa từ chức” với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người lúc đó đang phải giải quyết các sai phạm nghiêm trọng xảy ra tại các tập đoàn kinh tế Vinashin và Vinaline. Đến khi nghe Thủ tướng trả lời hùng biện, chân thiết, khúc chiết, thấu lư đạt t́nh, nhận được sự tán dương của 496 đại biểu quốc hội (trừ 1 đại biểu bị miễn nhiệm, 1 đại biểu qua đời khi tại nhiệm, bản thân thủ tướng, và bản thân Dương Trung Quốc), Dương Trung Quốc đă vội vàng nói thêm rằng Dương Trung Quốc sở dĩ đặt câu hỏi là để xem Thủ tướng trả lời thế nào, và với nội dung Thủ tướng vừa đối đáp th́ nhân dân yên tâm, tức là đă “an dân”. Dương Trung Quốc trong cái đại ngu thứ tư này đă phạm 3 điều xằng bậy như sau:

    1) Thủ tướng – trên nguyên tắc và lư thuyết tổ chức – đứng đầu tất cả các Bộ. Như vậy, Bộ Quốc Pḥng giữ yên bờ cơi, ấy là đại công. Bộ Công An đập nát phản động, tiêu diệt bạo loạn, trừng trị tội phạm, ấy là đại công. Bộ Ngoại Giao đem lá cờ đỏ sao vàng tung bay thắng lợi đối ngoại trên toàn thế giới, ấy là đại công. Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn và Bộ Công Thương lập kỳ tích xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới, ấy là đại công. Bộ nào cũng lập công, vấn đề là công nhiều hay ít, nhiều hơn hay ít hơn những khó khăn đang tồn tại. Như vậy, cái đạo lư nào cho phép Dương Trung Quốc hỗn xược thách đố Thủ tướng có dám từ chức hay không, khi quản lư yếu kém để Vinashin và Vinaline gây thất thoát tiền của quốc gia? Đạo lư xưa nay của riêng dân Việt là đánh giá rất cao việc đoái công chuộc tội. Đạo lư xưa nay của riêng dân Việt là công bằng, công minh, công chính. Đạo lư xưa nay của riêng dân Việt là dung ḥa nhuần nhuyễn giữa lư và t́nh nên luôn khoan ḥa và thiếu tính cực đoan. Dương Trung Quốc loạn ngôn, dám đem việc Vinashin và Vinaline ra để hỗn láo với Thủ tướng, làm lơ các đại công của các Bộ khác, mà – như đă nói ở trên – đều thuộc dưới quyền Thủ tướng. Thử hỏi, nếu Vinashin không làm thất thoát một xu con nào, nhưng Bộ Quốc Pḥng làm mất nhiều tỉnh vào tay quân giặc, Bộ Nông Nghiệp gây ra nạn đói, Bộ Y Tế để dịch bệnh tràn lan, và Bộ Công An bó tay trước bạo loạn đốt phá, v.v., th́ đất nước này sẽ ra sao. Dương Trung Quốc đă mị dân khi hùng hổ phát biểu như thể chỉ có Dương Trung Quốc mới “dám” chất vấn như thế. Cái cực đoan, phủ nhận công, phi lư, và bất công là những thứ ngoại lai mà Dương Trung Quốc đă hấp thụ từ bọn giặc nào để tự tung tự tác nơi nghị trường quốc hội Việt Nam như thế? Vinashin là rắn có đầu, và luật pháp nghiêm minh phải xử lư nặng những cái đầu ấy, tức những chức sắc hưởng lương của Vinashin để làm lănh đạo Vinashin và làm Vinashin phá sản. Đặt vấn đề “văn hóa từ chức” phải chăng hàm ư rằng cứ từ chức là sẽ được “hạ cánh an toàn”, xem như đă giải quyết xong vụ việc?

    2) Dương Trung Quốc và một bộ phận nhỏ người Việt thường đem những thứ ngoại lai làm chuẩn mực cho các so sánh với nội tại của Việt Nam mà thiếu sự hiểu biết thấu đáo, mà cái gọi là “văn hóa từ chức” là một ví dụ. Chính họ nh́n hiện tượng ở nước ngoài rồi tự đặt ra cụm từ “văn hóa từ chức” với sự thán phục, trong khi thực ra chẳng có ǵ để mà gọi đó là “văn hóa”. Khi một tai nạn thảm khốc xảy ra tại một nước tư bản, Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải nước ấy lập tức từ chức. Đó là quy định bất thành văn để giúp “Đảng” có được 3 điều như (a) thoát được cơn thịnh nộ của người dân, (b) Đảng không bị tổn hại trong kỳ bầu cử tiếp theo, và (c) giữ toàn vẹn danh tiếng và nguồn thu cho các nhà tư bản chủ nhân các công ty chế tạo xe hỏa hoặc tàu bè hoặc máy bay lâm nạn v́ các nhà tư bản này cung cấp tài chính cho “Đảng”. “Nhận trách nhiệm quản lư yếu kém” và từ chức, biến tai nạn không phải do lỗi kỹ thuật thiết bị công nghiệp, và người từ chức sẽ được đền ơn bằng cách có một chức vụ cao cấp tại một trong những công ty tư bản ấy. Đây là việc mà bất kỳ ai cũng có thể kiểm chứng dễ dàng từ các nguồn thông tin mở. Làm ǵ có cái “văn hóa” và cái “tinh thần trách nhiệm” trong cái gọi là “từ chức” trong thế giới tư bản mà cứ tôn vinh, ca ngợi, và thán phục đến độ hỗn láo đem ra lập thành tích “chất vấn như Dương Trung Quốc đă làm.

    3) Khi nhanh nhảu tự cứu ḿnh trước cảnh thất bại v́ không thể làm Thủ tướng bối rối hoặc mang nhục trước quốc dân, Dương Trung Quốc đă cho rằng câu chất vấn là để xem Thủ tướng trả lời ra sao. Nghị trường Quốc hội là nơi họp bàn các vấn đề trọng đại của quốc gia, thế mà Dương Trung Quốc sử dụng để test (thử nghiệm) xem Thủ tướng có tài hùng biện không. Nghị trường Quốc hội là nơi họp bàn các vấn đề trọng đại của quốc gia, thế mà Dương Trung Quốc sử dụng để ban ân cho Thủ tướng có cơ hội trổ tài hùng biện để “an dân” hầu ghi điểm son với toàn dân. Nghị trường Quốc hội là nơi họp bàn các vấn đề trọng đại của quốc gia, thế mà Dương Trung Quốc sử dụng để đánh bóng tên tuổi của Dương Trung Quốc như nhân vật đại diện toàn dân tộc để nói lên tấm ḷng của toàn dân tộc rằng toàn dân tộc đă an ḷng, yên tâm trước câu trả lời chất vấn hùng biện của Thủ tướng, từ đó toàn tâm toàn ư ngưỡng mộ Thủ tướng và tin tưởng tuyệt đối vào sự lănh đạo anh minh tài ba của Thủ tướng. Từ ngữ “an dân” của Dương Trung Quốc mang nội hàm bao gồm tất cả những ư tứ như thế. Và thật khó hiểu, không rơ Dương Trung Quốc đă “lập đại công” với Thủ tướng, hay Dương Trung Quốc đă phạm đại ngu thứ tư này.

    ------------------------------------

    Đại biểu Quốc hội đả phá đồng nghiệp



    Ông Hoàng Hữu Phước thuộc đoàn đại biểu Quốc hội TP HCM

    Đại biểu Quốc hội từng gây tranh cãi, ông Hoàng Hữu Phước, vừa viết Bấm bài công kích gay gắt sử gia Dương Trung Quốc trên blog của mình, cũng như trên mạng của công ty ông.


    Ông Dương Trung Quốc là đại biểu Quốc hội khóa XIII, đại diện cho cử tri Đồng Nai.

    Ông Hoàng Hữu Phước, tổng giám đốc công ty cổ phần doanh thương Mỹ Á và là đại biểu của Thành phố Hồ Chí Minh, đăng trên trang web Emotino.com một bài có tựa đề gây sốc: "Dương Trung Quốc - Bốn Điều Sai Năm Cũ (Tứ Đại Ngu)".

    Mục đích bài viết tấn công đồng nghiệp được ông Phước giải thích là "phân tích Dương Trung Quốc như một tấm gương cho giới trẻ xem qua điều dở, nghiệm lấy điều ghê, vừa thử xem đối tượng được phân tích này có nhờ vậy học được đôi điều để cải hóa mà bớt xấu đi chăng".

    Đây là lần đầu tiên đại biểu Quốc hội Việt Nam được biết có lời lẽ thóa mạ nhau nặng nề như vậy trên internet.

    Điều mà ông Phước gọi là "nhất đại ngu" của ông Dương Trung Quốc là phát biểu của ông Quốc tại Quốc hội, rằng Việt Nam nên căn nhắc hợp pháp hóa mại dâm.

    Theo ông Hoàng Hữu Phước, ông Dương Trung Quốc đă lầm lẫn các khái niệm nhân quyền và quyền công dân khi đề xuất như vậy.

    "Việt Nam đă chấm dứt việc bố ráp đưa mại dâm nữ vào cơ sở chữa bệnh-phục hồi nhân phẩm, và đây là do Việt Nam tôn trọng quyền con người. C̣n việc ra sức giáo dục, tuyên truyền để hạn chế sự hoành hành tác tệ của mại dâm đối với trật tự xă hội, nhân cách công dân, đạo đức xă hội, v.v., là việc mà nhà nước nào, dù thần quyền hay thế tục, đều cố gắng làm tốt."

    Ông cho rằng ông Dương Trung Quốc "dường như rất vô tư đối với nội hàm làm băng hoại xă hội Việt Nam, cứ như xuất phát từ ḷng căm thù bịnh hoạn nào đó đối với chế độ hiện tại của nước này vậy".
    'Hồ đồ, xằng bậy'

    Đại biểu Hoàng Hữu Phước cũng chê trách đại biểu Dương Trung Quốc về điều mà ông gọi là "ăn nói hồ đồ và xằng bậy" khi ông Quốc cho rằng Việt Nam Cộng Ḥa là chính thể đa đảng.

    "Việt Nam Cộng Ḥa hoàn toàn không có bất kỳ đảng phái chính trị nào cả! Chỉ đến năm 1974 Nguyễn Văn Thiệu mới thành lập cái gọi là Đảng Dân Chủ," ông Phước viết.

    Điểm thứ ba, dường như là điểm tâm huyết của ông Hoàng Hữu Phước, là quan điểm của ông Dương Trung Quốc về Luật Biểu tình.

    "Đạo lư xưa nay của riêng dân Việt là dung ḥa nhuần nhuyễn giữa lư và t́nh nên luôn khoan ḥa và thiếu tính cực đoan."

    Đại biểu QH Hoàng Hữu Phước

    Bản thân ông Phước, hồi tháng 10/2011, đã đăng đàn với một bài phát biểu được soạn sẵn chỉ trích gay gắt Luật biểu tình, đề nghị Quốc Hội loại bỏ Luật lập hội và Luật biểu t́nh khỏi danh sách dự án luật suốt nhiệm kỳ.

    Ông đưa ra bốn lý do phản đối Luật biểu t́nh: thứ nhất, biểu tình bao giờ cũng chống lại chính phủ nước sở tại; thứ hai, quyền biểu tình xâm hại quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của người khác; thứ ba, Luật biểu t́nh không phản ánh nguyện vọng của nhân dân và cuối cùng, người dân Việt Nam chưa đủ trình độ dân trí để thực hiện quyền này.

    Nay ông hướng mũi dùi sang ông Dương Trung Quốc, người mà ông nói đã có hành vi "nổi nóng" khi nghe phát biểu về biểu tình của ông.

    Theo ông Phước, việc ông Quốc "nhấn nút phát biểu tiếp lần thứ hai để chống lại đại biểu Hoàng Hữu Phước, biến nghị trường quốc hội thành nơi đấu khẩu" là "chà đạp tự do ngôn luận”.

    Ông cũng không ngần ngại gọi ông Dương Trung Quốc là "hấp tấp, hiếu chiến, háo thắng".
    Văn hóa từ chức

    Điều cuối cùng mà ông Hoàng Hữu Phước chỉ trích ông Dương Trung Quốc, là việc tại kỳ họp hồi tháng 11/2012, ông Dương Trung Quốc đă phát biểu chất vấn và đặt vấn đề văn hóa từ chức với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, "người lúc đó đang phải giải quyết các sai phạm nghiêm trọng xảy ra tại các tập đoàn kinh tế Vinashin và Vinalines".

    Ông Phước viết: "Dương Trung Quốc và một bộ phận nhỏ người Việt thường đem những thứ ngoại lai làm chuẩn mực cho các so sánh với nội tại của Việt Nam mà thiếu sự hiểu biết thấu đáo, mà cái gọi là 'văn hóa từ chức' là một ví dụ".
    Ông Dương Trung Quốc


    Ông Dương Trung Quốc từng đề cập 'văn hóa từ chức' tại Quốc hội

    "Chính họ nh́n hiện tượng ở nước ngoài rồi tự đặt ra cụm từ 'văn hóa từ chức' với sự thán phục, trong khi thực ra chẳng có ǵ để mà gọi đó là 'văn hóa'".

    Ông dân biểu phân tích: "Đạo lư xưa nay của riêng dân Việt là đánh giá rất cao việc đoái công chuộc tội. Đạo lư xưa nay của riêng dân Việt là công bằng, công minh, công chính".

    "Đạo lư xưa nay của riêng dân Việt là dung ḥa nhuần nhuyễn giữa lư và t́nh nên luôn khoan ḥa và thiếu tính cực đoan."

    Ông nói việc ông Quốc "dám đem việc Vinashin và Vinalines ra để hỗn láo với Thủ tướng, làm lơ các đại công của các Bộ khác,... đều thuộc dưới quyền Thủ tướng" là "loạn ngôn".

    "Làm ǵ có cái 'văn hóa' và cái 'tinh thần trách nhiệm' trong cái gọi là 'từ chức' trong thế giới tư bản mà cứ tôn vinh, ca ngợi, và thán phục đến độ hỗn láo đem ra lập thành tích chất vấn như Dương Trung Quốc đă làm," ông Phước kết luận.

    BBC chưa liên lạc được với ông Dương Trung Quốc để hỏi phản ứng của ông trước các cáo buộc gay gắt của ông Hoàng Hữu Phước.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 9
    Last Post: 08-11-2011, 08:37 PM
  2. Replies: 13
    Last Post: 30-10-2011, 07:15 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 03-08-2011, 08:56 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 24-05-2011, 11:10 PM
  5. Replies: 5
    Last Post: 09-09-2010, 02:02 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •