Page 9 of 11 FirstFirst ... 567891011 LastLast
Results 81 to 90 of 101

Thread: Sự tàn ác của Tập Đoàn Do Thái đối với VNCH

  1. #81
    Long4ndShort
    Khách
    http://daihocsuphamsaigon.org/index....702-chinh-tr12

    HENRY KISSINGER
    Nhà ái quốc của Do thái
    Kẻ tử thù của Việt nam Cộng ḥa
    Tên phản tặc của Hoa kỳ
    Tên gia nô của cộng sản gian ác.

    Henry Kissinger, người Mỹ gốc Do thái, tiến sĩ luật khoa, giáo sư lỗi lạc của viện đại học danh tiếng Harvard. Trong thời kỳ tổng thống Nixon c̣n tại chức, ông Kissinger là cố vấn an ninh cho tổng thống, ông đă đi dàn xếp bí mật các cuộc gặp gỡ thượng đỉnh lần đầu tiên Nixon với Mao và Nixon với Brezhnev, ông cũng là người đại diện của Hoa kỳ trong ḥa đàm Ba-lê 1969-1973 họp kín riêng với Lê đức Thọ hay họp công khai chính thức.
    Tháng tư đen 1975, các thành phố Miền Nam lần lượt thất thủ, hàng triệu người Việt nam dẫm lên nhau chạy loạn, nhà cửa điêu tàn, thây nằm chật đất, máu chảy thành suối, quân dân Miền Nam cầm cự trong tuyệt vọng th́ ông tiến sĩ Henry Kissinger sốt ruột than thở:
    " sao họ không chết lẹ đi cho rồi!..." (1)

    Ông Kissinger rất ngưỡng mộ cộng sản Bắc Việt, ông cho rằng đường lối cai trị bằng công an sắt máu của Bắt Việt rất phù hợp cho Dân tộc Việt nam! (theo lời ôngWarren Nutter, nhân viên Ngũ giác đài, kể cho ông Nguyễn tiến Hưng nghe, như ghi ở trang 222, " Hồ sơ mật dinh Độc lập").
    Ông Kissinger có đủ mọi dữ kiện về các cuộc đàn áp đẫm máu của Bắc Việt, ông lại rất am tường giá trị nền dân chủ của Hoa kỳ, cho nên ông Nutter rất nghi ngờ sự trung thành của Henry Kissinger với Hoa kỳ.
    V́ vậy trong những ngày hấp hối của VNCH, chúng ta mới thấy rơ tại sao Kissinger thốt ra câu:
    " sao họ không chết lẹ đi cho rồi!..." (1)

    Uất hận trước những hành động của Kissinger, khi tổng thống Ford có thể đắc cử nhiệm kỳ 1976-1980, tôi đă gởi nhiều văn thư tố giác âm mưu của tập đoàn Ford-Kissinger đă bán Miền Nam cho cộng sản. Ford thất cử là một sự may mắn cho Hoa kỳ, và từ đó không ai dám dùng đến ông tiến sĩ gian manh nữa.
    Kể từ tháng 8 năm 1969 cho đến ngày 25-01-72 Henry Kissinger họp kín 12 lần với Lê đức Thọ.
    Ông Kissinger lợi dụng cơ hội thông đồng với giặc, ông chà đạp lên các quyết định của chính phủ Hoa kỳ và Việt nam Cộng ḥa:VNCH không hề được thông báo trước những quyết định của Kissinger trong các cuộc họp với cộng sản.
    Toàn thể phái đoàn VNCH tại Ḥa đàm Balê đă phải vô cùng vất vả mới chống lại được những nhượng bộ của Henry Kissinger cho Bắc Việt, tỷ như Kissinger đề nghị một cuộc bầu cử tổng thống ở Miền Nam với sự tham gia của Mặt trận Giải phóng Miền Nam, với điều kiện ông Thiệu phải từ chức một tháng trước khi bầu lại chính phủ tại Miền Nam, hội đồng 3 thành phần có quyền như một chính phủ trong thời gian bầu cử nầy.
    Khi đi Mạc tư khoa , chuẩn bị cuộc họp Nixon-Brezhnev, ông Nixon có dặn Kissinger rằng phải đ̣i Nga sô điều kiện tiên quyết là ḥa giải Việt nam trước tất cả mọi vấn đề khác, nhưng Kissinger không hề làm áp lực với Nga.
    Trái lại Kissinger lợi dụng mọi cơ hội để bảo vệ Bắc Việt, như y khuyên ông Nixon đừng gài ḿn hải cảng Hải pḥng sợ làm trở ngại cho cuộc họp thượng đỉnh với Brezhnev (thực ra Kissinger sợ tiềm năng chiến đấu của Bắc Việt suy giảm, không giết VNCH mau lẹ được). V́ vậy trong những ngày hấp hối của VNCH, Kissinger mới thốt ra:
    " sao họ không chết lẹ đi cho rồi!..." (1)

    Nhằm giúp Bắc Việt thôn tính Miền Nam , bắt đầu Kissinger thông đồng với Cộng sản những điều kiện vô cùng bất lợi cho VNCH, rồi tên Kissinger làm áp lực với ông Thiệu, buộc ông Thiệu phải chấp nhận những điều kiện nầy. Ngày 8 tháng 5 - 1969, quan điểm chính của Hoa kỳ là đ̣i triệt thoái quân lực song phương (Hoa kỳ và Bắc Việt rút ra khỏi Miền Nam), nhưng đến ngày 31 tháng 5 - 1971, Kissinger tự ư bỏ việc đ̣i hỏi Bắc Việt rút quân ra khỏi Miền Nam, mà chỉ có Mỹ rút đi thôi.
    Ngày 24 tháng 10 - 1972 Kissinger hẹn gặp Phạm văn Đồng tại Hà nội để kư Hiệp định sơ bộ về đ́nh chiến, với những bất lợi vô cùng cho VNCH, tỷ như cho Bắc Việt chuyển quân và vỏ khí qua vùng phi quân sự Bến hải, tại Miền Nam quân đội Bắc Việt ở nguyên tại chỗ v.v... những điều kiện nầy do chính Cộng sản soạn thảo và đă phổ biến sâu rộng cho các cán bộ học tập, một bản của tài liệu mật nầy đă bị cơ quan t́nh báo VNCH bắt được của địch lúc 5 giờ chiều ngày 17 tháng 10 - 1972 tại chính ủy tỉnh Quảng tín. Tài liệu nầy mang tựa đề là: "chỉ dẫn tổng quát về ngưng chiến". Tài liệu nầy c̣n hoạch định tỉ mỉ 3 giai đoạn đấu tranh đem thắng lợi cho Cộng sản dựa trên các điều khoản y hệt của Hiệp định sơ bộ mà Henry Kissinger sắp kư kết với Phạm văn Đồng.
    Để thực hiện gian kế đó, ngày 18 tháng 10 - 1972 Kissinger đến Saigon hối thúc ông Thiệu phê chuẩn bản dự thảo Hiệp định sơ bộ nầy với tất cả những sự đe dọa ghê rợn như sẽ cúp hẳn viện trợ, hay ám sát ông ta nếu ông ta không chịu phê chuẩn. Ông Thiệu khôn khéo hứa nghiên cứu bản dự thảo nầy, và tránh né không gặp Kissinger sau đó.
    Kissinger c̣n trổ tài là một tên ma cô ma cạo, để mua chuộc Hoàng đức Nhă khuyên ông Thiệu kư vào Hiệp định sơ bộ, Kissinger dụ khị nếu Nhă giúp được y sẽ đưa Nhă đi chơi bời ở Hollywood với loại "poule de luxe" ghi địa chỉ trong cuốn sổ tay màu đen của y. Thật dơ dáy bẩn thỉu cho tên "giáo sư lỗi lạc đại học Harvard", tư cách truyền thống Do thái côn đồ đă bộc lộ trong việc sĩ nhục dùng phương tiện lưu manh đỉ điếm chỉ cốt đạt được thỏa hiệp giúp Việt cộng chiếm mau chóng Miền Nam.
    Đến ngày 22 tháng 10 - 1972 ông Thiệu từ chối, không kư vào bản dự thảo. Kissinger hằn học, cụp đuôi, bỏ về. Rồi khi đến Bangkok y c̣n xin tổng thống Nixon cho y cứ đi Hà nội (cốt để giải tỏa với họ Phạm mưu gian đôi bên chưa dàn xếp được), nhưng ông Nixon bảo y về Mỹ. Bị kư hụt Hiệp định sơ bộ, Phạm văn Đồng cay cú, tưởng bị Kissinger lừa, liền cho phổ biến toàn thể bản hiệp định hụt nầy trên đài phát thanh Hà nội ngày 23 tháng 10 -1972. Như vậy rơ ràng bọn cộng sản trong cơn bực tức đă công khai tố cáo âm mưu của thằng giặc Do thái đă đồng lỏa thỏa thuận với chúng. Âm mưu của gian tặc tạm thời chưa thực hành ngay được. Cũng v́ vậy trong những ngày hấp hối của VNCH, Kissinger mới thốt ra tự đáy ḷng
    " sao họ không chết lẹ đi cho rồi!..." (1)

    Nhằm giao Miền Nam cho cộng sản để đổi lấy Ai-cập, tên Kissinger c̣n âm mưu đoạt 6 chiếc tàu chở đạn dượt cho VNCH ngày 27 tháng 1 - 1973 buộc họ phải chở số đạn nầy đến Do thái.
    Viện trợ bị tước đoạt, đồng minh rút đi hết, quân dân Việt nam Cộng ḥa tự lực ra sức bảo vệ tổ quốc và anh dũng loại trừ ảnh hưởng của Việt cộng từng thôn ấp từ Bến hải đến Cà mau; cán binh cộng sản hoàn toàn mất tinh thần như ở cuộc họp Chủ lực Trung ương tháng 4 -1973 tại Hà nội có mặt Phạm Hùng, Mười Cúc (Nguyễn văn Linh), Mười Khang (đại tướng Hoàng văn Thái), Hai hậu (trung tướng Trần nam Trung), Sáu Dân (Vơ văn Kiệt), Năm Công (Vơ chí Công), tướng Chu huy Mân, tướng Hoàng minh Thảo ... trong cuộc họp nầy theo hồi kư "Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm" trung tướng Trần văn Trà, tư lệnh Mặt trận Giải phóng Miền Nam, đă ghi rơ:
    "Tôi c̣n nhớ nhiều câu hỏi của nhiều đồng chí cán bộ ở các chiến trường nêu lên: "Vừa qua là quá tŕnh là Mỹ thua nhưng cũng là quá tŕnh ngụy quyền tồn tại và mạnh lên, cả về chính quyền, về quân đội và về kinh tế ..." (trang 51 quyển 5).
    Cho nên cách duy nhất để yểm trợ Bắc Việt chém giết được Miền Nam là vào tháng 6 - 1973, Kissinger lại làm áp lực để VNCH chấp nhận nốt khoản Bắc Việt được tự do chuyển quân qua vùng phi quân sự, nằm trong thông cáo chung Mỹ - Bắc Việt.
    Theo mưu lược bí mật của những phái đoàn quân sự Do thái đă điều nghiên nhiều lần tại chỗ từ 1960 đến 1971 th́ Ban mê thuột là nhược điểm của ta, cho nên Kissinger bày kế riêng cho Lê đức Thọ thi hành. Trong quyển "Đại thắng mùa xuân" đại tướng Bắc Việt tư lệnh chiến dịch Hồ chí Minh 1975 đánh chiếm Miền Nam là Văn tiến Dũng ghi lại cuộc họp vào tháng 1-1975 tại Hà nội :
    " Cuộc họp vừa bắt đầu th́ đồng chí Lê đức Thọ bất ngờ mở cửa vào và ngồi họp với chúng tôi. Sau chúng tôi hiểu rằng Bộ Chính trị chưa thật yên tâm v́ thấy ư định đánh Ban mê thuột chưa thể hiện rơ ràng trong kế hoạch tác chiến, cho nên cử đồng chí Lê đức Thọ đến tham gia ư kiến với chúng tôi là nhất quyết phải đánh Ban mê thuột".
    Cũng trong cuộc họp nầy, tướng Trần văn Trà ghi chỉ thị của Lê đức Thọ:
    "quyết tâm của Bộ Chính trị là đánh Ban mê thuột. Chỉ chấp hành lịnh không thảo luận ǵ cả".
    Cả hai cuốn sách của 2 tướng Dũng và Trà đều bị Bộ Chính trị ra lệnh tịch thu ngay khi mới vừa phát hành.
    Phải triệt hạ tổng thống Nixon mới giết Miền Nam được, gian tặc Do thái gài ông vào vụ tai tiếng Watergate do chúng tạo ra để hại ông. Và ông Nixon phải từ chức.
    Ông Gerald Ford lên làm tổng thống. Con thỏ đế nầy lúc nào cũng bị Kissinger hăm dọa; khi Ford muốn oanh tạc bằng B52 theo lời yêu cầu của VNCH để trả đủa sự vi phạm hiệp định Ba lê, nhưng khi Ford nghe Kissinger nói sẽ có biểu t́nh phản đối của dân chúng Mỹ nếu dùng B52, Ford vội bịt mắt, rút cổ, để mặc VNCH cho cộng sản giết. Nhằm chạy tội, Kissinger c̣n bày cho Ford đọc diễn văntrút trách nhiệm thua trận cho quốc hội Hoa kỳ v́ quốc hội không chịu chuẩn chi viện trợ thêm cho VNCH. Trên thực tế mụ Do thái Bella Azburg, trưởng phái đoàn quốc hội Hoa kỳ qua Việt nam khảo sát t́nh h́nh tại chỗ đă đ̣i thả hết tù Việt cộng ra, cả phái đoàn quốc hội nầy chỉ làm theo sự điều khiển của gian tặc vụ lợi, đi soi mói VNCH cốt vạch lá t́m sâu, nêu lên tất cả mọi lỗi lầm, tệ hại, thối nát để chấm dứt viện trợ. Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng tháng tư 75, chúng ta phải hiểu đó là bọn chúng dự mưu thẳng tay giết chúng ta. Kết quả chúng ta không được 1 đồng xu viện trợ, Hoa kỳ không yểm trợ bằng B52, không có thêm vũ khí mà quân đội ta cầm cự vô cùng dũng mănh; trong lúc cộng sản Nga Tàu viện trợ cho Việt cộng 4 tỷ mỹ kim mỗi năm.
    Cho nên trong những ngày dài hấp hối của VNCH, tên tởm Kissinger mới thốt ra:
    " sao họ không chết lẹ đi cho rồi!..." (1)

    Khi t́m cách giết VNCH, tên lưu manh đă đâm dao sau lưng các chiến sĩ Hoa kỳ đă tận tụy hy sinh trong cuộc chiến chống cường tặc cộng sản. Kissinger c̣n lường gạt quốc hội Hoa kỳ khi y khai với quốc hội rằng không hề có cam kết nào của tổng thống Nixon với VNCH. Nhưng những văn kiện rơ ràng do tổng thống Nixon kư, và chỉ được tiết lộ sau khi VNCH mất mới chứng minh được sự gian trá và lật lọng của tên tổ sư lưu manh Henry Kissinger.
    Đầu năm 1975 vua Fayal Á rập đồng ư cho VNCH vay 3 tỷ mỹ kim, ông liền bị Do thái cho một tên điên hạ sát.
    Với những sự lường gạt, hành vi bất chánh, mưu đồ tàn độc đâm dao sau lưng quân đội và nhân dân Hoa kỳ, lừa bịp và bóc lột nhiều dân tộc khác trên thế giới, Henry Kissinger và bè lũ đă chứng tỏ dân tộc Do thái là kẻ thù của NHÂN LOẠI, đó là tội phạm nặng nhất của chúng.
    Tên tổng chỉ huy trưởng của chiến dịch Hồ chí Minh đánh chiếm Miền Nam năm 1975 là Lê đức Thọ, tại cục R y cho lệnh đánh chiếm Phước Long trước tiên để ḍ phản ứng của Hoa kỳ. Và dĩ nhiên Hoa kỳ làm ngơ. Sự thông gian của y với ngoại trưởng Kissinger thật quá rơ ràng.
    Ông Von Marbod, đại diện bộ quốc pḥng Hoa kỳ tới Saigon ngày 23 tháng 4 - 1975, khi ông đi xem mặt trận Xuân lộc đă kể lại:
    "Khi trông thấy có binh sĩ VNCH đă bị mất một chân mà vẫn c̣n anh dũng chỉa súng về phía vị trí địch để bắn trả, tôi bùi ngùi vô hạn và xấu hổ cho nước tôi! ...".
    Khi toàn quân toàn dân ta liều ḿnh diệt địch, cầm cự bảo vệ từng tấc đất cho chính nghĩa tự do, th́ tên đầu sỏ gian manh phản tặc lại lo sợ chúng ta sẽ thắng cộng sản, và rồi ra cộng sản sẽ hết tin nó, nên mới thốt ra:
    " sao họ không chết lẹ đi cho rồi!Điều tệ nhất là họ cứ sống dai dẳng hoài..." (1)
    Đó là lời than của tên Do thái đốn mạt, côn đồ phản tặc có tên là Henry Kissinger, trưởng phái đoàn Hoa kỳ tại Ḥa đàm Ba lê 1973!
    Hành động của Henry Kissinger là hành động tiêu biểu của dân tộc Do thái khát máu, độc hại vong ân bội nghĩa: nhằm gây chia rẽ giữa Hoa kỳ và các dân tộc khác để trục lợi, cơ quan mật vụ Mossad Do thái nằm vùng trong các tổ chức khủng bố và ám toán không biết bao nhiêu nhân viên và binh sĩ Hoa kỳ rồi đổ tội lên đầu những tổ chức đó, trong lúc nhờ Hoa kỳ mà bọn Do thái có được một quốc gia sau hơn hai ngàn sáu trăm năm (2600) lưu lạc đọa đày v́ bản tính gian ác của chúng.
    Được biết nhiều thành viên ủy ban Nobel uất ức xin từ chức v́ sự cấp giải Nobel Ḥa b́nh cho hai tên đồ tể Lê đức Thọ và Kissinger, năm 1986 tôi xin thủ tướng Thụy điển là ông O'Palme thu hồi giải thưởng Nobel nầy. Chưa hành động kịp, ông O'Palme liền bị Do thái ám sát chết ngay.
    Dù chúng có ém nhẹm tới đâu, tội trạng của dân tộc ác quỉ đó trước sau ǵ cũng sẽ được phơi bày trước công luận thế giới.
    Hành động của chúng ta là tất yếu, tất thắng.

  2. #82
    Long4ndShort
    Khách
    http://dannam.org/Blog/?p=721

    YẾU TỐ DO THÁI

    Nguyên Trân

    Yếu tố Do Thái bao phủ hầu hết các biến cố lịch sử trên thế giới

    Dân số DT hiện nay là 13,155,000, tại Israel 5,393,000, tại HK 6,444,000, c̣n lại tản mát khắp thế giới.


    Năm 586 TK (trước Kitô) họ bị đuổi khỏi Palestine, chạy sang Babylon, hấp thụ huyền học bản xứ và của Ai Cập, Hy Lạp thêm chiêm tinh học, h́nh học huyền bí, thần số học (numerology) vào bộ Talmud là bộ luận diễn dịch kinh thánh Torah, soạn thành bộ Kabbalah (1).

    Bộ Talmud gồm khoảng 650 sách và bộ Kabbalah gồm khoảng 550 sách.

    Kabbalah dạy: Trong lúc tạo thiên lập địa, Chúa bị hỗn loạn tâm thần, rút vào bên trong (nội tâm?). Đó là phần kết thành “tinh hoa cứu thế” của ngài. Phần này rơi từ trời xuống vực thẳm không đáy, nơi đó nó biến h́nh thành “Thánh Xà” (the Holy Serpent). Phần kia là nữ tính gọi là “Sophia” phụ trách trí huệ (wisdom). Chỉ có 2 cách đưa được Thánh Xà bị giam dưới vực không đáy lên mặt đất để đóng vai Chúa Cứu Thế. Một là làm cho mọi người trên thế gian toàn thiện, hai là làm cho họ toàn ác. Solomon cho rằng làm cho họ ác dễ hơn là thiện. Do đó người DT theo Kabbalah cho rằng càng làm ác và giúp người khác làm ác nhiều bao nhiêu th́ càng phụng sự Chúa bấy nhiêu.

    Vài trích đoạn từ Thánh Kinh của Do Thái giáo cho thấy những khẳng định trên đây là có căn cứ.

    Theo Talmud, người DT có tinh thần độc tôn:


    Chỉ người DT mới gọi là người, những người không phải là DT (goyim) gọi là súc vật (Baba Batra 114b, Jebamot 61a, Keritot 6b and 7a).

    Nếu một người không phải là DT giết một người không phải là DT hay một người dân Israel th́ hắn sẽ bị phạt. Nhưng nếu một dân Israel giết một người không phải là DT th́ không thể áp dụng án tử h́nh (Sanhedrin 57a).

    Nhân loại được ban phép lành chỉ v́ người DT (Jebamot 63a).

    Tất cả người DT sinh ra đều là con vua (Shabbat 67a).

    Người DT c̣n đẹp ḷng Chúa hơn cả thiên thần (Chullin 91b).

    Tài sản của các người không phải là DT giống như băi sa mạc vô chủ, ai chiếm được th́ có quyền sở hữu (Baba Batra 54b).

    Một đoạn trong Cựu Ước cho thấy hiếu chiến và hiếu sát là dân tộc tính DT:

    Đoạn, dân I-sơ-ra-ên trở lại đánh người Bên-gia-min, dùng gươm giết hết thảy người ta ở trong thành, súc vật và hết thảy vật nào gặp được; lại hễ gặp thành nào th́ châm lửa đốt nó (Các sách về lịch sử, đoạn Các Quan Xét 20:48).


    Tác giả DT Heinrich Heine (Chaim Budeburg), một Tam Điểm, phải công nhận rằng “DT giáo không hề là một tôn giáo, nó là một đại họa“. Trong lịch sử, người DT đă từng phạm bao nhiêu lần tội diệt chủng, như năm 116 tại các tỉnh miền đông đế quốc La Mă, trong một cuộc nổi loạn dân DT tra tấn, hành hạ dă man rồi giết hết đàn bà, trẻ con, nhất là ở thành phố Cyrene và tỉnh Cyrenaica (bây giờ là Lybia) và tại Cyprus, kinh khủng nhất là ở thủ đô Salamis. Riêng tại Cyrenaica, người DT giết 220,000 người La Mă và Hy Lạp, trên đảo Cyprus tướng DT Artemion chỉ huy quân giết 240,000 người. Sử gia Dio Cassius thuật lại rằng người DT ăn thịt nạn nhân và lấy máu họ bôi lên người (William Douglas Morrison, “The Jews Under Roman Rule”, London and New York, 1890, pp. 191-193). Hoàng đế La Mă Marcus Ulpius Traianus (53-117) phải phái quân đến mới chấm dứt được cuộc tàn sát. Tại Ai Cập, người DT giết người một cách tàn bạo nhất. Năm 517 người DT do Joseph (Jussuf) Mashrak Dhu Nuwas lănh đạo chiếm bắc Himyar nay thuộc Ả Rập Saudi, tận diệt người Kitô giáo và ngoại đạo (gentile) trong vùng và bắt họ nhận DT giáo làm quốc giáo. Tháng 5.525, liên quân từ Byzantium, Arabia và Aksum (Ethiopia) tiến vào , lật đổ và giết Dhu Nuwas.

    Chỉ một câu của triết gia vô chính phủ Nga Mikhail Bakunin (1814-1876) đủ nói lên đặc tinh DT:

    “Trong tất cả các chúa lành con người thờ phụng, Yahweh là vị chúa cả ghen, kiêu căng, độc ác, bất công, khát máu, độc tài và ác cảm với nhân phẩm và tự do của con người nhất… Một sếp (boss) trên trời là cái cớ tốt nhất cho một sếp dưới đất, do đó nếu Thượng đế có thật, ngài cần phải bị hủy diệt”.

    Chúa ấy chủ trương “Đức Giê-hô-va phán: Các ngươi khá đợi ta cho đến ngày ta sẽ dấy lên đặng cướp bắt; v́ ta đă định thâu góp các dân tộc và nhóm hiệp các nước, hầu cho ta đổ sự thạnh nộ và cả sự nóng giận ta trên chúng nó, v́ tất cả đất sẽ bị nuốt bởi lửa ghen ta” (Sách của Sô Phô Ni 3:8).

    Dân DT là dân buôn bán, đổi tiền. “Đức Chúa Jêsus vào đền thờ, đuổi hết kẻ bán người mua ở đó, đổ bàn của người đổi bạc… phán cùng họ rằng: Nhà ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện; nhưng các ngươi th́ làm cho nhà ấy thành ra ổ trộm cướp” (Ma-thi-ơ 21:12).

    Tóm lại, từ xa xưa dân DT đă nuôi dưỡng ư đồ thành lập một thế giới không biên cương và dùng tiền lời cho vay lăi làm vũ khí để lũng đoạn và thống trị thế giới ấy. Dân DT bị Chúa phạt lang bạt kỳ hồ, thành vô tổ quốc, rất thích hợp với các chủ nghĩa quốc tế (internationalism). Họ không sáng lập, phát huy th́ cũng tham gia, ủng hộ các phong trào quốc tế hay chính sách toàn cầu (globalism)

    Từ tk XI đến tk XIV, người DT bỏ Babylon và Ba Tư sang Bắc Phi, Tây Ban Nha, Anh. Năm 1290 họ bị vua Anh Edward I (1272-1307) đuổi phải chạy sang Ḥa Lan. Năm 1198 GH La Mă lập ra một ủy ban để truy lùng và xét xử những kẻ ngoại đạo, từ 1391 Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cưỡng bách hàng ngàn người DT phải theo Công giáo tuy họ vẫn ngấm ngầm thực hành DT giáo, theo và dạy con cái Talmud và Kabbalah. Họ được đặt tên là “marrano”. Năm 1483 Pháp Đ́nh Thánh (Holy Inquisition) được chính thức thành lập do marrano Tomas Torquemada (1420-1498) điều khiển, sát hại hàng ngàn người nam phụ lăo ấu, đầy nhiều người làm nô lệ chèo thuyền (galère). Năm 1492 các marrano thành lập hội kín Alumbrado (2). Hội này bị nữ hoàng Isabella I (1451-1504) ngoan đạo, nên được gọi là “Isabel la Catolica”, đuổi phải chạy sang Ḥa Lan. Sau 1530, nhiều marrano chạy sang cả Anh, Pháp, đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), Ba Tây và nhiều nơi khác ở Bắc, Nam Mỹ Châu sinh cơ lập nghiệp và trở nên rất giầu có, vẫn giữ DT giáo.

    Năm 1590 các marrano Ḥa Lan nhập với nhóm marrano mới tới thủ đô Amsterdam thành một cộng đồng DT lớn nhất, năm 1615 được triều đ́nh công nhận và thủ đô Amsterdam có tên là “Jerusalem Ḥa Lan”. Năm 1623 một số marrano theo Alumbrado sang Pháp lập ra hội kín Guerient (3), đến 1722 đổi thành Illuminati. Cũng vào tk XVII, nhiều marrino tái nhập Luân Đôn thành một cộng đồng lănh đạo bởi DT Bồ Đào Nha Antonio Fernadez Carjaval (1590-1659). Carjaval tỵ nạn tôn giáo pháp đ́nh sang Anh, làm giầu nhờ kinh doanh từ thuốc súng đến rượu vang, da thú, họa phẩm, cánh kiến, nhất là bắp và bạc với vùng Levant (Cận Đông), Đông Ấn, Tây Ấn, quần đảo Canary, Ba Tây, Ḥa Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Từ 1655, con gái marrino kết hôn với thanh niên quí tộc Anh, họ leo cao dần trong giới quí phái.

    Ba giai đoạn nội chiến Anh từ 1641 đến 1652 là cơ hội cho Oliver Cromwell (1599-1658) nổi lên làm tướng quân (lord) Bảo vệ Cộng ḥa Anh. Tháng 10.1651, ông kư Luật Hàng Hải để lôi kéo các cự phú DT ở Amsterdam sang Luân Đôn, nhưng chiến tranh Anh-Ḥa Lan 1652-1654 khiến việc này không thành.

    Năm 1491, một năm trước khi Alumbrado được thành lập, sáng tổ Ḍng Tên San Ignacio de Loyola (thánh Y Nhă) ra đời tại tỉnh Guipuzcoa, vùng Basques, Tây Ban Nha, cha mẹ là Marrano. Gốc tích DT ảnh hưởng lên tư tưởng của thánh Y Nhă, do đó lên Ḍng Tên.

    Ông tổ Nhà Rothschild, Mayer Amschel Bauer, là DT ở Frankfurt, Đức, năm 1763 đổi tên là Mayer Amschel Rothschild. Đúng vào năm ấy, lănh đạo Kabbalah là DT Ba Lan Jakob Frank Leibowicz dọn đến sinh sống tại thành phố Offenbach, phía nam Frankfurt, ăn chơi đàng điếm, tự xưng là Chúa Cứu Thế, bài bác luân lư… Tuy thế tư tưởng của Leibowicz cũng thành chủ thuyết Frankism, ảnh hưởng lên ông tổ Cọng Sản DT Karl Marx.

    DT Johann Adam Weishaupt ngoài mặt theo Công giáo, học ở tu viện Ḍng Tên đến năm 1773, 25 tuổi, bỏ Ḍng Tên, ngày 1.5.1776 thành lập Đắc Quang (từ nay xin viết tắt là ĐQ) tại miền nam nước Đức, dưới sự hướng dẫn của Tam Điểm DT Moses Mendelssohn (1729-1786).

    Có thuyết cho rằng Mayer Amschel Rothschild tài trợ cho Weishaupt trong khi Jakob Frank Leibowicz giúp Weishaupt nền móng Kabbalah và Ḍng Tên cung cấp cấu trúc tổ chức để thành lập ĐQ, tất cả đều là DT vốn là cựu thù của GH Công giáo La Mă. T́nh cảm của Công giáo đối với DT được thánh Thomas Aquinas thu gọn vào một câu: “V́ các trọng tội của họ [không theo Kitô giáo], giữ DT làm nô dịch vĩnh viễn là hợp pháp, do đó các vị chúa tể có thể coi những sở hữu người DT như thuộc về Quốc gia” (De Regimine Judaeorum).

    David Rivera diễn tả nguyên nhân của ác cảm này: “Dường như vai tṛ của ĐQ là hoạt động như một yếu tố pha loăng để làm giảm tác động của Kitô giáo bằng khoan dung và về mặt chính trị để tiến tới những mục tiêu do ĐQ đề ra (Final Warning: A History of the New World Order Illuminism and the master plan for world domination. 1994)”.

    Nói đến ĐQ là nói đến DT. John Daniel giải thích việc ĐQ/DT lợi dụng mọi t́nh thế: “Không có biệt lệ nào, mỗi diễn viên chính trong Cách Mạng Pháp hoặc do Ḍng Tên giáo dục, là một giám mục Công giáo, hoặc một thành viên của ḍng ĐQ [một tổ chức ngoại vi của Ḍng Tên] trong đó, núp sau Nhóm Jacobin, họ tụ tập để âm mưu và tiến hành “Đại Cuộc”– mà hệ thống công khai của Jacobin là phản ảnh của hệ thống hoàn toàn ẩn nặc của ĐQ – và đằng sau ĐQ là những “sư phụ” Ḍng Tên lánh mặt (The Grand Design Exposed, 212, 213)”.

    Sư tổ Ḍng Tên cũng là DT. Rick Martin cũng đi đến kết luận là tất cả đều do Ḍng Tên chủ xướng:

    Ngày 1.5.1776, Ḍng ĐQ được thành lập tại Batavia thành tŕ kiên cố từ lâu của Ḍng Tên. Ḍng dùng Nhà Rothschild DT để tài trợ Cách Mạng Pháp và việc nổi lên của TĐ Nă Phá Luân cùng với cố vấn được Ḍng Tên huấn luyện, tu viện trưởng Sieyes. Mặc dầu có những bài viết lịch sử của tu viện trưởng Ḍng Tên Barruel, đổ tội cho Nhà Rothschild và TĐ về Cách Mạng, chính Ḍng Tên đă dùng họ làm dụng cụ để thực hiện Cách Mạng và phạt các quân vương đă dám đuổi Ḍng Tên khỏi lănh địa của họ. Các tu sĩ Ḍng Tên bị đuổi khỏi Đế quốc Tây Ban Nha (4) sang ẩn náu ở Corsica. Từ đấy họ tôn người báo oán vĩ đại cho họ, Napoleon Bonaparte (The Most Powerful Man in the World? trong The Spectrum tháng 5.2000).

    Như vậy ngoài DT chính thống là một chủng tộc gần với chủng tộc Ả Rập, da ngăm ngăm đen, mắt đen, tóc đen, nói tiếng Hy Bá Lai là thứ tiếng gần giống tiếng Ả Rập, theo Do Thái giáo sinh sống trên đất Palestine 2000 năm trước đây, c̣n có DT Marrano, và sau này sẽ thấy, DT Khazar và DT Ashkenazi. V́ thế đừng lấy làm lạ khi thấy DT diệt DT. Thí dụ điển h́nh là trường hợp Hitler.

    Adolf Hitler (1889-1945) là DT, thứ DT Ashkenazi. Năm 1940, Hansjurgen Koehler tiết lộ: “Một đứa con gái nhỏ… từ Vienna đến làm tỳ nữ… tại dinh thự Rothschild… và ông nội vô danh của Hitler có lẽ phải t́m trong cái nhà nguy nga này” (Inside The Gestapo). Walter Langer khẳng định: “Cha của Adolf, Alois Hitler [1837-1903], là con ngoại hôn của Maria Anna Schicklgruber [1795-1847]…Maria Anna Schicklgruber sống ở Vienna trong thời gian bà thụ thai. Khi đó bà làm tỳ nữ trong nhà của nam tước Rothschild. Khi gia đ́nh khám phá ra bà có thai, bà bị đuổi về quê… nơi đó Alois ra đời”(The Mind Of Hitler).

    Hitler là độc tài cực hữu, Cộng Sản độc tài cực tả. Cả hai thái cực này đếu là sản phẩm của DT. Sau khi xâm lăng Nga vào tháng 6.1941, Hitler đổi chính sách trục xuất DT thành tiêu diệt DT, dội bom bừa băi vào khu dân cư với mục đích diệt chủng. Chính Hitler nhận định rằng Cộng Sản Nga là một “hiện tượng DT”. Vấn đề này sẽ được bàn đến vào dịp khác. Sự kiện Cộng Sản là một hiện tượng DT giúp hiểu được nhiều diễn biến quan trọng trên thế giới. Thế Chiến II kết thúc với nguyên thủ 3 siêu cường (Tàu và Pháp chỉ ăn ké), Winston Churchill (Anh), Franklin Delano Roosevelt (Mỹ), Joseph Stalin (Nga), cả ba đều là DT, tuy nguồn gốc của các vị vẫn c̣n nhiều tranh luận.

    Ngày 8.4.2007, DavidB mở đầu bài “Churchill’s Jewish Ancestry – Not!”: “Cái mà tôi muốn thảo luận là việc chính Churchill nhận có tổ tiên DT về phía mẹ ông. Theo một bức thư của Mark Corby trên tờ Times ở Luân Đôn ngày 22.3 ‘mẹ ông Jenny Jacobson/Jerome là một DT New York, như Moshe Kohn đă vạch ra trong một bài trên báo Jerusalem Post ngày 18.1.1883′. Nhưng thư ngày 26.3 của David Watson bác khước việc này, cho rằng tổ tiên Mỹ của Churchill có thể lần lên đến tk XVIII không có dấu hiệu ‘Jacobson’ nào”.

    Thân mẫu Winston Churchill, nhũ danh Jenny Jacobson (1854-1921), sinh tại Brooklyn, N.Y., con của Walter Jacobson (sau đổi là Jerome), một triệu phú ở New York, bạn thân với August Belmont tức Schoenberg, thừa sai của Nhà Rothschild. Tháng 4.1874 thân phụ của bà trả cho Lord Randolf Churchill (1849-1895) một số tiền tương đương US$ 2.5 triệu ngày nay để cưới bà lúc đó đang mang thai, 7 tháng sau Winston ra đời. Năm 19 tuổi Jenny gặp và thành nhân t́nh của vua Edward VII từ 1873 đến 1892. Bà có nhiều nhân t́nh, có người nói đến 220 người, nổi tiếng nhất là hoàng tử Wales, bá tước Kinsky, vua Milan. Năm 1880 bà sanh Jack. Bố của Jack là đại tá John Strange Jocelyn. Năm 1895 Randolph chết, bà gửi gắm Winston cho Disrael và Baruch. Trong Thế Chiến I Winston Churchill thành First Lord of the Admiralty, tương đương đề đốc bộ trưởng Hải Quân Anh, vừa bất tài vừa vô trách nhiệm, năm 1915 đại bại trong trận Gallipoli với Thổ Nhĩ Kỳ, nướng trên 100,000 quân Anh, phải xin từ chức, quay về nghề viết báo.

    Các DT như Nhà Rothschild và Sir Ernest Cassel giúp ông tiến thân nên ông công khai lên án phong trào bài Do Thái thịnh hành trong giới thượng lưu Anh lúc bấy giờ. Năm 1938, Churchill 64 tuối tuy ở trong dinh thự nguy nga Chartwell nhưng rất túng thiếu, được triệu phú DT Sir Henry Strakosch cho vay 150,000 bảng để khỏi bị xiết nhà. Một phần v́ thế dư luận càng cho rằng ông có máu DT.

    Ở đây không có chỗ để tŕnh bầy kỹ về nghi vấn này vả lại cũng không quan trọng mấy. Quan trọng hơn là nguồn gốc DT của Franklin Delano Roosevelt (FDR 1882-1945).

    Gia phả của FDR có thể lần ngược lên đến DT Rossocampo, bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha năm 1620 sang Đức, Ḥa Lan và nhiều nước khác, đổi tên thành Rosenberg, Rosenbaum, Rosenblum, Rosenthal, Rosenvelt (vườn hồng) và cuối cùng Roosevelt. Nhà Roosevelt ở Bắc Ḥa Lan đến đời thứ tư là Jacobus Roosevelt có cửa hàng bán lẻ là người duy nhất c̣n theo truyền thống DT thuần thành.

    Theo Paul Haber, Claes Rosenvelt buôn vải, làm giầu ở New York, đổi tên là Nicholas Roosevelt, năm 1682 lập gia đ́nh có 4 con, trong số ấy Nicholas cưới Sarah Solomons, Jacobus cưới Catherina Hardenburg, Isaac thành nhà tư bản, thành lập Bank of New York năm 1790 (The House of Roosevelt. 1936).

    Thân mẫu FDR là Sarah Delano, con của Warren Delano II làm giầu nhờ buôn thuốc phiện bán cho Tàu. Nhà Delano gốc từ một gia đ́nh DT Tây Ban Nha hay Ư Dilano, Dilan, Dillano, tổ tiên Philippe de la Noye (sau đổi là Delano) là một trong những người đáp tàu Mayflower đến Mỹ năm 1621.

    Về ư thức hệ Cọng Sản của FDR, ngược ḍng gia phả của ông th́ thấy ông tổ Clinton Roosevelt (1804-1898) là tác giả cuốn sách nhỏ “Science Of Government Founded On Natural Law” (Dean & Trevett, NY) dựa trên giáo thuyết của Adam Weishaupt, sáng tổ Đắc Quang. Cuốn sách này soi sáng cho Karl Marx để viết ra Tuyên Ngôn Cọng Sản (Manifest der Kommunistichen Partei) năm 1848. Chính Clinton Roosevelt và DT Horace Greeley, chủ nhân tờ báo quốc gia đầu tiên New York Tribune, tài trợ việc in ấn bản Tuyên Ngôn Cộng Sản ở Luân Đôn năm 1849. Greeley c̣n cho Marx vào ban biên tập tờ báo để ăn lương. Các DT Stepney và Engels cũng đóng góp tài chánh. FDR dựa vào tất cả những tài liệu đó để lập thuyết New Deal.

    FDR mắc bệnh polio khi đang là thứ trưởng Bộ Hải Quân và phải ngồi xe lăn từ đó. Năm 1928, nhờ tiền và phiếu của cử tri DT, ông đắc cử thống đốc New York, rồi sau đó liên tiếp đắc cử TT 4 lần (1933-1945) cho đến chết, tiếp tục thi hành chương tŕnh Mác xít do tiền nhiệm TT Herbert Hoover (1929-1933) khởi xướng, với sự cộng tác của các Bolshevik DT như Benjamin Cohen, Felix Frankfurter, Brandeis, Bernard Baruch, David Lilienthal, David Niles, Anna Rosenberg, Sidney Hillman, David Dubinsky, Samuel Rosenman (tác giả của từ ngữ New Deal nên có người gọi là Jew Deal). Một số DT khác được bổ nhiệm vào những chức vụ quan trọng: Henry Morgenthau Jr. (bộ trưởng Ngân Khố), Mordecai Ezekiel (bộ Canh Nông), Charles Wyzanski (bộ Lao Động), Isador Lubin (Sở Thống Kê Lao Động), David Niles và Joe Rauh (Thiểu số sự vụ, ṭa Bạch Ốc). Giáo sĩ DT Stephen Wise và con gái Justine Polier là bạn thân của Franklin và Eleanor Roosevelt. Ông bổ nhiệm DT William C. Bullit làm đại sứ HK đầu tiên tại LBXV. Bullit trước đă làm đặc phái viên của TT Woodwrow Wilson (1913-1921) bên cạnh Lenin, đóng một vai quan trọng trong Thế Chiến II.

    Một năm sau ông vào Nhà Trắng, cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ tại tb New York (1934), nơi Đảng Cọng Sản HK mạnh nhất nhờ số đông DT Nga sang định cư.

    Đầu năm 1934 cựu thống đốc Michigan Chase S. Osborn tuyên bố trong cuộc phỏng vấn của tờ Times ở St. Petersburg, Florida: “Do tổ tiên là DT, TT Roosevelt có khuynh hướng cẩn trọng kinh tế trong huyết quản… Ông không phải là một người trong chúng ta. Điều này cũng giải thích tại sao ông không mấy coi quan trọng lời nói danh dự và không ngần ngại thất hứa… V́ thế, việc đầu tiên ông làm sau khi nhậm chức TT là mời Finklestein tức Litvinoff đến Nhà Trắng để lập quan hệ ngoại giao với chế độ độc tài DT tại Mạc Tư Khoa. V́ thế, ông bổ nhiệm các đại sứ DT tại các nhiệm sở ngoại giao chiến lược như Paris, Stockholm và Moscow. V́ thế, Bernard Baruch sau này được gọi là ‘TT HK không chính thức’. V́ thế, một siêu nội các gọi là ‘Brain Trust’, một tổ chức gồm những người được chỉ định đa số là những nhà trí thức DT đầy quyến lực, được thành lập để cướp quyền các thế lực hiến định của các nhà lập pháp được bầu ra hợp pháp của chúng ta”.

    Bộ trưởng Quốc Pḥng James Forrestal viết trong nhật kư: “Hôm nay chơi golf với Joe Kennedy, hỏi ông về cuộc đàm thoại của ông với Roosevelt và Neville Chamberlain từ 1938 về sau. Ông bảo lập trường của Chamberlain năm 1938 là Anh không có việc ǵ để phải lâm chiến và không thể phiêu lưu gây chiến với Hitler. Quan điểm của Kennedy: Hitler có thể đánh Nga mà không gây hấn với Anh nếu không có Bullitt thúc giục Roosevelt vào mùa hè 1939… Bullitt nói măi với Roosevelt rằng Đức không đánh; Kennedy bảo Đức sẽ đánh và lật đổ Âu Châu. Chamberlain bảo rằng Mỹ và DT quốc tế đă ép Anh tham chiến (The Forrestal Diaries, 1951, Viking).

    Chính sách New Deal của FDR làm dân chúng bất măn, kinh phí chính phủ tăng 83%, giá vàng tăng gấp đôi, ngân hàng đóng cửa hàng loạt, trẻ con đi moi thức ăn ở thùng rác, ṭa Bạch Ốc biến thành ổ điếm, TT th́ bồ bịch lung tung, đệ nhất phu nhân đồng tính luyến ái lộ liễu. FDR khó tái đắc cử nên khi chính trị gia có uy tín Huey Long ra tranh cử, ông t́m cách diệt ngay. Huey Long công khai tố cáo FDR mưu sát ông. Ngày 8.9.1935, một bác sĩ DT tên là Carl Weiss dùng súng .22 bắn Huey Long không chết lại bị cận vệ của Long bắn 30 phát chết. Long được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Authur Vidrine, một bác sĩ DT khác, đă chờ sẵn để “giúp” Long chết ngày 10.9.

    Năm 1938 và 1939 FDR cho tổng bí thư Đảng Cộng Sản HK Earl Browder vào ṭa Bạch Ốc làm việc và ở đó dùng điện thoại điều khiển cuộc thanh lọc các phần tử Dân Chủ chống đối chính sách của FDR (William Hoar. “The FDR Legacy: Lest We Forget”. The New American, 1997, Vol 13, No.13, June 23).

    Văn khố Quốc Hội ghi: Chỉ có Chúa mới biết những nạn nhân bất lực của chính quyền Cộng Sản trong kỷ nguyên FDR sẽ ra sao… Giữa thập kỷ 1930, Roosevelt muốn có một chính sách vững chắc để cho Nga có thể chế tạo vũ khí tại HK và phát nguyện rằng nếu không trực tiếp viện trợ các đồng chí của ông được th́ sẽ chuyển qua Anh hay nơi nào khác ở Âu Châu… Những tên DT trục lợi chiến tranh thấp thoáng ở chân trời, xùi bọt mép… Ngày 5.4.1939, ngài Hamilton Fish dân biểu QH diễn thuyết qua hệ thống truyền thanh NBC: Có thể có chiến tranh giữa Nazi và Cộng Sản, nhưng nếu có, th́ đó không phải là chiến tranh của chúng ta hay của Anh, của Pháp hay bất cứ của nền dân chủ nào. Những ngưới phát ngôn của New Deal khuấy động cuồng loạn chiến tranh thành một mê sảng thực sự… để khỏa lấp thất bại và sụp đổ của các chính sách New Deal với 12 triệu người thất nghiệp và sự tin tưởng doanh nghiêp tiêu tan… Tất cả bọn Cộng Sản đoàn kết để thúc giục chúng ta tham chiến chống Đức và Nhật làm lợi cho LBXV (Congressional Record Appendix, Washington, Vol. 84, Part 12, pgs. 1342-43).


    Khi FDR nói với các phụ tá cao cấp về Nga, ông minh định, “Chúng ta có thể cho họ có bất cứ cái ǵ họ muốn”. Và, thật thế, ông đă cho, v́ chính FDR bố trí cho các bạn của ông, những tên “chó đẻ” (bastard) đỏ ở Nga, để chúng có được tất cả các vật dụng và tài liệu làm “quả bom” [hạch tâm]. Theo như thế th́ ông cũng chịu trách nhiệm về việc tạo ra Chiến Tranh Lạnh DT điên khùng (“Hearings Regarding Shipment of Atomic Material to the Soviet Union During World War II”, Eighty-first Congress, House of Representatives, Second Session, Committee on Un-American Activities, United States Government Printing Office, Washington. 1950).

    Phi công bay qua Đại Tây Dương ngày 20-21.5.1927, Charles Augustus Lindbergh, (1902-1974) viết trong nhật kư “Áp lực tham chiến cao và c̣n đang lên. Dân chúng chống lại nhưng chính quyền dường như đă ‘cắn câu’ và đâm đầu vào chiến tranh. Đa số các quyền lợi DT trong nước này đứng sau chiến tranh, và chúng kiểm soát hầu hết báo chí, truyền thanh và phần lớn điện ảnh và các quyền lợi tài chánh quốc tế và c̣n nhiều thứ khác… của chúng ta” (Charles Lindbergh. “The Wartime Journals of Charles A. Lindbergh”, May 1, 1941, Harcourt Brace, 1970, p. 481).

    Những dữ kiện trên đây có thể giúp hiểu được tại sao quân Đồng Minh đổ bộ tại Normandie thay v́ tại Ư và chờ cho Hồng quân Nga chiếm được Đông Âu, tại sao Tưởng Giới Thạch phải chạy sang làm tri huyện Đài Loan, tại sao Pháp thua ở Điện Biên Phủ bỏ Việt Nam cho Hồ Chí Minh, tại sao chúng ta ở đây và có lẽ tại sao cả thế giới đang lâm vào cảnh điêu linh. Để hiểu rơ hơn, cần biết DT thành lập LBXV ra sao. Đế tài này sẽ được tŕnh bầy sau.

    Earl Browder ước lượng tại HK có 1,200,000 đảng viên CS, trên 600 nhật báo và tạp chí CS và DT quá khích tại HK.

    “Bồ nhí” của Clinton, Monica Lewinsky, là con một giáo sĩ (rabbi) DT. Ngoại trưởng thời TT Clinton Madeleine Albright là DT. Tỷ phú George Soros là DT. Chuyên viên chạy chọt (lobbyist) Jack Abramoff là DT. Dĩ nhiên chuyên viên tráo trở Henry Kissinger là DT. Benjamin Disraeli (1804-1881), thủ tướng Anh năm 1868 và 1874-1876, là DT. Năm 1984 TTK LHQ Kofi Annan cưới Nane Lagergren là DT Thụy Điển, thân thích của Nhà Rothschild DT.

    Quả thật DT toàn năng, toàn tại, có khác ǵ Thượng Đế? Vấn đề này rất phức tạp sẽ được tŕnh bầy chi tiết trong những bài kế tiếp.

    Chú thích:

    1. Vào tk XVI Kabbalah pha trộn với Do Thái giáo và văn hóa Kitô giáo bắt đầu từ triều đ́nh Florence của Lorenzo de Midici (1449-1492), thành chủ lực của thế giới quan Phục Hưng, ảnh hưởng lên tôn giáo và văn học Tây phương, cụ thể lên những danh nhân như Jacob Boehme, John Milton, Emanuel Swedenbor, William Blake, Joseph Smith… Gh thứ 212 Sixtus IV (1471-1484) dịch 70 sách Kabbalah ra tiếng La Tinh. Gh thứ 214 Alexander VI (1492-1503) công nhận phái Kabbalah là “con trung thành của GH”.

    2. Năm 1492, sử gia Marcelino Menéndez y Pelayo t́m được danh từ “Alumbrados” dưới dạng “Iluminados”, có nguồn gốc Duy Tri hay Giác Ngộ (Gnostic) phát triển từ Ư sang Tây Ban Nha. Một trong những lănh tụ đầu tiên của phái này là La Beata de Piedrahita, con gái nông dân sinh tại Salamanca, năm 1511 bị tôn giáo pháp đ́nh phát giác là đă khẳng định rằng có đối thoại với Chúa Giê Su và Đức Bà Maria Đồng Trinh, được một vị thế lực cứu khỏi tội (theo Menéndez Pelayo, Los Heterodoxos Españoles, 1881, vol. V.).

    Thánh Y Nhă khi theo học tại Salamanca năm 1527, bị bắt giải ra trước một ủy ban giáo sĩ v́ có cảm t́nh với Alumbrados, nhưng chỉ bị cảnh cáo. Alumbrados truyền sang Pháp dưới tên Illuminés từ Seville năm 1623, được một số người ở Picardy theo; đến năm 1634 th́ Pierce Guerin, tu viện trưởng Saint-Georges de Roye, gia nhập, do đó các môn đệ của ông được gọi là Gurinets, năm 1635 bị đàn áp.

    3. Gh Anacletus II (1130-1138) là DT nên bị Gh Innocent II (1130-1143) tranh chấp, gây ra cuộc ly giáo đến khi ngài chết năm 1138, Innocent II mới về được La Mă.

    4. Theo John S. Torell, năm 1767 vua Tây Ban Nha Carl III ra chiếu chỉ đuổi Ḍng Tên ra khỏi các thuộc địa Tây Ban Nha sau khi nhiều tin tức về các hành vi dă man của Ḍng Tên tại nơi bây giờ là Paraguay, Nam Mỹ, làm phẫn nộ dư luận Âu Châu. Tại đây từ năm 1609 các tu sĩ Ḍng Tên (nhiều người là DT ẩn h́nh) từ Ư, Anh, Đức đến dùng lính Âu Châu lập ra 30 trại tập trung gọi là “reducciones”, nhốt hơn 150,000 người Da Đỏ Guarani.

    Đầu tiên, các cha lập lễ hội dụ họ đến nghe nhạc, nhẩy múa, ăn uống rồi quây và xích họ lại không cho ra nữa. Từ đó cả nam và nữ họ phải chịu cảnh nô lệ cực kỳ hà khắc, bị giết hại, hiếp dâm, lao động cật lực theo chỉ tiêu, một số được mua chuộc để làm “ăng ten” y như trong trại tù “cải tạo” của CSVN. Ai bị chúng tố cáo liền bị đem ra xử trước toàn trại, phải xin ăn năn hối cải, hôn tay và cám ơn kẻ hành quyết. Các chuyên viên tu sĩ Đ̣ng Tên được giao việc tẩy năo họ để họ mất hết khả năng suy nghĩ. Nhiều thế hệ sinh ra trong trại và coi như đời sống ở đấy là b́nh thường và sẵn sàng hy sinh mạng sống cho những kẻ hành hạ họ (July 1999 Newsletter, European-American Evangelistic Crusades, Inc.). Ngày 21.7.1773 Gh Clement XIV có giáo chỉ giải tán Ḍng Tên nhưng năm 1814 lại được Gh Pius VII cho phục hoạt.

  3. #83
    Long4ndShort
    Khách
    http://followyourdreamblog.wordpress...on-ca-do-thai/

    Người Việt c̣n giỏi hơn cả Do Thái
    Posted on August 27, 2013 by Live Our Dreams
    Đọc bài cách nuôi con của người mẹ Do Thái để ca ngợi sự thông minh của dân tộc này, tôi có những suy nghĩ như thế này, bà con đọc cho vui.

    (1) Bạn nên nhớ cho Chúa Jesus, và các thánh tông đổ Phao Lô (Paulus/Paul) và Phê Rô (Petrus/Pierre) nổi tiếng của đạo Công giáo là người Do Thái. C̣n Karl Marx, tổ sư chủ nghĩa cộng sản cũng là người Do Thái. Nếu suy luận theo kiểu bài báo th́ số đông lớn nhất người theo đạo công giáo trên thế giới là v́ các người đứng đầu đạo công giáo là người do thái. Do đó, có thể suy luận tiếp là dân châu âu mỹ, phần lớn theo đạo công giáo/tin lành/anh giáo nên thuộc thành phần có IQ cao, nên giàu mạnh đầy quyền lực. Theo tôi, loại suy luận này rất nguy hiểm.

    (2) V́ bị lời nguyền rủa (malediction) theo đuổi là đă giết Chúa Jesus nên trong nhiều thế kỹ dân do thái bị phân tán lưu lạc vô tổ quốc qua nhiều nước châu âu đặc biệt tại các nước đông âu (đặc biệt Ba Lan), Đức và Liên Xô. V́ lời nguyền rủa quái ác kể trên, cộng thêm sự thông minh của dân do thái so với mặt bằng dân trí sở tại, nên dân do thái thường bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử nói theo kiểu thời đại. Ở Ba Lan, dân do thái bị cấm hành nghề 11 loại nghề, nghĩa là những nghề nào có thể cạnh tranh với dân băn địa. Có một cái nghề không bị cấm là nghề cho vay nặng lăi, tiền thân của ngành tài chính, ngân hàng. Do đó các tên tuổi Rothchild, hoặc Rockfeller từ đấy mà ra. Một ngành không bị cạnh tranh là buôn bán, làm thương mại, v́ người châu Âu thời trước xem ngành thương mại là mạt hạng, giống như ta phân tầng giai cấp theo sĩ nông công thương. Có những nghề tự do như âm nhạc, hội hoạ, văn học, làm mua vui cho giới quư tộc là không bị cấm kỵ nên nhiều người do thái đă có tên tuổi trong các lĩnh vực này. Cũng như ngành y, dược, người do thái tự do hành nghề, nên rất nổi tiếng.

    (3) Đáng lư ra th́ người Mỹ và dân Thụy Sĩ phải căm ơn Hitler và Staline, v́ rằng hai tên độc tài này đă tiêu diệt đàn áp xua đuổi dân Do thái khỏi châu Âu. Họ chạy trốn khỏi châu Âu, đe theo một số tiền bạc (một phần lớn số tiền cất dấu tại Thuỵ Sĩ, làm cho TS có một số tiền “đầu tư chui” khơi tră lăi, một số khác khơi tră lại tiền gởi, v́ người gởi đă qua đời tại các trại tập trung Đức quốc xă không có người thừa kế) và sự học vấn trong mọi lĩnh vực. Mỹ là một thuộc địa của Anh quốc, độc lập không được bao lâu mà đă trở thành một cường quốc mạnh hơn cả Anh Pháp sau thế chiến thứ 2 trở đi. Đây chẵng qua là nhờ tiền bạc và tri thức của dân Do Thái di tản từ châu Âu qua trước sự tàn sát của Hitler và Staline. Do đó, ch́a khoá của phát triễn kinh tế của một nước là tuỳ vào tiền vốn, tri thức và tinh thần khởi nghiệp (đ̣i hỏi tinh thần sáng tạo và ước mơ cháy bỏng), chứ không tuỳ thuộc chủ yếu vào chỉ số IQ như người ta tưởng.

    (4) Tổng số dân Do Thái trên toàn thế giới vào khoảng 14 triệu người, trên 7 tỉ người (tính đến đầu năm 2012) toàn cầu, với 7 triệu ở Mỹ, 5 triệu ở châu Á (Israel), 2 triệu ở châu Âu, và 100.000 ở châu Phi. Dân số Mỹ vào khoảng 300 triệu người, mà dân gốc Do thái chiếm 7 triệu, nghĩa là vào khoảng 2,5 pt dân Mỹ, nhưng họ chiếm đến 40 pt tài sản cả nước Mỹ. Kinh khũng!!! Nếu bạn biết là tại quốc hội Mỹ, số dân biểu Mỹ gốc Do thái chiếm đến 35pt, do đó bất cứ nghị quyết nào ở Hội Đồng LHQ bất lợi đối với Israel th́ bị Mỹ phũ quyết cho dù là lố bịch. Ở Nga, có vào khoảng 500.000 người gốc Do thái thuộc thành phần nghèo trong xă hội Nga, nhưng con cái họ thông minh, nên Mỹ có chiến dịch xin con nuôi để chuẩn bị cho thế hệ vàng trong tương lai. Trong vài năm qua Mỹ đă xin nuôi được 50.000 đứa, th́ th́nh ĺnh tổng thống Nga ra lệnh x́ tốp, v́ Nga nhận ra nguồn chất xám trong tương lai của Nga bị Mỹ rút ruột. Mỹ cay cú chưỡi thề!.
    Một điều kỳ lạ, ở châu Á, dân Israel có khắp nơi (TQ có 3.000, Ấn độ có 7.000, Singapore có 500, Thái Lan có 300) nhưng ở VN th́ không có mống Do thái nào că. Sao vậy?

    (5) Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, 1965-1975, có một người Mỹ gốc Do Thái rất nổi tiếng về mặt thông minh (ngoài tính đào hoa), đó là Henry Kissinger, phục vụ 2 đời tổng thống Mỹ Nixon và Ford. Sau thất bại Tết Mậu Thân, Henry Kissinger là kiến trúc sư của (1) việc hoà đàm ở Paris, (2) đi đêm với TQ để TQ ép VN kư hoà ước Paris đổi lấy sự chấm dứt chiến tranh lạnh giữa TQ và Mỹ, (3) thả bom miền bắc (chiến dịch Điện Biên Phủ trên không), (4) thuê Israel thiết kế chương tŕnh b́nh định nông thôn, được mệnh danh là chiến dịch Phượng Hoàng ở miền Nam (v́ Israel đă thành công tiêu diệt cộng săn ở Indonesia và Philipine). Bốn chiến dịch này đều thất bại nặng nề làm bẽ mặt Kissinger, người được báo chí ca ngợi là người Do thái có đầu óc siêu phàm. Cay cú v́ những thất bại ở VN, nên ông ta thề không trở lại VN, trong khi cựu bộ trưởng quốc pḥng Mỹ Mac Namara, hoặc các cựu phi công Mỹ bị bắt làm tù binh như Mc Cain, John Kerry đều đă trở lại thăm các cựu địch VN. Do đó, không nên đề cao sự thông minh của dân Do Thái.

    (6) Trở lại việc bà mẹ Do thái cho con ăn cá, hạt hạnh nhân và chà là, nên người Do thái được xem là thông minh nhất, chỉ số IQ trên 120. Tôi không tin chi mấy lư lẽ (argument) này. Thật ra, người dân VN dọc duyên hăi miền trung, và dân đồng bằng sông Cữu Long, ăn cá rất nhiều: cá biển tươi, cá đồng, nước mắm, mắm đủ loại, mắm ruốt, khô cá, v.v.. Hiện giờ, các nhà sản xuất sữa đă quăng cáo chất DHA được thêm vào sữa sẽ làm cho bé sẽ thông minh. Họ đâu có muốn cho dân Việt biết DHA có trong lườn cá, hoặc trong mỡ cá ba sa, hoặc có nhiều trong cá ṃi. Người ta quăng cáo chất glucosamine giúp giăm bệnh khớp xương, trong khi chất này có trong vỏ tôm khi bạn ăn tôm kho rim thịt ba rọi, hoặc khi bạn ăn mắm ruốc (tôi không có ư quăng cáo mắm ruốt, hoặc nước mắm Thuyền Nan của Hằng Mắm Ruốt đâu nhé, đây chĩ là t́nh cờ). Ngoài ra, người Việt thường ăn đậu phụng thay v́ hạnh nhân. Nhưng người Việt c̣n ăn những món ăn mang tính mầm chứa các tế bào gốc như giá đổ, măng tươi, hột vịt lộn, v.v.. Do đó, có thể khẵng định dân Việt có IQ cao hơn dân Do Thái, nên tôi không tin IQ của dân Việt chĩ trung b́nh bằng 94.

    (7) Để kết luận, thay v́ đánh giá sự thông minh thông qua chỉ số IQ, ta nên sử dụng một chỉ số khác, đó là mức độ lô gic. Trong cuộc sống, người ta phăi giăi quyết các vấn đề. Vô vàn vấn đề muôn h́nh vạn trạng. Phần lớn, người ta lẫn lộn lô gic với toán học. Thật ra, chưa thấy ông toán học giỏi nào lên làm lănh đạo, mà chĩ những ông biết giăi quyết lô gic các vấn đề. Một Henry Kissinger tài ba, mà không đọ nỗi đại tướng Vơ Nguyên Giáp. Người Do thái cũng như người VN suốt chiều dài lịch sữ không hề sống được b́nh an. VN Luôn luôn gặp phăi vô số vấn đề với TQ phía bắc, với Chiêm Thành ở phía nam, phía đông với Nhật Băn, Pháp, và Mỹ. Nên buộc ḷng phăi có một lô gic hành xữ để vượt qua các khó khăn. Hiện giờ người Mỹ lầm tưởng, tướng Giáp thắng họ là v́ đă học binh thư của Tôn Vơ Tữ và đọc nhuần nhuyễn các bộ sách Tam Quốc Chí và Đông Chu Liệt Quốc, nên các học viên Mỹ ở học viên quân sự WestPoint phăi đọc các bộ sách kể trên cúa TQ dịch ra tiếng Anh. Nhưng trong các sách này đâu có những chiến thắng Bạch Đằng, Ăi Chi Lằng, chiến dịch thần tốc của Vua Quang Trung, v.v.. Nói tóm lại tính lô gic cao của dân Việt giúp trụ lại trước muôn vàn thử thách. Chỉ tội một cái là chưa có nhiều tiền (cỏ thể là có đấy nhưng xài bậy).

    DƯƠNG QUANG THIỆN

  4. #84
    Long4ndShort
    Khách
    http://www.danchimviet.info/archives...chau-a/2013/05

    12:06:am 12/05/13 | Tác giả: Nhất Hướng
    Juda lại đi vào Châu Á

    Kiss and Mao_ Tháng 8 năm 1966. Tướng một mắt Moshe Dayan của Do Thái đến Việt Nam, sau khi đi tham quan một ṿng khắp chiến trường Việt Nam trở về Do Thái y tuyên bố “Muốn thắng cs phải cho cs thắng trước”.
    _ Năm 1971 một người Do Thái khác là Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia Hoa kỳ, đến Bắc Kinh và sau đó vào tháng 2 năm 1972 y cùng tổng thống Richard Nixon đến Thượng Hải dự tiệc cùng Mao Trạch Đông. Y đă mở lời nói trước ư của y khi vừa mới gặp Thủ Tướng Trung Cọng Chu Ân Lai “ Tôi không muốn chính quyền Miền Nam Việt Nam sụp đổ trong ṿng sáu tháng mà chỉ đồng ư để chính quyền Miền Nam sụp đổ trong ṿng 2 năm sau khi hiệp định (Paris) được kư kết”.
    Trong những tài liệu về chiến tranh Việt Nam được giải mă cho thấy không có một cuộc họp nào của nội các chính phủ Hoa Kỳ vào lúc đó xác nhận sự đồng thuận của cho phép Henry Kissinger có quyền bán đứng Miền Nam Việt Nam cho Trung Cọng nên chúng ta có thể cho rằng lời của Henry Kissinger là do y tự đặt ra.
    V́ c̣n nhiều tài liệu có liên quan đến Henry Kissinger chỉ được phép giải mă sau khi y chết nên chúng ta chưa có điểm nào xác nhận được Hạ Sĩ t́nh báo Henry Kissinger thuộc sư đoàn 84 infantry có liên hệ với T́nh Báo Do Thái và đă được chỉ thị từ Do Thái về việc giải quyết cuộc chiến Việt Nam hay không nhưng Phương thức giải quyết chiến tranh tranh Việt Nam bằng cách bán đứng Miền Nam Việt Nam cho Bắc Kinh có thể đến từ Do Thái do :
    _ Do Thái nhận được thêm tiền viện trợ từ Hoa Kỳ sau khi Hoa Kỳ phủi tay với cuộc chiến Việt Nam.
    _ Do Thái chiếm được thị trường béo bở Trung Quốc nơi anh nông dân Mao đang gây nạn đói chết đến 37 triệu người. Có thể nói là Hoa Kỳ chiếm được thị trường béo bở Trung Quốc nhưng trong nước Hoa Kỳ các chủ nhân ông đang kiểm soát nền kinh tế Hoa Kỳ Phần đông đều là người Do Thái nên nói Do Thái chiếm được thị trường béo bở Trung Quốc th́ đúng hơn.
    Ngày 30 tháng 4 năm 1975 nước Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ tạo ra thảm cảnh
    _ 196.000 viên chức Việt Nam chết thêm trong trại tù cs. Một triệu người dân Miền Nam Việt Nam chết trên biển khi t́m cách đào thoát vùng cs cai trị.
    _ Một nước Hoa Kỳ đầy chia rẽ, bị cả thế giới lên án là đă bán đứng phản bội đồng minh với một đoàn quân mang tiếng bại trận.
    Trong tuần nay thủ tướng Do Thái Netanyahu đến Trung Quốc hội đàm cùng các viên chức cao cấp của Trung Quốc. Ư đồ của Do Thái trong những ngày sắp đến có thể gom lại qua những điểm sau đây :
    _ Thương lượng để t́m hậu thuẫn của Trung Quốc khi Do Thái tấn công Iran
    _ Bật đèn xanh cho phép Trung Quốc tiếp tục làm căng thẳng toàn bộ Châu Á và lấn chiếm những vùng có thể lấn chiếm được để những tên những lái súng đang ở Hoa Kỳ bán vũ khí kiếm tiền.
    _Ngoài hai điểm trên chúng ta cũng có thể nghĩ thêm một điểm khác là Do Thái đang phân vùng chia ảnh hưởng toàn thế giới qua con cờ Hoa Kỳ v́ nền kinh tế của Hoa Kỳ và phần đông người trong quốc hội và cả trong guồng máy cai trị của Hoa kỳ đang chịu ảnh hưởng hay bị kiểm soát người Mỹ gốc Do Thái.
    Thủ tướng Netanyahu đang nắm trong tay con bài tẩy ǵ để làm cho Trung Quốc phải nghe lời y điều khiển ? Đó là tâm điểm của bài viết này :
    Con bài tẩy này được tạo ra trong t́nh cờ vào giữa năm 2007 khi chính quyền Trung Quốc t́m cách mở đầu ra cho thị trường chứng khoán Thượng Hải thông thương với thị trường chứng khoán thế giới bằng cách :
    _ngày 21-5-2007 chính quyền Trung Quốc tuyên bố đầu tư vào nhóm BlackStone Group của thị trường chứng khoán New York 4 tỉ đô la để đầu tư vào lănh vực bất động sản như mua nhóm khách sạn Hilton v.v…
    _Hai ngày sau chính quyền Trung Quốc thừa thắng xông lên tuyên bố bỏ ra 60 tỷ đô để đầu tư vào thị trường chứng khoán ngoại quốc.
    _Một tháng sau vào ngày 29-6-2007 quốc hội Trung Quốc chuẩn chi 200 tỉ đô để thành lập công ty kinh doanh ngoại hối nay là cơ quan giao dịch hối đoái nhà nước (SAFE) State Administrative Of Foreign Exchange do Dịch Cương, phó chủ tịch ngân hàng trung ương, đứng đầu.
    Theo tài liệu công bố vào ngày 15-4-2013 vừa qua th́ Trung Quốc đang sở hữu 1220 tỷ đô la trái phiếu của Hoa Kỳ. Đó là lá bài tẩy của thủ tướng Netanyahu đang nắm trong tay buộc Trung Quốc thực hiện những ǵ y yêu cầu v́ Trung Quốc hiện là chủ nợ lớn nhất của Hoa Kỳ.
    Theo lệ thường th́ con nợ luôn luôn sợ chủ nợ nhưng theo luật chơi của các nhà tư bản tài chánh hay giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay th́ chủ nợ phải sợ con nợ, lư do :
    _ Nếu chủ nợ (Trung Quốc) bán tháo số trái phiếu Hoa Kỳ đang sở hữu ra thị trường th́ đồng đô la sẽ xuống giá, như thế hàng hóa Hoa Kỳ trở nên rẻ làm lợi cho Hoa Kỳ và ḿnh lại mất thâu lợi nhuận từ số trái phiếu. đang sở hữu.
    _Quỹ dự trữ ngoại tệ cũa Trung Quốc hiện nay là 3.197 tỷ đô la mà trong đó 2/3 quỷ là đồng đô la. Khi đô la xuống giá th́ chủ nợ Trung Quốc là người thiệt hại nhiều nhất.
    _Lá bài tẩy của thủ tướng Netanyahu có thể làm cho Trung Quốc cúi đầu là Hoa kỳ có quyền in thêm tiền để phá giá đồng bạc của ḿnh và những người có đủ quyền hạn để làm việc này là các nhà tư bản tài chánh Hoa Kỳ gốc Do Thái.
    Sau thế chiến thứ II, các nhà tư bản tài chánh tại Wall Street đầu tư vào hai quốc gia bị tan nát nhiều nhất là Đức và Nhật. Sau một thời gian dài thâu lợi nhuận hă hê các nhà tư bản tài chánh rút tiền từ hai quốc gia ấy về rồi bán đứng Miền Nam Việt Nam làm món quà để chiếm lĩnh thị trường Trung Quốc. Nay Trung Quốc không c̣n là điểm hấp dẫn để đầu tư các nhà tư bản tài chánh đang bắt tay với Trung Quốc tạo căng thẳng khắp Châu Á để bán vủ khí kiếm thêm chút tiền c̣m. Tương lai của Châu Á là phải chạy đua vũ trang và người thâu lợi trong cuôc chạy đua vũ trang là người Hoa Kỳ gốc Do Thái.
    Mỗi năm cứ đến ngày oan trái
    thắp nén hương ḷng để nhớ thương
    Ngày oan trái 30 tháng 4 năm nào cũng được cộng đồng Nguời Việt Hải Ngoại làm lễ tưởng niệm Ngảy Quốc Hận. Họ quên một điều : tên gây ra ngày oan trái đó cháu ngàn đời của Juda đă từng v́ vài đồng xu mà bán thầy nó là chúa Jesus Christ. Hy vọng những năm tới vào ngày oan trái trong buồi lễ ngày quốc hận của cộng đồng Người Việt Hải Ngoại cần có thêm h́nh nộm hạ sĩ Henry Kissinger đang bị treo cổ. Ít nhất cũng cần cho hắn biết hắn phải chịu trách nhiệm của về cái chết hơn triệu người Miền Nam Việt Nam, những người mà hắn đă từng gọi là đồng minh là bạn.
    © Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh
    © Đàn Chim Việt

  5. #85
    Long4ndShort
    Khách

  6. #86
    Long4ndShort
    Khách
    http://chauxuannguyen.wordpress.com/...%BFt-quach-di/

    Kissinger nói: Sao chúng nó không chết quách đi



    Trọng Đạt – Câu nói trên của Tiến sĩ Kissinger v́ một sự hiểu lầm nào đó đă gây ngộ nhận khiến nhiều người Việt quốc gia hận thù nhà ngoại giao này, họ nghĩ rằng ông đă chửi rủa đồng bào ta khi miền Nam Việt Nam đang trong cơn hấp hối tháng 4-1975. Câu này đă được ghi tại trang 641, phần nói về The Fall of Viet Nam, April 1975, trong cuốn Kissinger a Biography của Walter Isaacson, cuốn sách 800 trang viết về Henry Kissinger.

    Nguyên văn như sau:

    “Why don’t these people die fast? The worst thing that could happen would be for them to linger on” nghĩa là “Tại sao những người ấy không chết cho nhanh? Điều tệ hại nhất có thể sẩy ra cho họ là cứ sống kéo dài măi” nếu dịch xuôi cho dễ hiểu là “Sao họ không chết lẹ cho rồi? nếu phải sống ngắc ngoải măi thật là vô cùng bất hạnh cho họ”.

    Ông ta than thở cho số phận của người Đông Dương chứ không rủa họ chóng chết. Ở đây không phải là để bênh vực cho ông này, kết án ông nọ hoặc thương ông này ghét ông kia mà là chúng ta cần hiểu cho đúng lịch sử.

    Tháng 12 năm 1974 và tháng 1-1975, CSBV bắt đầu mở cuộc tổng tấn công sau cùng để chiếm miền nam VN tại Phước Long đúng hai năm sau ngày kư Hiệp định Paris. Tháng 3-1975 họ tấn công chiếm Ban Mê Thuột, cuối tháng 3, đâu tháng 4 năm 1975 hai quân khu 1 và 2 lọt vào tay Cộng quân nhanh chóng do sự sai lầm của Tổng thống Thiệu trong kế hoạch tái phối trí lực lượng. Họ bắt đầu chuyển quân đại qui mô vội vă nề phía nam để dứt điểm Sài g̣n.

    Khoảng đầu tháng 4-1975 trong khi CSBV đang ra sức tiến về Sài g̣n, ḥa b́nh Trung Đông th́ tả tơi, bang giao với Nga sô xuống thấp, Cam Bốt gần sụp đổ và bây giờ miền nam VN đang bị CS nuốt chửng. Khi ấy ông Tổng thống Ford rời Ṭa Bạch ốc đi nghỉ mát đánh golf tại Palm Springs tiểu bang California .

    Bản tin truyền h́nh buổi tối tai Mỹ cho thấy những lời chỉ trích trước cảnh ông Tổng thống Ford đi đánh golf cùng lúc với cảnh Đông Dương đang dẫy chết trong đau khổ. Khi những người phóng viên tới phi trường phỏng vấn TT về thảm kịch đang diễn ra, ông chỉ nói ồ ồ rồi chạy trốn họ. Kissinger và Ford đă cử Tướng Weyand, Tham mưu trưởng tới Sài G̣n để thẩm định t́nh h́nh quân sự trong một tuần kể từ 28-3-1975, ông trở lại Hoa Kỳ ngày 4-4-1975. Khi về ông đi máy bay thẳng tới Palm Springs để báo cáo trực tiếp t́nh h́nh lên Tổng thống. Ông đề nghị cho oanh tạc bằng B-52 trở lại và đồng thời xin viện trợ khẩn cấp722 triệu cho quân đội VNCH, điều xin thứ nhất tái oanh tạc sẽ trái luật, khoản viện trợ trên đây rất lớn mà chỉ có một ít người tin là có thể giúp VNCH cầm cự được. Khoản xin này gồm trên 440 xe tăng, 740 đại bác, 100 ngàn súng cá nhân, 120 ngàn tấn đạn dược.

    Báo cáo của Tướng Weyand biện minh cho khoản viện trợ mới nhằm kêu gọi tới cái nh́n địa lư chính trị của Kissinger, nó muốn nói “Uy tín lâu dài của Hoa Kỳ trên thế giới phụ thuộc vào nỗ lực thiện chí của ta cố gắng làm hơn là thành công hay thất bại trong lúc này,nếu ta không nỗ lực uy tín của ta như một đồng minh sẽ bị tiêu tan có lẽ sẽ qua hết đời này sang đời khác”.

    Nói khác đi lời khuyên đó là kéo dài sự kết thúc cuộc chiến tranh cũng chính là cái lư luận mà Kissinger đă có lần dùng để biện minh cho cuộc chiến đấu trên mặt đất: dể giữ uy tín khắp nơi. Ít ngày sau dân biểu Whitten (tiểu bang Mississipi) hỏi “Đề nghị của ông dựa trên cơ bản nào trừ việc chỉ có h́nh thức, khi chúng ta đều biết chắc là sắp thua rồi?. Tướng Weyand trả lời: “Thưa ông, cái cách mà chúng ta làm hay cái h́nh thức như ông nói nó cũng quan trọng như thực chất của vấn đề vậy”

    Kissinger phản đối đề nghị xin tái oanh tạc của Weyand: “ Nếu ông làm thế, người dân Mỹ sẽ lại xuống đường biểu t́nh. Các phụ tá của TT tại Palm Springs bàn về khoản xin viện trợ, đa số cố vấn của Ford đều chống đối đề nghị này. Bộ trưởng quốc pḥng Schlesinger cũng chống đối nhưng bị Kissinger loại ra khỏi cuộc bàn căi và trở về Wasington, ông này cho là t́nh thế của Quân đội VNCH nay không hy vọng ǵ.

    Kissinger vốn bi quan đồng ư rằng t́nh h́nh không thể cứu văn nổi nhưng dù vậy ông cho rằng đề nghị xin Quốc hội khoản viện trợ 722 triệu là cách duy nhất để cứu văn danh dự cho Hoa Kỳ. Ford đồng ư mặc dù không nhiệt tâm lắm. Trên đường tới pḥng họp báo để nói cho các kư giả biết quyết định, khi ấy Kissinger quay lai nói với Nessen, tùy viên báo chí phủ Tổng thống về người miền nam VN như sau:

    “Sao họ không chết lẹ cho rồi? nếu phải sống ngắc ngoải măi thật là vô cùng bất hạnh cho họ”

    Tại pḥng họp, Kissinger lư luận theo địa lư chính trị. Ông ta nhấn mạnh quyết định viện trợ sẽ vang tiếng khắp thế giới , cái dấu hiệu ǵ nó sẽ gửi cho bạn và thù khắp nơi, ảnh hưởng của nó với uy tín của Hoa Kỳ sẽ như thế nào hơn là hiệu quả quân sự của nó ở vùng bao quanh Sài G̣n. Tiến sĩ nói

    “Chúng ta đang đối diện với tấn thảm kịch vĩ đại, trong đó có cái ǵ liên quan tới uy tín, tới danh dự của Hoa Kỳ, tới cái mà các dân tộc khác trên thế giới sẽ nh́n chúng ta như thế nào”
    (Kissinger a Biography, trang 641-642)

    Ngày 10-4-1975 Ford ra Quốc hội xin 722 triệu, Kissinger làm việc tới khuya soạn một bài diễn văn chỉ trích Quốc hội đă làm tiêu tan Hiệp định Paris . Lư luận về chữ “uy tín” mà ông đă dùng khi bắt đầu nhiệm kỳ của Nixon cũng là chữ mà ông nhấn mạnh lúc cuối. Trong thông điệp mà ông soạn cho Ford để gửi Quốc hội, lư luận này được nói gọn gàng

    “ Hoa Kỳ không muốn viện trợ đầy đủ cho đồng minh của chúng ta để họ chiến đấu sẽ ảnh hưởng uy tín của chúng ta như một đồng minh. Và chính uy tín này là cơ bản cho an ninh của ta vậy”
    (Sách đă dẫn trang 642)

    Ford giữ câu nói về uy tín nhưng ông làm nhẹ bớt những lời hoa mỹ của Kissinger tấn công chỉ trích Quốc Hội. Ông nhờ phụ tá Hartmann sửa lại dể việc xin viện trợ kết hợp với ḥa giải quốc gia. Mặc dù đă nói nhẹ nhàng nhưng tại Quốc hội không có ai vỗ tay cả. Khi Tổng thống ngỏ lời xin viện trợ th́ có hai dân biểu Dân chủ Moffet và Miller bỏ ra khỏi pḥng họp. Cả Quốc hội lẫn người dân đều không c̣n muốn ủng hộ cuộc chiến tranh VN .

    Sau này Kissinger đổ lỗi cho Watergate đă khiến cho Hiệp Định Paris bị suy sụp. Nói rằng sự sụp đổ quyền hành của Tổng thống có nghĩa là Hoa Kỳ không thể và không muốn cưỡng bức sự thi hành Hiệp định. Nhưng đó không phải do vụ Watergate mà v́ người ta đă quá ghê sợ cuộc chiến VN, một cuộc chiến tranh vô ích nó đă tạo tư tưởng cô lập thập niên 70 và khiến cho người dân phải lùi lại trước viễn tượng kéo dài chiến tranh Đông Dương.

    Cho rằng quyền hạn của Tổng thống bị Watergate gây ảnh hưởng xấu tệ đến việc thảo luận về VN, cũng vậy nỗi thống khổ do VN có lẽ đă đẩy mạnh sự nhiệt thành của những người chống Nixon trong việc điều tra vụ Watergate. Trong bất cứ trường hợp nào ngay cả TT Ford, vụ Watergate đă qua đi, Quốc hội không cho phép cấp viện trợ kéo dài sự đ̣i hỏi cho danh dự ở VN.

    Cuối tháng 3-1975, do kế hoạch tái phối trí lực lượng sai lầm của TT Thiệu đă khiến VNCH mất hai quân khu 1 và 2, mất luôn cả hai quân đoàn 1 và 2 trong hai tuần lễ từ 14-3 tới 30-3-75. VNCH mất 5 sư đoàn bộ binh (22, 23, 1, 2, 3), 11 liên đoàn Biệt động quân, mất gần hết 2 sư đoàn tổng trừ bị.. vũ khí đạn dược coi như mất hết, một phần lớn lọt vào tay Cộng quân.

    Thời điểm giữa tháng 4-1975, dù VNCH có soay sở được một tỷ Mỹ kim để mua tiếp liệu đạn dược cũng không thể cứu văn t́nh thế, chỉ trừ có yểm trợ của B-52 mới hy vọng đảo ngược t́nh h́nh, lư do quân đội VNCH đă mất một nửa (1/2) lực lượng chính qui (các sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 và 11 liên đoàn Biệt động quân) trong khi CSBV bị sứt mẻ ít hơn.



    Ford ít khi nào không nghe lời cố vấn về ngoại giao của Henry Kissinger, người được coi là Khổng Minh thời nay. Một chuyện ít ai biết tới nhưng có ư nghĩa lịch sử là quyết định của ông hôm 24-4-1975, ngay cả khi khoản viện trợ 722 đă bị treo chính thức, ông tuyên bố trong một bài diễn văn tại Đại học Tulane rằng đối với Mỹ cuộc chiến tranh VN coi như chấm dứt. Ít ngày trước đó, ông có nói sơ bài diễn văn này với phụ tá lâu đời Robert Hartmann, ông cho biết Việt Nam đă sẩy ra lâu rồi và không có người sinh viên nào c̣n nhớ tới, chiến tranh đă chấm dứt.

    Ford nói chẳng biết Kissinger có chấp nhận ư tưởng này không? Ông thích ư tưởng này, thảo luận xong ông bảo Hartmann khoan nói cho ai biết chờ ông quyết định, bản thảo có gửi cho Kissinger nhưng không có ghi câu nói về VN này v́ muốn dấu không cho Kissinger biết. Khi lên máy bay Hartmann đánh máy bài diễn văn và đưa Tổng thống coi, ông hài ḷng. Trước sáu ngàn sinh viên tụ tập tại sân vận động bóng rổ, ông tuyên bố:

    “Nước Mỹ có thể lấy lại niềm tự hào trước khi có cuộc chiến VN nhưng chúng ta không thể lấy lại nó bằng cách trở lại cuộc chiến tranh liên hệ với Mỹ nay dă chấm dứt”
    (Kisinger a Biography trang 644)

    Ford đọc rơ từng câu từng chữ, đám sinh viên ai nấy reo ḥ, dậm chân mừng rỡ, họ nhẩy nhót ôm nhau sung sướng măn nguyện trong khi đó tai nước đồng minh xa xôi bên kia trái đất, cảnh máu chảy thịt rơi đang diễn ra hàng ngày. Câu nói “Cuộc chiến đă chấm dứt” vang dội trong nước, nó thể hiện bản tính rộng lượng tế nhị của một người cầu thủ Mỹ già biết cách xử thế cho tế nhị mặc dù đă thua trân đấu khi tiếng c̣i vang lên và cuộc chơi đă dứt.

    Walter Isaacson cho rằng mục tiêu địa lư chính trị phức tạp của Henry Kissinger và ư muốn đổ lỗi trách cứ Quốc Hội của ông có thể hợp lư nhưng nó không c̣n hợp thời nữa. Điều bổ ích nhất cho nước Mỹ cần làm, cho vấn đề tấm lư trong nước và ngay cả cho uy tín trên thế giới ấy là hăy để cuộc Chiến tranh VN ở lại sau lưng (Sách đă dẫn, trang 644).

    Trên máy bay về ṭa Bạch Ốc, một kư giả hỏi Tổng thống bài diễn văn này có do Kissinger soạn hay chấp nhận nó không? Ông nói hoàn toàn không. Một người kư giả hỏi có phải Tổng thống cố t́nh nói thế để đánh dấu sự chấm dứt một thời kư trong lịch sử Mỹ. TT Ford đáp:

    “Đúng vậy, dù sao đó là một thời khá lâu dài, mối cảm kích của tôi lẫn lộn. Tôi thực t́nh không muốn nó chấm dứt như thế nhưng ông phải thực tế. Ta không thể thực hiện được sự hoàn hảo trên thế gian này”
    (Sách đă dẫn trang 644, 645).

    Sáng hôm sau tại ṭa Bạch Ốc, Ford cho gọi Hartmann xuống pḥng bầu dục, khi ấy Tổng thống đang ngậm tẩu hút x́ và Henry Kissinger đang đi tới lui giận dữ như con sư tử mặc dù Ford cố làm cho ông ta bớt giận. Kissinger vung tay trợn mắt nh́n Hartmann bảo:

    “Chúng ta không cần phải nói thế, tại sao lại dấu không cho tôi biết tí ǵ cả?
    Hartmann lẩm bẩm nói v́ soạn bản diễn văn trễ, không ngờ câu nói về Việt Nam ấy lại tạo lên nổ lớn như thế. Ông ta không nói Ford muốn câu này từ đầu. Ford đồng ư bảo tại vội quá đấy, rồi ông nháy mắt với Hartmann, ông phụ tá này bảo Kissinger “thôi từ nay sẽ không sảy ra chuyện này nữa”

    Nhiều năm sau, khi kể lại chuyện cũ, Ford ca ngợi Kissinger không hết lời nhưng khi nói tới bài diễn văn đọc tại Đại học Tulane, ông nói Henry Kissinger không thích câu “chiến tranh Việt Nam đă chấm dứt” Tôi biết Henry muốn tiếp tục tranh đấu xin thêm viện trợ và trách cứ, đổ lỗi cho Quốc Hội. Chính Ford cũng muốn vậy nhưng ông cho biết đă làm việc tại Quốc hội hai mươi lăm năm, ông biết chắc họ sẽ khước từ. Ford và Kissinger không đồng ư nhau ở điểm đó, nhưng Ford nói ông làm đúng, ông hiểu rơ đường lối của lập pháp hơn Kissinger.

    Giờ phú chót, Kissinger t́m một giải pháp ngoại giao và lệnh cho Đại sứ Martin khuyên ông Thiệu từ chức. Hôm sau TT Thiệu từ chức và kết án Hoa Kỳ không giữ lời cam kết, bỏ rơi đồng minh. Sau này Kissinger gửi thư giảng ḥa vơi ông Thiệu và nói vụ Watergate đă hủy hoại khả năng của chính phủ Mỹ xin viện trợ cho VNCH năm 1973 và 74 nhất là t́nh trạng bế tắc năm 1972 do nội bộ Mỹ gây ra. Kissinger nói nếu chúng ta tiếp tục cuộc chiến th́ Quốc Hội Mỹ đă áp đặt từ 1973 cái mà họ đă làm sau này năm 1975, ư ông ta nói nếu VNCH không kư kết Hiệp định Paris th́ Quốc hội đă bức tử miền nam VN từ năm 1973. Thật vậy tháng 1-1973 Quốc hội Mỹ đă tiến hành cắt viện trợ bỏ Đông Dương đánh đổi lấy 580 tù binh Mỹ nếu VNCH gây trở ngại ḥa đàm (Legislation to terminate the war was speeding its way to the floor – Lary Berman, No Peace No Honor, p.221).

    TT Thiệu từ chức ngày 21-4-1975 nhưng BV vẫn tiến quân, sáng 29-4-1975 Đại sứ Martin được lệnh thi hành chiến dịch Operation Frequent Wind (Gió đều), đài phát thanh quân đội Mỹ cử bản “Giáng Sinh Trắng” , người xướng ngôn viên nói “Hôm nay tại Sài G̣n 105 dộ và đang lên” đó là mật hiệu đă định trước cho kiều bào Mỹ biết đế tới địa điểm tập trung di tản. Máy bay trực thăng từ hạm đội bắt đầu tới xà xuống nóc ṭa đại sứ Mỹ và những địa điểm khác để bốc người.

    Cuộc di tản tại VN không êm thắm như bên Căm Bốt, từ bao lâu nay cảnh hốt hoảng lúc trực thăng rời nóc ṭa đại sứ đă ăn sâu trong tâm khảm nhiều người Mỹ, một vết thương kéo dài khác của chiến tranh, một h́nh ảnh tiêu biểu khác của sự tan vỡ kéo dài một thập niên.

    Henry Kissinger nói với các phụ tá trong ṭa Bạch Ốc bằng giọng khôi hài cay đắng

    “Tôi là một Bộ trưởng ngoại giao duy nhất đă mất hai quốc gia trong ṿng ba tuần lễ”

    Nhiếp ảnh gia trẻ Kennerly chụp h́nh quang cảnh rồi nói
    “Tin mừng là chiến tranh đă chấm dứt, hung tin là chúng ta thua trận”.

    Sau này Kissinger viết.

    “Lần đầu tiên trong thời hậu chiến, Hoa Kỳ đă bỏ rơi một dân tộc thân thiện vào tay Cộng sản, họ đă từng tin tưởng chúng ta”
    (Walter Isaacson: Kissinger a Biography, p.647)

    Sự thực Kissinger nhận định không đúng lắm, Hoa Kỳ đă từng bỏ rơi Trung Hoa năm 1949 và Đông Âu năm 1945.

    Trong chính phủ, Kissinger là người cổ vơ hăng hái cho viện trợ cần thiết, ông ta tự coi có trách nhiệm v́ đă đàm phán tại Paris , sau này ông viết trong hồi kư.

    “Hồi đó tôi đă không kư Hiệp định nếu không được Quốc hội quả quyết sẽ tiếp tục viện trợ dồi dào sau khi ta rút quân. Tôi không ngờ chúng ta có thể kết thúc bằng cách vứt bỏ cà một dân tộc mà ta đă kết nghĩa đồng minh”
    (Henry Kissinger: Years of Renewal – page 476)

    Thấm thoát từ ngày những đơn vị tác chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng cho tới nay 1975 đă mười năm qua, quân Pháp rút khỏi VN tới nay đă tṛn hai mươi năm, quân Pháp trở lại Việt Nam tái chiếm thuộc địa đă ba mươi năm qua. Tác giả Walter Isaacson nhận định (Kisinger a Biography, p.647) tất cả những ǵ Hoa Kỳ đă lưu lại để cho 58,022 người tử trận thấy chỉ là một chút uy tín do thực hiện được Hiệp định ngưng bắn, nó kéo dài vừa đủ để che dấu sự rút lui của người Mỹ. Ḥa b́nh và danh dự mà Kissinger tuyên bố tháng 1-1973 đều không lâu dài. Nhưng Hiệp định Paris ít ra cũng đă tạo được mục đích để Hoa Kỳ từ bỏ lời hứa của họ với Sài G̣n và cái hậu quả mất uy tín thực ra cũng mơ hồ, cái mà Kissinger đưa ra chỉ là mơ hồ
    Điều ấy cho Kissinger một chút an ủi, ông ta nhận định rằng sự thất bại ở VN năm 1975 thể hiện một cú đánh vào uy tín nước Mỹ, nó làm tiêu hao sức mạnh của những lời đe dọa cũng như hứa hẹn của Hoa Kỳ trên thế giới. ông nói.

    “Do bản tính tự xá tội, chúng ta đă phá hỏng cơ bản tự do khắp nơi, sự đầu hàng ở Đông Dương mở màn cho một thời đại ô nhục của Hoa Kỳ nó kéo dài từ Angola tới Ethiopia, tới Iran, tới Afghanistan”
    Trang 647

    Cũng theo tác giả Walter Isaacson, “hậu quả Domino” mà Kissinger và nhiều người khác tiên đoán không rơ ràng. Việt Nam và Căm Bót đều đă trở thành Cộng sản, nhưng họ lại đánh lẫn nhau thay v́ đổ sang Thái Lan. Các nhà chính khách Hoa Kỳ đă không hiểu rơ để rồi hy sinh biết bao nhân mạng.

    Sau khi chiến tranh chấm dứt, trả lời phỏng vấn đài NBC Kissinger nói có lẽ ta sai lầm khi quá quan tâm đến một vấn đề mà bỏ quên những chuyện khác, cuộc chiến này có tính cách Việt Nam hơn là có thể đưa tới ảnh hưởng quốc tế.

    Thiếu tướng Vernon Walters tùy viên quân sự, người từng đưa Kissinger đi về trong những buổi đi đêm tại Paris , cho tới nay vẫn giữ được một lá cờ vàng nhỏ của miền nam VN trong văn pḥng ḿnh. Khi được hỏi về lá cờ này, ông Tướng giải thích nó tiêu biểu cho “một công việc c̣n dang dở” (unfinished business). Chúng ta đă để cho 39 triệu người rơi vào ṿng nô lệ. Đó là một di sản của Ḥa b́nh trong danh dự (Theo Larry Berman, No Peace, No Honor p.273).

    Đầu thập niên 70, đa số người Mỹ chống chiến tranh VN và chủ trương rút khỏi Đông Dương, người dân đánh giá cuộc chiến này tàn ác, bẩn thỉu, tốn quá nhiều xương máu vô ích, đáng ghê sợ, dài vô tận không biết đến bao giờ mới chấm dứt … phải ra khỏi Đông Dương, sống chết mặc bay. Quốc Hội Mỹ do thúc đấy của phong trào phản chiến cắt quân viện bỏ rơi đồng minh không thương tiếc, cho rằng nó chỉ là cuộc chiến tranh sai lầm tai hại, đă khiến cho đất nước bị phân hóa, dầy ṿ cắn xé nhau tan nát trong bao năm qua, quá tốn kém… phải bỏ Đông Dương bằng mọi giá, từ bỏ những lư tưởng xa vời để quay trở về với quyền lợi của nước Mỹ.

    Những người Mỹ ủng hộ chiến tranh VN chỉ là thiểu số gồm các nhà lănh đạo hành pháp như Tổng thống Nixon, Tiến sĩ Kissinger, Bộ trưởng Quốc pḥng Laird… giới chức quân sự và nhiều nhà học giả nghiên cứu về chiến tranh VN… đổ lỗi cho Quốc hội cắt quân viện khiến cho VNCH sụp đổ, làm phương hại tới uy tín của đất nước trên thế giới. Họ lên án Hoa Kỳ đă tàn nhẫn bỏ đồng minh rơi vào ṿng nô lệ của Cộng Sản, những người bạn yếu thế này đă hết ḷng tin tưởng vào Mỹ. Họ cho rằng việc rút bỏ dù chính đáng tới đâu cũng không có giá trị đạo đức.

    Bên nào nói nghe cũng hay, cũng có lư cả, nhưng chỉ giới trẻ, thanh niên là thích thú nhất, ít ra họ sẽ không phải đi lính đóng đồn xa xôi vạn lư bên kia trái đất. Những người này chiếm đa số trong phong trào chống chiến tranh, đ̣i rút quân về nước bỏ Đông Dương.

    © Trọng Đạt

    © Đàn Chim Việt

    ——————————————–

    Tài Liệu Tham Khảo

    Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
    Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam -The Free press 2001
    Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor House, New York 1985
    Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
    Robert Dallek: Partners In Power, Nixon and Kissinger – Harper Collins publishers 2007
    The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
    Stanley Karnow: Vietnam , A History, A Penguin Books 1991
    Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war
    Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
    Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
    Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến tranh Việt Nam 1963-1975, Đại Nam 2001.
    Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003

  7. #87
    Long4ndShort
    Khách
    http://cuunguytoquoc.blogspot.com/20...a-do-thai.html

    CỨU NƯỚC VIỆT NAM _ MỸ VÀ DO THÁI



    “HÃY CỨU NƯỚC VIỆT NAM” (Chu Tất Tiến)
    “AI CỨU VIỆT NAM?”(Nguyễn Quốc Đống 4/3/12)
    Đó cũng là lời của dân Việt quốc nội và hải ngoại.

    -oOo-

    CAN ĐẢM VỚI KẾ HOẠCH CỨU NƯỚC VIỆT NAM

    I - Đấu tranh chống cộng cứu nước 37 năm

    1- Mọi người điều biết, vinh quang của một dân tộc không phải miễn phí, hay là quà bố thí, hoặc do tấm lòng thương mến hay thương hại của ai mà có. Tất cả phải trả bằng xương, bằng máu, bằng não, bằng trí, bằng nghị lực, bằng hy sinh, bằng hùng tâm, bằng dũng chí. Ai cũng biết điều đó. Nương theo ý kiến của đa số nhân sĩ, trí thức, hào kiệt, tôi xin tự xét chúng ta đã làm gì cho đất nước trong 37 năm qua để có thể rút kinh nghiệm cho một cứu cánh cứu nước đang bị xâm lăng. Với 2 bài hát của Việt Khanh hy vọng không ai còn chối sự kiện trầm trọng, cấp kỳ cứu nước bị giặc Tàu xâm chiếm. Những việc mà NVHN tưởng làm để cứu nước thoát khỏi chế độ CS trong 37 năm qua, nhìn lại, phải buồn mà nói rằng hậu quả thật quá độc hại cho Tổ quốc và dân tộc. Vì nó đã khiến CSVN ngày càng thêm tức giận mà trả đủa đồng bào quốc nội, đã khiến CSVN thêm nhu nhược mà ngã theo Tàu.

    2- Suốt bao nhiêu năm nay, tôi vẩn biết đồng bào mơ mong đánh sập chế độ CSVN để có tự do dân chủ, để chống xâm lăng. Nhưng ai cũng biêt rằng trên thế giới chưa có nước nào chiến thắng được cộng sản ngay cả đại siêu cường Mỹ. CSVN đã nắm chính quyền vững chắc 37 năm rồi, không ai có thể truất phế, trừ chính CSVN tự động thay đổi. Vậy thì trong lúc chờ đợi, chúng ta có thể lo chống xâm lăng, như vậy có được không? Việc bắt tay cùng nhau chống xâm lăng sẽ giúp CSVN thay đổi chính thể nhanh chóng, tôi cam đoan là như vậy. Vì một khi CSVN thoát khỏi ách kèm kẹp của TC, thì CSVN sẽ tìm con đường sống lịch sử cho chính CSVN. Thực tế là muốn chống xâm lăng thì phải có chính quyền CSVN, quân độc CSVN. Đây là việc bất đắc dỉ để cứu nước, đồng thời cũng cứu ĐCSVN thay đổi thể chế chính trị. Như vậy tạm được hay không? Chúng ta vẩn sống hải ngoại, có thiệt mất hay gặp nguy hiểm gì đâu. Chỉ cần lên tiếng chống giặc Tàu.

    3- 150.000 lá phiếu vì NHÂN QUYỀN cho VN. Nước bị xâm lăng thì nhân quyền làm sao? Có độc lập rồi, sẽ dễ dàng có tự do dân chủ nhân quyền. Có thể hy vọng như vậy không? Hay còn con đường khác tốt hơn. Chắc chắn nhiều người sẽ nói là phải truất phế CSVN trước rồi chống ngoại xâm sau, vì sợ CS không thay đổi. Nhưng chúng ta chủ trương cứu nước trước đã, mọi chuyện khác hạ hồi phân giải. Khi rời xa khỏi tay giặc Tàu thì CSVN sẽ tự do tự thay đổi, đó là một thực tế.

    4- Tôi xin nói nhỏ, xin CĐ-NVHN đừng sốc nhé: TNT với 150.000 là phiếu là rất đẹp, nhưng gởi TT Obama là như nước chảy lá môn, phải chi gởi trực tiếp cho Bộ Chính trị ĐCSVN thì có lý hơn. Vậy thì tại sao chúng ta không làm một TNT hay KIẾN NGHỊ THƯ với vài triệu hay vài chục triệu lá phiếu không chỉ của NVHN mà của cả người Việt quốc nội (NVQN) gởi Bộ Chính trị CSVN. Đây là cú đánh CS trong hoà bình một cách táo bạo. Biết đâu sẽ có hiệu quả tốt đẹp.

    5- Nếu có KIẾN NGHỊ THƯ và có vài triệu lá phiếu, chúng ta sẽ triệu tập Đại hội nghị thành lập Phái Đoàn Đại diện toàn dân với Ban Tham mưu, Ban Cố vấn cùng với các Ban ngành đoàn thể tôn giáo. Chúng ta yêu cầu đối thoại ngoại giao khoáng đạt, chân chính, nghiêm chỉnh với Bộ Chính Trị ĐCSVN, với Quốc hội VN, với QĐNDVN, với MTTQVN. Xin CĐNVHN nghiên cứu thử xem có thể thi hành được không? Xin anh Trúc Hồ cho biết ý kiến.

    6- Quí vị biết muốn đánh giặc Tàu, chỉ có chính quyền CSVN đương kim là có bổn phận, trách nhiêm và khả năng làm việc ấy. Nhưng vì thù hận, quí vị không tạo sức mạnh, không ủng hộ, không khuyến khích giúp cho chính quyền CSVN thắng Tàu. Sự chống đối suốt 37 năm nay của CĐ-NVTNCS đã làm cho ĐCSVN trở nên cô độc, nhu nhược, bị Tàu dụ khị mà dâng đất-đảo biển-rừng-núi cho kẻ thù để trở thành nô lệ chúng. Ai cũng công nhận rằng muốn chống xâm lăng cứu nước thì phải dựa vào nhiều thế lực, mà thế lực đầu tiên là chính quyền XHCNVN đương kim. Sau đó mới nói đến nhờ sự cứu viện của các siêu cường thế giới. NVHN bằng lòng như vậy không? Nếu yêu Tổ quốc và với mọi giá muốn cứu nước, phải làm lành với nhà cầm quyền VN. Có thể như vậy được chăng?

    7- Lúc chính phủ VN nói rằng NVHN là “khúc ruột ngàn dặm”. Lúc chính phủ XHCNVN đưa ra NQ 36, tất nhiên họ có hậu ý muốn nắm quyền cai trị CĐ-NVHN. Nhưng nếu chúng ta là những nhà làm chính trị, thì phải biết tương kế tựu kế. Phải biết lật ngược từ thế bị động ra thế chủ động. Từ thế bị chinh phục ra thế đi chinh phục. Có phải đó là chiến lược và chiến thuật của anh hùng hào kiệt, của chính nghĩa quốc gia không?

    8- Chúng ta chưa có đủ tham mưu chính trị. Giặc Tàu không được CSVN mời với NQ 36, nó tự đặt 16 chữ vàng, 4 điều tốt để lôi kéo CSVN. Cái trí thông minh của giặc CS Tàu thắng anh hùng hào kiệt NVQGHN. Tôi xin kể câu chuyện: Năm 1945, anh chị tôi cùng các thanh thiếu niên tỉnh Quảng Trị tổ chức văn nghệ. Tôi được mời vào ban múa trẻ em, một đoàn nữ, một đoàn nam, múa chung. Được mời ưu tiên đóng vai chính, tôi làm bộ ỏng ẹo không nhận. Không ai thèm tôi nữa. Họ bắt đầu tập cho một nhóm trẻ em múa hát rất đẹp, rất hay và rất lạ. Tôi đứng nhìn xem, nhưng chẳng ai thèm mời tôi nữa. Kéo dài nhiều ngày, chịu không nổi, cũng không dám mắc cở, không dám sợ xấu hổ nữa, tôi xin chị tôi cho tôi múa. Chẳng ai dám cười tôi, tôi giữ vai chính của bài múa ngay. Và tôi đã thành công, toại nguyện.

    9- Trong Y khoa, trị bệnh có nghĩa là dùng cái độc nhỏ trị cái độc lớn. Đánh bài bạc là hy sinh đồng tiền nhỏ để mong có đồng tiền lớn. Đi câu là bằng lòng mât con tép để có con cá. Cứu một mạng người còn là việc rất quí. Cứu Tổ quốc, cứu Dân tộc thì quí đến đâu, mà toàn thế giới không ai làm được, chỉ mong CĐ-NVHN bạo gan, dẹp mọi tự ái, hận thù mới mong làm được. Vậy thì chiến lược và chiến thuật như thế nào đây.
    Kính thưa quí vị, những ai tham gia DĐ từ 5 năm nay thì biết rằng tôi đã mãi miết không ngừng, viết không biết mấy trăm bài kêu gọi đồng bào dẹp bỏ hận thù, chủ trương đại doàn kết với chính quyền CSVN để chống xăm lăng cứu nước. Tôi bị chụp mủ là thi hành NQ 36.
    Chúng ta cần nhiều đảm lược, nhiều tham mưu, cần tương kế tựu kế bắt tay với chính quyền CSVN, cần đoàn kết giữa CĐNVHN, cần đại doàn kết với CSVN để gây cho VN lực lượng chống xâm lăng. Khi chúng ta bằng lòng đối thoại chân thật với CTB CSVN thì đương nhiên mọi tù nhân chính trị sẽ được tha hết. Trái lại
    đánh “võ mồn” CSVN tức là thúc đẩy họ theo Tàu và bỏ tù đồng bào yêu nước, bằng cớ là bao nhiều người bị bắt, bị giết kể cả đảng viên CS cao cấp chống Tàu. CANDVN không đánh giặc Tàu mà quay lại đánh người dân yêu nước cũng do CSVN bị đánh phá bằng võ mồm.


    II- NS Trúc Hồ với TNT hay Kiến Nghị Thư

    1- Cùng là nhạc sĩ với Việt Khang, từ tâm tư yêu nước đến suối nhạc tuôn ra cùng hoà một điệu, NS. Truc Hồ cảm thông sâu sắc với NS. Việt Khang. Nhờ cơ sở SBTN, TH đã phổ biến rầm rộ 2 bài hát của VK, thương VK và dốc tâm muốn cứu Anh khỏi tù tội bằng TNT. Công việc đã thành tựu bất ngờ. Nhưng tiếc thay TH là một nhạc sĩ tài ba chứ không phải là nhà chính trị. Đáng ra TH kêu gọi toàn thể nhân sĩ, trí thức, hào kiệt nam nữ 5 châu, kêu gọi tổ chức một cuộc đại hội, lập Ban tham mưu, Ban cố vấn. Nghiên cưu mục tiêu của TNT, chiêu mộ, tuyển lựa hiền tài theo đúng tinh thần dân chủ (nMgV) và nhân quyền (toàn thể CĐ-NVHN trên thế giơi). Người khởi xướng, người lãnh đạo không cần là người có tài mà là người biết tim kiếm hiền tài, biết dùng người tài. Kêu gọi được 150.000 người ký thĩnh nguyện thư gởi TT Obama của Hoa Kỳ là một thành công nhân sự bất ngờ, nhưng rất tiếc vì thiếu tham mưu nên không được xử dụng đúng mức.

    2- Làm một công việc hệ trọng mà không có ban tham mưu, ban cố vấn, không kêu gọi nhân tài anh hùng hào kiệt bốn Phuong đóng góp cơ mưu, tài năng, trí tuệ là chuyện rất đáng tiếc. Bao nhiêu nhân tài, anh hùng hào kiệt, có bằng cấp khoa bảng hay không, không là vấn đề, nhưng phải có trí óc, mưu lược, khôn ngoan, phải có đường lối. Thật ra TH có chiến lược, nhưng không có chiến thuật.

    3- Nay NS Trúc Hồ, TGĐ Đài SBTN có cơ sở quan trọng của NVHN, lại được sự ủng hộ với 150.000 chữ ký. NS Trúc Hồ đã thẳng thắn đưa ra chiến lược cứu nước. Tôi rất mừng khi biết rõ anh TH chủ trương kéo CSVN xa ra khỏi bàn tay tinh ma của giặc Tàu, để xích lại gần thế giới tự do, với đại siêu cường Hoa Kỳ hiền lành, rộng rãi. Kêu gọi Hoa Kỳ bán khí giới nguyên tử tối tân cho VN, để BĐNDVN có đủ khí giới chống giặc Tàu. Giúp VN phát triển về mọi mặt, Y tế, khoa học, Giáo dục, Kinh tế, Xã hội và nhất là chính trị. Chúng ta cũng phải có lòng cao thượng độ lượng mà cam kết, sau khi chống xâm lăng, sau khi có tự do dân chủ nhân chủ, mọi người dân VN sẽ bỏ qua hết mọi hận thù quá khứ. Kể cả những việc tham ô, ai có tiền thì ráng kinh doanh cho nước giàu dân no ấm. Không bao giờ có chuyện học tập cãi tạo, tù đày, không khươi lại quá khứ để hành hạ nhau, để làm đồ máu người VN nữa. Ngày 30/4 sẽ là ngày lễ Đại Đoàn kết dân tộc, hoặc là chon chặt xuống đất cái ngày bất hạnh ấy.

    TRƯNG TRẮC





    2012/3/29 Dr Nguyen Thi Thanh <dr.thanh101@gmail.c om>

  8. #88
    Long4ndShort
    Khách
    Thưa anh BS Dặng Vũ Ái,
    Thưa anh Hà Miên Trường,

    Trước hết tôi xin nói chuyện với anh BS Ái một chút.
    Thưa anh, trong đời, ai lại muốn mình chê mình. Nhưng nếu không khiêm tốn để thấy những cái không hay của bản thân để sửa đổi, giáo dục chính mình và con cháu thì làm sao tiến.
    Nếu mình biết nghĩ đến tính nết của người VN như thế nào thì mình sẽ tự trách mình, đừng nên buồn vì người khinh mình.
    Ở Việt Nam ngày trước có trường Nữ Tiểu và Trung học cấp I và II theo chương trình Pháp hoàn toàn, nổi tiếng cả nước là Couvent Des Oiseaux Đà Lạt do các Mẹ người Pháp và cả người Việt điều khiển. Sự giáo dục của họ cho nữ giới về mọi phương diện thật tuyệt diệu. Đến độ một người đàn ông muốn cưới vợ mà nghe rằng người thiếu nữ xuất thân ở trường Các Mẹ Đà Lạt thì họ rất mừng.
    Vì biết như vậy nên tôi đã cố xin ba mạ tôi cho tôi và em gái út tôi lên học Đà Lạt tệ lắm là 1, 2 năm để học được những giáo dục văn hoá và đức độ theo văn minh Tây phương của họ mà luân lý, gia đình VN không có. Với gia đình thì tôi đã phải rất buồn suốt cả thời niên thiếu vì vấn để trọng nam khinh nữ.
    Sự giáo dục con người từ nhỏ cho đến tuổi dậy thì rất quan trọng. Tôi không có ý nói dông dài về vấn đề giáo dục ở đây. Nhưng không ai chối cãi khi có con mà cho vào học trường các LM, các Mẹ, các Soeurs, các Frères dạy thì trẻ em được giáo dục tận tâm về mọi mặt, nhất là luân ly, rất tốt lành. Ngay cháu nội cháu ngoại tôi bây giờ ở Mỹ, các con tôi đều phải cho đi học trường tư của các Bà Xơ dầu rất tốn kém.
    Trong thời gian học và làm việc ở Paris, một hôm tôi lái chiếc Deux Chevaux đi vào con đường nhỏ, chiếc xe đi trước mặt tôi ngưng lại. Một bà già trong xe trụt xuống và ra trước mui xe lom khom làm gì đó, tôi ngạc nhiên thấy bị kẹt đường. Bèn trụt xuống xem, thì ra giữa đường có những mãnh kiếng vở, bà già đang lom khom lượm, tôi cũng phải khen bà ta rồi cùng lượm mảnh kiếng vở với bà.
    Chị dâu tôi là người Pháp, làm việc tại Unesco, có thằng con trai chạy chơi vấp té, khóc. Chị tôi đến đứng xem, nói rằng “Đó là lỗi của con không ý tứ, nhưng không can gì cả đâu, hãy đứng dậy đi, con trai yêu của mẹ, ngoan.” Thằng bé đứng dậy vui cười. Ai cũng biết rằng, đa số các bà mẹ VN, mổi khi con bị vấp ngã thì nói rằng “Ôi, cái nền nhà nầy nó làm con ngã há, thôi để mẹ đánh nó cho con.” Trả thù được như vậy là thằng bé khoái.
    Năm vừa qua tôi đi xe Buýt giữa Sài Gòn, chiếc xe mới tinh, rất đẹp. Có thùng riêng cho khách vất rác. Ngồi gần bên tôi, mấy mẹ con 1 bà trẻ, lấy nem chả, bánh gói là ra ăn trên xe. Tôi nói “Em này, có thùng rác đây, đừng vứt giữa đường, cảnh sát phạt đó.” Cô ta nhìn tôi cười rồi thản nhiên vứt dần hết lá chuối ngoài đường. Các nhà mặt tiền thì đem rác nhét xuống lổ cống, dầu có chắn lưới thì họ kéo lưới ra vứt rác, nhất là những cây xốp chẹn trong các thùng đựng máy móc làm nghẹt đường cống luôn, sinh ngập lụt thành phố.
    Thời Đệ I CHVN, mấy ông dân biểu đi Paris ở trong những khách sạn lớn. Mổi sáng tự động mặt pyjama xuống ăn sáng tự nhiên, còn ra đường dòm trước ngó sau xem xe chạy. Thường thường giao thiệp với người da trắng, dầu có cãi nhau om sòm, xong là bắt tay nhau nói “On est quite, d’accord ?” Với VN có cãi là sinh thù, chưởi nhau tục tĩu ngay.
    Suôt 37 năm người VN di tản ra ngoại quốc đã gây nên lắm chuyện kém văn hoá, khiến người da trắng sinh có thành kiến không đẹp ít nhiều với người Việt di tản. Trong số dân ta di tản thì thật là đủ loại, vàng thai lẫn lộn. Có người đang bán cá chợ Vườn Chuối tháng trước, tháng sau đã lái xe chạy ở Mỹ. Lại còn tác phong giữa người Việt với nhau về mọi vấn đề, nhất là tham lam ăn uống trong các Buffets, tiền bạc, tranh dành ‘chức phận ảo’ trong các hội hè đến ra toà kiện tụng…vv và vv…
    Như vậy thì thưa anh Đặng Vũ Ái, NVHN là một CĐNVHN hổn tạp, vàng thau lẫn lộn thượng vàng hạ cám, làm sao không khiến người ngoại quốc không có thành kiến mà khinh rẽ. Vả lại trong khi lớp người Nhật ra ngoại quốc là SV, trí thức, doanh nhân hoặc công chức. Ngoài ra người Nhật vốn có 1 tinh thần lễ nghĩa đạo đức, văn hoá rất cao, nên được trọng là đúng thôi. Đây là điều ai cũng biết, mình cũng nên tự hỏi lấy mình.
    Vì người ngoại quốc họ không phải nhìn cái bề ngoài, ở khách sạn đắt tiền hay ăn mặc đồ sang trọng, mà họ trọng ta đâu. Văn hoá, lễ nghĩa, tâm hồn, phương cách giao thiệp quan trọng hơn nhiều. Tôi thường giao thiệp nhiều với đầm ở Paris, và Montréal nầy, khi nào tôi cũng thấy tây đầm rất tốt với mình. Đến nổi tôi rất ngại, như khi tôi giao thiếp với 1 bà GĐ làm Bảo hiểm xe hơi, hay 1 bà GĐ ngân hàng trẻ, để yêu cầu đừng lấy tiền phục vụ tài khoản của Hội Bảo Trợ Trẻ Em Cơ Nhở (Victimes de Pédophilie), thì họ chấp nhận ngay, và khi ra về còn đưa tôi ra tận cửa, rồi ôm hôn nhau. Tất nhiên không phải họ đối với ai cũng như vậy, còn tuỳ cách ăn nói, đối xử với nhau trong giao thiệp và công việc mà ra.
    Tôi cũng xin mạn phép nhắc chuyện nầy cho vui, anh đừng giận tôi. Cách đây 4 năm tôi chống xâm lăng Tàu, bị nhiều người chỉ thích chống CS mà thôi, chụp mủ, chưởi tôi om sòm. Anh lên DĐ tỏ ý đồng lòng với tôi, binh tôi. Tôi rất mừng gặp đồng chí. Nhưng tôi lại thật vô duyên quá, tường anh còn trẻ, nên tự động gọi là em xưng chị. Bị anh giận, mắng tôi một trận, tôi xin lỗi mãi, đến mấy năm anh mới tha cho tôi mà giao thiếp lại. Vì trên DĐ có không ít người như Francis Dương, Hoàng Nam, Huyền Binh, Binh Tinh… đều chị chị em em với tôi… và có dịp đi đâu là tôi ghé thăm họ nói chuyện rất thú vị. Chính vì vậy mà tôi tưởng bở, làm anh giận tôi một thời gian dài. Nay nhắc lại cho vui, xin anh đừng giận tôi nữa nghe.
    Bây giờ xin góp chút ý kiến về vấn đề Do Thái – Mỹ.
    Ngày trước vào khoảng 1966 – 1967, tôi xem trên truyền hình thấy quay phim chiến tranh Do Thái /Ả Rập một cảnh làm tôi suy nghĩ mãi và không bao giờ quên: Đó là cảnh sĩ quan và đoàn nữ binh Do Thái trườn dưới giây kẻm gai tiến đánh giặc rất kham khổ. Tôi phục quá, rất hảnh diện cho phái nữ đánh giặc, mà còn thêm tưởng nhớ đến nữ chiến binh của Vua Trưng Vương. Và nghĩ rằng ngày nay khi người đàn bà DT đã ra tay như vậy tất sẽ thắng trước quân đội Ả Rập, kẻ chỉ biết ngược đãi, giam cầm đàn bà.
    Ở Paris, trong giới SVQG, cà ở Canada người dân Tây thường dùng chữ “Juif” để gọi những ai hà tiện, keo kiệt, lom lom giữ tiền làm giàu. Đến khi giao thiệp với Do Thái mới thấy họ bon chen từng xu, keo kiệt mà giàu, chứ không phải do bốc lột hay tham ô. Họ lại thích giúp đở đồng bào họ cùng làm giàu. Có khi một ông nhà giàu, mấy tủ áo quần, mà lại vẩn thích mặc đồ củ kỷ, đồ rách nữa. Và chính nhờ tính tiết kiệm làm giàu của DT đã lây qua người Mỹ. Nhờ vậy mà cá nhân Mỹ giàu, đất nước Mỹ giàu. Chứ đâu như VN ta, giàu do bóc lột, do tham những, mà giàu lên một chút là xài sang, không chia sẽ với đồng bào nghèo, lại đua nhau vất tiền qua cửa sổ không tiếc. Xài tiền làm oai, đua nhau khoe khoang, chưng diện. Ngày xưa các công tử Bặc Liêu coi tiền như rác, đốt tiền chơi, ngày nay đại gia, cậu ấm cô chiêu đua nhau xài tiền như nước.
    Là người VNQG, ai cũng đau khổ vì Do Thái mà mất nước. Nhưng mình dở thì phải chịu thôi. Anh Ái nói rằng:
    “KHÔNG CÓ MỸ TH̀ DO THÁI CHẾT . KHÔNG CÓ DO THÁI TH̀ MỸ RA SAO : MỸ SẼ GIẦU CÓ HƠN NỮA .MỸ ĐƯỢC CẢ THẾ GIỚI KÍNH NỂ .
    MỸ ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI YÊU QÚY MỸ HƠN , V̀ MỸ RẤT RỘNG LƯỢNG , VIỆN TRỢ MỸ RẤT DỒI DÀO . BẰNG CÁC CÁCH TÍNH TOÁN , BẰNG CÁC ÁP LỰC , CUỐI CÙNG QUÁ NUẢ VIỆN TRỢ MỸ VỀ TAY DO THÁI….”

    Thưa anh, đúng như anh nói vào thời điểm mà Do Thái cần Mỹ cứu giúp. Nhưng hằng mấy trăm năm trước đó, nếu không có Do Thái thì Mỹ đâu trở nên giàu có và hùng mạnh như ngày nay. Và nếu không có DT kinh doanh giỏi thì làm sao Mỹ có tiền mà rông rãi giúp các nước nghèo. Mỹ biết công lao của DT cho nước Mỹ, vả lại Mỹ chính là Tân Do Thái đó, Tân Do Thái là Mỹ đó. Anh và tui tuy 2 mà là 1 đó. Phải biết sự thật là như vậy. Không có DT, khoa học Mỹ và thế giới đâu có phát triển nhanh chóng như ngày nay. Từ lúc còn niên thiếu, tôi vốn biêt rằng, trong những cơ xưởng nguyên tử của Mỹ, Nga, Pháp, Anh Đức và sau nầy là Tàu đều do người Do Thái đưa vốn vào và lãnh đạo hay người của họ đưa vốn vào. Họ rất đoàn kết với nhau dầu là ở trong các nước chống nhau. Thế giới DT rất hoà hợp, đoàn kết và giúp đở nhau, mọi chuyện là do DT quyết định trong tinh thần dân chủ.

    Và chính Do Thái chọn Mỹ vì thấy Nga độc ác quá. Việc lên cung trăng Do Thái cũng tự chi cho 2 bên, mổi bên 1vinh dự. Nga có tàu chở chó lên đầu tiên, Mỹ có người đổ bộ trước. Và chính vì người DT nắm nguyên tử tại Nga cũng như Mỹ và các nước Tây Phương, nên họ cùng đồng ý không nở để thế giới phải tiêu diệt, nên mới chỉ có chiến tranh lạnh trong thời gian qua.

    Và trong việc sinh ra CS quốc tế, cũng như dẹp CS Nga và các nước khác, cũng la do DT. Nếu DT giúp ai thì người đó thắng. Nếu các nền VNCH I và II biết ngoại giao với DT thì chắc chắn họ sẽ giúp VNCH hơn là giúp CSBV và giúp CS Tàu lấy Hoàng Trường Sa của VN. Nói một cách khách quan thì Do Thái tốt hơn Nga hơn Tàu nhiều đó. Ngày nay họ không còn kỳ thị chủng tộc với da đen da vàng cũng là nhờ DT. Buồn giận người DT đối xử tệ với VNCH, nhưng phê bình thì phải khách quan thôi. Tôi có mấy ông thầy Y khoa tại Paris, mấy ổng rất ghét SV và BS Ả Rập, nhưng đối với VN thì mấy ổng tỏ ra tử tế.

    Khi qua Mỹ chơi lần đầu từ năm 1993, tôi đã biết ngay chính quyền Mỹ do 9 hay 11 ông Do Thái tài phiệt sống ngoài đảo, đứng sau lưng chính quyền, lãnh đạo nước Mỹ và thế giới. Đường lối cũng do họ, chọn tổng thống cũng do họ có khác gì ĐCSVN, chỉ khác là họ không độc ác và tham ô, bất công như CS thôi. Với người tốt, biết điều thì họ tử tế. Mỹ đánh nhau vớ Nhật, thả 2 bom nguyên tử, nhưng rồi Nhật độc lập trong liên minh Mỹ thôi. Đó chính là đường lối của DT. Nếu chính quyền ông Thiệu không tham nhũng hối lộ, buôn ma tuý nha phiến đường giây quốc tế tùm lum thì Do Thái đâu có ghét mà bỏ.

    KS Bùi Như Hùng đơn thương độc mã dựng nên phong trào chống DT khủng khiếp tại Montréal, tất nhiên chưa chết hay tàn tật là may. Nếu chúng ta biết ngoại giao, biết tâm lý với DT, chúng ta đã thắng CSBV rồi. Vậy nên nói như người xưa “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Thanh

    ***

  9. #89
    Long4ndShort
    Khách
    Bây giờ xin nói chuyện với anh Hà Miên Trường,
    Thưa anh, tôi phải thành thật nói lên đây lòng mến phục của tôi về sự hiểu biết sâu rộng và có căn bản vững vàng của anh. Tôi hoàn toàn tán thành những ý kiến của anh về dân tộc Do Thái. Những ý kiến đó rất đúng sự thật không phải dựa trên tài liệu hay tin tức báo chí mà rõ ràng anh đã sống, đã hiểu, đã biết trên một căn bản rất khoa học và tâm lý.
    Những hiểu biết về con người và cuộc sống của dân DT rất đáng là cái gương cho chúng ta ghi vào sách giáo khoa, để dựng nên một chương trình giáo dục xã hội bằng truyền hình, truyền thanh báo chí cho mọi người già trẻ. Có thể chúng ta cần nghiên cứu nhiều hơn nữa về người DT, người Nhật để có thể đúc kết một đường lối giáo dục và công tác xã hội, gia đình, cá nhân cho dân tộc chúng ta trong thời gian sắp đến.
    Chúng ta làm sao so sánh 1,5 triệu dân Việt di tản với 5 triệu DT là cột trụ cố cựu của nước Mỹ. DT là con đẻ, con cưng, hay là ân nhân của Mỹ trong việc hình thành Đại cường quốc Mỹ.
    Còn người Việt tị nạn là cái thớ gì, là kẻ ăn xin, bị bỏ đói trong tù Trại học tập, đợi cho ngoắc ngoải gần chết mới cứu, thì còn so sánh cái nước chi.
    Kính chào hai anh
    Rất trân trọng
    Trưng Trắc NTT
    2012/3/29 Ai Dang Vu <andredang2014@hotma il.fr>

    DOC BAI CUA BS DO THUAN CHUYEN , MA DAU LONG .

    CHUNG TÖI DI DU LICH KHA NHIËU NUOC , VA VI O NHUNG KHACH SAN CAO CÄP , LAI AN MAC CHINH TË .

    KËT QUA : AI CUNG HOI CHUNG TÖI CO PHAI NGUOI JAPAN KHÖNG ? HO RÄT KINH PHUC VA CO THIËN CAM THÄY

    RO.

    TRAM LÄN NHU 1 : KHI CHUNG TÖI NOI LA NGUOI VN , THAI DÖ CUA HO THAY DÖI.

    KHÖNG KINH PHUC , NGUOC LAI LA KHAC .

    KHÖNG THIËN CAM , NGUOC LAI LA KHAC .


    DVA




    From: * Ha_Miên_Truong * <j00sef@yahoo.com>
    To: Ai Dang Vu <andredang2014@hotma il.fr>; diendandantoc <diendandantoc@yahoo groups.com>; Dong-Hai NDH <donghainguyenduchie n@yahoo.com.au>; drthanh <dr.thanh101@gmail.c om>; pt <pt.pnvnhdcn@gmail.c om>; huuhuado <huuhua.do@sfr.fr> ; dothuan <dothuan@sbcglobal.n et>; thaison <jthaison.nguyen@gma il.com>; Quang Dang Thai <thaiquangdang@yahoo .ca>; vuquocthuc <thuc.vu-quoc@wanadoo.fr>; thuy <dangvuthuy2004@yaho o.fr>; chu loi <dvloi3@yahoo.fr>; drthanh <docteurthanh07@syma tico.ca>; drjohn <drjohndao@gmail.com >; drlien <drlien.wim-impact@bluewin.ch>; drlien <drlienvtd0702@gmail .com>; drluudat <drluudat2009@gmail. com>; dryduc <dryduc@gmail.com> ; bshieu <bshieuok@yahoo.com> ; bsdungkhue <dung_khue@yahoo.com >; bshoang <hoang4eb@gmail.com> ; bstrac <pht@videotron.ca> ; bschinh <tuchinh2@orange.fr> ; phamhoaiviet <pham_hoaiviet1@msn. com>; phamduy <phamduy@aol.com>; h.c.lân <hoangcolan@aol.com> ; tesla vu <teslavu@yahoo.com >
    Cc: "goidan@yahoogroups. com" <goidan@yahoogroups. com>; banduong <banduong05@yahoo.fr >; ttminh <attminh@gmail.com >; "ChinhNghiaViet@yaho ogroups.com" <ChinhNghiaViet@yaho ogroups.com>; "diendanviahe@yahoog roups.com" <diendanviahe@yahoog roups.com>; "thong_tin_tu_do@yah oogroups.com" <thong_tin_tu_do@yah oogroups.com>
    Sent: Tuesday, March 27, 2012 3:44 PM
    Subject: Re: AI ĐẺ RA CỘNG SẢN - BS ĐẶNG VŨ ÁI: OBAMA ĐÓN TIẾP LONG TRỌNG PHÁI ĐOÀN DO THÁI - VIỆN TRỢ TỐI ĐA CHO DO THÁI BẰNG TIỀN ĐÓNG THUẾ CUẢ DÂN MỸ - OBAMA COI THƯỜNG VNHN VỚI 150 000 CHỮ KƯ

  10. #90
    Long4ndShort
    Khách
    Kính thưa BS Đặng Vũ Ái , Kính quư vị quan tâm !




    Quả đúng như BS nói : Các chức vụ quan trọng trong chánh quyền các cấp từ Đông sang Tây trong suốt 100 năm qua đều nằm trong tay người do Thái nắm giữ , điều hành và sách động. Đó cũng là ư chính HMT nêu ra trong thư trả lời BS lần đầu tiên khi BS đặt câu hỏi : Tại sao Do Thái chỉ có 5 triệu dân mà lời nói của họ được chánh phủ Hoa Kỳ lắng nghe, trong khi 150 ngàn chữ kư( đại diện 1.5 triệu dân Việt ) lại không được OBAMA đoái hoài?


    Do Thái giỏi , mạnh và giàu có ! Đó là câu trả lời.


    Việt Nam trong tương lai cũng sẻ giỏi và giàu mạnh ngang Do Thái. Lúc đó chưa biết miu nào cắn mỉu nào. HMT tin như vậy. Xin đừng vội bi quan !


    Trong hiện tại Do Thái là chủ nhân ông đang ngấm ngầm điều hành thế giới trong kế họach "toàn cầu hóa" thế giới. Từ trong hậu trường Do Thái điều khiển Hoa Kỳ, nhưng cũng đồng thời lèo lái Nga Sô, Đông Âu và Trung Cộng. HMT đă tóm tắt ư chính trong bức email trả lời ban đầu rồi. Đẻ ra CS là phương pháp dĩ độc trị độc. Các nước CS tự ḿnh hủy hoại ḿnh, tàn phá chính ḿnh, lôi kéo quốc gia ḿnh thụt lùi về thời trung cổ lạc hậu hàng ngàn năm về trước để Do Thái sau này dễ bề thôn tính, mà không cần đến súng ống đạn dược cũng như quân đội nước ngoài tàn phá. Do Thái gài người điều khiển Nga Sô và làm điểm tựa lưng cho Mao Trạch Đông và Nguyễn Sinh Cung(HCM). Mưu sâu của Do Thái là thế. Quả thực, suốt 100 năm qua Do Thái đă cầm chân được 2 quốc gia to lớn nhất là Nga và Tàu. Cái ngu ngốc của HCM là háo danh và tham tiền ( thích làm nô bộc ngoại bang ) nên đă lọt bẫy CS, chia đôi đất nước, gây tang tóc cho hàng triệu người dân vô tội, thụt két do chiến tranh kéo dài khiến cả nước phải c̣ng lưng trả ngu phí và đẩy đưa dân tộc vào chỗ lầm than. Cho nên phải lật đổ CS là chuyện trước mắt, càng sớm càng tốt. Ngày nay Nga không c̣n nữa. Tàu cũng chỉ c̣n là cái giẻ rách ! Khi nào được bơm sinh khí( Tiền ) vô th́ ph́nh to như chiếc khinh khí cầu , khi bị hút khí ra th́ xẹp lép như cái bị. Ai biết Tàu thiếu nợ Do Thái bao nhiêu tiền. Khi các đại tư bản rút vốn đầu tư ra th́ số phận Tàu sẽ hẩm hiu ra sao?! Cứ lấy VN làm ví dụ : Các doanh nghiệp lớn và hạng trung có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Mỹ là đại gia đầu tư hàng đầu. Các quốc gia khác cũng tranh nhau chia phần. Khi các nước viện cớ VN là quốc gia mất an ninh , họ hè nhau đồng loạt rút vốn th́ số phận VN ra sao? Tất nhiên là phá sản. Đói khát , cướp bóc , nổi loạn là đương nhiên. Trong khi hiện tại ác quyền VC thiếu nợ bao nhiêu? Trả đến đời nào mới hết? Có phải là biến cả nước trở thành cu ly hay không? Tội ác này đến bao giờ mới chấm dứt?


    Nếu coi ân nghĩa là 1 luân lư đạo đức th́ thế giới lại cũng phải có cái nh́n khác hơn về Do Thái.


    Muốn sản xuất phải có nguồn vốn . Ai là người cung cấp nguồn vốn nếu không phải Do Thái ? Bộ mặt thế giới ngày nay đă đổi khác . Con người được đầy đủ, sung túc hơn .


    Nói tóm lại , nhân loại ngày càng tiến bộ hơn và đó chính là mục tiêu cần đạt tới .


    Trân trọng


    * Ha. Miên Truong *






    Von: Ai Dang Vu <andredang2014@hotma il.fr>
    An: JOSE <j00sef@yahoo.com> ; diendandantoc <diendandantoc@yahoo groups.com>; Dong-Hai NDH <donghainguyenduchie n@yahoo.com.au>; drthanh <dr.thanh101@gmail.c om>; pt <pt.pnvnhdcn@gmail.c om>; huuhuado <huuhua.do@sfr.fr> ; dothuan <dothuan@sbcglobal.n et>; thaison <jthaison.nguyen@gma il.com>; Quang Dang Thai <thaiquangdang@yahoo .ca>; vuquocthuc <thuc.vu-quoc@wanadoo.fr>; thuy <dangvuthuy2004@yaho o.fr>; chu loi <dvloi3@yahoo.fr>; drthanh <docteurthanh07@syma tico.ca>; drjohn <drjohndao@gmail.com >; drlien <drlien.wim-impact@bluewin.ch>; drlien <drlienvtd0702@gmail .com>; drluudat <drluudat2009@gmail. com>; dryduc <dryduc@gmail.com> ; bshieu <bshieuok@yahoo.com> ; bsdungkhue <dung_khue@yahoo.com >; bshoang <hoang4eb@gmail.com> ; bstrac <pht@videotron.ca> ; bschinh <tuchinh2@orange.fr> ; phamhoaiviet <pham_hoaiviet1@msn. com>; phamduy <phamduy@aol.com>; h.c.lân <hoangcolan@aol.com> ; tesla vu <teslavu@yahoo.com >
    CC: goidan@yahoogroups.c om; Ai Dang Vu <andredang2014@hotma il.fr>; banduong <banduong05@yahoo.fr >; ttminh <attminh@gmail.com >
    Gesendet: 1:21 Dienstag, 27.März 2012
    Betreff: AI ĐẺ RA CỘNG SẢN - BS ĐẶNG VŨ ÁI: OBAMA ĐÓN TIẾP LONG TRỌNG PHÁI ĐOÀN DO THÁI - VIỆN TRỢ TỐI ĐA CHO DO THÁI BẰNG TIỀN ĐÓNG THUẾ CUẢ DÂN MỸ - OBAMA COI THƯỜNG VNHN VỚI 150 000 CHỮ KƯ

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 10
    Last Post: 04-06-2012, 06:13 PM
  2. Sự tàn ác của Tập Đoàn Do Thái đối với VNCH
    By anlocdia in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 34
    Last Post: 03-04-2012, 03:39 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 11-12-2011, 11:37 AM
  4. Replies: 11
    Last Post: 17-07-2011, 01:17 AM
  5. Replies: 35
    Last Post: 19-10-2010, 03:13 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •