Page 2 of 2 FirstFirst 12
Results 11 to 20 of 20

Thread: HCM-Sự Tích Con Yêu Râu Xanh Việt Nam

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 10

    Mặc dù có nhắc đến việc Hồ lấy bút danh Trần dân Tiên để tự đánh bóng (từ 1948) cùng với các bút danh khác như T. Lan, và có thể Hồ là người đầu tiên tự bốc thơm trước khi bầy nô lệ cung đ́nh của Hồ làm cái việc sản xuất các “tụng ca” về Hồ, thế mà Lữ Phương đến tận năm 2001 này c̣n tự mâu thuẫn trong đề cương về “Huyền thoại Hồ chí Minh” khi Lữ Phương viết rằng: “Nhưng do đảng cộng sản Việt Nam không chỉ muốn dừng lại với cái công lao ấy (tức công lao chống thực dân) mà c̣n vượt lên thời gian tồn tại muôn năm nên h́nh ảnh của Hồ chí Minh phải được tô vẽ sao cho thật lư tưởng, thật phi thường. Và đó cũng là chính sách tạo thần tượng của guồng máy.”



    Theo Lữ Phương, nghĩa là Hồ vô tội. Việc đề cao Hồ không do tự Hồ bốc thơm chính ḿnh, mà do “chính sách tạo thần tượng của guồng máy”! Vậy Lữ Phương hiểu guồng máy là cái ǵ, là ai? Sợ tập đoàn mafia đỏ chưa hiểu, Lữ Phương hạ bút nói rơ hơn: “Từ bên ngoài, nhiều người đă thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông!!!” Chắc chỉ có một ḿnh me-xừ mánh mung, cơ hội chủ nghĩa là Lữ Phương mới thấy Hồ buồn phiền không muốn “đám âm binh cách mạng” của Hồ nịnh Hồ(?)! Chịu không hiểu nổi ư của “nhà chính khách, nhà trí thức” dzô bưng! Hẳn là Lữ Phương cố t́nh đưa ra lập luận này để bên dưới đó có thể thuyết phục được người đọc rằng “tin tôi đi”, Hồ vô tội mà, tất cả chuyện giết nhân dân miền Nam Việt Nam, xâm lược miền Nam Việt Nam, theo Trung cộng đều là lỗi của bọn Lê Duẩn, kể cả âm mưu đề cao Hồ!!! Chắc chắn cả đời Lữ Phương cũng chỉ đọc và nghe nói về Hồ ở một giới hạn cực nhỏ mà thôi. Nếu Lữ Phương được dự những kỳ họp có Hồ th́ sẽ hiểu hơn chút nữa, đầu óc bớt tối tăm hơn. Thử giở lại những thước phim tài liệu về Hồ để thấy, dịp sinh nhật Hồ, tổ chức tại “phủ chủ tịch”, Hồ đứng nh́n ngang nh́n ngửa như dưới mắt không có ai, c̣n anh già Tôn đức Thắng lụ khụ thay mặt “đảng và chính phủ” chúc thọ Hồ, khúm núm như “cừu trước sói”, đằng sau là một lũ mặt hơn hớn, nụ cười nịnh trên mỏ. Đó là: Duẩn, Chinh, Đồng, Giáp, Thọ, Nghị, Chu văn Tấn, Nguyễn thị Thập, Hoàng minh Giám và v.v…



    Cho nên, một mặt Hồ và Duẩn vẫn kư vào tuyên bố chung của “81 đảng”, một mặt Hồ vẫn bật đèn xanh cho bọn Duẩn, Chinh th́ thọt họp với Trung cộng làm ra vẻ tán thành việc Trung cộng định lập ra một “quốc tế mới” để phủ nhận ngôi vị “anh cả” của Nga-xô.

    Cái sự đi gần quan điểm “giáo điều” của Trung cộng đă khiến Hồ tiếp tục công cuộc “xâm lược miền Nam Việt Nam” có nhiều thuận lợi hơn. Đối ngoại th́ được Trung cộng viện trợ súng đạn và mọi nhu yếu phẩm, kể từ cái kim khâu đến cái bô đi ỉa của trẻ em; rồi từ gạo thịt cho đến lê, táo, nho, rượu, thuốc lá, kem đánh răng v.v… Đối nội th́ tăng cường đàn áp (tức nắm vững chuyên chính), v́ theo lệnh Hồ, Trường Chinh mới nhân danh chủ tịch quốc hội kư “nghị quyết 49/NQ/TVQH, ngày 20-6-1961 cho phép bắt đưa đi tù khổ sai (núp dưới cụm từ “cải tạo”) tất cả những người không thích hợp với chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh, không cần xét xử, chỉ qua đề nghị của công an đường phố.



    Với lệnh “khổ sai” này, họ Hồ đă làm cho toàn thể nhân dân miền Bắc Việt Nam khi ấy “sợ văi đái trong quần”, và mọi người chỉ c̣n hai con đường để chọn:

    1) hoặc đi vào tù để lao động khổ sai không thời hạn;

    2) hoặc ngoan ngoăn, ở thành thị th́ nộp nhà cửa, tài sản; gia nhập hợp tác xă tiểu thủ công hay thương nghiệp; hoặc đi công trường, lâm trường, nông trường; ở nông thôn th́ phải vui vẻ thi hành cái gọi là “hợp tác hóa nông nghiệp”. Và, cũng là sẵn sàng vào ngụy quân để xâm lược miền Nam Việt Nam.



    Trung cộng bỏ tiền của ra cho họ Hồ th́ tất nhiên cũng phải đ̣i lại cái ǵ chứ. Cho nên, cuối năm 1963, Hồ cho Lê Duẩn cầm đầu đoàn mafia đỏ Việt Nam, cùng Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh và Hoàng văn Hoan (đại sứ của ngụy quyền Hồ chí Minh ở Bắc-kinh) sang Tàu bàn về việc cho ra đời cái gọi là “quốc tế cộng sản” Mao-ít. Thảo luận dài dài, nhưng rồi không đi đến đâu và cái “quốc tế Mao-ít” đó bị sẩy thai. Chỉ có lú lẫn mới không thấy được nước cờ của Hồ. V́ đoàn có 4 mống th́ ba thằng thân Trung cộng là Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh và Hoàng văn Hoan, điều này tất nhiên vừa ḷng Trung cộng. Nhưng Lê Duẩn là trưởng đoàn lại là “bí thư thứ nhất” nên hắn quyết định (tất nhiên là lệnh của Hồ) để “về nước bàn lại”. Cái sự bàn lại ấy là sự đu dây của Hồ rất điệu nghệ.



    - Không có chuyện ủng hộ Trung cộng để đẻ ra cái “quốc tế Mao-ít”;

    - Nhưng để “tế nhị” với việc “hứa lèo” việc ủng hộ cho ra đời “quốc tế Mao-ít”, nên Hồ giao cho Trường Chinh thảo cái gọi là nghị quyết 9 (cuối 1963), nghĩa là ”đi theo con đường của Trung cộng”, trái với nghị quyết của đại hội 3 cũng như Tuyên bố chung của 81 đảng mafia đỏ (1960). Và, tháng 1-1964, tại câu lạc bộ Ba-đ́nh, được phép của Hồ, Trường Chinh họp với các cán bộ trung và cao cấp của mafia đỏ, nói thẳng thừng rằng đường lối đối nội và đối ngoại của mafia đỏ Việt Nam nhất trí với Trung cộng.



    Về chuyện nghị quyết 9 này, có mấy người “ly khai” có câu chuyện làm quà cho đồng bào hải ngoại (và cả tuổi trẻ nữa) rằng Hồ mấy lần dơ tay xin phát biểu nhưng bị Lê đức Thọ át đi không cho nói. C̣n một chuyện khác th́ kể là trước khi họp trung ương mafia đỏ về nghị quyết 9, Lê Liêm có lên gặp Hồ và phản đối nghị quyết 9, Hồ nghe rồi bảo Lê Liêm khi họp cứ phát biểu ư kiến của Lê Liêm, có ǵ Hồ sẽ phát biểu sau (ư là ủng hộ Lê Liêm). Thế rồi Lê Liêm phát biểu trong cuộc họp, bị Lê đức Thọ, Trường Chinh xài xể cho một trận, Lê Liêm đưa mắt nh́n Hồ “cầu cứu” th́ Hồ lờ đi, không nói ǵ cả. Và, Lê Liêm cho rằng Hồ sợ (người viết sách diễn tả như vậy).



    Nếu quả chuyện trên là có thật th́ việc cho rằng Lữ Phương ngu dốt khi sao chép lại (kể cả của Vũ Kỳ, thư kư của Hồ) để tin rằng Hồ “bị cho ra ŕa” có hơi quá chăng? V́ ngay Lê Liêm, một ủy viên dự khuyết của trung ương mafia đỏ mà c̣n ngu lâu và quáng gà nữa là (nếu chuyện kể trên là có thật).



    Xin nhớ cho rằng, cái cuối năm 1963 đó, Hồ c̣n khỏe mạnh, mập như heo, mặt đỏ au như nhuộm phẩm, giọng c̣n sang sảng, sáng chiều tập thái cực quyền, và hắn vẫn number-one khi ấy, nghĩa là: chủ tịch đảng kiêm ủy viên chính trị bộ mafia đỏ; chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội; chủ tịch hội đồng quốc pḥng, nghĩa là hắn có quyền “veto” tuyệt đối!



    Nguyên tắc làm việc của mafia đỏ là: mỗi lần cần họp trung ương mafia đỏ để ra một quyết nghị nào đó th́ trên thực tế cái nghị quyết ấy đă được thảo ra ngay sau khi có ư kiến của Hồ (có thể bàn qua với Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng). Nghĩa là nghị quyết đă thành văn bản trước. Sau đó, trong hội nghị trung ương của chúng, chủ yếu là phổ biến cái nghị quyết đó cho cái lũ gọi là thành viên trung ương mafia đỏ để thi hành. Nếu có cho thảo luận th́ cũng chỉ là chiếu lệ gọi là, để rồi gật hết. (Tận bây giờ vẫn c̣n như vậy đấy thôi).

    Lê Liêm quá ngu nên mới xin gặp Hồ để phản đối. V́ Hồ mới là cha đẻ cái nghị quyết ấy. (Ngu th́ chết là đúng rồi). Lê Liêm quên rằng Hồ là ông chủ, c̣n từ Lê Duẩn trở xuống chỉ là tay sai của Hồ theo thứ tự thang bậc mà Hồ ban cho.



    Tính cách gian manh tàn độc của Hồ và quá tŕnh bôn ba trong nghề gián điệp, chuyên thủ tiêu mọi vật cản đường công danh của Hồ th́ phải nhớ rằng Hồ đâu phải “chúa chổm” của nhà Lê trung hưng mà để cho Lê Duẩn làm cái việc của Trịnh Kiểm!!!



    Thật khùng khi tin rằng Hồ giữ thực quyền như vậy mà bị Lê đức Thọ lấn át, “bịt mồm”. Thế mà nay cái me-xừ Vũ Kỳ chỉ là gia nô của Hồ, chưa bao giờ được cái chân dự khuyết trung ương mafia đỏ, vậy mà chẳng ai dám bịt miệng. Vũ Kỳ cũng đang nuôi đứa con của Hồ với cô bé Nông thị Xuân (Hồ hơn Nông thị Xuân gần 50 tuổi) đấy. Lữ Phương thử “điện thoại” hỏi xem hư thực ra sao và cũng hỏi Vũ Kỳ xem hắn thấy “ông chủ Hồ chí Minh của hắn” có đạo đức cách mạng tuyệt vời không? Và nếu quả chỉ có Lê Duẩn chủ trương xâm lược miền Nam Việt Nam th́ tại sao Lữ Phương dám nâng bi rằng Hồ “tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đă hoàn thành độc lập thống nhất”.



    Các thế lực thực dân là ai, ngoài thực dân Pháp? Không có ư kiến về vấn đề miền Nam, “tại sao Hồ lại có công thống nhất”?



    Lữ Phương dùng lối viết hoa ḥe hoa sói cố làm thật giả lẫn lộn. Nếu ai vô t́nh không đọc kỹ th́ dễ cho rằng Lữ Phương “chống đối nhưng vô tư”. Nhưng đọc kỹ th́ thấy Lữ Phương là loại “giả quân tử” cũng là loại nâng bi có hạng đấy, tiếc chưa gặp thời. Tất nhiên bộ máy mafia đỏ sẽ đọc kỹ nên chúng sẽ hiểu ẩn ư của Lữ Phương. Cái đó chúng ta chẳng quan tâm. Chúng ta lo là thế hệ trẻ v́ thiếu cuộc sống thực, chỉ dựa vào tài liệu kiểu của Lữ Phương (ng̣i bút phản kháng) chắc sẽ bị đeo đuổi ngay từ đoạn mở đầu (mà cũng có nghĩa là khẳng định, là kết luận) của Lữ Phương rằng: “Hồ chí Minh là nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đă lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ, chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đă hoàn thành độc lập, thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là chủ nghĩa xă hội hiện thực ở Việt Nam.



    Không một bản “tụng ca” nào của tập đoàn mafia đỏ có giá trị (vô tư) và phong phú như đoạn văn ngắn, nói trên, của nhà “trí thức yêu nước” “Lữ Phương”!!! Ô la la!!!



    Như thế, nếu quả có cái chuyện Hồ bị cấm phát biểu th́ cũng chỉ là bằng tṛ ảo thuật của một gián điệp bôn ba, từng trải, Hồ đóng kịch lép vế khi thông qua nghị quyết 9 (tung tin là bị Lê đức Thọ o ép không cho phát biểu) để giúp Hồ khỏi bị “anh cả Nga-xô” giận. C̣n “anh hai Trung cộng” thấy nghị quyết 9 được thông qua th́ mừng quá, thế là ào ào chở súng, đạn, gạo thịt qua cho Hồ thực hiện sự vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam.

    Đến lúc đó (tức 1963) th́ lại xảy ra câu chuyện về sự đàn áp một số người “bảo lưu ư kiến chống nghị quyết 9 (nghị quyết Mao-ít)”. Có thật là đă có cái chuyện gọi là “đ̣i hỏi dân chủ” ở trong đảng mafia của Hồ không?



    Trước khi bàn chuyện này, phải nói đến một vấn đề khác, đó là: “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” của họ Hồ.



    Sau khi kư hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, họ Hồ và bầu đoàn nhếch nhác từ Việt-Bắc vào Hà-nội. Lập tức đại sứ quán Nga-xô chiếm cả trường nữ học Félix Faure làm trụ sở, cùng một loạt các vi-la đồ sộ ở gần đó và cả ở đường Nguyễn Thượng Hiền nữa. Như thế vẫn chưa đủ cho các “chuyên gia Nga-xô” (thực chất là viên chức của bộ máy thực dân đỏ) ở, nên phải cấp tốc cho xây thêm khu Kim-liên ở Hà-nội. C̣n ở các tỉnh th́ núp dưới cái tên là “nhà giao tế”, “Anh hai Trung cộng” bị hạ phong hơn, nên chiếm ṭa “thủ hiến Bắc-Việt”, trước vườn hoa Canh Nông. Văn pḥng trung ương mafia đỏ Việt Nam th́ chiếm toàn bộ trường Albert Sarraut. Hồ chiếm cái “biệt điện” tức phủ toàn quyền cũ. Nhà riêng Phạm văn Đồng chiếm ṭa nhà ở Khúc Hạo, liền tường với “sứ quán Nga-xô”, đi bộ 2, 3 phút là tới chỗ của Hồ. Tóm lại, bộ máy quan lại của Hồ và các “toàn quyền Nga-xô” và “phó toàn quyền Trung cộng” đều quây quần với nhau chung một khu. Năm 1960, đại sứ Nga-xô là thiếu tướng t́nh báo Serbakov; c̣n của Trung cộng vẫn là thiếu tướng La quư Ba.



    Nhân dân miền Bắc Việt Nam, sau hiệp định Genève 1954, đúng là một cổ ba tṛng: Nga-xô, Trung cộng và ngụy quyền Hồ chí Minh.



    Cả Nga-xô và Trung cộng đều t́m cách mở rộng ảnh hưởng trong nhân dân miền Bắc Việt Nam. Những ngày cuối 1954, phong cách Trung cộng ở thế thượng phong với h́nh ảnh ngụy quân cộng sản Hồ chí Minh ăn mặc, đi đứng hệt Tàu cộng. Cả bộ sậu từ Hồ trở xuống đều mặc “bộ áo Mao-tsé-tủng” bốn túi, màu cỏ úa sậm hoặc dạ đen cổ cao. Trong ngụy quân cộng sản th́ sỹ quan áo bốn túi, lính th́ hai túi, giống hệt cảnh phân chia “cái bang” trong chuyện chưởng của Tàu. Học sinh, giáo viên ở “khu học xá” bên Tàu về th́ khăn mặt bông quấn cổ, tên nào cũng có cái “quẹt” và cái đèn pin nhăn “Hồng kỳ” và số lớn c̣n đeo khẩu trang (vệ sinh kiểu ba Tàu cộng lúc đó). Bọn chúng đi với nhau “xí ngổ, xí koỏng” tiếng Tàu. Trông thật tội nghiệp, như một đàn chó hoang. Cả lính, cả dân, cả học sinh của cái gọi là “vùng kháng chiến” từ Việt-Bắc cho đến Khu Bốn, trông nhếch nhác như lính “Tàu ô” hồi sang Việt Nam năm 1945 vậy! Chúng đi từng toán, nắm chặt tay nhau lóa mắt về đèn điện, về hàng hóa, về các món ăn, về người của Hà-nội. Mặc dù lệnh của ngụy quyền Hồ chí Minh khi ấy là “nghiêm cấm ăn uống ở các tiệm, mua bán hàng hóa và đến nhà dân Hà-nội, sợ bị đầu độc hoặc bị ám hại v.v…” (sợ không?!!!). Nhưng chỉ một ngày sau cả lính, cả sỹ quan, cả cái đám nhố nhăng ấy đều “chạm trán” nhau trong các tiệm phở, các nhà hàng, đến làm quen các nhà dân, xin đủ mọi thứ, y như cảnh sau 4-1975, tụi ngụy quân Hà-nội đua nhau chạy thục mạng vào Sài-g̣n vậy. Có chút khác là Sài-g̣n của nhân dân miền Nam Việt Nam phong phú, đa dạng, vĩ đại gấp ngàn vạn lần Hà-nội của 1954.



    Hà-nội như rừng “cỏ linh chi” đă thức tỉnh các văn nghệ sỹ qua cơn điên loạn của “rèn cán chỉnh quân”, “đấu tranh chính trị”, “cải cách ruộng đất” v.v… để trở lại làm người, một người thực sự với mọi cảm xúc, suy nghĩ bằng chính ngũ quan và cái đầu của ḿnh. V́ thế mới có chuyện thi sỹ Trần Dần vứt mẹ nó cái “đấu tranh giai cấp” đi, để yêu một cô giáo người công giáo; thi sỹ Hoàng Cầm cũng quên luôn bài thơ sáng tác ca ngợi đấu tố trong “cải cách ruộng đất” để trở về với chính tâm hồn thi sỹ lăng mạn của ḿnh; Lê Đạt, thư kư văn nghệ của Trường Chinh, th́ thẳng tay rũ bỏ “cô vợ cố nông” mà trong kỳ tham gia cải cách ruộng đất, nghe “rễ cố nông” đó tố khổ, đă nổi “tính đảng” mà cưới đại “cái rễ tố láo” đó làm bạn đời và v.v… Đấy chính là nguồn gốc của sự ra đời của “phong trào Nhân văn – Giai phẩm” (đúng nghĩa là đ̣i làm người trở lại). V́ không muốn làm gia nô khuyển mă cho mafia đỏ Hồ chí Minh, nên tất nhiên phải bị trừng trị theo đúng vơ mafia đỏ, nghĩa là làm cho sống không nổi, chết không xong.



    Hệt như sau tháng 4-1975, Sài-g̣n của Việt Nam Cộng Ḥa đă giải độc cho biết bao người từ phía Bắc vào, thuộc đủ mọi thành phần, từ văn nghệ sỹ như Dương thu Hương, vợ chồng Lưu quang Vũ, Xuân Quỳnh; nhà thơ đầy can đảm Bùi minh Quốc; nhà trí thức “thứ thiệt” Hà sỹ Phu v.v… những người gần cả cuộc đời theo mafia Hồ chí Minh như ông Nguyễn Hộ. Và, cả Nam cả Bắc ào ào vượt biên, chẳng cứ người dân thường mà cả lực lượng chuyên chính của mafia đỏ là công an và binh lính (tất nhiên cũng có bọn được đưa đi nằm vùng), kể cả nhân sự trong cái “chính phủ” mà Lữ Phương đă mơ tưởng, như Trương như Tảng chẳng hạn. Đến mức ngụy quyền cộng sản Hà-nội phải lúng túng, lúc th́ “mở cửa” lúc th́ “đóng cửa” trở lại. Và chúng cũng lộ rơ bộ mặt của lũ cướp thực dân đỏ, vơ vét tài sản của nhân dân miền Nam Việt Nam, bỏ tù hàng triệu người không xét xử, hàng triệu người bị đuổi đi “kinh tế mới” (tức phát văng). Cơ cấu xă hội và kinh tế miền Nam bị tàn phá một cách khủng khiếp. Và, chúng lại thực thi con đường của Hồ là làm nhiệm vụ “bành trướng chiến lược” của thực dân đỏ Nga-xô; xâm lược Cam-bốt. Kết quả mẫu quốc th́ sa lầy ở Afghanistan và đàn em của Hồ bị ch́m ở Cam-bốt. Và, quan trọng hơn cả là quan điểm của họ Hồ đối với “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” được sáng tỏ bằng chiến tranh ở phía Bắc với Trung cộng bằng súng đạn và chiến tranh miệng qua Bạch thư của bộ ngoại giao ngụy quyền Hà-nội do Nguyễn duy Trinh chủ biên. Cũng như năm 1978, Lê Duẩn dẫn hầu hết các bộ mặt đen đúa của chính trị bộ mafia đỏ sang Nga-xô kư hiệp ước c̣n tệ hơn hiệp ước Patenôte của nhà Nguyễn với thực dân Pháp. Đó là “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện” với Nga-xô, và sau đó là Nga-xô làm chủ Cam-ranh không tốn một xu và các mỏ dầu lửa ở miền Nam Việt Nam!!!



    Đây là kết luận chính xác của tṛ đi dây của họ Hồ giữa Nga-xô và Trung cộng, cũng chư việc Hồ chí Minh chỉ định Lê Duẩn là người kế tục sự nghiệp Việt gian của hắn. Cùng với lũ người Việt mang nặng cái “uế khí Trung cộng” đó là hội Hoa kiều ở Hàng Buồm và nhân viên, giáo viên, học sinh của trường trung học Trung hoa, ồn ào mở tiệm sách, các quầy vỉa hè, bán sách báo do Trung cộng sản xuất và ảnh các đầu đà của cái “đảng Trung cộng”, lúc ấy gồm Mao, Lưu thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu ân Lai, Bành đức Hoài v.v… và cờ Trung cộng được treo khắp nơi như để khẳng định “có ta đây” vậy.



    Nga-xô không ồn ào như Trung cộng, ngoại trừ đoàn làm phim người Việt, học từ Nga về, ăn mặc lối “Tây nhà quê”, đội cái mũ vải trắng, các máy quay phim to và nặng như khẩu “bích kích pháo”, đi xe Podeba hoặc Gatt bỏ mui vải, phóng ồn ào, luôn mồm “kha-rát-sô” với “nhiét-nhiét”. Có ngụy quyền Hồ chí Minh phục vụ hết ḿnh, nên các quầy sách lưu động, tiệm sách được bày bán đầy cờ, ảnh các đầu đà Nga-xô như Lê-nin, Stalin, Malencốp, Bulganin, Molotov, Kaganovitch, Micoian, Krúp-xcai-a (vợ Lê-nin), Jukov v.v…, và tất nhiên là phải có ảnh hai “ông rậm râu” Mác và Engels!



    Y như miền Nam Việt Nam sau 4-1975, miền Bắc Việt Nam thời 1954 đó cũng bị ngụy quyền Hồ chí Minh chia rẽ bằng “dân kháng chiến” và “dân tề” (ư nghĩa như “dân ngụy” vậy). Bên “dân kháng chiến” che đậy cái nghèo, cái lạc hậu, cái thô lỗ bằng cách “tự cho ḿnh là kẻ chiến thắng”. C̣n “dân tề” th́ phân hóa thành ba loại:



    1) Loại nằm vùng, cơ hội (như loại cách mạng 30 ở trong Nam, sau 4-1975), cố t́m bằng được đôi “dép râu”, cái mũ lá, bộ áo màu cỏ úa, có đứa c̣n đi may ngay bộ “đại cán 4 túi”, tóc tai ḷa x̣a, không đường ngôi, tất bật đi làm cái chuyện “cơm nhà vác ngà voi”. Nhiều gia đ́nh khổ sở v́ có chồng, con, anh, em loại này. Một kiểu “thành phần thứ ba” sau này.



    2) Loại an phận, nép ḿnh, lấy “của che thân”. Phần lớn là công chức, nhà buôn. Cũng thay đổi cách mặc, áo cánh nhuộm màu gụ, trong nhà th́ “đồ cũ bày ra, đồ đẹp như hoa cất vào”. Nghĩa là phải “giả nghèo giả khổ” th́ mới yên thân.



    3) Số rất ít, tỉnh ngộ trước cái bánh vẽ “độc lập, tự do, hạnh phúc” th́ vội t́m đường chạy vào Nam, hoặc không chạy được th́ t́m cách thích nghi, nằm quan sát và “hy vọng” có sự đổi đời, nhất là hy vọng ở cuộc tổng tuyển cử hai năm sau đó, như hiệp định Genève 1954 về Việt Nam qui định!!!

    Vài năm sau, phần lớn người Hà-nội bị đi kinh tế mới (tức phát văng) hoặc bị bắt cải tạo, chỉ c̣n lại người tứ xứ đổ về. Nhưng, cái đất Thăng-long đă cải tạo lại những người tứ xứ đó, bớt phần cục cằn, khát máu, nghĩa là giảm bớt cái “tính đảng”. Hà-nội trở thành nơi “dễ thở” hơn. Cho nên, nếu t́m hiểu về miền Bắc Việt Nam của những năm trước 1975, sau 1954, mà chỉ loanh quanh ở Hà-nội, hoặc xa nữa là Hải-pḥng hay Nam-định th́ chẳng khác ǵ cảnh “đi mua gà mà chỉ nhặt cọng lông đuôi”.



    Trong cái hoàn cảnh đó, Hà-nội nổi lên cuộc “chiến ngầm” giữa “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng”. Người miền Bắc quen dần cái cảnh đưa tin trên báo Nhân dân của ngụy quyền cộng sản Hồ chí Minh. Đó là sự cân đối tin về Nga-xô và Trung cộng. Tỷ dụ, ở trang nhất chia đôi cho thật đều: Nga-xô một nửa, Trung cộng một nửa. Không bên nào được hơn bên nào dù chỉ bằng cái vảy móng tay!



    Sau đó là sự ra đời của hai tổ chức:

    1. Hội hữu nghị Việt-Xô;

    2. Hội hữu nghị Việt-Trung.



    Nh́n vào hai hội này th́ thấy rơ sự trân trọng của ngụy quyền Hồ chí Minh với mẫu quốc đỏ Nga-xô. V́, chủ tịch “Hội hữu nghị Việt-Xô” là Dương bạch Mai, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ kiêm ủy viên ban thường vụ quốc hội ngụy quyền Hà-nội. C̣n cái “Hội hữu nghị Việt-Trung” th́ chủ tịch là một nhân sỹ “đă bị thiến” để làm kiểng “dân chủ”. Đó là cụ Bùi Kỷ (thân phụ của ông Bùi Diễm), trước 1945 là hiệu trưởng trường tư thục Louis Pasteur, ở Hà-nội. V́ thế sự phát triển của hai cái hội này cũng có tốc độ và tầm cỡ khác nhau. Dân miền Bắc Việt Nam, ở với mafia đỏ lâu rồi, cũng biết nhận xét đôi chút. Nh́n vị trí của hai “chủ tịch” đó là người ta đă thấy “nhất bên trọng, nhất bên khinh”. Cho nên, chỉ có một bộ phận nào đó trong lưu học sinh hay cán bộ mafia đỏ là gia nhập “hội Việt-Trung”, chủ yếu ở ngành đường sắt và khu gang thép Thái-nguyên. Nó cũng c̣n lư do nữa là dân Việt Nam dị ứng “ba Tàu cộng” v́ nó quá lố lăng, kệch cỡm, giả dối, khác lạ 100%.



    C̣n “hội Việt-Xô” th́ phát triển ào ào, ở khắp cả miền Bắc, từ trong ngụy quân cho đến các ngành, các bộ; các trường đại học và cả một số trường trung học; các bệnh viện cho đến các nhà máy, cửa hàng. Và, các lớp Nga văn mọc như nấm. Nga văn trở thành môn học bắt buộc ở bậc trung học lẫn đại học các ngành. Ủy ban khoa học Nhà nước (ngụy quyền Hà-nội), trường đại học Bách khoa Hà-nội và Tổng cục địa chất là địa bàn độc quyền của cái gọi là hội Việt-Xô đó. Ảnh hưởng văn hóa Pháp trong hơn 80 năm thực dân Pháp đô hộ Việt Nam cũng không có chiều sâu và chiều rộng như ảnh hưởng của Nga-xô ở Bắc Việt Nam khi ấy, trong ṿng chưa đầy chục năm. Tỉnh táo ngắm nh́n bức tranh miền Bắc Việt Nam sau 1954 th́ thấy rơ đấy thực sự là thuộc địa của Nga-xô cả tinh thần cả vật chất. Lối sống Việt Nam, truyền thống Việt Nam hoàn toàn bị ngụy quyền Hồ chí Minh san bằng, cho phù hợp với lá cờ “đảng mafia cộng sản Việt Nam” là cờ đỏ búa liềm vàng (cũng là quốc kỳ Nga-xô). Tên và ảnh các lănh tụ cộng đảng Nga-xô và các tài tử điện ảnh Nga nằm đầy trên vách nhà của nông dân Bắc Việt Nam. Sách, truyện của Nga được dịch và tràn ngập các thư viện chính thống đă đành, nó c̣n len vào các tủ sách cơ quan, hợp tác xă kể cả thủ công nghiệp lẫn nông nghiệp. Tất nhiên, tư nhân làm ǵ có tiền mà mua. Tiền mua sách này là lấy từ các quỹ của “công đoàn” hay của “nông hội” mà ra. Nghĩa là ngụy quyền Hồ chí Minh bóp cổ nhân dân qua các loại thuế, loại nguyệt liễm, rồi dùng một phần tiền đó vào việc “nhuộm đỏ” đầu óc người dân Việt Nam. Cán bộ ngụy quyền Hồ chí Minh coi người Nga (Nga-xô) như thánh thần, như ông chủ lớn. Chỉ lấy lại một thí dụ cụ thể về tác giả “Gửi Mẹ và Quốc hội” để chứng minh cái xun xoe như chó mừng chủ khi ấy. Bấy giờ là hè năm 1955, Nguyễn văn Trấn làm nhiệm vụ “giảng viên thường trực” của trường gọi là “đại học nhân dân” (sáng kiến của Hồ chí Minh), được một phóng viên báo Sự Thật của Nga-xô tới thăm trường. Văn vơ bá quan của trường y hệt cảnh lư dịch ở nông thôn Việt Nam xưa, khúm núm đón “quan Tây” vậy. Đủ mặt từ Đoàn trọng Truyến (sau làm trưởng tiểu ban kinh tế – tài chính của quốc hội ngụy và cũng là kẻ cùng với Tố Hữu và Trần Phương đồng tác giả vở kịch “giá, lương, tiền” và cùng bị ngă ngựa); đến Trịnh Bốn (sau làm vụ trưởng vụ tổ chức và cán bộ của ủy ban khoa học nhà nước ngụy); Nguyễn khoa Minh (nguyên bí thư tỉnh ủy Quảng-ngăi, qua Nga-xô học, chưa về nước mà đă được cử giữ chức giám đốc trường đại học tổng hợp, v́ “tội” làm luận án “đảng toàn dân”, theo luận điểm của Khrútxốp nên cũng ngă ngựa và Ngụy Như Kontum được lấp lỗ trống) và một số đông học tṛ của trường, Nguyễn văn Trấn vẻ mặt ngoan ngoăn, hai tay nắm lấy bàn tay của tên Nga-xô đó, ngọng ngịu (v́ hơi móm) khen: Nào là đồng chí to con quá, trẻ quá, giỏi quá(?). Nào là đồng chí có mệt không? “Đồng chí” bị muỗi cắn ở tay rồi. Bảo y tá lấy thuốc chữa cho “đồng chí Liên-xô” ngay v.v…, trông bệ rạc, hèn hèn đến mức một số học sinh là người Hà-nội, nh́n nhau “đỏ mặt hộ”! C̣n tên Nga-xô kia chắc không hiểu Nguyễn văn Trấn nói ǵ (v́ nói tiếng Việt) nên hắn quay qua phía Đoàn trọng Truyến (tay đang cầm quyển Le Russe sans peine) nói vài câu lấp lửng, để mặc cho “đồng chí” Nguyễn văn Trấn nói chuyện với cái tay của hắn. (Đọc cuốn “Gửi Mẹ và Quốc hội”, nhớ lại h́nh ảnh đó cũng như nhiều việc khác, chẳng biết nói ǵ hơn là ngửa cổ lên trời cười khẽ ba tiếng rằng: trên đời này, ngụy quyền cộng sản đă đào tạo ra nhiều tay “nói trạng” lắm, ai ơi!!!) Lại nói về cái gọi là “hội Việt-Trung” tuy lép vế, nhưng bù lại Trung cộng có cái “hội Hoa liên” (tức liên hiệp những người Hoa ở Bắc Việt Nam) mà trái tim là trường trung học Trung hoa, ḷ sản xuất các tṛ nhố nhăng để sau này thành cái gọi là “hồng vệ binh”. Hội này cũng có tờ báo riêng là “Tân Việt-Hoa”, một thứ “lá cải” – công cụ tẩy năo.



    Tất nhiên cả hai cái hội nói trên có chỗ dựa vững chắc và cũng là đầu năo chỉ đạo là hai sứ quán Nga-xô và Trung cộng ở Hà-nội, đều do “tướng” cầm đầu.



    Cơ cấu tổ chức của cái gọi “hội Việt-Xô” như thế, nên chỉ có ngủ mê mới không thấy nó thực sự là công cụ bành trướng tinh thần Nga-xô, trong nhân dân Bắc Việt Nam, của ngụy quyền Hồ chí Minh. Mặt khác, trong tay Serbakov – viên thiếu tướng t́nh báo của Nga-xô, giữ chức “đại sứ đặc mệnh toàn quyền” ở Hà-nội – nó cũng là “màng lưới t́nh báo của Nga-xô” (hữu thức hoặc vô thức) và là một thứ tổ chức công dân búa liềm mở rộng. Nhà nghề gián điệp như Serbakov, làm sao lại không tận dụng cái công cụ đó mà “giám sát” mọi hoạt động của cái tổ chức cộng sản mafia của Hồ. V́ thế, khi Hồ đu dây giữa hai ông anh, “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng”, để trong những năm 1961-62, th́ thọt cùng Trung cộng bàn bạc, cho ra đời cái sẽ gọi là “quốc tế Mao-ít” – một thứ đảo chính vị thế lănh đạo tối cao của Nga-xô trong thế giới mafia đỏ (tức cộng sản), cũng như việc làm ngược với nghị quyết 20 của Nga-xô và của chính ngay các nghị quyết của đại hội 3 mafia đỏ Việt Nam – th́ đương nhiên Nga-xô qua tay Serbakov phải sử dụng cái công cụ “hội Việt-Xô” để uốn nắn, răn đe Hồ đừng đi quá trớn mà “lộng giả thành chân” là bỏ mẹ đời Hồ đấy. Cho nên, khi ấy mới bắt đầu có những tiếng nói mà hầu hết là thành viên của hội “Việt-Xô” đ̣i “thực hiện đúng đắn những nghị quyết của đại hội 3 của mafia đỏ Việt Nam”. Có nghĩa là đi đúng tinh thần nghị quyết 20 của Nga-xô mà cụ thể là “Tuyên bố chung của 81 đảng” mà Hồ và Lê Duẩn đă cùng kư năm 1960. Thế là, có thể nói cho chính xác, th́ một số đảng viên có chức, có quyền ở mức tương đối với công lao của họ (bị coi là thất sủng) có th́ thọt với nhau hoặc trực tiếp, hoặc qua đàn em, con cái để cùng “thống nhất” chống lại việc tách xa nghị quyết đại hội 3 mafia Việt Nam, mà cụ thể là “chống nghị quyết 9” (là nghị quyết thân Trung cộng), xin bảo lưu ư kiến. Nhĩa là muốn lật phe thân Trung cộng. Cũng xin mở ngoặc tŕnh bày về cái gọi là quyền bảo lưu ư kiến. Theo điều lệ của mafia đỏ th́ chúng lănh đạo theo cách gọi là “dân chủ tập trung”, “thiểu số phục tùng đa số”, nhưng vẫn thấy ư ḿnh là đúng th́ v́ là thiểu số, cứ phải tuân theo ư đa số đă nhưng có quyền bảo lưu ư kiến của ḿnh. Từ ngày tổ chức mafia đỏ ra đời, núp dưới cái nón cối “đảng chính trị”, cho nên cạnh cái đống phân “dân chủ tập trung”, chúng cho ra cái bánh vẽ “quyền bảo lưu ư kiến”, nhưng thực ra không bao giờ được thi hành. Nói cho dễ hiểu, th́ như trong cái gọi là hiến pháp của ngụy quyền cộng sản Hà-nội có ghi rằng mọi người được tự do lập hội chẳng hạn. Thế mà, mới ngay năm 2001 này, là thời kỳ “con tắc kè mafia đỏ” đang đổi màu tư chút cho phù hợp với môi trường chính trị thế giới hiện nay, vậy mà mấy người xin lập “hội chống tham nhũng” (để giúp “đảng”) đều được dzô tù mà lập hội!!!



    Vậy thử nghĩ xem, thời kỳ của những năm 60 đó, họ Hồ đang cầm quyền mà lại có kẻ cả gan dám nghĩ khác với Hồ, tranh khôn hơn hắn th́ số phận phải như thế nào? Chưa có quyền mà Hồ c̣n dám bán cụ Phan Bội Châu, ám hại Lê hồng Phong, Phùng chí Kiên (cũng là những đồng chí của hắn, th́ bây giờ ở thế quyền uy tuyệt đối, cái ǵ mà hắn chả dám làm). Đến cái gọi là “cải cách ruộng đất”, tự lỗ mồm Hồ cũng phọt ra hai chữ “sai lầm”, rồi hắn sai Vơ nguyên Giáp ra xin lỗi “dân”. Vậy mà mấy người khoe khôn dám nh́n thấy sai lầm của “cải cách ruộng đất” trước khi Hồ có ư kiến, mặc dù những người đó đều có tiếng tăm và đang là “bộ áo giả dân chủ” của họ Hồ, mà cả lực, cả thế đều là con số không, như luật sư Nguyễn mạnh Tường, bộ trưởng tư pháp Vũ đ́nh Ḥe, thứ trưởng văn hóa Đỗ đức Dục v.v… C̣n bị Hồ thẳng tay vứt vào sọc rác cho đến hết đời luôn, và Hồ c̣n vứt luôn cả bộ tư pháp lẫn khoa luật cho “tụi bay hết nói lư với luật”, làm bài học cho tất cả những ai sống dưới sự cai trị của họ Hồ. Tiếc rằng c̣n nhiều đệ tử của Hồ vẫn mơ hồ. Lấy thí dụ: Mới tháng này thôi (12-2001), hai chục bà nông dân ở miền Nam Việt Nam đă kéo nhau ra Hà-nội biểu t́nh đ̣i ruộng đất. Họ dám làm vậy là có nhiều lư do, nhưng có một lư do quan trọng là dựa vào dư luận xă hội, dư luận quốc tế, đặc biệt là cái loa chính nghĩa của cộng đồng người Việt ở hải ngoại. V́ thế mới dám đ̣i hỏi quyền lợi của ḿnh.



    Cũng như thế, cái nhóm chống nghị quyết Mao-ít của Hồ, đều là những người “làm chính trị” chuyên nghiệp là đàng khác, đương nhiên họ phải t́m chỗ dựa trước khi chống nghị quyết 9! Ngay câu chuyện về Lê Liêm (nếu là có thực) cũng t́m Hồ làm chỗ dựa trước khi vào họp mới dám đưa ư kiến chống nghị quyết 9.



    Vậy cái nhóm đó là ai? Xin thưa rằng, đó là Dương bạch Mai (coi như người cầm đầu), Ung văn Khiêm, Bùi công Trừng, Lê Liêm, Nguyễn văn Vịnh, Đặng kim Giang, Hoàng minh Chính, Minh Tranh v.v…



    Dương bạch Mai, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, ủy viên ban thường vụ quốc hội ngụy quyền Hà-nội, chủ tịch hội Việt-Xô, kẻ chỉ riêng trong những năm 1945-46, với cương vị phụ trách công an miền Nam, hắn đă giết biết bao người Việt Nam yêu nước; hắn đă tổ chức kế hoạch giết tập thể đồng bào miền Nam theo các đạo Cao-đài, Ḥa-hảo, hàng chục ngàn người. Điển h́nh là mồ chôn tập thể hàng 4000 chức sắc và tín đồ Cao đài ở Quảng-ngăi, cũng như các mồ tập thể khác tại Trà-cao (Tây-ninh). Một con người như Dương bạch Mai th́ dân chủ chỉ là chuyện chú Cuội.



    (Xin mời đọc tiếp bài 11)

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 11


    V́ thế cho nên cái mà tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh gọi là “Vụ án xét lại chống đảng, làm gián điệp” không phải như sau này bị một số người diễn dịch thành “những người đ̣i hỏi dân chủ”.



    Xin nhớ rằng, cái thời của những năm 60 đó, ngay những người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản c̣n mơ hồ về khái niệm dân chủ. C̣n những kẻ đă ở trong tổ chức mafia đỏ th́ chúng chỉ hiểu và tranh nhau làm chủ dân mà thôi. Có kẻ thích mô h́nh “Nga-xô”, có kẻ muốn mô h́nh “Trung cộng”. Thích mô h́nh nào th́ t́m chỗ dựa ở quan thầy đó. Dù là mô h́nh Nga-xô hay mô h́nh Trung cộng, th́ cũng rất xa lạ với dân chủ hay đúng hơn là tuyệt đối không có dân chủ!



    Và, ngay thời kỳ đó mà xét th́ chỗ họ đă đứng và đang đứng vẫn là chống lại dân chủ. Và, nếu như họ có đưa ra yêu sách dân chủ th́ cũng chỉ là cái cớ lật nhau, dành chỗ đứng cao ráo, béo bở hơn trong thang quan lại thực dân đỏ. Có vậy thôi!!!



    Việc này được nêu ra là nhằm không muốn thế hệ con cháu chúng ta, cũng như một bộ phận không nhỏ nhân dân Việt Nam trong nước và ngoài nước lại bị quả lừa không cần thiết. Xin nhấn mạnh rằng mấy nhân vật t́m chỗ dựa ở Nga-xô khi đó để hy vọng ở thang bậc làm chủ dân cao hơn chứ không bao giờ bọn họ có ư niệm về xă hội công dân hoặc chế độ dân chủ đa nguyên như hiện nay. Bọn họ đều đổ nhiều công sức tâm huyết cho cái chế độ mafia đỏ đó và phần lớn đều vấy máu người Việt Nam nói chung, người Việt Nam yêu nước và yêu dân chủ nói riêng. Nhưng khi chia phần họ bị thiệt tḥi nên bọn họ t́m chỗ dựa Nga-xô v́ quyền lợi bản thân chứ không v́ dân.



    Cần phải minh bạch chuyện này để nhân dân Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai khỏi mang ơn những vị trời ơi đất hỡi v́ bị thiếu thông tin.



    Sau 1954, nhiều nhân vật mafia đỏ ở miền Nam ra Hà-nội, tưởng rằng với thành tích tiêu diệt những người không chấp nhận chế độ cộng sản (tức thực dân đỏ), đàn áp và tàn sát các giáo phái v.v… chắc sẽ được những địa vị quan trọng. Đó là: Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Dương bạch Mai v.v… V́ Dương bạch Mai tuy được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ nhưng chỉ được phân công là ủy viên thường vụ của quốc hội ngụy quyền Hà-nội, mà trong đó đă có Trường Chinh, Hoàng văn Hoan là các ủy viên chính trị bộ, lại thêm những bộ mặt có nanh có mỏ như Hoàng quốc Việt, Chu văn Tấn, Nguyễn thị Thập v.v… Mà, tức nhất là ngay Tôn quang Phiệt (dự khuyết trung ương mafia đỏ thôi) cũng ngồi cao hơn Dương bạch Mai một bậc, v́ Phiệt là tổng thư kư của ủy ban thường vụ quốc hội mafia đỏ. Cho nên Dương bạch Mai, với tư cách chủ tịch hội Việt-Xô, hết sức phát triển hội cũng như kết thân với Serbakov, đại sứ Nga-xô khi ấy. Qua sinh hoạt hội Việt-Xô, Mai tụ tập được một số “bất măn” v́ thấy hạ phong so với những người “thành tích” mafia đỏ “c̣n kém ḿnh”, và số khác bị kỷ luật, kiểu như Ung văn Khiêm, v́ chuyện ồn ào đánh ghen ở đường Trần Quốc Toản (Hà-nội) cũng như đang giữ ghế bộ trưởng ngoại giao mà lúc quá chén lại bốc đồng khen lập luận đảng toàn dân của Khrút-xốp. Hay như Bùi công Trừng, một người tự coi là nhà lư luận mác-xít, là trí thức có hạng, vậy mà chỉ là ủy viên dự khuyết mafia đỏ kiêm phó chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước (ngụy quyền), thua xa lắc so với Tố Hữu. Cho nên Bùi cộng Trừng đă viết trên báo Nhân dân (Hà-nội) ca ngợi rằng chủ nghĩa Mác là một khoa học nên là người có học mới hiểu chủ nghĩa Mác. Và, thế là Lê Duẩn viết bài đập lại (cũng trên báo Nhân dân) ư rằng phải cần có lập trường vô sản th́ mới hiểu nổi chủ nghĩa Mác!!! Bùi công Trừng bị điểm mặt từ đó.



    Đại loại mọi việc như thế, chứ đâu nghĩ ǵ dân chủ!!!



    Tụi mafia đỏ tự đội đảng mafia của chúng là đỉnh cao của trí tuệ. Mỗi tên mafia đỏ cũng đều tự tôn ḿnh thành “siêu công dân”. Chính sự tự bơm đó đă làm chúng không biết chúng đang là “con cóc hay con ḅ” của Lafontaine.



    Thằng nào viết sách cũng khuếch đại cái tôi lên vạn lần.



    Bởi không đánh giá đúng bản thân nên bọn chúng rất chủ quan. Lại thêm cái máu Việt gian đậm màu thêm cùng với thời gian hoạt động cho mafia đỏ, nên chúng miệng nói “nhân dân là vô tận v.v…” nhưng chúng chỉ đi t́m chỗ dựa ở ngoại bang, v́ chỉ có cấu kết với ngoại bang th́ mới dễ đạt mục đích làm chủ của dân.



    Thiếu tướng Đặng kim Giang (xuất thân cốt cán hệt như tướng Chu huy Mân, chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội trước cả Lê đức Anh) cùng được phong tướng với những tướng ngụy khác như Đỗ Mười, Phan trọng Tuệ, Nguyễn thanh B́nh, Lê hiến Mai v.v… Trong khi Đỗ Mười th́ leo lên tới phó thủ tướng; Phan trọng Tuệ cũng phó thủ tướng kiêm bộ trưởng giao thông và bưu điện; Nguyễn thanh B́nh là bộ trưởng bộ nội thương; Lê hiến Mai là phó chủ nhiệm tổng cục chính trị, núp dưới bí danh Dương quốc Chính c̣n là bộ trưởng đại diện chính phủ ở khu bốn. Ngay các đại tá thôi, như Hà kế Tấn cũng là bộ trưởng thủy lợi; đại tá Đàm quang Trung, tư lệnh khu bốn; đại tá Phùng thế Tài, phó tổng tham mưu trưởng kiêm tư lệnh và chính ủy bộ tư lệnh pḥng không và không quân; đại tá Lê Hiền, tư lệnh bộ tư lệnh thủ đô Hà-nội; đại tá Vũ văn Cẩn, bộ trưởng bộ y tế. Và, cù lần như đại tá Nguyễn văn Quặn cũng giữ ghế phó chủ nhiệm ủy ban thể dục thể thao (trung tướng Hoàng văn Thái là chủ nhiệm). Thế mà tướng Đặng kim Giang chỉ được cái ghế thứ trưởng bộ nông trường!!!



    Ông Vũ đ́nh Huỳnh, thân phụ nhà văn Vũ thư Hiên, từ một người công giáo toàn ṭng đă tham gia cộng sản từ rất sớm, khi bị giải lên nhà tù Sơn-la, cùng chung một c̣ng với tên lang băm Xuân Thủy (sau 1954, Thủy được Hồ cho chức bí thư trung ương mafia đỏ). Năm 1945, khi Hồ được Vơ nguyên Giáp mang trung đội vũ trang hộ tống về Hà-nội, Nguyễn lương Bằng (tức Sao Đỏ) được cử làm lái xe hơi kiêm đầu bếp của Hồ th́ ông Vũ đ́nh Huỳnh được cử là một trong những thư kư riêng của Hồ (v́ Hồ có nhiều thư kư lắm kể cả Phạm huy Thông, khi Hồ qua Pháp mới tuyển dụng). Những người không u mê th́ nghĩ rằng Hồ chọn một người công giáo toàn ṭng làm thư kư riêng, nghĩa là loại tin cẩn, chỉ là một thủ đoạn chính trị, nhằm yên ḷng giáo dân và đặc biệt để Hồ dễ ăn nói, gặp gỡ một nhân vật mà Hồ rất e ngại, kiêng nể là Đức cha Lê hữu Từ. Khi thủ đoạn đó xong, lên Việt-Bắc ông Vũ đ́nh Huỳnh chỉ giữ chức vụ trưởng vụ lễ tân bộ ngoại giao cho đến ngày bị bắt. Hàm vụ trưởng đâu phải là một chức to tát ǵ đâu, cụ thể là chưa có tiêu chuẩn mua hàng ở cửa hàng Tôn Đản, mà chỉ mua ở cửa hàng Vân Hồ (nơi vợ tướng Trần Độ làm cửa hàng trưởng), hoặc ở Nhà Thờ, hoặc ở Nguyễn cảnh Chân, là 3 cửa hàng dành cho cán bộ mafia đỏ từ bậc chuyên viên 2, bậc thiếu tá, trung tá của lực lượng vũ trang và các cục, vụ trưởng. Trong khi đó, “lái xe” Nguyễn lương Bằng vừa được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ lại c̣n kiêm trưởng ban kiểm tra trung ương mafia đỏ, rồi c̣n lên phó chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội. Và, ngay Phạm huy Thông, dù can tội tặng tướng Vơ nguyên Giáp một cặp sừng dê mà cũng là viện trưởng viện khảo cổ (cấp viện trưởng là ngang thứ trưởng) và có thẻ mua hàng ở Tôn Đản! Cho nên nói cho chính xác th́ ông Vũ đ́nh Huỳnh chỉ là một người tham gia tổ chức mafia đỏ của Hồ ở bậc cố cựu chứ chưa bao giờ được giữ chức vụ ǵ quan trọng cả, c̣n thua xa tên Tạ quang Chiến là lái xe kiêm dắt gái cho Hồ, sau ra làm tổng cục trưởng tổng cục thể dục thể thao.



    Qua cái việc đề bạt nhân sự này, một lần nữa là bằng chứng cụ thể rằng Hồ luôn luôn là kẻ nắm quyền thực sự, chẳng ai khống chế được hắn.



    Như đă tŕnh bày ở trên, rằng cái hội Việt-Xô của Dương bạch Mai tỏa rễ rộng khắp mọi cơ sở hoạt động của xă hội miền Bắc khi đó, cho nên thành phần chống nghị quyết 9 cũng đa dạng, trong đó có thể có nhiều người chỉ muốn chống lại việc xích lại gần Ba Tàu cộng chứ không nghĩ đến hoặc không dám nghĩ đến việc chống Hồ. Nhưng, cái xuất thân của Dương bạch Mai cũng như quá tŕnh hoạt động cho mafia đỏ với nhiều thành tích, rơ ràng có sáng giá hơn bọn Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng v.v…. đặc biệt là “thành tích” lừa đảo trong vụ tháng 8 năm 1945, cướp công của các tổ chức, nhân sỹ yêu nước, ở miền Nam Việt Nam, cũng như nhanh tay tiêu diệt các giáo phái Cao Đài và Ḥa Hảo. Và, tham vọng lớn của Dương bạch Mai, nên hắn muốn thừa gió bẻ măng định làm đảo chính cung đ́nh giống kiểu Khrút-xốp ở Nga-xô. Và, Dương bạch Mai đă t́m chỗ dựa Nga-xô, trực tiếp qua tên Serbakov.



    V́ quá ham địa vị, lại tự hào về kiến thức và thành tích, Dương bạch Mai đă mờ mắt không nhận ra được vị trí quân cờ Hồ chí Minh trong thế chiến lược của Nga-xô. V́ thế mà Hồ được thông báo ngầm toàn bộ kế hoạch của Dương bạch Mai, trong đó sẽ lợi dụng họp quốc hội ngụy quyền Hà-nội, để làm cái việc như Khrút-xốp đă làm trong đại hội 20 của Nga-xô. Nghĩa là Dương bạch Mai sẽ tố giác “tệ sùng bái cá nhân Hồ” cũng như các tội ác của Hồ trong “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức”, “nhân văn – giai phẩm”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” v.v…



    Và, ngày 4-4-1964, tại cuộc họp quốc hội ngụy quyền Hồ chí Minh ở Ba-đ́nh (Hà-nội), theo lịch tŕnh th́ sau giải lao giữa giờ là lời phát biểu của ủy viên thường vụ quốc hội Dương bạch Mai. Nhưng chuyện đó đă và sẽ chẳng bao giờ xảy ra, v́ đang giải lao th́ “chú” Dương bạch Mai được “bác” Hồ niềm nở mời uống ly nước và vài câu chuyện mưa nắng v.v… Rồi “chú” Dương bạch Mai đă gục chết trên ghế “đại biểu quốc hội”, nghe đoán là “chắc” bị ngộp tim, nhưng có mặt ở đó một loạt đại biểu có nghề bác sỹ như bác sỹ Trần duy Hưng, giáo sư bác sỹ Tôn thất Tùng, giáo sư bác sỹ Trần hữu Tước, bác sỹ Nguyễn tấn Di Trọng v.v…, nhưng chẳng ai muốn “bỏ nhiệm vụ đại biểu quốc hội” để làm “lương y như từ mẫu”. Và, sau đó là các đ̣n linh hoạt của me-xừ “sáu búa” Lê đức Thọ, người được Hồ giao cái việc “trông nom lũ gọi là cán bộ”! Mọi chuyện bắt bớ, tra hỏi, bỏ tù, đă có nhiều vị viết sách kể lể, hư cấu quá đầy đủ, cho đến tận bây giờ th́ từ cái nội dung “chống nghị quyết 9” (tức thân Trung cộng), đă đổi màu thành đấu tranh đ̣i dân chủ!!! Sợ không, v́ cái thời điểm đó ngay tại mẫu quốc đỏ là Nga-xô, sau cái gọi là đại hội 20 của Nga-xô, th́ dân chủ vẫn là hai tiếng cấm kỵ, vậy mà mấy anh dân thuộc địa đỏ dám nói đến, trách nào chú Cuội cứ ở lỳ trên cung trăng, sợ xuống Bắc Việt Nam không có đất sống!!!



    Chỉ có miền Nam Việt Nam, trước tháng 4-1975, mới có mầm mống và hơi hướng dân chủ mà thôi. Và v́ thế, khi ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội vũ trang xâm lăng miền Nam xong, nụ cười chiến thắng trên môi chưa kịp tắt th́ đă lung túng với cái tinh thần dân chủ của miền Nam Việt Nam, tuy c̣n non trẻ. Để rồi, sau này, khi những người miền Nam Việt Nam kiến lập được một cộng đồng người Việt hùng hậu ở nước ngoài, th́ mới bắt đầu gọi là có “đấu tranh đ̣i dân chủ”, v́ có chỗ dựa là cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Những người như ông Nguyễn Hộ, nhà thơ Bùi minh Quốc, nhà văn Dương thu Hương, Bảo Ninh, các linh mục Chân Tín, Nguyễn ngọc Lan, rồi bác sỹ Nguyễn đan Quế v.v… mới không bị ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội nghiền nát thành “tương cự đà”. Và, rồi cũng từ lúc ấy, nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà tập thơ “Hoa địa ngục” của Nguyễn chí Thiện cho đến “Thiên đường mù”, “Bên kia bờ ảo vọng” của Dương thu Hương; “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh; “Gửi mẹ và quốc hội” của Nguyễn văn Trấn, Đoàn viết Hoạt v.v… và v.v… mới được thế giới biết đến để cho cuộc đấu tranh đ̣i dân chủ ở Việt Nam bén rễ, nẩy lộc như hiện nay, đang được biết bao tầng lớp người dân Việt Nam tham gia ngày càng ngoan cường. Cuộc đấu tranh đó là của người dân chứ không phải là của những người đương chức đương quyền dù nhỏ hay lớn trong bộ máy quan lại của ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội.



    Cũng chính cộng đồng người Việt ở nước ngoài đă điểm trúng huyệt “bách hội” của tập đoàn mafia đỏ Hà-nội. Đó là bằng công tŕnh nghiên cứu khoa học của giáo sư Lê Hữu Mục, cộng đồng người Việt ở nước ngoài đă vạch mặt tên đạo văn Hồ chí Minh, khiến mấy me-xừ quan liêu ở cơ quan UNESCO phải rút lại cái danh hiệu “danh nhân văn hóa thế giới”, chút xíu v́ lẩm cẩm đă tặng cho Hồ.



    Nhờ cộng đồng người Việt ở nước ngoài, cái cộng đồng được h́nh thành v́ bị mafia đỏ Hà-nội vũ trang xâm lược, tàn sát nên phải đi lưu vong, trong đó công lao góp cho mafia đỏ gieo rắc tai họa cho cộng đồng này không phải là ít, như ông Trần Độ chẳng hạn, nhưng mọi người vẫn đánh giá đứng mức những ǵ ông đang đóng góp hiện nay, khi ông bị “cách quan” để làm dân và đang hiểu phần nào thân phận người dân dưới sự cai trị của mafia đỏ (bởi ông Trần Độ vẫn chưa thấy cái sai trong việc theo lệnh Hồ, xâm lăng và tàn sát nhân dân miền Nam Việt Nam).



    Đối với các ông như Hoàng minh Chính, Lê Giản, Hoàng hữu Nhân, Lê hồng Hà v.v…, cũng phải sau tháng 4-1975 nhiều năm, các ông đó mới thấy nhu cầu dân chủ cho đất nước, nghĩa là khi đă bị làm dân; c̣n nhận ra muộn hơn nhà văn Dương thu Hương, vợ chồng Lưu quang Vũ, nhà thơ Bùi minh Quốc v.v… và không sâu sắc như ông Nguyễn Hộ và Hà sỹ Phu (Nguyễn xuân Tụ). C̣n một số khác th́ cho đến chết vẫn nặng mùi cơ hội như bác sỹ Nguyễn khắc Viện hay giáo sư Trần đức Thảo, nhà thơ Vũ Cận v.v…



    V́ ḷng nhân ái, nhưng chủ yếu là thiếu thông tin, nên nhân dân Việt Nam cả trong và ngoài nước dễ bị lầm – nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại – nên cần cân nhắc cẩn thận khi đề cập đến một ai đó. Nghe nhưng phải kiểm tra, phải phân tích, đối chiếu. Tổ tiên ta đă căn dặn: “Yêu củ ấu cũng tṛn, ghét bồ ḥn cũng ngọt” là vậy, cũng như “nói vậy mà không phải vậy”! Không quên công lao những người đă và đang đấu tranh với ngụy quyền Hồ chí Minh, nhưng không thể không xem xét động cơ đấu tranh của họ là v́ dân hay v́ ḿnh!



    Dù là v́ dân hay v́ ḿnh mà đấu tranh chống mafia đỏ Việt Nam hiện nay đều đáng được ủng hộ mọi mặt, nhưng phải xem xét động cơ đấu tranh th́ mới khỏi bị lặp lại cảnh “tránh vỏ dưa dẫm phải vỏ dừa” (như chuyện ủng hộ việc chống thực dân Pháp trước đây vậy).



    Như thế sẽ có thể có câu hỏi đặt ra là: Những ư kiến của ông Nguyễn trung Thành về vấn đề này là thế nào?



    Xin thưa rằng, ông Nguyễn trung Thành, trưởng ban bảo vệ đảng, từng là một cán bộ có giá dưới quyền Lê đức Thọ, và được giao giải quyết vụ này. Mấy năm gần đây, ông Nguyễn trung Thành có ư kiến đề nghị minh oan cho nhóm “chống nghị quyết 9” rằng họ vô tội, không có chuyện phản đảng và cũng không có chuyện làm gián điệp cho nước ngoài như cáo buộc trước kia. Ông Nguyễn trung Thành phải công khai hóa chuyện này v́ cả mấy đời “tổng bí thư” đều không giải quyết. Không những thế, ông c̣n bị Đỗ Mười (từng bị điên) gọi ông lên nhắc khéo rằng ông đă đến tuổi “về hưu”. Nghĩa là chưa tiện nói hai tiếng “lẩm cẩm”, v́ Mười c̣n hơn tuổi ông Nguyễn trung Thành.



    Tại sao những người nắm quyền lực chính của mafia đỏ cứ lúng túng về chuyện này, trong lúc họ dám “chê trách” Lê Duẩn và Lê đức Thọ ở nhiều vụ việc khác, kể cả việc “cho Hồ ra ŕa” như Lữ Phương trích ư của Vũ Kỳ – thư kư của Hồ – viết trên tờ Văn nghệ, hay “sửa di chúc của Hồ” và thay đổi cả ngày giờ ngủm củ tỏi của Hồ.



    Chẳng có ǵ khó hiểu cả, v́ tất cả các vụ việc đó đều do lệnh miệng của Hồ, nghĩa là Hồ bảo Lê Duẩn và Lê đức Thọ trừng phạt những ai dám đ̣i khôn hơn Hồ cản trở nước cờ đu dây của Hồ giữa Nga-xô và Trung cộng, đặc biệt dám đấu Hồ. V́ thế mà từ Trường Chinh cho đến Nguyễn văn Linh, rồi Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, và Nông đức Mạnh, đứa nào cũng cứ như “chó ăn vụng bột” mở mỏ nói không được. V́ nếu giải quyết vụ “án xét lại” có nghĩa là phải kết án Hồ, tức là tự tay đập nát cái thần tượng mà chúng đang núp sau để lừa thiên hạ.



    Việc đơn giản như vậy mà các vị “xét lại” không nh́n ra v́ hai tay các vị dù nhiều dù ít đă nhúng chàm “mafia đỏ”, nên có dám mở mắt để nh́n vào cái bản mặt Việt gian của Hồ chí Minh đâu, cho nên cứ chạy theo me-xừ “kiến đi kiện củ khoai”. Điều này càng chứng minh thêm sự tai hại ghê gớm của việc nhiều “ng̣i bút chống đối” hiện nay ở trong nước vẫn u mê dựng ra “chủ nghĩa Hồ chí Minh” để chống tập đoàn đầu lănh mafia đỏ hiện nay mà chúng lại chính là sản phẩm đúng nhăn họ Hồ.



    Bất cứ ai, đă nhiễm virus HIV mafia đỏ dương tính, th́ dù có cả trăm bồ kiến thức như Trần văn Giàu, Dương bạch Mai, Bùi công Trừng, bác sỹ Nguyễn khắc Viện, thạc sỹ Trần đức Thảo v.v… hay cả ông Hoàng minh Chính, ông Trần Độ, ông Trần Khuê v.v… cũng chỉ nh́n được “một nửa sự thật”, hệt như mấy vị đă thoát hiểm ra nước ngoài, dù viết cả gần chục cuốn sách hay cả ngàn trang mà nhiều vấn đề vẫn chỉ càng thêm mơ hồ, thêm khó hiểu. Ngay như Lữ Phương, một cây bút được cả trong và ngoài nước cho là “có tŕnh độ lư luận” mà cũng có lối giải thích rất ấu trĩ. Lữ Phương nâng Hồ lên “… là nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20”. Nào là Hồ đă: “Tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ, chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đă hoàn thành độc lập, thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xă hội hiện thực” ở Việt Nam”. Nghĩa là Lữ Phương thừa nhận:



    1- Hồ là người tổ chức cuộc chiến đấu chống cả thực dân Pháp lẫn cả Mỹ (theo lối nói của mafia đỏ gọi Mỹ là thực dân mới);

    2- Hồ đă lănh đạo để “hoàn thành độc lập, thống nhất” tức là sau khi Hồ chết (9-1969), cái gọi là “độc lập, thống nhất” được thực hiện vào 30-4-1975 cũng là công lao của Hồ, có nghĩa là Hồ chết rồi, nhưng bọn Lê Duẩn vẫn làm theo lệnh của Hồ từ trước đó;

    3- Hồ cũng là người “thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xă hội hiện thực” ở Việt Nam”. Như thế có nghĩa là theo ư Lữ Phương th́ không chỉ với phía Bắc Việt Nam mà ngay miền Nam Việt Nam bị khoác cho cái gông “chủ nghĩa xă hội hiện thực” cũng là công của Hồ.

    Vơ tất cả mọi công lao cho Hồ, vinh danh Hồ đến tột cùng như thế mà Lữ Phương lại dám “đau xót cho Hồ là bị cho ra ŕa”. Chỉ tính từ nghị quyết 9, có nghĩa từ năm 1963, theo Lữ Phương, Hồ đă bị “cho ra ŕa” rồi th́ làm sao Hồ có thể tổ chức chiến đấu chống Mỹ mà hoàn thành độc lập, thống nhất để thiết lập chế độ XHCN hiện thực ở Việt Nam là chuyện của 4-1975!!! Học hành lư luận kiểu đó, trách nào mà chẳng “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” để đến nỗi “canh bạc chính trị” trốn ra bưng năm 1968 (là năm ngụy quân Hồ chí Minh gây ra vụ thảm sát ở Huế) vẫn đánh cây bài “chính phủ lâm thời”, đến nỗi cháy túi, mà bây giờ vẫn c̣n chưa tỉnh!!!



    Thôi th́ cất bút cho rồi

    Càng lư luận, càng ḷi đuôi: nịnh thần!!!”



    Cái gọi là “vụ án xét lại chống đảng” của những năm 1960 không có tiếng vang trong nhân dân miền Bắc Việt Nam khi ấy, v́ nó chỉ là phản ứng trong nội bộ mafia đỏ của một thiểu số thân Nga-xô, hoàn toàn không phải là phong trào của nhân dân và khởi xuất từ nguyện vọng của nhân dân. Cho nên không được đa số nhân dân là nông dân biết đến và ủng hộ, v́ thế nó như hoa phù dung, “sớm nở tối tàn”.



    Người trung thực phê phán vụ bắt bớ này là ông Nguyễn trung Thành. Việc làm của ông thật đáng kính trọng. Đúng là gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhưng, cần phải nhớ rằng sự trung thực của ông Nguyễn trung Thành đă giúp vén bức màn về “vụ án xét lại chống đảng”. Rằng: “Không có bằng chứng đây là một tổ chức, có điều lệ, cương lĩnh và v.v…” Chính nhận xét đó của ông Nguyễn trung Thành đă chứng minh rằng nhóm bị kết án trong “vụ xét lại chống đảng” là một bộ phận quan trọng đầu năo của hội Việt-Xô. Ông Nguyễn trung Thành không nh́n ra được rằng hội Việt-Xô là tổ chức của họ và điều lệ của hội Việt-Xô là cương lĩnh của họ. Bởi v́ hành động phản đối nghị quyết 9, là nghị quyết thân Trung cộng, có nghĩa là họ bảo vệ Nga-xô như mục đích việc h́nh thành hội Việt-Xô cũng như điều lệ của hội Việt-Xô vậy. C̣n cái gọi là “làm gián điệp cho nước ngoài” là ư nói rằng một số trong bọn họ như Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Nguyễn văn Vịnh, Bùi công Trừng, Lê Liêm v.v… dự họp trung ương mafia đỏ nên biết những chuyện như Trường Chinh, thay mặt bộ chính trị, tuyên bố rằng: “Đường lối đối nội và đối ngoại của đảng ta (tức mafia đỏ Việt Nam) hoàn toàn thống nhất với đường lối đối nội và đối ngoại của đảng cộng sản Trung quốc”. Cũng như việc bọn Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh và Hoàng văn Hoan qua Trung cộng bàn về việc cho ra đời cái gọi là “quốc tế mới (Mao-ít)”, tất cả đều báo cáo lại cho viên t́nh báo Serbakov, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nga-xô tại Hà-nội lúc đó. Hơn nữa, cái tội danh “gián điệp” là bổn cũ của Hồ và đồng bọn, cho đến nay là họ Nông, dùng để gán tội cho những ai bất đồng với chúng.



    Đứng ở góc độ của người dân miền Bắc Việt Nam khi ấy, th́ cuộc đấu đá giữa “xét lại” (thân Nga-xô) và “giáo điều” (thân Trung cộng) đúng như được phản ảnh qua bức hí họa trên tờ Nouvel Observateur, là trên bộ mặt của Mác râu ria xồm xoàm, một mắt bên trái (tức tả khuynh) là đầu Mao trạch Đông và mắt bên phải (tức hữu khuynh) là đầu Brê-giơ-nép đang chửi nhau qua cái sống mũi của Mác. Nghĩa là tụi có quyền dựa vào quan thầy tranh ăn với nhau nhưng cả hai phe đều là con đẻ của cộng sản. Bây giờ có đủ bằng chứng để kết luận rằng cộng sản = mafia đỏ. C̣n thân phận người dân vẫn là lao động “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm chủ nhật”, c̣n vẫn chỉ được ăn “rau muống” như đề nghị của bác sỹ Nguyễn khắc Viện, hoặc “ăn 7kg lá khoai mỳ thay cho 1kg thịt ḅ” như phổ biến của ủy ban khoa học nhà nước, hoặc “ăn thai nhi và nhau đẻ” như phổ biến của ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em, do đích thân Phạm văn Đồng, thủ tướng kiêm chủ nhiệm ủy ban!!! Chưa ai nghe nói rằng cái nhóm đó đ̣i hỏi chút tự do, chút miếng ăn cho người dân. Có thể là họ c̣n “để bụng” đến những năm gần đây mới “bật mí” cho dân được sung sướng bất ngờ?(!)



    Từ sau 30-4-1975, sau khi mafia đỏ đặt ách thực dân đỏ lên miền Nam Việt Nam, th́ lối sinh hoạt và sản xuất của miền Nam Việt Nam; nền văn hóa, văn nghệ ḥa hợp với nhân gian của miền Nam Việt Nam; tự do tín ngưỡng, đi lại, lập hội, ra báo của miền Nam Việt Nam trước kia và v.v…, đă đánh thức người dân miền Bắc Việt Nam (trong đó có cả các văn nghệ sỹ và những người trong “vụ án xét lại chống đảng” bị đẩy khỏi cung đ́nh quan lại mafia đỏ Hà-nội để làm dân) khỏi giấc mộng du trong con hẻm bùn lầy XHCN của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh. Chỉ khi đó người ta mới thấy nhu cầu dân chủ và đấu tranh cho dân chủ, nhất là sau khi h́nh thành cộng đồng người Việt ở hải ngoại và sự sụp đổ của hệ thống XHCN, đặc biệt là Nga-xô, mẫu quốc đỏ của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh.



    Cũng xin lưu ư rằng, hiện nay có một số cán bộ lăo thành của mafia đỏ Hồ chí Minh lên tiếng vạch mặt bè lũ tham nhũng, đĩ bợm, bán nước trong ngụy quyền cộng sản Hà-nội. Họ hoàn toàn không dính dáng ǵ đến nhóm những người trong “vụ án xét lại chống đảng”. Thí dụ như các ông Nguyễn văn Đào, Hoàng hữu Nhân, Lê Giản v.v… Đặc biệt là nhóm quá khứ là công an như Lê Giản, Chu định Xương và Hoàng Đạo v.v… đă bị “cho ra ŕa” từ trước và sau 1954. Bởi v́ những người đó không thích hợp cho bộ máy chuyên chính của họ Hồ sau khi Hồ đă đặt được ách trị lên đầu người dân miền Bắc Việt Nam. Đối với Hồ, họ là quả chanh đă bị vắt kiệt nước th́ phải quăng đi. Thí dụ: Lê Giản, Chu định Xương đă dàn dựng vụ án “Ôn như Hầu” năm 1946 ở Hà-nội, để bôi nhọ VNQDĐ. Hay Hoàng Đạo (nguyên trưởng ty công an Thanh-hóa) cùng đệ tử là Nguyễn kim Sơn (anh ruột bác sỹ Nguyễn ngọc Hà, trong tổ chức Việt gian ở Pháp, trước 1975) đă hoàn thành vụ đánh đắm chiếc tàu thủy của Pháp. Những năm 1960, họ vẫn cứ mang cái “mác” công an để ra các quán bia hơi ở Cổ-tân, Quan-thánh v.v… (tất cả đều ở Hà-nội) hù mấy anh chàng xă viên hợp tác xă, có tiền, đễ uống bia gỡ, suốt từ 10 giờ sáng cho đến 6-7 giờ tối. Sau 1975, Hoàng Đạo và Kim Sơn c̣n ṃ vào tận Sài-g̣n để mang lại cái “mác” công an đi lừa đảo, kiếm ăn cũng khấm khớ. Ngay Kim Sơn, chí ít cũng lừa được 4 cái vi-la: một cho con trai, một cho bản thân, hai cho các em trai.



    Ngày nay, đứng ở vị thế “làm dân”, không làm quan đă lâu, nên họ mới ngộ cái nghiệp làm dân mà đứng lên nói được mới một chút sự thật mà thôi, và do khí thế đ̣i dân chủ, đ̣i quyền làm người nói chung, họ mới bắt đầu “chống mafia đỏ”!



    Xin đừng lẫn lộn với những người như ông Nguyễn Hộ hay những người như các nhà văn Dương thu Hương, Lưu quang Vũ, Phùng gia Lộc, nhà thơ Bùi minh Quốc, phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ Phu), ông Vũ cao Quận, đại tá Phạm quế Dương v.v… là những người thực sự tỉnh ngộ cơn ác mộng XHCN và đấu tranh cho dân chủ, tuy ở những mức độ khác nhau.



    C̣n những loại như bác sỹ Nguyễn khắc Viện là nhân vật cơ hội điển h́nh và đệ tử ruột là Vũ Cận (dù là có tập thơ “chống chế độ”, khoe là bí mật viết từ lâu). Những ai đọc và biết về hai nhân vật này, đều thấy họ là cái chong chóng, thổi mạnh là quay như đèn cù! C̣n thạc sỹ Trần đức Thảo th́ v́ “luyện học thuyết Mác” mà ăn thịt cóc nên bị “tẩu hỏa nhập ma”, chẳng có ích ǵ cho dân tộc cũng như bản thân. Cái đáng trách nhất là ông ta đă để mafia đỏ dùng vào việc “đấu” ông Hà sỹ Phu trên báo Nhân dân, cơ quan nói láo của mafia đỏ!!!



    Những người đấu tranh cho dân chủ mănh liệt nhất chính là nông dân, như ở Đồng-nai, Thanh-hóa, Thái-b́nh v.v… v́ họ ở vị trí dân thứ thiệt, chứ không phải là loại “quan bị cách” nên bật ḷ-xo, hoặc đánh cá độ “phe này phe kia”, và một bộ phận nữa là cộng đồng người Việt ở hải ngoại, nói chung.



    Nêu lên những sự thật mắt thấy tai nghe nói trên, người viết chỉ muốn minh bạch mọi việc, để sau này có ai soạn lại lịch sử Việt Nam tránh bị lẫn lộn cảnh “râu ông nọ cắm cằm bà kia”!



    (Xin mời đọc tiếp bài 12)

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 12

    Xin nói tiếp về nghệ thuật đu dây của họ Hồ



    Sau khi Dương bạch Mai đi tàu suốt đến ga “âm ty” và để Lê đức Thọ sửa gáy tất cả những ai dám bảo lưu ư kiến về “nghị quyết 9”, Hồ cho gọi Nguyễn văn Kỉnh, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, đang làm nhiệm vụ đại sứ ở Nga-xô về giữ ghế chủ tịch hội Việt-Xô, kiêm phó ban đối ngoại trung ương, phụ trách thường trực (Nguyễn duy Trinh, ủy viên chính trị bộ là trưởng ban kiêm phó thủ tướng, phụ trách bộ trưởng ngoại giao). Như thế có nghĩa Hồ đă làm yên ḷng mẫu quốc đỏ Nga-xô, v́ vị trí của Nguyễn văn Kỉnh quan trọng hơn Dương bạch Mai nhiều và cũng là người được Nga-xô hiểu và tin hơn.



    Tháng 10-1964, lại có đảo chánh cung đ́nh ở Nga-xô, Brê-giơ-nép thay cái ghế của Khơ-rút-xốp. Lê Duẩn mà có người “hư cấu” là thân Trung cộng, theo lệnh Hồ cầm đầu đoàn “cái bang” sang Nga-xô xin viện trợ cho kế hoạch tăng cường thâm nhập miền Nam Việt Nam. Và, tại đại hội lần 23 của Nga-xô, Lê Duẩn c̣n công khai tuyên bố: “Liên-xô là tổ quốc thứ hai của chúng tôi”!!!



    Thử đặt câu hỏi: “Chúng tôi là ai”? Xin thưa: Như thế có nghĩa là: Toàn thể tập đoàn mafia đỏ Việt Nam mà họ Hồ là đầu lănh chóp bu (chủ tịch đảng). Khác với lời tuyên bố của Vũ đ́nh Liệu, năm 1978, là chủ tịch Sài-g̣n, khi thăm Lê-nin-grát chỉ nói rằng: Liên-xô là tổ quốc thứ hai của tôi, và chuyến đi này là hành hương về thánh địa”!!!



    Hồ không ra mặt tuyên bố là c̣n để mở lối đi lại với “anh hai Trung cộng”. Hơn nữa, câu đó Hồ đă nói từ khi mang cái tên Nga – Line – và Hồ thường gắn vào mọi nghị quyết của mafia đỏ là: “Phải bảo vệ Liên-xô, thành tŕ cách mạng thế giới”, cũng như khi c̣n rúc đầu ở hang Pắc-bó (Cao-bằng), đă gọi ḍng suối chảy qua cửa hang là Lê-nin. Thật quá đủ diện mạo của Hồ là thật ḷng với ai và giả dối với ai.



    Lập luận cho Lê Duẩn là thân Trung cộng, rồi v́ Mao chơi kẻ cả nên Duẩn tự ái ngả sang Nga-xô, chỉ dựa theo tên tḥ ḷ cơ hội Trần Quỳnh, th́ đúng như lối nói ở miền Nam là: “chơớc quơớc”!



    Nên nhớ rằng, mặt của tụi đầu đà mafia đỏ, từ Hồ cho đến nay là bè lũ Nông đức Mạnh, dày như da tê giác, trơ như thớt chặt thịt quay của các tiệm ba Tàu ở Chợ-lớn. Lũ vô liêm sỉ đó chỉ quan tâm đến quyền lợi của chúng, ở cái ghế ngồi của chúng mà thôi. Chúng tự cao chỗ này, tự ti chỗ kia, đâu biết tự ái!



    Ai đă biết thằng Trần Quỳnh rồi th́ chẳng bao giờ nghe nó nói, đọc nó viết. C̣n chót đọc của nó viết rồi th́ nên quên đi cho vệ sinh bộ nhớ!



    Hồ ngồi ở Ba-đ́nh giật dây: Lê Duẩn khúm núm với Brê-giơ-nép, c̣n phía “anh hai Trung cộng” th́ đă có Hoàng văn Hoan ăn nằm thường trực cùng với những yêu cầu về súng, đạn của Nguyễn chí Thanh từ miền Nam Việt Nam tới tấp gửi ra. Hoan và Thanh mới chính là hai tên thân Trung cộng thứ thiệt. Hoan th́ khoái gái Tàu và đồ ăn Tàu và rượu Mao-đài. C̣n Thanh th́ thích “uống máu dân” như Trung cộng và lúc nào cũng gồng ḿnh, gân cốt như mấy vơ sinh ở Thiếu-lâm-tự vậy. Sự sốt sắng của Thanh là v́ muốn “vĩ đại” hơn Vơ nguyên Giáp. Nhưng c̣n một lư do thầm kín nữa là Thanh muốn Hồ quên cái tội của Thanh khi bị mật thám thực dân Pháp bắt đă khai tùm lum, làm tan tổ chức mafia đỏ ở Khu 5, nhưng Thanh lại “vu” cho Đặng xuân Thiều (anh em họ của Trường Chinh) là kẻ khai báo. Hồ biết cái tội đó của Thanh nên mới dùng Thanh để cân bằng với Giáp (bị tù cũng khai báo và làm đơn xin khoan hồng). V́ thế mới gần như cùng lúc Hồ phong cho một cử nhân luật, giáo sư sử học là “đại tướng tổng tư lệnh”, th́ cũng cho làm “tướng bốn sao” một anh chàng trên mức đọc thông viết thạo, kiêm chủ nhiệm tổng cục chính trị. Nghĩa là bên chuyên bên hồng (như kiểu ở xe hơi th́ bên là động cơ phát lực di động, bên là cái thắng) như thế mới an toàn cho Hồ cầm bánh lái lực lượng vũ trang. Cho nên đến tận ngày Hồ chết, không bao giờ Hồ nghĩ đến việc ban cho Giáp cái quân hàm “nguyên soái”!!!



    Tội ác của Nga-xô và Trung cộng đối với nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân miền Nam Việt Nam nói riêng cũng “vĩ đại” ngang nhau. Đó là việc bọn chúng đào tạo ngụy quân, trang bị hiện đại cho chúng và khuyến khích chúng lập thành tích tàn phá tài nguyên, tàn sát nhân dân Việt Nam càng nhiều càng tốt. Cho nên bất cứ nhóm nào chỉ chống Trung cộng mà thân Nga-xô hay ngược lại, không thể được coi là hành động v́ dân v́ nước.



    Chỉ có người dân mới sáng suốt nhận diện được cả ba kẻ thù là: Nga-xô, Trung cộng và tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh.



    Những thành phố lớn như Hà-nội, Hải-pḥng, Nam-định, từ thuở đó đă xuất hiện những bài “đồng giao”, trẻ con tụ tập hát như:



    “Ông Liên-xô

    Bà Trung quốc

    Ông đi guốc

    Bà đi giầy

    Ông nhảy dây

    Bà bắn súng

    Ông khen: đúng

    Bà chê: sai

    Bỏ cả hai

    Là đúng nhất!”



    Hoặc thơ ghế đá:



    “Họ Hồ có cái mặt mo

    Bắc-kinh xin đổi ba ḅ, chín trâu

    Hồ rằng Hồ chẳng lấy trâu

    Nga-xô xin đổi một xâu cá mè

    Hồ rằng Hồ chẳng lấy mè

    Bắc-kinh xin đổi một bè gỗ lim

    Hồ rằng Hồ chẳng lấy lim

    Nga-xô xin đổi đôi chim đồi mồi

    Hồ rằng Hồ chẳng lấy mồi

    Bắc-kinh xin đổi máu tươi: Hồ cười

    Nga-xô thêm “tư” thịt người Việt Nam

    Mặt mo! Hồ đúng Việt gian!!!”



    Thế là Lê Duẩn th́ đóng vai cánh tay phải của Hồ, nắm chặt tay “anh cả Nga-xô”. Lê Duẩn c̣n đặt vào cái ghế đại sứ ở Nga-xô một nhân vật “lạ kỳ về sự thân tín” của Duẩn, đó là Nguyễn thọ Chân. Cho đến tận 1960, anh chàng Nguyễn thọ Chân này, cũng như tụi mafia đỏ khác, sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, tập kết ra Bắc, vẫn c̣n nằm trong ẩn số. Hắn làm thường trực, tức gác cửa ở văn pḥng bộ Lao động. Một hôm Lê Duẩn đến bộ Lao động, nh́n thấy Nguyễn thọ Chân, hỏi tại sao lại làm “gác cửa” ở đây. Chân đáp là do “tổ chức” sắp xếp. Vài ngày sau, Nguyễn thọ Chân được Lê Duẩn gọi lên gặp Hồ. Và, sau đó th́ “tự dưng” được đề bạt thành “ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ” và cầm quyết định ra làm bí thư tỉnh ủy Quảng-ninh (tỉnh biên giới với Tàu), thay cho Hoàng Chính, một người gốc Nùng, thân Trung cộng và là đệ tử ruột của Trường Chinh. Sau đợt gọi là dẹp yên nhóm chống đối nghị quyết 9, Nguyễn đức Tâm, từng là phó cho Hồ viết Thắng trong cải cách ruộng đất, khi sửa sai bị “lột chức” dự khuyết trung ương mafia đỏ, nhưng lại về làm tổng cục trưởng tổng cục vật tư, nay ra thay Nguyễn thọ Chân làm bí thư tỉnh ủy Quảng-ninh. Tại cái đất mỏ than này, Nguyễn đức Tâm đă phát hiện ra hai con “gà ṇi” mafia đỏ để đào tạo. Đó là tên Phạm thế Duyệt, tham nhũng “một cây”, và tên nữa là Vũ Măo. Đến thời Nguyễn văn Linh, Nguyễn đức Tâm vọt lên ngồi vào cái ghế của Lê đức Thọ, tức là trưởng ban tổ chức trung ương. Điền này càng chứng minh việc họ Hồ “nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất” chỉ là một thủ đoạn chính trị lưu manh mà thôi. C̣n Nguyễn thọ Chân, được Hồ phong cho chức ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, để qua Nga-xô làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền.



    Và, kẻ đóng vai tay trái của Hồ là Trường Chinh, th́ luôn luôn tỏ ra Mao-ít, với bài nói gay gắt trong cái gọi là “đại hội các nhà văn”, tức lũ bút nô, và bài báo sặc mùi “công xă” trên báo Nhân dân, phê phán việc “khoán sản phẩm” đến các hộ nông dân của Kim Ngọc, bí thư tỉnh ủy của mafia đỏ ở Vĩnh-phú, và Kim Ngọc bị lột chức, ngồi chơi cho đến chết. Hoàng văn Hoan, một kẻ được Trung cộng hết ḷng tin cậy, từ Bắc-kinh về Hà-nội để có mặt đều đặn trong các cuộc họp chính trị bộ, nhằm làm Trung cộng an tâm là không có bàn thảo ǵ bậy bạ sau lưng “anh hai Trung cộng”. Cái ghế đại sứ ở Bắc-kinh được trao cho một đàn em thân tín của Trường Chinh. Đó là trung tướng Trần tử B́nh, nguyên tổng thanh tra ngụy quân cộng sản, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ. B́nh là gốc công giáo, “tu xuất”, gia nhập mafia đỏ cùng thời với ông Vũ đ́nh Huỳnh!



    Nhân sự do Hồ bày biện xong xuôi, thế là từ Nga-xô lũ ngụy quân học lái máy bay, điều khiển ra-đa, tên lửa; ngụy quân lái xe tăng, công binh, vũ khí hóa học trở về, cũng như máy bay Mic-17 và tên lửa Sam ào ào đổ vào cho Hồ; cùng vài phi đội Mic-21 với phi công Nga-xô và Bắc-hàn. Nhiều nhân viên dưới quyền Trần quốc Hoàn, bộ trưởng công an, được đưa qua học nghề gián điệp tại Cu-ba và Đông-Đức cũng trở về. Lũ mafia đỏ ở miền Nam tập kết ra Bắc trước đây, được tập hợp, đào tạo lại tại Thái-nguyên để cho thâm nhập miền Nam Việt Nam. Nhân sự miền Bắc trong các ngành giao thông vận tải, bưu điện – truyền thanh và thương nghiệp cũng được tổ chức qua Lào nắm các công tác chuyên môn, kể cả các chức vụ trưởng ty của tỉnh. Bộ công nghiệp được Hồ thổi phồng lên thành ủy ban nông nghiệp trung ương, v́ nó có nhiệm vụ quản lư cả ngành nông nghiệp không chỉ của “toàn Việt Nam” mà là của toàn Đông-dương. Nào là kế hoạch trồng ngô trên cao nguyên Bô-lô-ven, cũng như kế hoạch nuôi ḅ giống ở Ba-v́ (Sơn-tây) sản xuất tinh viên đủ để cải tạo đàn ḅ của cả Việt Nam, Lào và Miên!!! Hồ đích thân cưỡi trực thăng đi thăm trại ḅ giống, và sau đó th́ lại đẻ ra tṛ hưởng thụ mới, nghĩa là ngày ngày máy bay trực thăng lên trại ḅ sữa Sơn-la hoặc Ba-v́ chở sữa tươi về cho Hồ và lũ đầu đà trong tập đoàn Việt gian của Hồ uống.



    Trong lúc mà những bà mẹ “công nhân” thiếu sữa cho con bú, phải ra pḥng thương nghiệp ngồi chờ vài tiếng đồng hồ để nhân viên thương nghiệp ra bóp vú, nếu thấy quả là không có sữa mới cấp tem cho mua hai hộp sữa đặc, nhăn hiệu “ông Thọ”, nhiều khi đă quá hạn. Con bú hết, muốn xin mua tiếp, người mẹ lại phải ra cho thương nghiệp “bóp vú lại”. Cứ như thế cho đến lúc đứa bé đủ mười hai tháng tuổi th́ coi như hết tuổi bú sữa!!!



    Việc viện trợ quân sự của “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” là giúp Hồ vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam cho có hiệu quả, nên mọi yêu cầu sự giúp đỡ cụ thể từ phía Trung cộng là do Nguyễn chí Thanh đề xuất, kể cả việc xin Trung cộng cho công binh qua làm đường để chuyển vận chiến cụ. Được Hồ bật đèn xanh, “anh hai Trung cộng” khoái lắm, kéo lính ào ào sang, mang theo gạo, thịt, đường, sữa, thuốc lá “Trung hoa bài”, “Đại tiền môn”; bơ “Mông cổ”, thịt hộp v.v… và tiến hành vừa làm đường, vừa làm “dân vận” theo kiểu Tống Giang ở Lương Sơn Bạc. Nghĩa là ở các cung đường, công binh Trung cộng xây các quán “bát giác” để một thùng trà tàu loại ngon, lúc nào cũng nóng và đầy, cùng rất nhiều ca tráng men để cho khách qua đường dừng chân vào nghỉ, thoải mái uống trà “chùa”. Đă thế lại c̣n có lính Trung cộng khoác áo trắng, đeo khẩu trang sẵn sàng hớt tóc, cạo râu “free” cho bất cứ ai có yêu cầu. Trên bàn cạnh thùng trà là báo ảnh của Trung cộng đầy ắp, sách đỏ, trích dẫn lời của Mao, in bằng giấy xịn và b́a có vỏ bọc ny-lông màu đỏ. Rồi đủ loại huy hiệu có h́nh Mao và cờ Trung cộng, có cái to bằng ḷng bàn tay người lớn. Người vào quán được lính Trung cộng lễ phép, niềm nở tiếp, rót nước, tặng báo ảnh, sách đỏ của Mao và gắn huy hiệu của Mao rồi mới hớt tóc, cạo râu.



    Người dân Việt Nam, dù bị tới ba tầng thống trị là Nga-xô, Trung cộng và tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, mặt mũi khù khờ, nhưng có nhiều đ̣n hiểm làm lũ thống trị đau như hoạn mà không kêu ai được. Họ đua nhau xin báo ảnh, sách đỏ của Mao và huy hiệu. Tụi Trung cộng hí hửng tưởng người dân Bắc Việt Nam cũng có máu Việt gian như tập đoàn Hồ cho Minh nên bị “bé cái lầm”. Người ta lấy báo ảnh của Tàu về để nhóm bếp, để dán lên vách nứa chống gió, xe lại như điếu thuốc lá rồi lấy dây luồn qua làm mành mành che cửa. Sách đỏ th́ lột vỏ bọc làm “ví đựng tiền hay thuốc lào”, giấy th́ để quấn “thuốc rê”. Huy hiệu của Mao th́ trẻ con dùng đánh đáo, đánh cờ kim, mộc, thủy, hỏa, thổ v.v… Và, người qua đường khỏi nói, dân quanh đó đua nhau ra lấy trà về uống thừa mứa c̣n dùng rửa đít cho trẻ em bị hăm bẹn hoặc người lớn ngâm chân chống nước ăn chân (v́ trà có nhiều chất “tan-nanh” làm khô da). Và, thừa cơ là “mượn dài hạn” các ca tráng men, thậm chí c̣n rinh cả thùng nhôm đựng trà. Người ta đến đó cho lính Trung cộng hầu hạ, cắt tóc, cạo râu, cạo mặt và cứ “tả cố, tả cố” (tức đại ca) hoặc “thổng trủ” (tức đồng chí, thế mà mấy anh lính mắt một mí tít cả hai mắt lại, và mấy chú nhỏ nhanh hơn sóc đă nẫng gọn bộ đồ nghề hớt tóc. Vài tháng đầu, bọn lính Trung cộng c̣n “hào phóng”, mất th́ thay cái mới v́ cho rằng dù sao đó cũng là sản phẩm “tuyên truyền Mao-ít” v́ từ ca uống nước, thùng đựng nước v.v… cái ǵ cũng có h́nh Mao và cờ Trung cộng, theo kiểu lư thuyết Paplov th́ nó sẽ định h́nh trong vỏ năo người dân Việt Nam h́nh ảnh phốp pháp, bụ bẫm của “bác Mao”. Chỉ măi sau nhờ có Hoa-kiều cho tin “t́nh báo” rằng thùng nước, nếu bằng nhôm, th́ được phá ra đúc “chắn bùn” hoặc “chắn xích” xe đạp; nếu bằng tôn th́ được phá ra làm máng nước v.v… nghĩa là “đầu bác Mao” ở những thùng đó bị thủ tiêu không kèn không trống! Thế là, sau đó hậu duệ của quân lính Tô Định, Mă Viện v.v… đành cử người gác ban ngày, nhưng vẫn cẩn thận có xích, có khóa để khóa thùng nước vào cột lầu, khóa cả vào thùng nước, chiều tối th́ khiêng về doanh trại. C̣n sách báo, huy hiệu và chuyện hớt tóc th́ bỏ luôn. Thế là đang “dân vận” thành “dân hận”!!!



    Lính Trung cộng c̣n có những tṛ hề hết sức ấu trĩ nữa. Như doanh trại của chúng thường nuôi vịt. Lũ vịt này ra ruộng của hợp tác xă rúc chân lúa. Đại diện hợp tác xă đến doanh trại của chúng khiếu nại. Thế là chỉ huy của Trung cộng sai lính ra đuổi bắt đàn vịt về chặt đầu kỷ luật, lấy cọc chọc vào “đầu lâu vịt” đem ra cắm ở bờ ruộng!!! Tất nhiên thịt vịt th́ chúng ăn. Đúng là quái thai của thế kỷ 20!!! Đầu mối mọi con đường bộ do công binh Trung cộng làm đều tập trung về ga Yên Viên (Đông-anh), cách trung tâm Hà-nội chưa đến 30km. Một số người lo cho vận nước, đi tham quan những con đường đó đều thấy dă tâm của Trung cộng, khi cần thiết, chúng có thể rất nhanh chóng đổ quân ào vào Hà-nội. Chúng c̣n cớ làm đường, đào bới những vùng cho tới tận núi Diều ở Ninh-b́nh, rào kín cấm qua lại cứ như là đất của Trung cộng vậy.



    Và từng đoàn, từng đoàn xe tải loại 5 tấn, bạt che kín, không biết chở những ǵ từ những chỗ đào bới đó về Tàu. Nhiều người dân cho rằng bọn chúng sang đào những kho vàng bạc mà trước đây chúng chôn giấu thời Việt Nam bị Bắc thuộc cả ngàn năm. Nhiều hang động vùng Ninh-b́nh, Thái-nguyên, Bắc-cạn, Tuyên-quang, Lạng-sơn, Cao-bằng bị chúng phá tanh bành. Tụi điên Bắc Việt Nam thấy lính Trung cộng của Mao c̣n có phần điên hơn. Lúc nào cũng tụng sách đỏ của Mao. Mặt mũi lúc nào cũng đăm chiêu cứ như “hiền triết phương đông” vậy! Phải cho đến cái ngày máy bay Mỹ bắn phá ga Bắc-giang (Bắc Việt Nam), lính Trung cộng hiên ngang không thèm xuống hầm, giở sách đỏ của Mao ra tụng rồi đứng bắn máy bay Mỹ. Kết quả, máy bay Mỹ phóng cho mấy quả rocket mà đă chết hàng đống, bấy giờ con cháu họ Mao mới biết thế nào là “lễ độ”. Dân Việt Nam được mẻ cười “bể bụng”. Người ta chẳng những chẳng xót thương “các đồng chí nước bạn” mà nhiều người c̣n công khai nói: “Mong cho đế quốc Mỹ bắn chết mẹ nó hết cái lũ quỷ này đi!”



    Những chuyện chơi khăm và chửi Trung cộng như thế hầu như chẳng ai là không biết. Vậy mà chẳng ai bị công an hỏi thăm sức khỏe. Điều đó chứng tỏ, khi Hồ c̣n sống, và sau khi Trường Chinh bị Hồ tước mất cái chức “tổng bí thư” th́ đă chịu khuất phục Hồ và đóng đúng vai kịch mà Hồ phân công.



    Chỉ cho đến lúc Nguyễn chí Thanh đưa đề nghị đem hết ngụy quân ở Bắc vào miền Nam Việt Nam, c̣n miền Bắc nhờ Trung cộng đưa quân sang “bảo vệ” hộ, th́ Hồ mới phải đi nước cờ quyết định. Đó là, trước buổi đi vào Nam trở lại, Nguyễn chí Thanh được Hồ gọi ăn cơm tối cùng Hồ. Sau bữa cơm tối, ngày 6-7-1967, về th́ Nguyễn chí Thanh chết, tương tự như cái chết của Dương bạch Mai vậy. Và, sau đó, đích thân Hồ yêu cầu Trung cộng rút công binh về nước. Và, Trung cộng đành rút quân, nhưng làm những tṛ rất bần tiện, như san bằng, đốt cháy hết doanh trại. Các giếng nước đều lấp hết. Chặt từ gốc chuối chặt đi, nghĩa là làm kiểu “không ăn th́ đạp đổ, phá cho bơ ghét”!!!



    Cái chết của Nguyễn chí Thanh làm Trung cộng đau lắm. Trong chính bộ mafia đỏ, không kể Hồ, Nguyễn chí Thanh xếp hạng thứ sáu (sau Giáp). Ấy thế mà đích thân cả Mao và Lâm Bưu cùng đến sứ quán ngụy quyền Hồ chí Minh ở Bắc-kinh đặt ṿng hoa và nghiêng ḿnh viếng. C̣n sau này, Hồ chết, Mao và Lâm Bưu chỉ cho thư kư riêng mang ṿng hoa viếng đến sứ quán mà thôi!!!



    Những người cho rằng Hồ bị nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ khống chế từ khoảng 1955-56 chỉ là tưởng tượng. V́ giai đoạn đó chưa có dấu hiệu ǵ tỏ ra nhóm Lê Duẩn trên cơ ngay cả Trường Chinh chứ đừng nói ǵ đến Hồ. Ngay cả sau đại hội 3 (1960) của mafia đỏ, nhiều người c̣n lẫn lộn cả danh xưng của Lê Duẩn, họ viết rằng Lê Duẩn được bầu là “tổng bí thư”. Điều đó là sai hoàn toàn. Trong đại hội 3 (1960) của mafia đỏ, Hồ chính là người giới thiệu danh sách chính trị bộ gồm 11 người, giới thiệu ban bí thư và giới thiệu Lê Duẩn vào chức “bí thư thứ nhất” để cho ban chấp hành trung ương bầu. Tất nhiên tất cả đều diễn ra đúng như ư Hồ, kể cả cái thứ tự trong bộ chính trị không kể Hồ, như Giáp th́ ở dưới Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ ở hàng thứ 7 và Hoàng văn Hoan ở hạng chót. Cứ nghe cái danh xưng cũng đủ thấy rằng “bí thư thứ nhất” không thể bằng “tổng bí thư”. Nghĩa là ngôi vị của Lê Duẩn không thể so được với ngôi vị của Trường Chinh trước đó. V́ hiểu ư đồ của Hồ, nên nếu tham khảo lại các báo Nhân dân sau đại hội 3 mafia đỏ th́ sẽ thấy một “chi tiết” để chứng minh điều trên. Đó là tại các cuộc mít-ting hay cuộc họp, dù có mặt Lê Duẩn, Trường Chinh chỉ nói: “Kính thưa Hồ chủ tịch”, c̣n sau đó chỉ gọi chung: “Thưa các đồng chí”. Dù Lê Duẩn đă được chính thức hóa qua đại hội 3 mafia đỏ, để thành nhân vật số 2, vậy mà Trường Chinh c̣n “coi thường” Lê Duẩn, nghĩa là tận năm 1960. Thế th́ làm sao trước đó lại có thể có cái chuyện Lê Duẩn và Lê đức Thọ “khống chế quyền lực” của Hồ.



    Chuyện hành lang sau này lộ ra, cho biết Hồ đă “phê b́nh” Trường Chinh về chuyện coi thường Lê Duẩn, nghĩa là không tuân phục tổ chức. Th́ sau đó, Trường Chinh bắt buộc phải đả động đến Lê Duẩn, nhưng lại nói: “Thưa đồng chí Lê Duẩn, bí thư thứ nhất ban chấp hành trung ương đảng”. Có nghĩa là Trường Chinh ”thưa” Duẩn v́ cái chức “bí thư thứ nhất” chứ không phải con người Lê Duẩn và hoàn toàn không có chữ “kính” như đối với Hồ, khác hẳn với tính cách hèn hèn của Vơ nguyên Giáp, bao giờ cũng lễ phép: “Thưa đồng chí Lê Duẩn kính mến; thưa đồng chí Trường Chinh kính mến”!!!



    Hồ bắt Trường Chinh phải “tôn trọng” Lê Duẩn cũng chẳng phải ưu ái ǵ Lê Duẩn. Mà Hồ không cho phép được lộn xộn với những sự sắp xếp của Hồ mà thôi.



    Chính v́ thế mà Hồ ra khẩu lệnh trấn áp nhóm gọi là “xét lại chống đảng”, v́ Hồ không chống nghị quyết 9 th́ đúng ra tất cả phải răm rắp tuân theo Hồ. Có thể Hồ tha thứ khi thảo luận mà có ư kiến này nọ về nghị quyết 9. C̣n đă chống, bị thiểu số mà “vẫn bảo lưu ư kiến” th́ đồng nghĩa là chống lại Hồ đến kỳ cùng. Một kẻ tàn bạo, tự tôn và độc tài như Hồ, tất nhiên hắn phải trấn áp. Lê Duẩn và Lê đức Thọ chỉ là kẻ thừa hành lệnh của Hồ mà thôi. Chẳng khác ǵ trong vụ bà địa chủ yêu nước Nguyễn thị Năm, chủ đồn điền Đồng-bẩm (Thái-nguyên) bị tử h́nh. Hồ chỉ ra lệnh giết cái chỉ tiêu 5% dân số nông dân là địa chủ, không trực tiếp bảo giết bà Nguyễn thị Năm. Nhưng khi Hoàng quốc Việt (thường trực ủy ban cải cách ruộng đất) xin Hồ xét lại công lao của bà Nguyễn thị Năm th́ Hồ từ chối, nói là cứ làm theo “cố vấn Trung cộng”. Nghĩa là cứ làm thịt bà Nguyễn thị Năm. Hồ rất thâm độc, v́ nếu Hồ can thiệp th́ chính là Hồ tự trói tay ḿnh. Cho nên vụ bà Nguyễn thị Năm được làm ngay đầu tiên ở đợt gọi là “thí điểm”! Các đội cải cách thấy rằng, đến bà Nguyễn thị Năm là người có ơn không chỉ với Hồ và với toàn thể đầu lĩnh mafia đỏ chóp bu mà vẫn để cho “nông dân cốt cán” giết th́, ngoài Hồ ra, chẳng ai đáng kể. V́ thế mới có chuyện ở Hành Thiện, đội cải cách cho lệnh bắt cả bố đẻ của Trường Chinh và c̣n đ̣i Trường Chinh phải về quê cho “cốt cán” hỏi tội liên quan với địa chủ cường hào. (Về chuyện này có người lầm rằng Trường Chinh đă đấu cả bố đẻ. Họ lầm như vậy chẳng hóa ra Trường Chinh thẳng thắn “pháp bất vị thân” hay sao?(!)). Và, đấy cũng là ư đồ của Hồ, muốn rằng: “rễ cốt cán” sửa gáy tất tật những ai có chức, có quyền. Kẻ chết, hay tù th́ thôi, kẻ thoát nạn th́ tởn đến chết, hoặc theo Hồ ngoan ngoăn như bầy cừu, hoặc trốn vào vùng của Quốc trưởng Bảo Đại, càng tốt. V́ điều đó “chứng minh” họ là “phản động nằm vùng” thật (có ai biết rằng chính Hồ đẩy người ta phải đi t́m đường sống).



    Hiện nay không có chút ǵ khó khăn để t́m đọc lại những số báo Nhân dân hay xem lại những thước phim tài liệu và thời sự của thời kỳ trước vụ Tết Mậu Thân (1968). ở đó có đủ chứng cớ để thấy Hồ vẫn là kẻ chủ mưu trong vụ xâm lăng đó. Những người hư cấu chuyện “Hồ bị ra ŕa” kể cả Lữ Phương, đều gắn Hồ và Giáp cùng một phe và bị phe Lê Duẩn, Lê đức Thọ chèn ép, đến mức vụ Mậu Thân (1968) Hồ chỉ làm nhiệm vụ “thâu băng” bài thơ chúc tết, c̣n th́ không biết ǵ cả, chưa cần sử dụng đến nhiều tài liệu trên báo Nhân dân và phim tài liệu, thời sự, chỉ cần lấy một tin trên báo Nhân dân có tường thuật vài tháng trước Tết Mậu Thân (1968), Hồ đă sang sân bay Gia-lâm thăm lính ngụy trong đơn vị tên lửa và không quân để động viên tinh thần chiến đấu của bọn chúng. Tháp tùng Hồ có nhiều bộ mặt ác ôn, trong đó có Vơ nguyên Giáp và Tố Hữu. Chuyện kể lại dưới đây, không đăng trên báo nào cả, nhưng nó lại được kể ở hầu hết các ṭa soạn báo, đài và cả ở các quán cà-phê, quán bia hơi ở Hà-nội. Đó là khi nghe tin Hồ đến thăm đơn vị, lính ngụy trong binh chủng pḥng không, không quân vừa đi học ở Nga-xô về, ào ào chạy ra chẳng có hàng ngũ ǵ cả. Từ tư lệnh binh chủng cho đến tụi bảo vệ, cho đến Tố Hữu, Văn tiến Dũng đều vây quanh để “bảo vệ” Hồ, trong khi Vơ nguyên Giáp cầm loa điện cầm tay gào lên: “Yêu cầu trật tự”, mà lính ngụy cứ lờ đi. Hồ bèn giật lấy loa trên tay Giáp và hô: “Nghiêm”. Theo “phản xạ lính”, tất cả đứng nghiêm. Hồ lại hô to: “Tất cả xếp hàng, năm hàng dọc!” Bọn lính vội xếp hàng. Hồ hô tiếp: “Nghiêm!”, rồi lại hô: “Nghỉ!”; và cuối cùng Hồ hô: “Nghiêm! Đằng sau quay! Đều bước!” Bọn lính ngụy răm rắp làm theo. Bấy giờ Hồ cười cười quay lại bảo Giáp: “Chú là đại tướng thế mà không biết điều khiển lính!”



    Một tên gián điệp lăo luyện, phản ứng rất nhanh như Hồ, ăn nói với phó thủ tướng, bộ trưởng, đại tướng như nói với thằng nhỏ, con sen như vậy, liệu có thể là kẻ để cho Lê Duẩn không chế không?



    Có một điều nữa mà các nhà “hư cấu” quên. Đó là ai ai cũng biết rằng bày binh, bố trận và điều khiển toàn bộ cái gọi là “tống tấn công và nổi dậy” của Tết Mậu Thân (1968) là do Vơ nguyên Giáp chỉ huy. Nếu Giáp đă cùng phe với Hồ th́ tại sao Giáp lại đi với Lê Duẩn và Lê đức Thọ để chơi gác Hồ, không cho Hồ biết ǵ caû. Như thế là Giáp theo phe Lê Duẩn rồi c̣n ǵ nữa. Hơn nữa cái kế hoạch về Tết Mậu Thân (1968) đó, đâu phải là chuyện hai ba ngày hay hai ba tuần, mà phải chuẩn bị chí ít là cả năm!!!



    Có thể nói rằng, ư đồ của Hồ muốn chiếm được miền Nam Việt Nam vào dịp Tết Mậu Thân (1968) là chính. Hồ tưởng rằng sau vụ tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, miền Nam bị khủng hoảng chính trị, các tướng lănh thay nhau cầm quyền, chưa ổn định, là thời cơ thuận lợi cho Hồ sớm được làm chủ tịch cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam. Cho nên cái “tổng tấn công và nổi dậy” là ư kiến của Hồ và khẩu khí của Hồ, rất ăn khớp với “thi hứng” của Hồ trong sáng tác bài vè chúc Tết Mậu Thân (1968). Vơ nguyên Giáp chỉ là kẻ thừa hành về kế hoạch quân sự, c̣n Lê Duẩn là về mặt chính trị, nghĩa là chỉ đạo cái xứ ủy mafia đỏ ở miền Nam (hay c̣n gọi là đảng nhân dân cách mạng) làm cái việc tổ chức cho nhân dân vùng dậy!



    Tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh quá chủ quan. Ấy là miền Nam Việt Nam c̣n đang bị khủng hoảng chính trị mà tụi chúng c̣n bị ôm đầu máu. Và, nhân dân miền Nam Việt Nam th́ chỉ có số ít đầu trâu mặt ngựa nghe chúng xúi dại “ăn cứt gà sáp”, và một số “trí thức yêu bánh vẽ” là tụ họp đánh vơ mồm rồi trốn ra bưng!



    Từ ngày có mafia đỏ Hồ chí Minh, th́ rơ ràng chỉ có những quân nhân tiền thân của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa là đích thực chống mafia đỏ bảo vệ đất nước và dân tộc Việt Nam. Chính cái lực lượng này, trong chiến tranh th́ đem sinh mạng, máu thịt, hạnh phúc gia đ́nh, tuổi trẻ, sức khỏe, hiến dâng cho Dân tộc và Tổ quốc. Sau khi bị mafia đỏ xâm lược, đặt ách cai trị th́ cũng cái lực lượng này bị tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh trả thù tàn bạo không chỉ cá nhân mà cả gia đ́nh. Sống th́ tù đày, chết th́ bị san bằng mồ mả. Và, cho đến nay thiệt tḥi nhất vẫn là những quân nhân anh hùng đó bị tàn phế, c̣n kẹt lại ở trong nước, tiếp tục bị phân biệt đối xử và trấn áp không chỉ cá nhân mà hệ lụy đến cả gia đ́nh, con cái.



    Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa là ân nhân, là chỗ dựa tin cậy của đất nước và nhân dân Việt Nam, đă và vẫn sẽ là chủ lực trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, toàn vẹn lănh thổ và lănh hải của nước Việt Nam dân chủ.



    Những người Việt Nam đấu tranh cho dân chủ, độc lập và toàn vẹn lănh thổ của Việt Nam cũng như các thế hệ Việt Nam hiện nay và sau này không thể không ghi nhớ trong tâm khảm những con người anh hùng của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hiện đại. Đó là các thiếu tướng liệt sỹ Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng; các chuẩn tướng liệt sỹ Trần Văn hai, Lê Nguyên Vỹ; đại tá liệt sỹ Hồ Ngọc Cẩn; trung tá liệt sỹ Nguyễn văn Long v.v…; cũng như các vị liệt sỹ Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch v.v…; và các vị tử v́ đạo như cụ bà Nguyễn Thị Thu, Phật tử Hồ Tấn Anh v.v…



    Để giấy bút viết về những người đó, để ḷng quư mến, yêu thương tưởng niệm những người đó hơn là “đi tỵ nạn cộng sản” mà phúng điếu, thương khóc những tên cộng sản nằm vùng, trong khi thương phế binh Việt Nam Cộng Ḥa c̣n kẹt ở Việt Nam th́ phải ăn xin, bị phân biệt đối xử; các người đấu tranh cho tự do tôn giáo, cho dân chủ bị khủng bố, bị tù đày v.v…, c̣n bọn chúng, như tên Trịnh công Sơn là một ví dụ, sống th́ ở vi-la trên con phố của quan lại đỏ cao cấp; uống rượu tây, đi nước ngoài như đi chợ; chết th́ các đầu lănh chóp bu mafia đỏ ở trung ương như Vơ văn Kiệt (tác giả nghị định 31/CP), Phan văn Khải v.v… gửi điện chia buồn, gửi hoa phúng điếu; và chóp bu mafia đỏ ở Sài-g̣n là Nguyễn minh Triết đích thân đến ngồi bên quan tài!!!



    Thất bại của Tết Mậu Thân (1968) là nguyên nhân để Vơ nguyên Giáp không chỉ bị Hồ hết tin cậy “cái tài cầm quân” mà c̣n bị phe Lê Duẩn coi thường, kể cả các cấp dưới của Giáp như Văn tiến Dũng, Chu huy Mân.



    Với Hồ, hắn choáng váng, không hy vọng ǵ sẽ được làm chủ tịch của cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam. Tên mật thám già xuống tinh thần và hắn quay lại với “tử vi”. Bởi đă một lần hắn tự bấm tử vi và đoán trúng là sẽ thành công lúc 55 tuổi (tức 1945), như Vơ nguyên Giáp có nhắc đến trong cuốn “Những năm tháng không thể nào quên”. Trong thư viện quốc gia và cả thư viện khoa học xă hội ở Hà-nội, bao nhiêu sách về tử vi bị mượn dài hạn. Người kư tên mượn là Vũ Kỳ, thư kư riêng và tin cẩn của Hồ. Và, cũng cái năm 1968 đó, hoạt động của các tôn giáo như Phật giáo và Công giáo lại phục hồi. Người ta công khai đi lễ Nhà Thờ, đi lễ Chùa, lập bàn thờ ở gia đ́nh, bày ảnh cha, chồng, con em theo Hồ đi ăn cướp ở miền Nam Việt Nam bị giết chết “bất đắc kỳ tử”, nhiều đứa bị mất xác. Thế là không chỉ lễ bái mà cả “gọi hồn” và “lợi dụng” tụ họp làm giỗ “liệt sỹ” để chè chén! Làm sao ngụy quyền Hồ chí Minh giải quyết được chuyện đó bằng biện pháp “chuyên chính”, bởi nhân sự ngay của cái gọi là cơ quan chuyên chính của Hồ cũng là nạn nhân của Hồ trong kế hoạch xâm lăng miền Nam Việt Nam. “Sinh Bắc tử Nam”, thực sự là nỗi lo sợ, ám ảnh mọi gia đ́nh có con cái ở tuổi trưởng thành. Cũng từ đó bắt đầu có chuyện “trốn lính” nên có pháp lệnh ban hành luật “nghĩa vụ quân sự”. Nhưng, cái “luật nghĩa vụ quân sự” này bị phá ngay từ ở bậc hành chính cơ sở (tức huyện, xă). Con em, hoặc họ hàng xa gần của tụi mafia đỏ mafia đỏ ở cơ sở cũng bị bắt lính, và cái gương “ôm đầu máu” của Tết Mậu Thân khiến chúng lo sợ t́m cách “tập thể” trong đường dây trốn lính. Tỷ dụ như khi khám nghĩa vụ, họ đánh tráo người không đủ cân, chiều cao mà đội khám không thể nhận diện được v́ có sự đồng lơa của chính “công an xă”, “chủ tịch xă” xác nhận kẻ “đánh tráo” là đương sự thứ thiệt!!! Đường dây đồng lơa lên tới tận cấp huyện. Cho nên nhân viên của “tỉnh đội dân quân tự vệ” về xă bắt những kẻ trốn lính mà có khi kẻ trốn lính đứng ngay trước mặt cũng đành chịu, chưa nói đến là họ báo động cho nhau bỏ trốn từ xă nọ sang xă kia! Đâu cũng có t́nh trạng trốn lính, nhưng nổi tiếng nhất là tỉnh Hà-tây (do hai tỉnh Hà-đông và Sơn-tây bị nhập làm một), có tên là “Hà lùi”!



    (Xin mời đọc tiếp bài 13)

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 13

    Nếu trước Tết Mậu Thân (1968), ngày “nhập ngũ” được coi là ngày hội, trống dong cờ mở, tặng lưu niệm v.v… th́ sau đó ngày “nhập ngũ” biến thành ngày “bắt lính” thực sự. Địa điểm tập trung phải ở xa chỗ đông dân, và đại diện các đoàn thể đố dám ló mặt lên lớp động viên, dặn ḍ này nọ. Vũ Quang, bí thư thứ nhất cái gọi là “đoàn thanh niên lao động Hồ chí Minh” đă nhiều lần bị nghe chửi khi đến các nơi tập trung tân binh để động viên, nên sau này cho ăn kẹo cũng không dám vác mặt đến chỗ tập trung tân binh. Nhất là từ ngày tân binh thuộc khu Hoàn Kiếm (Hà-nội) đă chửi Vũ Quang như móc họng, rằng: “Đ… mẹ thằng hiếp dâm vợ người, sao không cho hai thằng con của mày đi làm nhiệm vụ quang vinh này mà lại cho chúng đi Nga, đi Đức học!!!”



    Ô-tô chở tân binh cũng rất chật vật, v́ họ phá ghế xe, cửa kính, và c̣n giấu gạch củ đậu ném vào đám đông. Những cuộc chuyển quân vào khu bốn để rồi từ đó thâm nhập miền Nam Việt Nam, hầu hết bằng tàu hỏa, mà đi lúc nửa đêm. Các tàu hỏa bị đóng cửa như chở thú vật. Hai đầu toa tàu có lính mang tiểu liên áp tải, sẵn sàng nhả đạn nếu ai định mở cửa bỏ trốn. Tuyến đường sắt từ Văn-điển (Hà-nội) vào đến Hàm Rồng (Thanh-hóa) lính ngụy nằm phục kích, đề pḥng tân binh nổi loạn, cướp tàu.



    Cũng từ đó, ngụy quyền Hồ chí Minh đẻ ra cái gọi là “đơn vị giao quân”. Đó là tổ chức của ngụy quân được trang bị hầu hết tiểu liên, có nhiệm vụ “áp giải” lính đưa vào Nam (gọi là đi B), và thường giao quân ở bờ phía Nam bến phà Linh Cảm, rồi chúng quay lại nhận đợt tân binh khác. Tất nhiên lính bị đưa vào Nam hoàn toàn không có vũ khí. Phải vào đến phần miền Nam rồi mới được trang bị để đi làm bia đỡ đạn thi hành “sự nghiệp” của Hồ. Thời kỳ ngụy quyền Hà-nội xâm lăng Căm-bốt, Lê khả Phiêu làm nhiệm vụ tải lính sang Căm-bốt cho Lê đức Anh nướng. Với thành tích đó, Phiêu đă leo lên đến địa vị số 1 của mafia đỏ.



    Sau vụ Mậu Thân (1968), nhiều tân binh vẫn t́m cách không chịu đóng vở kịch “sinh Bắc tử Nam” của ngụy quyền Hồ chí Minh, khiến chúng phải lập một nhà tù ở Lai-châu để giam giữ, bắt lao động khổ sai những tân binh đó, mà chúng gọi là “lính B quay”.



    Điều đó minh chứng Hồ đă dùng “chuyên chính” để bắt lính chết cho chiến lược bành trướng của thực dân đỏ. “Ông tiên” của Lữ Phương thực sự là kẻ tội phạm tàn bạo nhất, đă cưỡng bức nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam bắn giết nhau v́ tham vọng ích kỷ của hắn, tức cái “sự nghiệp Việt gian” của hắn.



    Vụ Mậu Thân (1968) đă cho thấy sự trả thù đê hèn, khát máu của ngụy quyền Hồ chí Minh, lên người dân ở Huế, có sự chỉ điểm, đồng lơa của những tên nằm vùng như anh em Hoàng phủ Ngọc Tường, Lê văn Hảo v.v… C̣n ở Sài-g̣n, chẳng biết Lữ Phương đă góp công như thế nào để dzọt ra bưng được gia nô của “anh hùng giải phóng dân tộc” của Lữ Phương ban cho cái chức “thứ trưởng” hữu danh vô thực, hệt như mấy anh “lư trưởng mua” thời thực dân Pháp. C̣n tên nằm vùng Trịnh công Sơn, vẫn tiếp tục sáng tác nhạc “phản chiến”, đóng góp rất tích cực và hiệu quả một trong “ba mũi giáp công” của họ Hồ. Viết nhạc đủ cả mây, gió, lá lủng, nhưng tuyệt đối như mù không thấy nắm mồ tập thể ở Huế để cất lên dù là chỉ một tiếng thở dài. Nhưng khi ngụy quân mafia đỏ lết xích xe tăng trên đường phố Sài-g̣n, th́ ngay buổi phát thanh đầu tiên của ngụy quân mafia đỏ vào chiều 30-4-1975, Trịnh công Sơn đă hồ hởi ôm đàn hát bài hắn sáng tác: “Nối ṿng tay lớn”. Và, ít lâu sau hắn c̣n ra viếng lăng Hồ. Cha ông ta đă dạy là: “đồng thanh tương ứng”, nên chỉ những kẻ cùng tần số với Trịnh công Sơn mới thương khóc khi hắn bị Diêm Vương tống vào hỏa ngục!!!



    C̣n ngụy quyền Hà-nội, từ lúc Hồ c̣n sống cho đến nay, chưa bao giờ chúng cho việc giết dân thường như thế là sai. Nên, c̣n e ngại, ở Sài-g̣n chúng chưa làm, nhưng ở Cần-thơ, chúng đă đặt tên một đường phố là Mậu Thân, tự hào chiến tích giết dân của Hồ! Lữ Phương và những tên than khóc, vinh danh tên mật vụ nằm vùng Trịnh công Sơn có biết điều đó không?(!!!)

    *****



    Sau thất bại thảm hại của vụ Tết Mậu Thân (1968), Hồ vừa hằn học v́ thất bại, vừa bắt đầu ngày đêm tính toán lá tử vi của hắn, cũng như của đứa con hoang với cô bé đưa cơm ở hang Pắc-bó. Hắn lén lút đi Ba-v́ nhiều lần, ngắm Hồ Suối hai, là công tŕnh mà hắn lệnh cho Trần quốc Hoàn (bộ trưởng công an) phải bắt tù làm cho xong như ư hắn, cho đúng với bộ v́ miếng đất mà hắn đă lén chôn tất cả những cái răng thật của hắn (v́ Hồ làm cả hai hàm răng giả ở Nga-xô), hy vọng phát cho đứa con hoang của hắn.



    Hồ là người mê và đọc nhiều truyện của Tàu. Một vài người thân cận với Hồ có dịp được nghe Hồ khen hai nhân vật. Một là Tấn văn Công (tức công tử Trùng Nhĩ), và hai là Tào Tháo. Thuở của năm 1944-46, Hồ cho tay chân tung tin là mắt Hồ có hai con ngươi như công tử Trùng Nhĩ (kẻ phải bôn ba 20 năm, trở về cầm quyền nước Tấn và làm nên nghiệp bá). Một trong những kẻ có công tung tin như thế là Xuân Thủy. C̣n Tào Tháo, tên tự là Mạnh Đức, Hồ bèn đảo ngược, đặt tên cho thằng con hoang, hy vọng nó sẽ làm nên như Tào Tháo. Vài người biết chuyện này nói đùa với nhau rằng: “Đảo ngược tên của Tào Tháo đặt cho thằng con hoang, Hồ ngu mà không thấy rằng rồi ra thằng đó sự nghiệp cũng sẽ giống như sự nghiệp của Tào Tháo bị đảo ngược. Nghĩa là, Tào Tháo th́ từ một cái vỏ gươm (v́ lưỡi gươm đă dâng Đổng Trác) và con ngựa già làm nên sự nghiệp. C̣n thằng con hoang của Hồ th́ dù gia nô của Hồ có đặt sẵn nó lên cái ghế lănh đạo th́ sự nghiệp tương lai sẽ chỉ c̣n “cái vỏ gươm và con ngựa già” mà thôi!!!



    Vài năm trước đây, một số nhà báo và giáo sư sử học ở trong nước có lên tiếng than phiền việc đỉnh núi Tản Viên bị “nhà cầm quyền” địa phương san đi làm miếu thờ. Mafia đỏ mà “làm miếu thờ” th́ phải có nguyên nhân thầm kín. Mấy vị nhà báo và giáo sư không hiểu rằng việc làm đó được tiến hành sau khi họ Nông dzọt lên chức chủ tịch quốc hội ngụy quyền Hà-nội, và vào cả bộ chính trị của mafia đỏ nữa. Đấy là nằm trong “lịch tŕnh” của Hồ trước khi chết để lại, không có trong di chúc.





    Cả cuộc đời Hồ, hai bàn tay đă vấy đầy máu của nhân dân Việt Nam, của những người Việt Nam đấu tranh cho độc lập, tự do, dân chủ, hạnh phúc và toàn vẹn lănh thổ của Việt Nam; cả máu những ân nhân của Hồ; cả máu những “đồng chí” của Hồ, và cả máu trinh của biết bao cô gái trẻ đă phải qua tay con “yêu râu xanh” Hồ chí Minh ấy thế mà con quỷ đỏ Hồ chí Minh, sau vụ thất bại của Tết Mậu Thân (1968) đă sợ chết. Việc viết đi viết lại “di chúc” không phải như lũ bút nô cung đ́nh của Hồ và vài anh “trí thức mọt sách, táo bón kiến thức” tỏ vẻ là Hồ “thanh thản” trước “ngày đi xa”. Chỉ riêng cái việc Hồ né chữ “chết” cũng đủ thấy hắn sợ “chết” đến như thế nào. Hắn tự an ủi là “đi thăm Các-mác, Lê-nin”. Cái điểm son tinh thần Việt gian, trung thành với mẫu quốc đỏ cho đến giờ phút cuối cuộc đời và lời căn dặn ân cần cái tổ chức Việt gian của hắn, rằng phải bảo vệ mẫu quốc đỏ, nên hắn đă được Nga-xô tận t́nh giúp đỡ ướp xác, xây lăng, vào cái lúc mà cuộc không chiến trên miền Bắc Việt Nam đang ở cao điểm!



    Mấy nhà “hư cấu” cố t́nh chạy tội cho Hồ, dựa vào nội dung “di chúc của Hồ” và tin lọt từ me-xừ Vũ Kỳ, một gia nô tin cẩn của Hồ, trung thành hơn loài bốn chân, để nói rằng nhóm Lê Duẩn đă làm trái nguyện vọng của Hồ là “hỏa thiêu và đừng làm tang lễ linh đ́nh”, v.v…



    Cần phải nhớ rằng:

    Bản thân Hồ và cái tập đoàn Việt gian của hắn chưa bao giờ làm những ǵ mà thảo thành văn bản. Hồ cũng như tụi kế nghiệp hắn cho đến nay là Nông đức Mạnh đều làm những điều không tuyên bố công khai.



    Thí dụ:

    + Hồ nói là “bảo vệ toàn vẹn lănh thổ Việt Nam” th́ hắn lại dâng “Hoàng-sa” cho Tàu cộng. Tất cả những ǵ Hồ viết trong bản tuyên ngôn độc lập “đọc ngày 2-9-1945” chưa bao giờ được Hồ thi hành. Hắn c̣n làm ngược lại là đằng khác, v́ hắn viết cốt để dụ khị lừa đảo nhân dân lúc đó cũng như các thế hệ sau này mà thôi. Thằng con hoang họ Nông của hắn bây giờ cũng thế, đi sang Tàu vừa qua là dâng đất cho Trung cộng.



    + Hồ nói chống tham ô, hủ hóa th́ chính hắn là thằng trùm hủ hóa, và những kẻ kế cận của hắn cũng thế. Khù khờ và cái chết kề miệng lỗ như Tôn đức Thắng mà cũng cho xây một biệt thự ở Hải-dương, đóng cửa bỏ đấy, ngay lúc chiến tranh đang ác liệt, dân thiếu ăn, thiếu mặc. Vơ nguyên Giáp cũng thế, bao nhiêu biệt thự ở Đồ-sơn không chịu ở, bắt công binh xây mới biệt thự cho hắn, mà phải phá đi xây lại nhiều lần cho đến khi hắn vừa ư mới thôi.



    + Thằng con hoang họ Nông cũng nói chống tham nhũng, nhưng ai mà ủng hộ và phát hiện tham nhũng th́ bị đàn áp, bỏ tù. C̣n xung quanh nó, có thể nói toàn bộ cái chính trị bộ mafia đỏ của hắn đều có tài sản ăn cắp chí ít cũng hàng trăm triệu đô-la Mỹ mà có thấy chống đâu, mà c̣n hợp tác toàn diện là đằng khác.



    Nếu quả Lê Duẩn đă làm sai ư nguyện của Hồ th́ bây giờ bọn chúng sửa lại cái sai của Duẩn đi, cho hỏa thiêu cái thây ướp của Hồ hoặc đem chôn, rồi làm mả cho lớn cũng được. Đằng này, chúng vẫn duy tŕ cái gọi là “sai” của Duẩn, mà c̣n làm “quá đáng” hơn nữa là thành lập một bộ tư lệnh bảo vệ lăng, chỉ riêng tiền nuôi đám lính tráng đó cũng tốn cả trăm tỷ mỗi năm; rồi lại bày tṛ làm lễ chào cờ hằng ngày cũng như bảo vệ cái thây ma Hồ cũng tốn kém rất nhiều nữa.



    Tại sao chỉ có Vũ Kỳ nói là Lê Duẩn sai mà mấy thằng thay nhau làm tổng bí thư không dám sửa cái sai đó mà c̣n làm sai hơn nữa? Đúng như kiểu kết tội Lê Duẩn, Lê đức Thọ về “vụ án xét lại chống đảng”. Đấy nếu không là lệnh miệng của Hồ (lệnh thiệt, c̣n lệnh trên giấy tờ là lệnh rởm để tuyên truyền mà thôi) th́ sao bây giờ họ Nông nắm quyền lực cao nhất, không ra lệnh làm theo “di chúc” cha của hắn, mà vẫn duy tŕ, c̣n bày thêm tṛ dâng hương ở tất cả mọi nơi đánh dấu bước chân Việt gian của Hồ.

    Rành rành như vậy mà vẫn cố t́nh mặc áo “chống đối” để làm việc “chống đỡ”, thật là vừa ngu vừa hèn!!!

    *****



    Việc Hồ giết Nguyễn chí Thanh và yêu cầu Trung cộng rút công binh về nước là biểu hiện cụ thể cả tư tưởng lẫn hành động của Hồ luôn luôn thống nhất với “di chúc” của Hồ là chỉ nghĩ đến mẫu quốc đỏ Nga-xô và bảo vệ Nga-xô. Hồ hoàn toàn không nghĩ ǵ đến Tổ tiên Việt Nam. Ngay nội dung cái “di chúc” của Hồ cũng giống mọi điều hắn đă nói và viết, đều nhằm một mục đích duy nhất là lừa đảo ḷng tin của nhân dân Việt Nam nói chung kể cả các “đảng viên thường” trong tổ chức mafia đỏ của hắn. Hồ thân Nga-xô hay thân Trung cộng, chắc chắn điều đó cả Nga-xô và Trung cộng đều biết rơ hơn mấy chàng “hư cấu”. Hăy chịu khó đọc lại lời chia buồn khi Hồ chết của Nga-xô và Trung cộng được đăng trên báo Nhân dân, cơ quan nói láo của ngụy quyền Hà-nội, th́ sẽ rơ trắng đen! Ai tiếc Hồ và ai ghét Hồ!!!



    Tội ác của Hồ không chỉ phát động vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, chấp nhận để nhân dân và đất nước Việt Nam thành vật thí nghiệm và nơi thử nghiệm các loại vũ khí, các chiến lược, chiến thuật quân sự, nơi cho Mỹ và Nga-xô t́m cách làm “chảy máu” của nhau. Hồ vẫn tiếp tục thi hành nhiệm vụ mà mẫu quốc đỏ trao cho khi thành lập tổ chức mafia đỏ, năm 1930, mang tên “đảng cộng sản Đông-dương”. Nghĩa là hắn cho tiến hành vũ trang xâm chiếm cả Căm-bốt và Lào.



    Ai có dịp qua thăm huyện Lương-sơn (Ḥa-b́nh) sẽ thấy nhiều trường tập trung dành cho thiếu nhi mà ngụy quyền Hồ chí Minh cho bắt làm con tin, mang từ miền Nam ra, nhất là các em thuộc sắc tộc Khờ-me; mang từ rừng núi Tây Nguyên và Khu năm ra; mang từ Căm-bốt và Lào ra. Từ Hênh Xôm-brin cho đến Hun-xen (thủ tướng Căm-bốt hiện nay) đều ăn học và được đào tạo tại Bắc Việt Nam. Những trẻ em thuở đó được đào tạo để sử dụng hiện nay vậy. Và, thuở đó những gia đ́nh có con em bị đưa ra Bắc, bắt buộc phải hợp tác với mafia đỏ, nghĩa là làm cái việc “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Cái hoạt động ấy tất yếu dẫn đến cuộc chiến của mafia đỏ Việt Nam bành trướng sang Căm-bốt và cuộc đụng độ với Ba Tàu cộng ở phía Bắc vào năm 1979!



    Tóm lại là, Lê Duẩn chỉ đi theo đúng cái “lịch tŕnh” mà Hồ đă vạch ra khi hắn c̣n sống, và tiếp tục cái “lịch tŕnh” đó một cách trung thành sau khi Hồ ngỏm!



    Kiểu lư luận như Lữ Phương, th́ tội xâm lược Việt Nam thời Trần của quân Nguyên-Mông, là do Thoát Hoan chứ vua Nguyên chắc không có tội!



    Việc tụi được mafia đỏ phong cho là “trí thức yêu nước” thuở trước 1975, thật ra bọn đó chỉ là một lũ không bằng con chó của Lafontaine, thả mồi bắt bóng. Bởi con chó bị lầm v́ nh́n thấy cái bóng dưới nước. C̣n lũ này đâu có nh́n thấy cái “bóng xă hội chủ nghĩa ở miền Bắc” đâu vậy mà “thả mồi dzô bưng”.



    Xưa, kẻ sỹ một lần “bàn sai” là vô bưng ở ẩn! Vậy mà nay vẫn tồn tại loại “kẻ sỹ” ở bưng nhào ra khua môi, múa bút không biết mỏi mà “đầu trắng vẫn trắng tay”, chẳng ra mafia đỏ cũng chẳng ra chống mafia đỏ; “phi điểu phi thú” như con dơi, tốt nhất là nên trốn trong bóng tối mà ăn muỗi!!!



    Năm 1979, Trung cộng có thể dám lùa quân, bất ngờ và nhanh chóng, tiến sâu vào nội địa Việt Nam được dễ dàng, tàn phá, giết bao người dân miền Bắc Việt Nam chính là cái hậu quả tội ác Việt gian của Hồ, đă để Trung cộng đưa quân sang làm đường để di chuyển dễ dàng, để nắm được địa h́nh, địa vật, tâm lư nhân dân. Và, hơn nữa cái bánh vẽ của Hồ làm dân mất cảnh giác, đó là những khẩu hiệu như “t́nh huynh đệ bền vững”, nào là “môi với răng”, nào là “tinh thần đoàn kết vô sản cao cả”; nào là như bài hát:



    “Việt Nam, Trung hoa

    Núi liền núi, sông liền sông

    Hồ chí Minh, Mao trạch Đông”.



    Những người ở Hà-nội vào năm 1969, làm sao quên được vụ 1-5-1969. Ngày hôm đó từ tinh mơ, học sinh trường trung học Trung hoa dưới sự điều động của “hồng vệ binh”, mang trên tay sách đỏ trích lời Mao. Tất cả đều đeo lung lẳng trước ngực huy hiệu của Mao, to bằng ḷng bàn tay, tụ tập cùng Hoa kiều trong hội Hoa liên, để mít-ting chào mừng ngày “quốc tế lao động (1-5)” kết hợp với “ủng hộ Việt Nam chống Mỹ cứu nước”. Đấy là lư do công khai để tụ tập. Nhưng sự thực là sứ quán Trung cộng đă chỉ đạo để biến cuộc biểu t́nh này thành cuộc đập phá sứ quan Nga-xô. Được tin này, Trần quốc Hoàn (bộ trưởng công an ngụy quyền Hà-nội) te tái báo cáo Lê Duẩn, Trường Chinh và Phạm văn Đồng xin ư kiến giải quyết. Cả bốn tên Việt gian chóp bu mặt xanh như đít nhái, v́ nếu để sứ quán “anh cả Nga-xô” bị đập phá có khác ǵ bằng chứng chúng không có khả năng bảo vệ “Liên-xô thành tŕ cách mạng thế giới” như Hồ căn dặn và ghi trong các nghị quyết của chúng. Mà nếu dẹp biểu t́nh của “anh hai Trung cộng” th́ cũng bỏ mẹ v́ bọn chúng đă đập phá sứ quán Nga-xô đâu. Cả bốn tên quyết định vào xin ư kiến của trùm Hồ. Nên nhớ, giai đoạn đó Hồ đang bịnh. Mặt xưng lên, đi đứng phải có người d́u, và sau đó đúng 4 tháng th́ Hồ chết lăn queo.



    Khi Hồ được bọn Lê Duẩn báo cáo th́ đoàn Tàu biểu t́nh đă qua Hàng Bông, gần tới cửa Nam, tức là đi bộ chừng 20 phút đồng hồ là tới sứ quán Nga-xô.



    Con cáo già gần kề miệng lỗ vẫn c̣n ma mănh hơn lũ đệ tử. Vừa nghe báo cáo dứt lời, Hồ ra lệnh “kéo c̣i báo động như có máy bay Mỹ vậy, đuổi hết đoàn biểu t́nh xuống hầm cho đến khi nào đoàn biểu t́nh mệt mỏi tự tan hàng ngũ, đuổi chúng quay về Hội Hoa liên hăy kéo c̣i báo yên.”



    Ngày 1-5-1969 là ngày đầu tiên Hà-nội “báo động máy bay Mỹ” liên tục gần 6 tiếng đồng hồ liền. Với lư do thi hành lệnh pḥng không bảo vệ tính mạng cho người đi đường, công an bỏ áo màu chó vàng, mặc thường phục, đóng vai “thanh niên cờ đỏ” cùng với “thanh niên cờ đỏ” thứ thiệt và tự vệ đường phố, đă nhă nhặn hướng dẫn đoàn biểu t́nh vào hết các hầm trú máy bay ở Cửa Nam, ở Ngơ Cấm Chỉ và suốt đường Phùng Hưng, đường Quán Sứ v.v… Cái nóng tháng 5, lại nằm trong hầm kín, nhiều tên biểu t́nh bị ngất v́ thiếu không khí. Và, chỉ chưa đầy hai tiếng đồng hồ sau, nhiều tên phải chui ra khỏi hầm, được “thanh niên cờ đỏ” hướng dẫn quay đầu trở lui về phố Hàng Buồm. Để cho chắc ăn, tận xẩm tối mới kéo c̣i báo an.



    Chuyện này, nhà “trí thức yêu nước” Lữ Phương có thể hỏi nhiều người dân thường lẫn quan lại mafia đỏ ở Hà-nội hồi đó đều biết, chắc chắn kể cả gia nô tin cẩn của Hồ là Vũ Kỳ. Như vậy, là những việc quan trọng, cho tới ngày sắp chết Hồ vẫn được hỏi ư kiến và cho những lệnh quyết định chứ không phải “bị cho ra ŕa” hoặc bị Lê Duẩn bắt Hồ phải tống cổ cô con gái Tây lai của Hồ về Pháp như người ta “hư cấu” để chạy tội cho Hồ, để gây ḷng ái ngại cho Hồ mà tội nghiệp cho tên đại Việt gian, đại gian hùng loại siêu trong suốt bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam cho đến nay!



    Gần cả năm trước khi chết, Hồ ra công soạn “di chúc” viết đi viết lại mà vẫn lưu bản nháp. Một con người như Hồ đă thể hiện bản chất nhất quán suốt đường đi của hắn đến quyền lực, làm sao không dặn ḍ tỷ mỷ mọi chi tiết rằng sau khi hắn chết th́ phải làm ǵ.

    Hồ từng hỗn láo khi đứng trước đền thờ Đức Thánh Trần, rằng:



    “… Bác đưa một nước qua nô lệ

    Tôi dẫn năm châu đến đại đồng…”



    Một con người với khẩu khí như vậy, tự tay ḿnh cướp được quyền lực cho bản thân và đồng bọn, sẵn sàng giết tất cả những ai trở ngại trên con đường đi đến quyền lực, làm sao có thể đóng vai Chúa Chổm để Lê Duẩn đóng vai Trịnh Kiểm! Cho nên việc xây lăng ở cạnh “phủ chủ tịch” là ư nguyện của Hồ. Hắn muốn làm cái việc của Lê-nin là “dẫn năm châu tới đại đồng” thế tất cũng muốn theo gương Lê-nin để có cái lăng và ướp xác nằm ngay giữa thủ đô. Lăng Lê-nin ở Quảng trường đỏ, gần điện Krem-lin, th́ đương nhiên lăng họ Hồ ở Quảng trường Ba-đ́nh và gần “phủ chủ tịch”. Khi sống hắn đă nghênh ngang đứng trên lễ đài bắt nhịp cho mọi người hô hắn “vĩ đại”, làm sao khi chết hắn lại chịu “không vĩ đại” bằng các vua nhà Nguyễn được chứ!



    C̣n một điều nữa, mà ngay những người không “nghiên cứu” nhiều về ngụy quyền mafia Hồ chí Minh cũng biết chí ít là trong ngụy quân cộng sản th́ Vơ nguyên Giáp và Nguyễn chí Thanh không ưa nhau; trong chóp bu mafia đỏ th́ Lê Duẩn và Trường Chinh ḱnh nhau. Nếu những nhà “hư cấu” cho rằng Hồ và Giáp cùng phe và bị nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ kiềm chế. Như vậy là nội bộ chóp bu mafia đỏ có ba phe:



    1. Lê Duẩn, Lê đức Thọ và v.v…

    2. Hồ và Giáp và v.v…

    3. Trường Chinh, Hoàng quốc Việt và v.v…



    Thử hỏi rằng Hồ có phải là loại cù lần đến mức không biết liên kết với bọn Trường Chinh mà chơi lại nhóm Lê Duẩn hay sao? Thủ đoạn này chỉ là mẹo vặt làm sao so sánh với âm mưu thâm độc khác của Hồ!



    Các vị “hư cấu” có bao giờ đặt ra các câu hỏi như:

    - Tại sao đại hội 3 (1960) của mafia đỏ phải hoăn ba lần để đến 1976 mới tổ chức đại hội 4?

    - Tại sao Hồ chết đi mà trong đảng mafia đỏ bỏ luôn cái chức “chủ tịch đảng”, và Lê Duẩn nếu là kẻ nắm trọn vẹn quyền lực sao không ngồi luôn cái ghế “chủ tịch nước” như Hồ, mà phải để hai anh già bù nh́n đỏ là Tôn đức Thắng và Nguyễn lương Bằng vào các chức vụ “chủ tịch” và “phó chủ tịch”?



    Chẳng phải các vị “hư cấu” không biết chuyện đó cũng như không có khả năng giải đáp các vấn đề đó, mà v́ các vị chót “hư cấu” ra cái chuyện “Hồ bị ra ŕa” để chạy tội cho Hồ, nên há miệng mắc quai. Nào trích ư của một tên gia nô của Hồ là Vũ Kỳ và tên gia nô của Lê Duẩn là Trần Quỳnh, nhưng chẳng bao giờ nh́n vào sự thực trắng đen rơ ràng để phán đoán.



    Sau đại hội 3 mafia đỏ (1960), phải hoăn 3 lần trước hết v́ cả nhóm Lê Duẩn lẫn Trường Chinh đều quân bằng lực lượng trong bàn tay cầm cân, nẩy mực của Hồ. Cho nên nếu mở đại hội th́ sẽ hỗn loạn về nhân sự v́ đấu đá mà quên nhiệm vụ “chuyên chính” ở miền Bắc và xâm lược ở miền Nam. Bởi vậy “chủ tịch đảng” là Hồ không cho mở đại hội.



    Sau khi Hồ chết, để lại cái “gia sản quân b́nh lực lượng” đó, nên cả Lê Duẩn, cả Trường Chinh đều không đủ hậu thuẫn tuyệt đối nên cũng chưa dám tổ chức đại hội và chưa đứa nào đủ mạnh để tranh lấy cái ghế “chủ tịch nước”, v́ thế mới đến lượt Tôn đức Thắng và Nguyễn lương Bằng là hai tên “ngu si hưởng thái b́nh” như các cụ nhà ta xưa đă nói vậy. Cái ghế “chủ tịch đảng” cũng đành bỏ luôn.



    Kể từ đó, hai nhóm Lê Duẩn và Trường Chinh đều ngấm ngầm bố trí nhân sự, ra mặt bao che tay chân. Thí dụ cụ thể, như việc Phạm văn Đồng “vô t́nh” vào Hà-tây, theo đơn khiếu nại của tập thể giáo viên ở thị xă Hà-đông, đă cách chức hiệu trưởng của mụ vợ của bí thư tỉnh ủy Hà-tây, là Bạch thành Phong. Sau đó Bạch thành Phong chỉ đạo đại hội đảng bộ của tỉnh để đề cử và bầu vợ hắn vào làm “tỉnh ủy viên” phụ trách trưởng ban tuyên huấn, nghĩa là mất chức hiệu trưởng mà lại được tiến cử lănh đạo cả ba ty là giáo dục, y tế và văn hóa thông tin. Chuyện này được “báo cáo” cho cả Phạm văn Đồng và Lê đức Thọ, nhưng vẫn huề cả làng, v́ Bạch thành Phong là đệ tử ruột của Trường Chinh và được Trường Chinh bao che.



    Chuyện c̣n đi xa hơn nữa khi Lê Duẩn “đày” bà vợ cả “già và xấu” của Lê Duẩn xuống Hải-pḥng, công tác ở báo Hải-pḥng Kiến thiết, đă bị me xừ phó tổng biên tập uống mật gấu “vuốt râu hùm”. Chuyện đổ bể, Trường Chinh vội cho đưa anh chàng phó tổng biên tập bị bệnh to gan đó về Hà-nội, nằm ở phố Lư Thường Kiệt, giữ cái ghế vụ phó vụ xuất bản kiêm phó giám đốc nhà xuất bản Phổ thông (nghĩa là lên chức). Tất nhiên Lê Duẩn phải tức giận, nhưng “nghĩ đến đại sự” nên lờ đi, chỉ lệnh đưa bà vợ già đó qua Bắc-kinh lạnh lẽo như lănh cung, công tác ở sứ quán đến chết!



    Chính cái thực tế của hai nhóm ḱnh chống nhau trong nội bộ tập đoàn đầu lănh mafia đỏ là nhóm Lê Duẩn và nhóm Trường Chinh càng chứng minh việc “Hồ bị ra ŕa”, Lê Duẩn làm sai di chúc của Hồ, đổi ngày Hồ chết, hoàn toàn là âm mưu của mafia đỏ chạy tội cho Hồ, biến Hồ thành thần tượng “vĩnh cửu” phục vụ cho quyền lợi vị kỷ của một thiểu số đầu lănh mafia đỏ cầm quyền.



    Nếu chỉ để cho bọn gia nô cung đ́nh làm việc “phục chế” lại bộ mặt Việt gian khát máu của Hồ th́ hiệu quả tuyên truyền bị hạn chế, v́ nhân dân Việt Nam phần lớn đă ngấy dàn kèn đồng bốc thơm của gia nô mafia đỏ, cho nên tập đoàn chóp bu mafia đỏ đă láu cá bằng cách này, cách khác (như việc ṛ rỉ “tin thâm cung” qua miệng Vũ Kỳ chẳng hạn) khiến cho một số ng̣i bút hoặc cơ hội, hoặc “lẩn thẩn” đă vô thức hoặc hữu thức tích cực tham gia viết chạy tội cho Hồ, mà cũng là chạy tội cho tập đoàn Việt gian mafia đỏ.



    “Thử hỏi, tại sao nếu Lê Duẩn làm sai th́ Trường Chinh phải lợi dụng việc đó mà “đấu” Lê Duẩn chứ. Việc Trường Chinh đồng lơa với Lê Duẩn chỉ có thể giải thích rằng tất cả những điều Lê Duẩn đă làm đều theo đúng ư nguyện của Hồ với bằng chứng vững chắc.

    “Thử nghĩ xem, nếu mọi người đều biết Lê Duẩn cho “Hồ ra ŕa” từ lâu (1956), th́ Lê Duẩn cố t́nh xây lăng cho Hồ để làm ǵ? Để đời đời nhớ đến việc cái kẻ nằm trong lăng đă bị Lê Duẩn “cho ra ŕa” hay sao? Việc xây lăng cho Hồ chẳng giúp ích ǵ cho Lê Duẩn, nếu không nói là thêm khó khăn v́ lúc đó cuộc chiến xâm lược miền Nam đang ác liệt.



    Tiết lộ của Hoàng văn Hoan sau khi trốn sang Trung cộng là bất khả tín. V́ thứ nhất, Hoan là tên Việt gian chính hiệu do Trung cộng nhào nặn, nuôi dưỡng cài vào ḷng tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh. Từ khi Hoan c̣n là ủy viên loại chót bảng của chính trị bộ mafia đỏ kiêm phó chủ tịch quốc hội ngụy quyền Hà-nội sau khi Nguyễn chí Thanh bị Hồ khử, th́ rất nhiều người ở miền Bắc biết Hoan chỉ c̣n chức vụ như làm cảnh, cho “anh hai Trung cộng” khó mở miệng trong kế hoạch đu dây của Hồ. V́ thế Hoan chẳng làm ǵ ở Việt Nam, phần lớn thời gian là sang Tàu lục địa dưỡng bệnh, có về đến Hà-nội th́ lại cả ngày hú hí cô bồ nhí tên là Hoa, ở căn vi-la trên đường Quan-thánh (gần Hồ-tây). Nghĩa là chẳng bao giờ Hoan họp chính trị bộ, v́ biết những việc quan trọng hễ có mặt Hoan th́ hoăn cách này cách khác cho đến khi Hoan vắng mặt. Đúng như Xuân Thủy đă nói với AFP ngày Hoan bỏ trốn. Hoan chửi Duẩn làm sai đường lối của Hồ, chẳng qua là đi t́m sự ủng hộ trong “cán bộ đảng viên” và trong nhân dân Việt Nam c̣n u mê chưa nhận rơ bộ mặt Việt gian của Hồ. Có thế thôi.



    C̣n tiết lộ của Trần Quỳnh và, nhất là Vũ Kỳ, chỉ là âm mưu của tập đoàn đầu lănh mafia đỏ muốn Hồ là kẻ ăn ốc mà Lê Duẩn (v́ đă chết) làm kẻ đổ vỏ. Cũng có thế thôi, v́ đó là thời kỳ Trường Chinh quay lại cầm chịch! Nhưng chúng cũng không dám công khai đề cập đến chuyện đó cho đúng tầm quan trọng của nó, mà chỉ là “chuyện hành lang”!!!



    (Xin mời đọc tiếp bài 14)

  5. #15
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 14

    Tội ác của Hồ giáng lên đầu nhân dân cả nước Việt Nam, từ số liệu người chết, do chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam mà Hồ phát động được trưng ra bởi tên trung tướng ngụy quân cộng sản Nguyễn đ́nh Ước; số liệu người chết v́ “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức”, “cách mạng văn hóa tư tưởng”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” cũng đă vài triệu; chưa kể đến tụi mafia đỏ không cho phép thống kê số người chết đói, chết bệnh v́ thiếu thuốc men v.v… Tất cả những cái chết đó đều bắt nguồn từ âm mưu của Hồ lèo lái chiến tranh giải phóng dân tộc, do Chính phủ Liên hiệp đa đảng và Quốc hội Khóa 1 lănh đạo, thành chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ.



    Cũng v́ phục vụ chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ mà Hồ đă dâng đất, dâng biển cho Trung cộng, đánh thức dậy dă tâm cướp đất, cướp biển của Tàu lục địa để mở đường cho chúng tiếp tục chính sách bá quyền bành trướng và làm mẫu mực bán nước cho đến bây giờ là bè lũ Đỗ Mười, Lê đức Anh, Vơ văn Kiệt, Lê khả Phiêu, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, Nông đức Mạnh noi theo.



    Những tội ác trên là rơ ràng, không thể chối căi và nhiều người đă công khai lên án. Nhưng, một tội ác khủng khiếp mà hậu quả của nó chưa biết bao giờ chấm dứt, đó là Hồ sử dụng tập đoàn Việt gian mafia đỏ của hắn phá tan truyền thống nhân ái, liêm chính, hỷ xả của nhân dân Việt Nam.



    Nh́n vào bức tranh xă hội Việt Nam hiện nay, dù là đă bị sàng lọc qua ng̣i bút của chính nhân sự của ngụy quyền Hà-nội, th́ thật là khủng khiếp. Tham nhũng, đĩ điếm, nếp sống vô luân, vô liêm sỉ, cơ hội, mánh mung v.v… không chỉ ở cái như xưa kia gọi là “tầng lớp hạ lưu”, mà nó thành lối sống của ngay chính tập đoàn thống trị, tầng lớp trí thức cho đến cả các hội đoàn tôn giáo (quốc doanh), cả thành thị, cả nông thôn, cả miền núi và cũng đang rục rịch ra hoa kết trái ngay trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại!!!



    Một vài ng̣i bút ở hải ngoại đă và đang viết sách chửi cả dân tộc Việt Nam, y như nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, chửi cả làng Vũ-đại vậy. Và từ đó th́ Chí Phèo nổi tiếng có thể nói là hạng nhất của làng Vũ-đại. Trong khi đó, những người b́nh thường, hiền ḥa, an phận không muốn nổi danh – dù thơm hay thối – vẫn bốn mùa chăm lo cày cấy; vẫn đều đặn tiếng chuông nhà thờ, tiếng chuông chùa. Và, khi có giặc th́ cũng góp máu xương giữ làng, giữ nước. Có nghĩa là, đứng ở góc độ người dân (không muốn chơi trội, không có máu bon chen, cơ hội để cố ngoi lên làm lănh tụ) trong đó có cả Thị Nở, th́ làng Vũ-đại vẫn là cái ǵ đó thân thương quyện vào máu thịt, quyện vào từng hơi thở. Chỉ có duy nhất Chí Phèo phải mượn rượu để đủ can đảm chửi đổng cả cha, cả mẹ, cả trời, cả đất và cuối cùng là cả làng Vũ-đại!



    Sự tồn tại của dân tộc Việt Nam đến tận ngày nay chẳng lẽ là do “thiếu tự hào dân tộc”, “đố kỵ ghen ghét nhau, “tôn thờ bạo lực và ác độc đối với nhau” và v.v… Người có nhận xét và sử dụng chữ nghĩa đó chính là me-xừ Nguyễn gia Kiểng với cái tên cuốn sách cũng đặt “lộn tùng phèo” là “Tổ quốc ăn năn”. Lá gan to như vậy, phải ra đến hải ngoại mới dám lớn lối, c̣n lúc trong ṿng kiềm tỏa của mafia đỏ th́ nó co lại có phần c̣n nhỏ hơn gan muỗi. Có lẽ cái tâm lư ấy dẫn dắt nên bây giờ nó nổ tung ra.



    Nêu lên cái hiện tượng “Âu dương Phong luyện chưởng” trong làng viết ở hải ngoại, để thấy đấy cũng là nạn nhân của sự phá hoại các giá trị tinh thần của Việt Nam do tên đại gian, đại ác Hồ chí Minh thực hiện, c̣n hệ lụy đến nay và ra cả hải ngoại!



    Trong t́nh h́nh hiện nay, nhiều ng̣i bút bị mất phương hướng nên bày ra cái tṛ “bát quái trận đồ”, mà tập đoàn mafia đỏ cố t́nh cổ vơ và chỉ đạo, để bút mực, công sức ở hải ngoại phí phạm vào cái tṛ tranh luận “kiểu lá diêu bông là cái ǵ” mà quên rằng chúng ta chỉ có một cách duy nhất, một khả năng trội hẳn là dùng ng̣i bút để vạch rơ tội ác của tập đoàn Việt gian bán nước Hồ chí Minh mà điểm quan trọng nhất là chính tên Việt gian Hồ chí Minh!!!



    Nhân dân trong nước, nhất là nông dân đă bắt đầu vùng lên, lan rộng cả ba miền Trung, Nam và Bắc Việt Nam. Những nơi được coi là “hang ổ của cách mạng mafia đỏ” lại là nơi mâu thuẫn gay gắt nhất như Thanh-hóa, Thái-b́nh, Bến-tre v.v… Nhưng chỉ đến thế th́ chững lại.



    Tại sao vậy?

    - Tất nhiên là bị ngụy quyền cộng sản Hà-nội dùng mọi âm mưu vừa đàn áp, vừa dụ khị.

    - Tại sao chúng lại dụ khị được?

    Chính nhờ cái bóng ma của Hồ chí Minh vậy!!!



    Nhân dân đă bị nhồi nhét từ nhiều năm vào đầu những “huyền thoại về Hồ chí Minh” do chính hắn tạo dựng ra; do bộ máy trí nô cung đ́nh của hắn tô vẽ; do những cây bút người nước ngoài thiếu thông tin trung thực và cũng vô trách nhiệm nữa. Và nguy hiểm hơn nữa là do những cây bút, hiện nay đang được xếp vào loại chống đối, làm cho người dân tin rằng họ khổ là do “cán bộ” làm sai đường lối của Hồ. V́ thế, người dân hy vọng sẽ có sự sửa sai để thi hành đúng tư tưởng của Hồ là cái bánh vẽ khiến nhiều người trong họ đă dành cả cuộc đời hoặc phần lớn cuộc đời tin theo.



    Thế là ngọn lửa cách mạng của người dân (nông dân) bị tụi mafia đỏ đương quyền dập tắt có sự tiếp tay của những cây bút đeo nhăn “chống đối”, tiếp tay bằng những “huyền thoại về Hồ chí Minh”.



    Bản thân những “huyền thoại về Hồ chí Minh” của vài ng̣i bút “chống đối” ở trong nước đă là nấm độc rồi, nó lại được bảo chứng bằng các báo, tạp chí ở hải ngoại mà người dân trong nước mặc nhiên tin tưởng đó là tiếng nói của các tổ chức chống cộng nên ăn những nấm độc đó không chút nghi ngờ.



    Sự thiếu thông tin là điều không chấp nhận được của thời đại hiện nay. Nhưng điều cực kỳ nguy hiểm là dư thừa thông tin giả.



    Cho nên tập đoàn mafia đỏ ngụy quyền Hà-nội hiện nay ra công ngăn nhiều bài viết tố cáo các tội ác của bọn chúng, nhưng không chặn hoàn toàn. Bởi v́ nội dung nhiều bài đă chuyển tải nhiều điều có lợi cho chúng, đặc biệt là việc đề cao tên Việt gian Hồ chí Minh.

    Chính v́ thế mà đă xảy ra chuyện trái khoáy là những người bị áp bức căng khẩu hiệu “Đả đảo đảng” bên cạnh khẩu hiệu “tư tưởng chủ tịch Hồ chí Minh muôn năm”!!!

    Vậy phải làm như thế nào?



    Xin nhắc lại công tŕnh của giáo sư Lê Hữu Mục và cộng đồng người Việt hải ngoại, đă chứng minh Hồ chí Minh là tên đạo văn, buộc UNESCO phải hủy việc tổ chức vinh danh hắn là “danh nhân văn hóa thế giới”. Chuyện này đă rơ ràng như vậy mà một cây bút “chống đối” xuất sắc ở trong nước là ông Trần Khuê (một nhà nghiên cứu) vẫn tự hào v́ Hồ được Liên Hiệp Quốc vinh danh là “danh nhân văn hóa thế giới” và ông ta đề xướng ra cái gọi là “chủ nghĩa Hồ chí Minh”!!!(?)



    Một thí dụ nữa là tướng Trần Độ. Những bài viết của ông Trần Độ có tác dụng tố cáo tội ác của tập đoàn mafia đỏ đương quyền hiện nay, cả trong và ngoài nước. Rơ ràng là có tác động tích cực, khơi dậy được sự bất b́nh của nhiều người có thâm niên tham gia tổ chức cộng sản (tức mafia đỏ) để hưởng ứng cuộc đấu tranh chống tụi thống trị hiện nay. Nhưng, ông Trần Độ vẫn tự hào về những tấm huy chương của Hồ trao tặng; tự hào về những chức vụ đă được ngụy quyền Hồ chí Minh ban cho; tự hào là “công dân loại 1, loại siêu” như ông tuyên bố. Như thế có nghĩa là đối với ông Trần Độ, họ Hồ vẫn là thần tượng, là chân lư. Ông Trần Độ chưa tính được xem bao nhiêu quân, dân miền Nam đă chết v́ “tài cầm quân” của ông, theo lệnh Hồ, vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam; bao nhiêu thanh niên Bắc Việt Nam bị ông lùa vào lửa đạn bom của những người miền Nam Việt Nam chiến đấu tự vệ chống lại đạo quân xâm lược của ông. Chính những suối máu, núi xương và thác nước mắt của những người mẹ mất con, người vợ mất chồng được cô đọng thành những tấm huân chương trên ngực ông và những ngôi sao cấp tướng của ngụy quân cộng sản. ở cương vị của ông, với tŕnh độ lư luận của ông, có thể nào ông không hiểu những âm mưu thâm độc Việt gian của họ Hồ và cái tổ chức mafia đỏ của hắn. Về vị trí trong bộ máy ngụy quyền Hồ chí Minh, ông Nguyễn Hộ chưa bằng ông, nhưng ông ấy đă có đủ thông tin hơn ông để nhận đúng diện mạo thực của họ Hồ và cái tập đoàn bán nước của hắn nên ông Nguyễn Hộ đă có một thái độ vừa anh hùng vừa trung thực vừa có trách nhiệm trước dân tộc Việt Nam. Ông Nguyễn Hộ đă tự chặt bỏ hơn nửa thế kỷ cuộc đời, giai đoạn xanh tươi nhất, v́ nó đă bị nọc độc của con hổ mang bành Hồ chí Minh. Ông tự ư ra khỏi đảng mafia. C̣n ông Trần Độ phải chờ bị đuổi khỏi “đảng” mà vẫn không nỡ rời.



    Nếu ông Trần Độ kể cho mọi người (nhất là tuổi trẻ) biết ông và thế hệ của ông đă bị họ Hồ và cái bánh vẽ “chủ nghĩa cộng sản” lừa đảo, để hai tay ông nhuốm máu chính đồng bào ḿnh, hai tay chỉ huy phá hoại chính tài sản cả vật chất cả tinh thần của nhân dân, đất nước Việt Nam như thế nào th́ chính là ông đă tự gột rửa được hết sai lầm và càng được trân trọng, được ghi ơn.



    Cùng góp phần giải quyết công việc nội bộ của dân tộc của đất nước Việt Nam th́ càng cần minh định trắng, đen, sai, đúng.



    Hết ḷng ủng hộ, chân thành ủng hộ cuộc bút chiến của các ông Trần Khuê, Trần Độ v.v… đấu tranh với tập đoàn Việt gian Nông đức Mạnh hiện nay, nhưng không được lờ đi những cái mơ hồ, sai sự thực của các ông ấy. Bởi không minh bạch chuyện này, cứ đổ lỗi là việc vạch ra những sự thật lúc này làm ảnh hưởng xấu đến việc đoàn kết các lực lượng “chống cộng” hiện nay, sẽ không chỉ tác hại trước mắt mà cả lâu dài. V́ không phản đối nghĩa là chấp nhận.



    Nếu chấp nhận cái giai đoạn ông Trần Độ xua ngụy quân cộng sản xâm lược miền Nam Việt Nam, gây thương vong cho quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, bắn giết nhân dân miền Nam Việt Nam, phá hoại làng mạc, thành thị và nếp sống của miền Nam Việt Nam không phải là trọng tội th́ chẳng hóa ra những liệt sỹ QLVNCH, những thương phế binh của QLVNCH, những bà mẹ, trẻ em miền Nam Việt Nam v.v… bị bắn giết và sau tháng 4-1975, hàng triệu quân, dân, cán, chính của miền Nam Việt Nam bị tù đày, chết cả vài chục ngàn; hàng triệu gia đ́nh bị đuổi đi lên miền núi hoang hóa cho chết dần chết ṃn cả tinh thần, cả thân xác; hàng triệu người phải bỏ nước ra đi mà ít nhất cũng có cả 300 ngàn người nằm dưới biển Đông v.v… là không có ư nghĩa chăng?



    Ông Trần Độ là người có công lớn với ngụy quyền Hồ chí Minh. Nhưng cái công đó càng lớn bao nhiêu th́ tội ác đối với nhân dân cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam càng lớn bấy nhiêu.



    Ông Trần Độ vẫn tự hào về những công lao đó. Ủng hộ việc ông chỉ trích trích ngụy quyền Hà-nội hiện nay là vấn đề chấp nhận được. Nhưng nếu cố t́nh quên việc làm quá khứ của ông ta th́ sự tuẩn tiết của những anh hùng liệt sỹ QLVNCH như các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ; Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung tá Nguyễn Văn Long v.v… và những mất mát của cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam do cuộc vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam của Hồ phát động sẽ giải thích như thế nào? Là đúng hay là sai!!!



    Chẳng biết do thiếu thông tin hay v́ một nguyên nhân bí ẩn nào đó (kiểu ném đá giấu tay) mà ở hải ngoại hiện nay có t́nh trạng khó hiểu: Vinh danh loạn cào cào. Ông Vũ đ́nh Huỳnh mà cũng được nhắc đến c̣n nhiều hơn cả Tướng Nguyễn Khoa Nam, Anh Trần Văn Bá v.v… Có thể khẳng định rằng ông Vũ đ́nh Huỳnh chẳng có chút công trạng nào với dân với nước.



    Là một người công giáo, ông bỏ đạo đi theo “cộng sản”. ở giai đoạn đó, động cơ đi hoạt động của ông chắc chắn là muốn chống thực dân Pháp, nghĩa là có yêu nước. Như hàng ngàn hàng vạn thanh niên Việt Nam khác. Năm 1945, ông được đưa làm thư kư cho họ Hồ. Khi kháng chiến, ông được cho làm vụ trưởng vụ lễ tân bộ ngoại giao. Đó là chức vụ trời ơi, đất hỡi v́ lúc ấy có sứ quán nào đâu. Đến khi Nga-xô và Trung cộng công nhân và lập sứ quán, th́ bọn chúng chủ yếu tự lo liệu lấy. Năm 1954 về Hà-nội th́ ngoài sứ quán Nga-xô và Trung cộng th́ có thêm ủy ban quốc tế giám sát đ́nh chiến, với Canada, Ba-lan và Ấn-độ. Nhưng cái vụ lễ tân đâu có ǵ quan trọng như đề ra chính sách đối ngoại hay giao dịch ǵ. Việc của ông Vũ đ́nh Huỳnh là lo những bữa tiệc, lo người phiên dịch, lo xe đưa đón, lo sắp xếp chỗ ngồi theo chức vụ của khách. Ông Huỳnh là một lăo thành “cộng sản” chứ không phải là một cán bộ quan trọng. Ông bị “cộng sản” bỏ tù v́ nằm trong “vụ án xét lại chống đảng”. Nếu cái gọi là “chống đảng” là có thật th́ chỉ có nghĩa ông đi tù v́ “đảng” của ông không thi hành đúng điều lệ “đảng”. Nghĩa là khi ông “bảo lưu ư kiến” về việc không tán thành nghị quyết 9, đúng “với điều lệ đảng”, th́ ông bị đi tù. Tuy ở trong”đảng” thâm niên nhưng ông vẫn chẳng hiểu ǵ về “đảng và bác Hồ” của ông nên ông vẫn dại dột tin vào điều lệ, hệt như bây giờ mấy người c̣n tin vào hiến pháp của ngụy quyền Hà-nội vậy. Ngay việc “chống nghị quyết 9” th́ cũng chỉ là muốn Việt Nam đi vào quỹ đạo Nga-xô, nghĩa là làm nô lệ cho Nga-xô chứ có phải đ̣i hỏi cơm ăn, áo mặc cho dân, đ̣i hỏi thực thi dân chủ cho dân và v.v… đâu. Vậy nên ở trong nước đề cao ông Vũ đ́nh Huỳnh đă là sự vô lư, thế mà ở hải ngoại cũng đề cao ông ấy nữa th́ thật là không biết phải nói như thế nào!!!



    Ngoài ông Nguyễn Hộ và mấy người trong nhóm của ông th́ phải kể đến những người dũng cảm dám v́ dân chủ và tự do lên tiếng, sau khi được tận mắt thấy miền Nam Việt Nam, mà Sài-g̣n là tượng trưng cho mầm dân chủ, tự do và phồn vinh. Đó là nhà viết kịch bản sân khấu Lưu quang Vũ; nhà thơ Bùi minh Quốc; nhà văn nữ Dương thu Hương; phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ Phu); nhà thơ Hữu Loan; nhà văn Phùng Quán; nhà báo Phùng gia Lộc; nhà thơ Trần Dần; ông Nguyễn đ́nh Huy; bác sỹ Nguyễn đan Quế v.v… Nhiều người nổi tiếng trong phong trào “nhân văn – giai phẩm” hụt hơi trong cuộc chạy marathon đă bỏ cuộc hoặc ngă ngựa; một số giữ được trọn vẹn tấm ḷng kẻ sỹ cho đến chết như Quang Dũng, Bùi quang Đoài v.v… Một số v́ c̣n sống sót trong “vụ án xét lại chống đảng” dựa vào khí thế của những người nói trên đi tiên phong, đă được sự ủng hộ và chỗ dựa vững chắc là cộng đồng người Việt ở hải ngoại, làm chiếc loa đánh động dư luận quốc tế rất hiệu quả, bấy giờ mới góp sức vạch tội ngụy quyền Hà-nội hiện nay. Cũng từ đó, dần dần có thêm nhiều lăo thành “cộng sản” ngay thẳng, có cuộc sống gần dân hoặc trở lại làm dân tham gia.



    Nhưng, cái vốn quư nhất cần được bảo vệ, ủng hộ, khuyến khích là lực lượng trẻ, tiêu biểu là luật sư Lê chí Quang, thương gia Nguyễn khắc Toàn, nhà báo Nguyễn vũ B́nh… Những cái đầu tàu này sẽ lôi kéo tuổi trẻ trong nước nhập cuộc.



    Nếu không đề cao tinh thần trách nhiệm khi đưa tin, cứ bỏ tuốt luốt tất cả chung một rọ, có lẽ đến lúc nào đó, tên khát máu Nguyễn hà Phan cũng sẽ được đề cao như là nhân vật “đấu tranh cho dân chủ”, v́ cách đây vài năm cuộc đấu đá nội bộ mafia đỏ khiến Nguyễn hà Phan bị lột chức ủy viên chính bộ mafia đỏ.



    Rồi nữa, nếu Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Bùi công Trừng, Nguyễn văn Trấn v.v… được đề cao như là một loại “yêu nước” th́ chắc những kẻ ngă ngựa trong đấu đá nội bộ bọn mafia đỏ như Tố Hữu, Nguyễn chí Thanh, Trần Phương, Trần Quỳnh, Cao sĩ Kiêm v.v… cũng sẽ lần lượt được đề cao?!!!



    Cách đây một năm thôi, ông Trần Khuê, cây bút chống đối trong nước c̣n “ca ngợi”, “trích dẫn” lời Lê khả Phiêu mà không thấy rằng hắn đang học múa lại bài vơ của họ Hồ theo kiểu “voi đú chuột chù đú theo”, nghĩa là nói th́ ra vẻ lắm, mà làm th́ lại nâng tên trùm tham nhũng Phạm thế Duyệt lên ngay bên hắn, ở vị trí thứ hai!!! Ngay sắc sảo như nhà văn Dương thu Hương cũng trật lất khi nhận xét về tên con hoang Nông đức Mạnh!



    Nói chung, cộng đồng người Việt ở hải ngoại được mặc nhiên thừa nhận là cái mộc bảo chứng “mác chống đối” cho những cây bút chống đối ở trong nước. Nhưng nói riêng, vẫn có những cá nhân hoặc vài ba nhóm nào đấy thuộc loại “phi điểu phi thú”. Xưa “chống cộng” hời hợt, nay “chống cộng” với lập trường mơ hồ, giả tỉnh giả mê ăn tiền. Xin đưa một thí dụ cụ thể: Vơ nguyên Giáp, đại tướng ngụy quân cộng sản, bị đồng bọn cho về vườn, nay bày đặt viết hồi kư. Ấy thế mà ở hải ngoại đă có ng̣i bút nâng bi rồi. Ca ngợi “thịnh t́nh của đại tướng Vơ nguyên Giáp với văn nghệ” là ân cần trích dẫn: “Một chiến sỹ tài hoa trong đoàn quân Tây tiến ngày đó, sau này là nhà thơ Quang Dũng”, đă có những câu thơ:



    Tây tiến đoàn quân không mọc tóc

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm

    Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

    Đêm mơ Hà-nội dáng kiều thơm.



    Rồi chợt nhớ rằng năm 1956, Quang Dũng bị Tố Hữu phê phán bài thơ “Tây tiến” đó và bị đánh không ngóc đầu lên được, không được sáng tác cho đến chết! (Xin lưu ư bạn đọc rằng, Quang Dũng giỏi cả thơ, văn, họa và cả vơ nữa). Cũng năm 1956 đó th́ Vơ nguyên Giáp đang ở đỉnh cao của vinh quang. Vậy mà Giáp có thèm biết đến Quang Dũng là cái ǵ đâu. C̣n sau năm 1970, Giáp ở thế lép vế đến mức Phạm huy Thông c̣n dám cắm cho Giáp một cặp sừng, vậy mà Giáp dám đưa tay đỡ cho tên trung tá, bác sỹ riêng của Giáp, được về giữ chức giám đốc sở y tế Hà-nội, can tội dùng quyền cưỡng bức một nữ y tá trẻ ở bệnh viện St. Paul (Hà-nội) phải hiến thân cho hắn. Nhờ Giáp can thiệp, tên trung tá vẫn nguyên chức, chỉ có cô y tá bị đuổi việc.



    Chuyện rành rành như thế, mà “ng̣i bút nâng bi” cố bào chữa cho Giáp rằng: “Ông đại tướng không có thẩm quyền ǵ trong việc phê phán văn học”.



    Viết ngu đến như thế mà cũng dám cầm bút! Vậy trong hồi kư, Giáp trích bốn câu thơ trên của Quang Dũng và khen, là đang làm cái ǵ? Có phải phê phán văn học không?



    Lư luận kiểu đó nên mới dám viết về việc trưa ngày 30-4-1975, tên nằm vùng Trịnh công Sơn đă ôm đàn lên đài phát thanh của ngụy quân cộng sản hát bài hắn sáng tác, mang tên “nối ṿng tay lớn”, rằng: “Thật ra anh có hát hay không hát th́ chế độ VNCH cũng tan ră”!!!



    Chính những ng̣i bút “thùng rỗng kêu to”, có căn “nịnh bợ” đó, đă trộn lẫn thật giả, tô hồng, bóp méo làm nhiễu loạn thông tin, phí giấy phí mực, công sức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại.



    Rồi sợ mọi người biết tẩy của Giáp là thằng hèn, tận sau khi Quang Dũng đă về trời từ lâu, và chuyện “nhân văn – giai phẩm” đă thành cổ tích, Giáp mới lưu manh đưa Quang Dũng vào “đánh bóng” cho tập hồi kư, ḥng lừa thế hệ trẻ, “ng̣i bút nịnh ở Paris” cố công bào chữa hộ “ông không phải là người đăi bôi, và ở địa vị, tư thế, tuổi tác ông, không việc ǵ phải đăi bôi.” Ghê không! Giọng lưỡi hệt vệ sỹ của Giáp.



    “Văn là người”, đọc những ḍng trên có thể biết đó là hạng người như thế nào!!!



    Cho nên cần cẩn thận khi đọc, khi đề cao những nhân vật chống đối trong nước. Đồng thời nên vô hiệu hóa những ng̣i bút bẩn, xin cơm thừa canh cặn của mafia đỏ, đang múa may ở hải ngoại.



    Việc nâng bi, vinh danh ồn ào bộ mặt đại Việt gian như Hồ, bộ mặt đao phủ Vơ nguyên Giáp, Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn v.v…; những bộ mặt trí nô cung đ́nh mafia đỏ Cù huy Cận, Xuân Diệu, Hoài Thanh; bộ mặt mật vụ, phản bội “xanh vỏ đỏ ḷng” Trịnh công Sơn; cho đến Nguyễn Duy, kẻ đi đâu cũng đọc bài thơ hắn sáng tác, đại ư trong khi ngụy quân cộng sản vào xâm lăng miền Nam Việt Nam, hắn bị một “tên biệt động quân” bắn, chút xíu hắn bị bể sọ. Hắn cầm súng định bắn lại, nhưng rồi hắn chỉ đuổi để bắt sống (v́ nhân đạo). Vào nhà người ta ăn cướp mà phách lối thế đấy!!! Vậy mà, một số “phóng viên” ở hải ngoại đă phỏng vấn cho hắn ăn nói mất dạy như vậy mà giả mù, giả điếc đề cao! Thật khó hiểu!!!



    Thử đặt câu hỏi, về vai vế Vơ nguyên Giáp c̣n trên Nguyễn chí Thanh, vậy mà tại sao Giáp lại chịu để Thanh “nhéo tai, bóp mũi” như thế? Về sau này, các đàn em cấp dưới của Giáp cũng “khinh” Giáp?



    Bây giờ đă có nhiều bằng chứng để lư giải chuyện đó. Một là, Giáp khi c̣n đi học, tham gia biểu t́nh bị thực dân Pháp bắt và kết án tù 18 tháng. Nhưng mới ở có ba tháng th́ được tha lại c̣n tiếp tục đi học, v́ Giáp đă “đầu hàng”, đă làm đơn xin “mẫu quốc” cho học để phục vụ “mẫu quốc” và v́ thế được tên chánh mật thám của thực dân Pháp ở Đông-dương lúc ấy, là Marti, nhận làm con nuôi. Hai là, có thể đi đến kết luận là khi Hồ bảo Giáp bỏ học trường vơ bị Hoàng-phố (Tàu) về giúp Phùng chí Kiên trong trung đội vũ trang tuyên truyền, th́, dù là theo gợi ư của Hồ, nhưng Giáp là kẻ trực tiếp bán Phùng chí Kiên cho mật thám Pháp. C̣n chuyện bê bối, đĩ bợm, lăng phí quan cách v.v… của Giáp th́ khỏi nói, đúng là “học tṛ giỏi” của họ Hồ. Và, tài cầm quân của Giáp th́: chiến dịch biên giới 1950, có đại tướng Trần Canh của Trung cộng chỉ huy giùm; trận Điện-biên-phủ có nguyên soái Vi quốc Thanh, đại tướng Trần Canh và thiếu tướng La quư Ba của Trung cộng chỉ huy hộ. Riêng trận Vĩnh-yên 1951, Giáp đích thân chỉ huy th́ giống như Tết Mậu Thân (1968) sau này vậy. Đấy chính là những ḥn sỏi trong miệng Giáp, khiến Giáp lúng búng, không dám đụng. Và, v́ thế, dù Giáp có công pḥ tá Hồ nhưng Hồ vẫn không thể ban cho Giáp cái lon “nguyên soái”.



    Thời kỳ phong trào “nhân văn – giai phẩm”, Vơ nguyên Giáp đang là ngôi sao sáng và cũng như Phạm văn Đồng, được mấy anh “nâng bi” ca ngợi là người yêu quư trí thức. Thế nhưng Giáp không hề “an ủi” một ai, chứ đâu cần phải che chở, từ Hoàng Cầm, Trần Dần đến Quang Dũng, tuy tất cả đều ở dưới quyền Giáp. Cũng như thế, các đại tá chánh văn pḥng; cục trưởng quân báo của Giáp không hề được Giáp “minh oan” khi họ bị Nguyễn chí Thanh cho bắt.



    Tại sao? Bởi Giáp biết rằng tất cả những việc ấy đều do lệnh của Hồ, chứ không phải “không có thẩm quyền ǵ trong phê phán văn học” như nhà báo “thùng rỗng” ở Paris đă viết.



    Cái sự ngậm miệng của Giáp cho đến tận năm 2000 mới dám nhớ tí chút đến Nguyễn Tuân, Quang Dũng, trong hồi kư, mà lại nhắc đến những húy kỵ của thời đánh “nhân văn – giai phẩm”, như bài thơ “Tây tiến” của Quang Dũng, như “Tùy bút kháng chiến” của Nguyễn Tuân, rơ ràng là thuở đó Giáp phải bị “sợ đến cấm khẩu” luôn. Kẻ đó, ngoài Hồ, làm Giáp sợ c̣n là ai nữa?!!!



    Cho nên phải thấy Hồ mới là “đầu năo” gây nên tội ác về cái gọi là đánh “nhân văn – giai phẩm”. Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh, Hoàng văn Hoan, Tố Hữu chỉ là những tên đao phủ thừa hành trong vụ án “nhân văn – giai phẩm mà thôi.



    Lại nữa, thử đặt câu hỏi: Tại sao Vơ nguyên Giáp cũng né không đả động đến cái gọi là “vụ án xét lại chống đảng”, mà trong đó có biết bao đàn em, trong ngụy quân cộng sản của Giáp dính trấu, như tướng Đặng kim Giang, tướng Nguyễn văn Vịnh, tướng Lê Liêm, các đại tá Lê vinh Quốc, Đỗ đức Kiên, trung tá Văn Doăn v.v…



    Câu trả lời cũng giống như trên, nghĩa là Vơ nguyên Giáp biết rằng Lê đức Thọ chỉ thừa hành khẩu lệnh của Hồ để trừng trị nhóm “chống nghị quyết 9 xin bảo lưu ư kiến”, bị chụp cho cái nón cối “vụ án xét lại chống đảng, làm gián điệp cho nước ngoài”.



    V́ thế, những nạn nhân trong vụ “nhân văn – giai phẩm” cũng giống hệt những người bị quy tội “xét lại chống đảng, làm gián điệp cho nước ngoài”, khi bị bắt th́ kêu oan mà chẳng đi tới đâu. Đến khi được tha th́ cũng mập mập mờ mờ. Mấy đời “tổng bí thư” đều tránh né nói rơ nguyên nhân, chỉ muốn cho ch́m xuồng trong yên lặng!



    Một câu hỏi nữa lại được đặt ra: Tại sao người ta lại kết tội Lê đức Thọ và Lê Duẩn, thậm chí người ta c̣n “chứng minh” rằng họ Hồ cũng là nạn nhân của sự lộng quyền của hai anh chàng họ Lê ở trên đă có lư giải, nay xin nói rơ hơn.



    Không phải tất cả đều mơ hồ về sự nhúng tay của Hồ mà Lê Duẩn và Lê đức Thọ chỉ là kẻ thừa hành lệnh của Hồ. Bởi v́ người ta vẫn tự hào cái quá khứ kháng chiến chống Pháp, mà không nh́n ra hoặc không đủ can đảm để nh́n ra rằng cái gọi là kháng chiến chống Pháp từ đầu 1952 thực tế chỉ là nằm trong lịch tŕnh thay thầy đổi chủ. Nghĩa là thay thực dân Pháp bằng thực dân đỏ Nga-xô, mà kết quả đă cho thấy thực dân đỏ c̣n tàn bạo gấp vạn lần thực dân Pháp. Một điều rơ ràng nhất, là nhiều trí thức do Pháp đào tạo đă trở thành những người yêu nước nồng nàn như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Trần Trọng Kim, bác sỹ Trần Văn Lai v.v… C̣n trí thức do “thực dân đỏ” (cả Nga-xô và Trung cộng) đào tạo th́ đều thành lũ gia nô hay nói như Dương thu Hương là “trí thức mang trái tim chó”, hay nói như Mao trạch Đông là “không bằng cục cứt”. Và ngay những trí thức của Pháp đào tạo, đă có những lúc sống đẹp và hào hùng, khi kết hợp với thực dân đỏ cũng thành hèn, thành gia nô. Những điển h́nh là Phan Anh, Huỳnh văn Tiểng, Mai văn Bộ, Nguyễn văn Huyên, Hoàng minh Giám, Kha vạng Cân, Trần đăng Khoa, Nghiêm xuân Yêm, bác sỹ Phạm khắc Quảng, bác sỹ Trần duy Hưng, giáo sư Hoàng xuân Nhị, Bùi Kỷ, Phạm văn Bạch, luật sư Nguyễn thành Vĩnh và v.v… nhiều lắm, gần như trọn vẹn những ai chót mắc vào lưới nhện của Hồ (đại diện của thực dân đỏ).



    Nếu thẳng thắn nh́n vào bộ mặt Việt gian của Hồ th́ có nghĩa là phải chặt bỏ hết cả cuộc đời, phải thừa nhận tội đồng lơa với Hồ. Điều này không phải dễ dàng. Phải có dũng cảm như ông Nguyễn Hộ mới dám đoạn tuyệt với cái quá khứ đó.



    Cho nên (dù là nạn nhân của Hồ) người ta vẫn phải đề cao Hồ, cố nhắm mắt bỏ qua mọi bằng chứng tội ác rành rành của Hồ mà họ có phần góp sức, để tấn công vào Lê Duẩn và Lê đức Thọ, cũng như tụi đầu nậu sau này. Họ không thấy rằng hầu hết nhân dân Việt Nam bị Hồ lừa, ở các mức độ khác nhau. Cho nên bị lừa nhiều hay bị lừa ít chỉ biểu thị là nạn nhân nhiều hay nạn nhân ít trong các hành động tội ác của Hồ mà thôi. Sau này khi nhắm mắt xuôi tay, có muốn nói, muốn viết cũng chẳng được. Lịch sử sẽ phán xét công bằng và sáng suốt.



    Nhưng, cái tai hại cực kỳ nghiêm trọng cho toàn dân Việt Nam lúc này lại chính là việc tiếp tay với tập đoàn mafia đỏ đương quyền đề cao họ Hồ.



    Việc làm này, như trên đă phân tích, đă và sẽ làm chững lại phong trào vùng lên của nông dân, v́ họ hy vọng sẽ có sửa sai để đi đúng con đường của Hồ. Bọn cơ hội đi hai hàng ở hải ngoại lại làm nhiễu thông tin để sức mạnh dư luận quốc tế bị lái lệch hướng. C̣n tập đoàn mafia đỏ cầm quyền, cứ núp sau cái thây ma của họ Hồ (mà ngay những kẻ chống đối chúng và một số cây bút hải ngoại vẫn đề cao; một số báo, tạp chí giúp chuyển tải những sự đề cao Hồ có tính xuyên tạc đó) để “đại hội này sửa sai”, rồi “lại đại hội sau sửa sai” và cứ thế, người dân cứ việc chờ ăn bánh vẽ, c̣n chúng thay nhau làm “tổng bí thư”. Thí dụ cụ thể: Đỗ Mười nghe măi câu chuyện tham nhũng của Phạm thế Duyệt, Nguyễn công Tạn, Vơ văn Kiệt v.v… Mười lui cho Lê khả Phiêu, ấy thế mà Phạm thế Duyệt lại được Phiêu nâng lên thành nhân vật số 2; và băng của Phiêu xuất hiện một cây tham nhũng mới: tên trung tướng Phạm văn Trà. Đến khi Phiêu lui th́ lại đến Nông đức Mạnh lên, những bộ mặt tham nhũng cũ không bị đụng cọng lông chân như Kiệt, Tạn, Duyệt, Cao sĩ Kiêm, Nguyễn tấn Dũng, Trương tấn Sang, Lê xuân Tùng v.v… Riêng Phạm thế Duyệt, không nằm trong trung ương mafia đỏ nữa, nhưng vẫn ngồi cái ghế loại cha bố của xă hội chủ nghĩa đỏ. Đó là Duyệt giữ chức chủ tịch đoàn chủ tịch Mặt trận tổ quốc trung ương!!! Và, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao Việt Nam (mà cũng là cả thế giới), nhân vật loại 2 của Bắc triều là Lư Bằng đến Việt Nam, mà cả ba đời “tổng bí thư mafia đỏ Việt Nam” ra sân bay quỳ lạy “sứ thiên triều”. Đó là ba tên Việt gian trong băng đảng của họ Hồ, lần lượt là Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và Nông đức Mạnh, những đứa bán đất đai và biển của Việt Nam cho ba Tàu cộng, đúng như Hồ đă làm khi hắn c̣n chưa bị bắt giam ở hỏa ngục (âm ty).



    Xin hỏi các cây bút “chống đối” ở trong nước, đă dũng cảm tố giác tội bán nước của bè lũ Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh, Phan văn Khải, Trần đức Lương, Nguyễn văn An v.v… sao không thấy rằng chúng đi đúng đường lối của Hồ đấy. Sao kết tội chúng mà không kết tội Hồ?



    Cái chưa bao giờ hiện hữu là “chủ nghĩa Hồ chí Minh” th́ nh́n ra và mô tả cứ như mấy nhà văn, nha thơ ba Tàu ngày xưa viết về “Đường Minh Hoàng du Nguyệt điện”; c̣n tội ác bán nước, giết dân, đụ bậy, tham nhũng, lăng phí, đạo văn của Hồ th́ c̣n bút tích; c̣n số liệu, tên người; c̣n nhân chứng; c̣n chứng cớ, h́nh ảnh; c̣n bằng chứng th́ lại giả vờ hoa mắt không chịu nh́n ra!!!



    Và, một điều trái khoáy nữa là chính Hồ, một thằng cha dám làm mọi việc “Trời không dung, Đất không tha”; một thằng tham danh, tham quyền, bất chấp thủ đoạn để đạt mục đích; một thằng tự đề cao một cách lố bịch và vô liêm sỉ dám phét lác là sẽ “”đưa năm châu đến đại đồng”, mà bản thân hắn không dám nhận ḿnh đẻ ra “chủ nghĩa” ǵ. Thế mà có người lại nh́n ra “dê đực của Tô Vũ đẻ dê con”. Thật là đại tài nhưng lại đại tai cho nhân dân Việt Nam, nói chung!!!



    (Xin mời đọc tiếp bài 15)

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 15




    Nếu điểm lại kỹ càng những việc Hồ đă làm, từ khi hắn lấy cái tên Nga là Line, trở thành mật vụ cho Nga-xô, cho đến ngày hắn chết, th́ mới thấy cái lưu manh của Hồ trong nội dung di chúc của hắn.



    Hồ soạn mấy cái di chúc để đệ tử tiện sử dụng tùy thời lúc hắn chết. Nhưng tựu trung vẫn chỉ là căn dặn đệ tử:



    1. Phải coi việc bảo vệ mẫu quốc là trọng tâm hoạt động của toàn tổ chức mafia đỏ Việt Nam

    Cái nội dung của nhiệm vụ trung tâm nói trên có nghĩa là phải tiếp tục thực hiện chiến lược bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ, tức xâm lược bằng được miền Nam Việt Nam, Lào và Căm-bốt. Sau nữa, có thể mở rộng ra cả vùng Đông-nam-á. Muốn thế, về đối nội phải tiếp tục chuyên chính, nghĩa là dùng bạo lực cưỡng bức toàn dân theo lệnh của tụi chóp bu của tổ chức mafia đỏ Việt Nam. Phải hoàn thiện chủ nghĩa xă hội, nghĩa là phải tiếp tục vô sản hóa toàn dân, biến toàn dân thành nô lệ kiểu mới, thành tài sản của tổ chức mafia đỏ. Có thế mới có điều kiện thực thi nhiệm vụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ.



    Cái mà Hồ nói đến là “chủ nghĩa quốc tế vô sản” là thứ màu mè che đậy nội dung của “chủ nghĩa thực dân đỏ”. ở Paris, có nhà luật học đă cố t́nh quay lưng với thực tế, làm tṛ xiếc tung hứng chữ nghĩa để viết rằng “Hồ là phe quốc tế”, c̣n những Nguyễn Thái Học, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu v.v… là “phe dân tộc”!!!



    Tổ tiên ta đă dạy: “Đừng buôn chung với Đức Ông”. Cho nên nước lớn th́ dùng cái mặt nạ “chủ nghĩa quốc tế” để che bộ mặt thật là thực dân. C̣n mấy tên làm chính trị của nước nhỏ th́ đeo mặt nạ “chủ nghĩa quốc tế” để che đậy bộ mặt Việt gian, dựa vào nước lớn để giữ vững quyền lợi cá nhân và phe nhóm mà thôi.



    Cuộc chiến tranh họ Hồ phát động ở hai miền Bắc và Nam Việt Nam có lợi cho ai, thật rơ ràng. C̣n nhân dân và đất nước Việt Nam bị mất đủ mọi thứ, cả tinh thần, cả vật chất.



    Bè lũ Lê Duẩn đi tiếp con đường phản dân hại nước của Hồ, càng d́m nhân dân và đất nước Việt Nam vào đầm lầy, ngơ cụt. Gây chiến sang Căm-bốt, chiến tranh với Trung cộng, và để Nga-xô hưởng không cảng Cam-ranh chẳng tốn một xu và các mỏ dầu hỏa ở biển Đông th́ liên doanh theo kiểu “chủ ăn thịt, chó gặm xương”!



    Rồi khi “mẫu quốc đỏ” ngủm củ tỏi, bọn đệ tử của Hồ lại tiếp tục cái sự nghiệp “quốc tế vô sản” của Hồ, quay lại với “anh hai Trung cộng” xin sự che chở bằng dâng đất và biển, hệt như Hồ đă làm trước đây.



    2. Bảo vệ sự đoàn kết trong tổ chức mafia đỏ

    Khi c̣n sống, Hồ tạo ra hai băng Lê Duẩn và băng Trường Chinh ḱnh chống nhau, nhằm mục đích không băng nào dám phản lại Hồ. Nhưng khi sắp chết, Hồ biết bọn chúng chỉ chờ Hồ nằm xuống là làm thịt nhau, nên Hồ mới căn dặn bọn chúng phải “đoàn kết” nghĩa là phải biết san sẻ quyền lợi, nhân nhượng để giữ vững quyền lợi “mẫu quốc đỏ” và quyền lợi của chính tổ chức mafia đỏ Hồ chí Minh. Kẻ phát biểu cái ư đó của Hồ chính là Tố Hữu, viết bài thơ ngay sau khi Hồ chết với đại ư rằng: “Nay cha mất rồi, anh em nên cùng nhau chia việc gánh vác”!



    Đấy là một lối đăi bôi đểu giả của Hồ với băng Trường Chinh, v́ hắn thừa biết là băng Lê Duẩn sẽ thắng thế. Nhưng, mục đích chính của Hồ là để hậu thế vẫn thấy hắn là c̣n người luôn v́ nghĩa lớn, luôn luôn đi theo con đường “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết!!!”



    3. Tha thuế cho nông dân

    Từ cuối năm 1954, do hiệp định Genève về Việt Nam, Hồ đă nắm được quyền cai trị từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc Việt Nam. Hắn nắm quyền cai trị suốt 15 năm trời, chưa bao giờ hắn mở mỏ nói đến giảm thuế, giảm sưu cho dân. Mỗi phong trào hắn phát động là lại đem đến chém, giết, tù đày, đói khổ cho người dân Bắc Việt Nam, đặc biệt là nông dân. Ngay không phải thời gian giáp vụ th́ cả miền Bắc Việt Nam đă phải trường kỳ ăn độn; ở nông thôn nhiều nơi chết đói nhưng tuyệt nhiên báo, đài không được đưa tin. Mọi tội lỗi của Hồ và tổ chức mafia đỏ của hắn gây ra cho nhân miền Bắc Việt Nam đều đổ cho “Mỹ-Ngụy”. Và, lũ bút nô ra công bịa các chuyện đói khổ ở miền Nam Việt Nam, để xoa dịu ḷng dân. Nào là trong miền Nam, đàn bà con gái phải làm điếm kiếm ăn; gạo thiếu đến mức nhà buôn phải trộn hạt ny-lông vào gạo. Ngay lính Mỹ cũng bị “đói” đến mức phải cưỡi trực thăng đi cướp gạo của nông dân. (những điều này “hư thực ra sao” chắc Lữ Phương không thể chối là không biết!)



    Cơ quan khoa học của Hồ được lệnh khuyến khích nhân dân ăn các thứ bá láp, nhưng lại chứng minh ra vẻ rất khoa học. Nào là ốc sên có nhiều đạm; ăn 7kg lá khoai ḿ cũng bổ tương đương bằng 1kg thịt ḅ; thịt cóc, nhái đều có nhiều đạm; rồi phổ biến làm “thủy sâm”; me-xừ Lư Ban, bí thư đảng đoàn bộ ngoại thương (thời kỳ Phan Anh làm bộ trưởng và Nguyễn văn Đào làm thứ trưởng), cũng là phái viên của Trung cộng trong trung ương mafia đỏ Việt Nam, th́ ra công phổ biến cách nhịn ăn, sáng sớm uống độ 2 lít nước âm ấm. Me-xừ bác sỹ Nguyễn khắc Viện, tuy việc chính là “bịp” quốc tế về t́nh h́nh miền Bắc Việt Nam, có máu cơ hội nên hưởng ứng bằng bài báo nghiên cứu về “rau muống” đăng trên tờ Văn Hóa. Rồi nào là ngô bổ hơn gạo v.v… Và ngụy quyền Hồ chí Minh khuyến khích ăn thai nhi và nhau đàn bà đẻ. Và, chuột cống thành phố cũng được coi là nguồn thịt ngon lành.



    Biết bao người ngộ độc v́ ăn ốc sên, thịt cóc, thịt chuột, có nơi chết cả gia đ́nh. C̣n môn thuốc chữa đói của me-xừ Lư Ban cũng làm nhiều người trương bụng lên mà chết.

    Những việc đó Hồ đều biết. Ngay cả ở chợ Đồng-xuân (Hà-nội), Hồ cũng hóa trang (nhà nghề gián điệp mà) giả làm một người già có bệnh ra mua tem thịt tiêu chuẩn 150gr một tháng, bị con bé mậu dịch viên bán thịt vứt cho cục xương và nói: “Không có thịt, ăn tạm cục xương này, không th́ thôi!” Câu chuyện đó được nối dài thêm vào những “huyền thoại về Hồ”. C̣n từ con bé mậu dịch bán thịt, cho đến cửa hàng thịt, ban quản lư chợ v.v… chẳng ai việc ǵ!!!



    Cho nên trước khi chết, Hồ để di chúc mong nông dân được tha thuế lại chỉ là tṛ tự đánh bóng cố hữu của Hoà, trút cái khó khăn lại cho đệ tử. Nếu chúng “tha thuế” th́ đó cũng là lệnh của Hồ; nếu “không tha thuế” th́ dân oán chúng mà vẫn ơn Hồ và tiếc v́ Hồ đă chết nên “cán bộ” làm sai tâm nguyện của Hồ. Đ̣n ma giáo này của Hồ c̣n nhằm phối hợp với ư thứ tư trong di chúc của hắn.



    4. Đừng làm ma to, cho Hồ, lăng phí của dân

    Một số bồi bút cung đ́nh, một số cây viết người nước ngoài thuộc loại “dễ tính, vô trách nhiệm khi cầm bút” và “óc ít nếp nhăn” cứ tô vẽ thêm vào cho Hồ là giản dị, tiết kiệm v.v… để “huyền thoại về Hồ” càng thêm nhiều điều phét lác.



    Trong lịch sử Việt Nam, trải dài hơn 4000 năm, chưa có kẻ nào lăng phí máu xương, tài nguyên của Việt Nam như tên Việt gian Hồ chí Minh. Lê long Đỉnh bất quá giết mấy ông sư. Gióc mía lên đầu cũng chỉ dăm ba người, cho hổ ăn thịt cũng độ chục mạng. Trần thủ Độ có chôn sống cũng chưa đến 100 người thân tộc, sủng thần của nhà Lư. Ngay Gia Long, Minh Mạng cũng giết dân khá nhiều, nhưng cũng chỉ tới số ngàn.



    C̣n Hồ, chỉ riêng số thanh niên cùng gia đ́nh và bạn bè quen biết của họ, bị Hồ bán cho mật thám Tây năm 1929 cũng đă ở con số hàng ngàn. Báo cáo của Hà huy Tập gửi quốc tế 3 đề ngày 20-4-1935 viết:



    “Trước và sau đại hội của đảng, một số đồng chí khi nói chuyện với nhau thường bàn về đồng chí Quốc (tức Hồ). Họ cho rằng Quốc chịu trách nhiệm về việc mật thám bắt hơn một trăm hội viên đoàn thanh niên, bởi v́:

    a) Quốc biết rơ Lâm đức Thụ là một tên khiêu khích nhưng vẫn làm việc với hắn.

    b) Quốc đă phạm sai lầm khi yêu cầu mỗi thanh niên nộp hai bức ảnh, ghi rơ tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà, cụ kỵ cùng với tên của từ 2 đến 10 người bạn.

    c) ở trong nước, ở Xiêm (Thái-lan) và ở trong tù, người ta vẫn c̣n bàn tán đến trách nhiệm của Quốc, trách nhiệm mà anh ta không dám chối.”



    Năm 1945, Hồ c̣n cho lệnh ám sát những người đối lập, các đảng phái không cộng sản, kể cả nhóm troskít, cho đến tín đồ và chức sắc các giáo phái cũng vài chục ngàn. Rồi cải cách ruộng đất của miền Bắc Việt Nam cũng ở con số ngót nghét một triệu, chưa kể các tṛ ma quái khác, kể cả việc xâm lăng miền Nam Việt Nam!



    Khi c̣n sống, Hồ đă chứng kiến bao sự lăng phí trong các ngày lễ, nào in ảnh màu (trước khi hoàn thành nhà máy in Tiến bộ) ở nước ngoài; nào ảnh dệt của Hồ; tượng lớn tượng nhỏ của Hồ cũng như các thứ huy hiệu mang h́nh Hồ v.v… cùng với sự lăng phí của các đệ tử của Hồ, có bao giờ thấy hắn trừng phạt ai đâu. Hắn chỉ nêu chung chung lấy cớ siết chặt mọi nhu cầu thiết yếu của dân mà thôi, như ủng hộ “miền Nam”, “anh Trổi chị Quyên” để rồi lính ngụy và thanh niên xung phong tiết kiệm mặc quần áo cũ, trả lại quân phục mới; công nhân th́ làm thêm giờ, không đi phép năm; nông dân “xin” đóng thuế vượt mức v.v… và tự túc mỗi năm 3 tháng lương thực đi “lao động nghĩa vụ” (tức làm sưu); công nhân, xă viên hợp tác xă, cán bộ, nhân viên trong các nhà máy, cơ quan cũng phải gánh thêm phần việc của nhau để mỗi năm 3 tháng đi “lao động nông nghiệp”!



    Cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam càng ác liệt th́ Hồ càng thẳng tay trấn lột nhân dân tàn bạo hơn. Nhà dân bị rỡ làm cầu, làm đường không bồi thường. Các nghĩa trang bị san bằng lấy cớ làm trận địa pḥng không. Học sinh mẫu giáo phải đóng tiền “làm hầm” trú ẩn, mà lạ nỗi là hầm cũ c̣n đó mà cứ mỗi năm hoặc nửa năm lại đóng mới lại. Nhưng, tàn bạo vô lương tâm nhất là Hồ cho tổ chức đám cưới các thương bệnh binh nặng với các nữ thanh niên, nhằm trút gánh nặng toàn bộ cho người phụ nữ nông dân. V́ thế mà xảy ra biết bao vụ vợ giết chồng hoặc tự tử để “thoát nợ đời”.



    Tất cả sự lăng phí của Hồ và tập đoàn cộng sản Việt gian của hắn đă đẩy số phận đa số phụ nữ miền Bắc thành điếm! Muốn vào làm việc ư; muốn được vào biên chế ư; muốn được nhập hộ khẩu ư; muốn được lên lương ư; muốn được đi học hay đi lao động ở nước ngoài ư; muốn vào đại học ư, và v.v…, hàng trăm thứ muốn. Người phụ nữ chỉ cần chấp nhận (nhiều khi không chấp nhận cũng không thể được) mang hiến cái phao câu của ḿnh cho cấp có thẩm quyền (cán bộ tổ chức, cấp ủy mafia đỏ, công an hộ tịch, giám đốc, chủ nhiệm, bộ trưởng, thứ trưởng v.v…). Đâu có phụ nữ là cũng có t́nh trạng đó, có thể nói là 100%. V́ từ trên Hồ đến Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Vơ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng, Hoàng văn Hoan, Trần quốc Hoàn, Tố Hữu, Nguyễn văn Trân, Ung văn Khiêm, Nguyễn Côn, Hoàng Tùng, Trần danh Tuyên, Nguyễn đ́nh Thi, Bảo định Giang, Lưu trọng Lư, Nguyễn tư Thoan, Vũ Đại, Vũ Quang, Nguyễn trọng Vĩnh, Hồng xích Tâm v.v… cho đến cấp cơ sở như tên Phán (đồng hương của Phạm văn Đồng) chỉ là cửa hàng trưởng cửa hàng văn pḥng phẩm Tràng Tiền (Hà-nội) mà có 42 nữ nhân viên th́ hắn đă “gặm phao câu” của tới 40 nàng kiều!!!



    Chuyện hiến thân cho cấp trên phổ biến đến mức, trung tá ngụy quân Hà minh Tuân, nhà văn kiêm giám đốc Nhà xuất bản Văn học phải viết cuốn “Vào đời” để kêu gọi dư luận xă hội. Nhưng kết quả ngụy quyền Hồ chí Minh chẳng những không sửa sai mà c̣n cất chức và cất bút của nhà văn Hà minh Tuân và bọn chúng cố t́nh cho tên của ông ta vào lăng quên. Những Nguyễn Khải, Lê Lựu v.v… có thời là đàn em của Hà minh Tuân, nhưng có ai dám nhớ đến nhà văn dũng cảm đó!!!



    Ngay cái ngụy quyền mafia đỏ, của Nông đức Mạnh bây giờ, vẫn c̣n những gương mặt tự hiến phao câu nên đă nhẹ nhơm leo nhanh trên bậc thang quan lại đỏ, như Cù thị Hậu, Nguyễn thị Hằng, Vơ thị Thắng, Nguyễn thị B́nh (phó chủ tịch nước), Trương thị Mỹ Hoa (phó chủ tịch quốc hội) v.v…!!!



    Cù thị Hậu xuất thân từ thợ dệt ở nhà máy dệt Nam-định. Để trở thành chiến sỹ thi đua, đă phải “chiều ḷng” từ cấp ủy nhà máy đến tỉnh, rồi cả “phóng viên thường trú của Việt Nam thông tấn xă cho đến ban thi đua bộ công nghiệp nhẹ, ban thư kư tổng công đoàn”. V́ thế mà trở thành đại biểu “cuốc hội”, mỗi lần đi họp th́ chủ yếu chờ mua hàng đặc biệt do thương nghiệp phục vụ “cuốc hội”. Đến mức, chính Hồ c̣n toe toét cười hỏi: “Các cô chú ở thương nghiệp có chuẩn bị nhiều hàng cho đại biểu yên tâm họp không?” Mỗi lần như thế, bác sỹ Trần duy Hưng lại nhanh nhẩu đứng lên hô: “Hồ chủ tịch muôn năm!” Cả hội trường hô theo ầm ĩ khen: “Bác tâm lư thật”!



    Đúng vậy, do nghề gián điệp, chỉ điểm nên Hồ rất “tâm lư”. Trong di chúc th́ dặn đệ tử tha thuế, dặn đừng làm ma to cỗ lớn, đúng là giản dị thật. Nhưng sự thực là hắn đă nghĩ đến cái “mả” của hắn từ trước 1960.



    Khi theo lệnh Hồ, Trường Chinh kư lệnh tập trung cải tạo tất cả những người Hồ cho là không thích hợp cho chế độ thực dân đỏ của Hồ, vào ngày 20-6-1961, th́ thực tế đa số đă bị bắt giam từ 1960, cùng lúc với “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Cục lao cải của bộ công an (sau này gọi là cục quản lư trại giam) là đơn vị cục vụ duy nhất có chỉ huy trưởng là cấp tướng: thiếu tướng Lê hữu Qua (ngay vụ tổ chức cũng chỉ là đại tá Hoàng Thao; chánh văn pḥng là đại tá Hồng Hà; viện trưởng viện khoa học công an là đại tá Mai văn Mạc). Cái “cục lao cải” quan trọng đến mức phải do cấp tướng chỉ huy v́ nó có một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng mà Hồ giao cho Trần quốc Hoàn. Đó là xây hồ Suối Hai ở Ba-v́, là nơi, theo thầy địa lư, có miếng đất đế vương, nhưng phải cải lại một chút v́ xưa kia đă bị ba Tàu yểm (h́nh như thời Cao Biền đô hộ). Cho đủ bộ v́, phải có Hồ Suối Hai để thăng bằng với đỉnh núi Tản. Hồ đích thân lén chôn những chiếc răng của hắn, gọi là có cốt, ở mảnh đất “phát vương” đó. Nhưng hắn “đa nghi” nên chơi tṛ “năm ăn, năm thua”. Nghĩa là, ngộ nhỡ mảnh đất đó không phát th́ nếu chôn cả cái thây của hắn ở đó, có thể có kẻ phá (hắn biết có lắm kẻ thù là nhân dân); c̣n chôn răng không thôi cũng sợ có thể phát mà cũng có thể không. V́ thế hắn muốn có cái lăng nằm ch́nh ́nh giữa thủ đô, để chí ít th́ cũng như Lê-nin, và cũng sẽ hy vọng là “vinh quang” măi măi!



    Trong lúc đang chiến tranh, nhân dân c̣n đói khổ mà lại ghi vào di chúc là xây lăng th́ chỉ có kẻ ngu! Hồ chưa bao giờ làm việc ǵ mà không “thủ đoạn, ma giáo”. Cho nên hắn lại diễn lại vở kịch cũ. Đó là những ngày đầu (sau cuộc chiến bùng nổ ra ngày 19-12-1946) chạy lên Việt-Bắc, Hồ không chịu được mùi thuốc rê, v́ hắn chỉ quen hút ngày vài bao thuốc lá thơm Craven A, là thứ chỉ có thể mua được ở Hà-nội, là nơi quân Pháp tạm thời quản lư. Cho nên hễ “vào cuộc họp là Hồ ra công ho”. Và, theo đề nghị của Phạm văn Đồng, “trung ương mafia đỏ” (lúc đó c̣n chưa công khai) gồm Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Vơ nguyên Giáp, Hoàng quốc Việt, Nguyễn Khang, họp và ra nghị quyết bắt buộc Hồ phải hút thuốc thơm Craven A để khỏi ho. Và, tất nhiên Hồ tôn trọng và chấp hành ư “trung ương”. (Điếm thật!!!). Người được giao trách nhiệm lo cung cấp thuốc lá thơm cho Hồ hút, nghĩa là phải cử người lén vào Hà-nội mua, là Trần dụ Châu, bèn được Hồ cho cái lon đại tá ngụy quân, phụ trách quân nhu.



    Lợi dụng việc đó, Trần dụ Châu đă dùng tiền của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, lăng phí vô tội vạ. Thị trấn Thanh-cù (Phú-thọ) là nơi ăn uống xa hoa của thuở đó, chủ yếu là nhân viên dưới quyền Trần dụ Châu. Và, hang ổ của hắn ở Ao-châu (huyện Ấm-thượng, Phú Thọ) th́ tiệc tùng thâu đêm. Chính đại biểu quốc hội khóa 1 là giáo sư Đoàn Phú Tứ, đă chứng kiến các vụ việc đó, giáo sư viết thư “hạch tội” họ Hồ. Thế là Hồ cho lệnh tử h́nh Trần dụ Châu ngay. Hồ đi quả bất ngờ này nên Trần dụ Châu chưa kịp khai báo ǵ nhiều, và chuyện đến đó là hết, không lôi theo các vụ việc khác như vụ Phạm văn Đồng cưỡng ép một “cháu” học sinh ở miền Nam ra, chẳng hạn. Hồ bèn đặt vào cái ghế chủ nhiệm quân nhu một nhân vật do bề tôi thân cận và trung thành của Hồ là Nguyễn lương Bằng (tức Sao Đỏ hay anh Cả Đỏ) giới thiệu. Đó là Trần đăng Ninh, được đeo lon thiếu tướng và được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ từ đại hội 2 (1951). Ngoài việc cung cấp thuốc lá thơm cho Hồ, Trần đăng Ninh c̣n là kẻ kiếm gái người dân tộc thiểu số cho Hồ chơi. Nạn nhân Nông thị Xuân chính là do Trần đăng Ninh lựa chọn và “làm công tác tư tưởng” trước khi tiến cung!



    Việc làm công tâm của đại biểu Quốc hội khóa 1 là Đoàn Phú Tứ càng khiến Hồ nóng ḷng ra tay “tiêu diệt âm thầm” Chính phủ Liên hiệp đa đảng và Quốc hội như đă tŕnh bày ở những phần trên.



    Cho nên trong di chúc để công khai với toàn dân và quốc tế th́ Hồ đóng tṛ “thanh liêm”, nhưng bên trong Hồ cho khẩu lệnh khác, v́ thế mới có sự nhất trí của chính trị bộ mafia đỏ là xây lăng, ướp xác cho Hồ, dám làm trái di chúc của Hồ khi thây Hồ c̣n chưa kịp lạnh và đă sẵn sàng đội ngũ chuyên gia ướp xác Nga-xô từ ngàn dặm kịp thời có mặt!



    Thật là mọi chuyện rơ như ban ngày. Có mù như sẩm th́ cũng sờ bằng tay hay nghe bằng tai được!



    Cái lăng của Hồ là một “tội ác tàn bạo” nữa của Hồ và tập đoàn cộng sản Việt gian của hắn giáng lên đầu nhân dân Việt Nam. Không kể tiền bạc, tài vật, mà nó là kết tinh của bao khối máu dân, bao giọt nước mắt của những người có chồng con chết trong khi chuyên chở gỗ, đá để xây lăng cho hắn, nếu có hứng chắc cũng nhiều như nước ở thác Bản Giốc mà thằng con hoang của Hồ là Nông đức Mạnh vừa dâng cho ba Tàu bành trướng bá quyền.



    Hăy thử nghĩ xem, những năm đó, chiến tranh do Hồ phát động xâm lược miền Nam Việt Nam, đang ở thời kỳ ác liệt cả trên không, trên bộ và sông biển. Vậy mà gỗ là lấy từ rừng núi Tây nguyên chở ra Hà-nội. T́m gỗ và lấy gỗ cũng phải bao nhiêu mạng người. Rồi lại qua đường gọi là “đường ṃn Hồ chí Minh”, cứ mười phần th́ tới Hà-nội chưa được một. Số c̣n lại cùng những đơn vị chuyên chở, gỗ và máu xương quyện lại với nhau và măi măi nằm lại trên đường đi! C̣n đá xây lăng là do mẫu quốc Nga-xô ban cho, lấy từ vùng Caucase, chở bằng tàu biển đến phao “0” ở Hải-pḥng. Từ đó, công binh ngụy quân cộng sản phải chở ngầm bằng phao vào v́ cảng Hải-pḥng bị bỏ ḿn phong tỏa. Biết bao nhiêu con người Việt Nam nữa lại chết v́ chuyên chở đá.



    Xă hội Việt Nam trải qua bao triều đại, cũng có nhiều hôn quân, cũng có nhiều giai đoạn bị cai trị bởi tụi xâm lược phương Bắc (tức ba Tàu), và cho đến thực dân Pháp nữa, chưa bao giờ máu xương nhân dân Việt Nam lại bị sử dụng một cách tàn bạo và vô ích như thế. Các vua chúa ngày xưa cũng chẳng bao giờ khi c̣n sống bắt dân thờ sống trong từng nhà. Và, có xây lăng cũng chẳng bao giờ xây lúc đang có chiến tranh. Cũng chẳng bao giờ xây ch́nh ́nh giữa ḷng thủ đô như họ Hồ. Đă thế, sau khi lăng được hoàn thành, bọn đầu lănh mafia đỏ c̣n ra lệnh đưa chỉ tiêu cho các địa phương, cơ quan, trường học v.v… theo kế hoạch điều động dân luân phiên đưa nhau viếng lăng, đảm bảo lúc nào cũng đông người viếng đều đặn. Biết bao lăng phí về công lao động, xăng dầu, xe cộ để phục vụ cho sự điên loạn tàn bạo của họ Hồ và tập đoàn Việt gian mafia đỏ của hắn.



    Rồi bây giờ, họ Nông lên cầm quyền, hắn làm lễ dâng hương cho con yêu tinh râu xanh, cha đẻ của hắn là họ Hồ, cùng lúc dâng hương cho cả Trần Phú và Hà huy Tập, cố t́nh làm nḥa đi những báo cáo của Trần Phú và Hà huy Tập đă méc với quốc tế 3 các thứ tội của cha hắn. Đồng thời, Phan văn Khải ra nghị quyết về “lễ hội”. Có nghĩa là tập đoàn đầu nậu mafia đỏ chuẩn bị dựa vào “truyền thống dân tộc” để tiến dẫn những tên cộng sản Việt gian ác ôn, có nợ máu với nhân Việt Nam, vào chiếc ghế “thành hoàng” ở các làng xă!!!



    Ngày cái lăng họ Hồ “khai trương”, chỉ có “lănh đạo” các cơ quan, đoàn thể đi xem trước, có một số phóng viên các báo, đài cũng được đi. Ấy thế mà chẳng biết canh gác ra sao để đến nỗi một bài thơ châm biếm đă dán ở gốc cây, nội dung như sau:

    “Cũng lăng, cũng lính, cũng kèn đồng

    Xác ướp da xương, tim óc không

    Nằm quan tài kính cho người ngắm

    Xác nhắm mắt nghiền chẳng dám trông

    Sở thú kề gần dăm bảy bước

    Thú người, người thú nực cười không!!!”



    Ai làm thơ, ai dán, chắc cho đến nay bọn mafia đỏ vẫn chưa điều tra ra. Nhưng, rút kinh nghiệm “quả hớ” đó, kể từ ngày “khánh thành chính thức” cho đến về sau, nội quy bắt gửi lại đồ, người đi viếng phải tự kiểm soát nhau, không được tách ra đi một ḿnh và v.v… Đến lúc ấy th́ tự cái xác của Hồ, dù chỉ c̣n da; tim, gan, óc, phèo, phổi (không biết cái tạo ra Nông đức Mạnh c̣n không) đều bị moi ra hết, thế mà vẫn bị “thối”. Cái mũi chó săn của Hồ bị lỗ chỗ, phải đắp sáp. Và “nghe nói” cái xác của Hồ, thứ thiệt th́ ngâm thuốc dưới hầm, c̣n cái trưng ở trong quan tài là bằng sáp nặn mà thôi.



    Quả là họ Hồ, khi sống, lúc chết đều là giả dối hết!!!



    C̣n một câu hỏi nữa, đó là ngày chết của Hồ. Đầu tiên là 3-9-1969. Sau do “tiết lộ” của Vũ Kỳ rằng ngày đó là sai, do nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ tự ư thay đổi, chứ Hồ chết vào đúng 2-9-1969! Và, thế là tụi mafia đỏ Việt Nam cho đổi lại ngày chết của Hồ cho đúng với tiết lộ của me-xừ Vũ Kỳ, gia nô tin cẩn của Hồ!



    Chuyện vô lư đến thế mà cũng có nhiều người tin. Cả cái gọi là di chúc của Hồ với bút tích của hắn hẳn hoi mà bọn Duẩn, Chinh, Đồng, Thọ v.v… c̣n làm ngược lại như đừng “ma to cỗ lớn, lăng phí” th́ chúng c̣n “lăng phí không chỉ tiền của trong xây lăng, mà cả xương máu”. Mỗi đời “tổng bí thư” lại bổ sung thêm những “chi tiêu lăng phí” cho cái lăng đó. Như bây giờ là thành lập bộ tư lệnh bảo vệ lăng; tổ chức chào cờ trước lăng hằng ngày v.v… “Tha thuế” vẫn là chuyện “hứa lèo”. Nếu có thi hành chút chút th́ như bài tây ba lá, rút chỗ này, chập chỗ kia, nghĩa là tăng thêm các khoản đóng góp đủ loại nghĩa vụ! Đời Hồ đă bán đất, bán biển cho ba Tàu (các thư do Ung văn Khiêm, rồi đến Phạm văn Đồng gửi cho ba Tàu c̣n đó); đời con là Nông đức Mạnh lại c̣n tặng đất, tặng biển cho ba Tàu bạo hơn. Thế mà nay chỉ v́ tên gia nô mà răm rắp sửa sai cái việc chẳng có chút ǵ quan trọng. V́, đến ngày sinh của Hồ cũng toàn là “rổm” cả. Sao không sửa lại đi?



    Vậy tại sao lại sửa ngày chết của Hồ?

    Trước khi trả lời câu này, xin lưu ư bạn đọc rằng tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh ra lệnh “xóa bỏ mê tín dị đoan”, là xóa đối với nhân dân thôi, c̣n bọn chúng th́ làm ngược lại. Từ Hồ trở xuống, từ Tố Hữu trở lên, thằng nào cũng rất tin vào tướng số, địa lư, tử vi.

    Hoàng văn Hoan căm thù nhà văn Vũ Trọng Phụng đến mức dựa vào vụ “nhân văn – giai phẩm”, ra “khẩu lệnh” bắt hủy bỏ và cấm in, phổ biến mọi tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Có hai nguyên nhân để Vũ Trọng Phụng bị “căm thù”, mặc dầu ông đă chết từ 1940, mà theo lời nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, khi bịnh nằm ở khu an dưỡng đă “tâm sự” với người viết rằng:

    1- Thấy Vũ Trọng Phụng nổi tiếng nên Trường Chinh móc nối muốn đưa Vũ Trọng Phụng gia nhập “cộng sản”, nhưng Vũ Trọng Phụng từ chối, lại c̣n nói, đại ư: “Bọn các anh chỉ mượn danh cách mạng để làm tiền những người yêu nước, dùng vào những việc đen tối!”

    2- Trong tác phẩm “Giông tố”, lăo già “cách mạng” kiêm thầy địa lư mà Vũ Trọng Phụng mô tả chính là mượn h́nh ảnh ngoài đời của Hoàng văn Hoan vậy.



    Đỗ Mười từng bị điên phải sang Trung cộng chữa chạy, có thằng con trai cũng “điên điên, khùng khùng”. Một giáo sư sử học cũng có tiếng tăm, chuyên nghiên cứu tử vi, có dịp xem tử vi cho Đỗ Mười từ khi Mười c̣n là phó thủ tướng ngụy quyền Hà-nội, đă phán rằng Đỗ Mười sẽ phát đến bậc đầu lănh số một của tập đoàn mafia đỏ. Và, khi mới ở ngôi vị thứ 2, sau Nguyễn văn Linh, th́ Đỗ Mười đă “mời” viên giáo sư sử học đó làm cố vấn ch́m. Qua Đỗ Mười, viên giáo sư sử học có điều kiện “cố vấn tử vi” cho hầu hết tụi đầu nậu mafia đỏ, kể cả gia đ́nh nhà anh em Lê đức Thọ. C̣n Trường Chinh th́ “cả họ” nhà hắn, cả gái cả trai đều say mê tử vi.



    Chính nhân vật “cố vấn tử vi” đó đă tŕnh bày rằng ngày giờ Hồ chết không ổn, hăy bỏ ngày thật 3-9 đi mà đổi thành ngày 2-9-1969 th́ hay hơn. Và, nếu không tin ở ngày giờ xấu, tốt th́ cũng nên thấy cái việc không hay là ngày hôm trước th́ kỷ niệm “dựng nước” (tức quốc khánh), ngày hôm sau đă “đại tang”! Chi bằng cho chung vào một ngày vừa kỷ niệm “dựng nước” vừa “nhớ” người “có công dựng nước”. Cả bọn đầu lănh mafia đỏ đă ủng hộ ư kiến đó, nên mới có cái vụ “tiết lộ” của me-xừ Vũ Kỳ.



    Câu chuyện trên do chính giáo sư Từ Chi kể lại, tên của viên “cố vấn tử vi” sẽ được nêu ra vào lúc thích hợp.



    Nhiều người đă được giáo sư Từ Chi kể chuyện này. Nhưng có điều kỳ lạ là có người biết như vậy nhưng vẫn a dua và cổ vơ mọi người, cùng a dua tấn công nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ, cố t́nh bỏ qua những phi lư rành rành “như canh nấu hẹ”.



    ở đây không phải là sự vô t́nh, mà “người ta cố ư hư cấu” các sự việc, diễn dịch các sự kiện thật, giả lẫn lộn. V́ sao vậy?

    V́ tất cả đều biết rằng Hồ và cái thây ma của hắn là chỗ sinh tử của tổ chức Việt gian mafia đỏ. Nếu đánh vào đó, nghĩa là tập trung công sức vạch bộ mặt thật của họ Hồ ra th́ tổ chức Việt gian mafia đỏ sẽ tan vỡ ra từng mảnh.



    Chính v́ thế, những kẻ có liên quan đến họ Hồ có thể hạ bệ nhau bằng mọi thủ đoạn, nhưng lại nhất trí với nhau bảo vệ và đề cao họ Hồ, như kiểu giữ cái nhăn đă được quốc tế và trong nước cầu chứng. Bọn họ ít nhiều đều đă có cổ phần trong cái công ty Hồ chí Minh, cũng v́ quyền lợi cá nhân (hoặc nhóm) nên giả mù không dám phanh phui chuyện kinh doanh đĩ điếm, bài bạc, ma túy của cái công ty đó. Họ không ngu nhưng họ không trung thực và không là kẻ sỹ như nhiều người lầm tưởng.



    Cho nên nếu chúng ta không tỉnh táo, vừa cổ vơ họ vừa nuốt những lập luận đề cao họ Hồ của họ, có nghĩa là chúng ta chỉ chống vài tên “đang cầm quyền”, chứ không phải là chống toàn bộ tổ chức Việt gian và hệ lụy của nó.



    Chẳng cần ai chống th́ Trường Chinh cũng thay Lê Duẩn, rồi Nguyễn văn Linh lại thay Trường Chinh; Đỗ Mười thay Nguyễn văn Linh; Lê khả Phiêu thay Đỗ Mười và mới đây Nông đức Mạnh lại thay Lê khả Phiêu.



    Cứ xét những bài viết mạnh bạo của cây bút “chống đối” xuất sắc là ông Trần Khuê th́ thấy y như cái “đèn kéo quân”. Vừa mới đề cao Đỗ Mười th́ đă quay ra khen Lê khả Phiêu, và rồi lại tin ở sự “ôn ḥa” của Nông đức Mạnh. Sau Nông đức Mạnh sẽ đến ai đây? V́ cả ba thằng Mười, Phiêu, Mạnh đều vừa cấu kết bán đất, bán biển cho ba Tàu cộng! Bọn chúng có bán đất, bán biển th́ cũng chỉ là đi theo cái việc họ Hồ đă làm từ thập niên 50 mà thôi!



    Cho nên đấu tranh cho dân chủ là phải đấu tranh chống từ nguồn gốc sinh ra độc tài mất dân chủ.



    Cái nguồn gốc đó là chính cá nhân họ Hồ; là sự lựa chọn đường lối chính trị của họ Hồ; là tổ chức Việt gian mafia đỏ của Hồ, mang cái tên “đảng cộng sản Việt Nam” và cái ngụy quyền “cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam”.



    Bỏ quên Hồ (chứ chưa nói đến đề cao Hồ) mà chỉ tấn công Lê Duẩn hoặc Mười, Phiêu, Mạnh th́ chẳng khác ǵ giặc Minh xưa kia giết Lê Lai để thoát Lê Lợi vậy.



    Lê Duẩn, Lê đức Thọ chỉ là những mục tiêu giả hoặc thứ yếu. Nếu thần tượng Hồ chí Minh của tập đoàn mafia đỏ đổ th́ sẽ lôi theo không chỉ Duẩn, Thọ v.v… mà sẽ làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tổ chức – cả vật chất cả tinh thần – của tập đoàn Việt gian mafia đỏ, ngụy quyền Hà-nội hiện nay.



    Chỉ có như vậy mới thực hiện được sự đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân Việt Nam, cả trong và ngoài nước, để xây dựng dân chủ và bảo vệ nhân quyền nhằm xây dựng một xă hội tự do, hạnh phúc, phồn vinh, trên cơ sở đó ǵn giữ và thu hồi đất đai, sông biển của Việt Nam mà tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh đă dâng cho thế lực bành trướng bá quyền nước lớn, là Trung cộng.

    Nhân dân Việt Nam nói chung, nông dân Việt Nam nói riêng phải thấy được rằng Hồ chí Minh là tội phạm đầu sỏ, tội phạm chính yếu, đă lèo lái cái tổ chức “cộng sản Việt gian” của hắn để đầy ải người dân Việt Nam trong thân nô lệ, trong kiếp nghèo đói và cũng Hồ là kẻ duy nhất trong lịch sử Việt Nam đă mang đất đai, sông biển của Việt Nam dâng cho ba Tàu. Tất cả nhân sự trong tổ chức “cộng sản Việt gian” đều do Hồ đích thân lựa chọn, đề bạt, giao trách nhiệm thi hành các chính sách phản dân, hại nước của hắn.



    Thí dụ: Năm 1958, Phạm văn Đồng nhân danh thủ tướng ngụy quyền Hồ chí Minh gửi cho Chu ân Lai (thủ tướng Trung cộng) ủng hộ và công nhận việc Trung cộng chiếm các quần đảo Hoàng-sa và Trường-sa, là thừa lệnh ai?



    (Xin mời đọc tiếp bài 16)

  7. #17
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 16

    Nên nhớ rằng cái năm 1958 đó, Hồ là chủ tịch đảng mafia đỏ, kiêm chủ tịch nước, kiêm chủ tịch hội đồng quốc pḥng. C̣n Lê Duẩn mới chỉ là bí thư thứ nhất do Hồ tạm chỉ định để giúp việc cho Hồ. Phải đến tận năm 1960, tại đại hội 3 mafia đỏ, Lê Duẩn mới được thực thụ là bí thư thứ nhất, chứ không phải như hầu hết những người “ly khai” hay “chống đối” nâng Lê Duẩn lên là “tổng bí thư”, để có thể thuyết phục người đọc về vị trí quan trọng uy thế của Duẩn cho phù hợp với cốt truyện “hư cấu” rằng Lê Duẩn khống chế Hồ.



    Cũng năm 1958 đó, me-xừ Lê đức Thọ vẫn chỉ là ủy viên trung ương mafia đỏ mà thôi. Phải đến đại hội 3 mafia đỏ (1960), Thọ mới được vào chính trị bộ. Có thể tra cứu lại báo Nhân dân những năm đó để biết danh xưng của Duẩn, Thọ cũng như của Hồ và Đồng xem “hư thực ra sao”!



    Với cương vị như thế (vừa là ủy viên chính trị bộ kiêm thủ tướng ngụy quyền) thử hỏi Phạm văn Đồng tuân lệnh Hồ hay tuân lệnh Duẩn và Thọ?(!!!)



    Việc đề cao Hồ và bịa chuyện Hồ bị cho ra ŕa có mục đích đen tối rơ ràng nhằm bao che:

    1- Hồ vô tội trong cuộc vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam (căn cứ nghị quyết 15 (khóa 2 mafia đỏ) tháng 1-1959).

    2- Hồ vô tội trong việc dâng Hoàng-sa và Trường-sa cho Trung cộng (sự việc xảy ra vào năm 1958).



    Hơn nửa thế kỷ qua, đa số nhân dân Việt Nam nói chung, nông dân Việt Nam nói riêng, bị “liên quan” với cái tổ chức “cộng sản Việt gian” của Hồ không kiểu này th́ kiểu nọ; không ít th́ nhiều (nhất là phía Bắc Việt Nam), dây mơ rễ muống, nên y hệt như cảnh cái u ở người “để th́ buồn cắt th́ đau”. Chính v́ biết chỗ yếu – cái gót chân Achille – đó của người dân, nên tụi đầu nậu mafria đỏ cố t́nh khai thác tận cùng sự mơ hồ của người dân về con người thật của Hồ và hắn mới là tội phạm chủ chốt, để đặt ra những “huyền thoại về Hồ” nhằm níu kéo người dân không đủ sáng suốt và b́nh tĩnh đoạn tuyệt với quá khứ, cắt bỏ mọi liên quan với Hồ và tổ chức cộng sản Việt gian của hắn.



    Cho nên cần khẳng định rằng bất kỳ ng̣i bút nào dựng ra huyền thoại về Hồ đều có tội đồng lơa, bao che cho tập đoàn cộng sản Việt Nam mà tên đầu sỏ là Hồ chí Minh.

    Thử giả dụ như tin thời sự hiện nay, nếu có những ng̣i bút nào đó phê phán không khoan nhượng những tên khủng bố Al-Qaida ở New York vừa qua, mà lại dựng ra “huyền thoại về Bin-Laden” rằng hắn “bị cho ra ŕa”, hắn không biết ǵ cả th́ chúng ta sẽ nghĩ sao về những ng̣i bút đó?



    Căn cốt Việt gian bán nước của Hồ có hệ thống từ trẻ đến chết. Cụ thể, tóm tắt như sau:

    - Trước khi Hồ xuất ngoại, thế hệ của Hồ có biết bao thanh niên dấn thân cho việc nước. Nhưng Hồ tuyệt nhiên không tham gia một phong trào nào. Hắn chỉ ngoan ngoăn theo cha vào Huế, học ở Quốc-học Huế cho đến khi cha hắn bị cách quan v́ giết dân lành vô tội th́ hắn bị đuổi học. Thế là hắn vừa lần hồi kiếm sống vừa t́m đường vào Nam hy vọng qua Pháp học ở trường thuộc địa;



    - Chân ướt chân ráo tới Pháp là Hồ vội làm đơn xin học ở trường thuộc địa để phục vụ “mẫu quốc Pháp”;



    - Khi thấy quốc tế 3 chủ trương giúp các nước thuộc địa, thế là hắn theo luôn, bỏ ngoài tai những lời khuyên của các bậc tiền bối đă cưu mang, dạy bảo, nâng đỡ hắn là các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền;



    - Được Nga-xô thu nhận, đưa về Đông-nam-á hoạt động, Hồ liền bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp, lấy tiền xài sang và để tổ chức “hội Việt gian” phục vụ cho mẫu quốc đỏ Nga-xô;



    - Hồ bán đứng cuộc khởi nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học cho mật thám Pháp;

    - Hồ bán các thanh niên yêu nước t́m đường ra nước ngoài lập tổ chức để chống Pháp, kể cả bán gia đ́nh, thân nhân và bạn bè của họ. (Báo cáo của Hà huy Tập gửi quốc tế 3, ngày 20-4-1935);



    - Khi tiếm được quyền lănh đạo của cái gọi là “đảng cộng sản Đông-dương”, Hồ đă thanh lọc, giết những người gia nhập “cộng sản” xuất phát từ ḷng yêu nước nhưng c̣n nhận xét ấu trĩ về sự lựa chọn đường lối chính trị, để biến cái tổ chức “cộng sản” đó hoàn toàn thành một tổ chức Việt gian, công cụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ;

    - Hồ đă đề ra đường lối và tổ chức thực hiện những âm mưu đảo chính Chính phủ Liên hiệp, vô hiệu tiến tới thủ tiêu Quốc hội khoá 1 và xé bỏ hiến pháp 1946;



    - Hồ đă hoạch định đường lối, bố trí nhân sự để thực thi cái gọi là: “Trí, phú, địa, hào. Đào tận gốc, trốc tận rễ”.



    Nhằm tiêu diệt những cá nhân, những tổ chức yêu nước của nhân dân Việt Nam. Lũng đoạn và làm thoái hóa các hội đoàn tôn giáo. Giết hàng chục ngàn các chức sắc và các tín đồ tôn giáo. Cướp bóc tài sản không chỉ của dân mà của cả các hội đoàn tôn giáo. Phá bỏ truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, phá bỏ bản sắc Việt Nam, giết các sắc dân thiểu số. Tất cả nhằm bần cùng hóa toàn dân, biến toàn dân thành nô lệ kiểu mới, chà đạp nhân quyền, nhục mạ nhân phẩm của người dân. Hỗn láo và coi thường các anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa Việt Nam. Bán rẻ xương máu, tài nguyên, đất đai, sông biển của Việt Nam cho ngoại bang nhằm xây dựng chủ nghĩa thực dân đỏ ở Việt Nam (núp dưới mỹ tự CNXH), thực hiện chiến lược bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô;



    - Giáo dục và đào tạo những thế hệ Việt Nam chỉ biết phá hoại, hận thù, đố kỵ, sống bất nhân, bất nghĩa, bỉ ổi không bằng dă thú;

    - Hồ là nguyên nhân gây ra cuộc tỵ nạn khổng lồ năm 1954; hơn một triệu người miền Bắc Việt Nam trong tổng số 16 triệu đă ồ ạt bỏ mồ mả tổ tiên từ bao đời, nhà cửa, ruộng vườn v.v… để chạy vào Nam. Nếu không có các khó khăn do vận chuyển, do khủng bố của Hồ th́ số chạy nạn sẽ c̣n nhiều gấp bội;



    - Cũng do Hồ phát động vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, khiến cho cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam hao phí tài nguyên, nhân lực, máu xương; đất nước và nhân dân Việt Nam là nơi thí nghiệm vũ khí, là nơi các siêu cường Nga, Mỹ, Tàu mà cả mua bán trên máu xương, đau khổ, tang tóc của Việt Nam; ba thế hệ Việt Nam không biết đến hạnh phúc; lăng phí thời gian dùng vào chiến tranh phá hoại. Tất cả chỉ v́ Hồ trung thành thực thi chiến lược toàn cầu của mẫu quốc đỏ;



    - Cũng v́ Hồ mưu đồ vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, thực thi lịch tŕnh bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ nên đă phải dâng đất dâng biển cho Trung cộng, khơi dậy ḷng tham bá quyền bành trướng có từ ngàn năm của giặc phương Bắc, nay là Trung cộng. Đó là mẫu mực cho bè lũ Lê đức Anh, Đỗ Mười, Vơ văn Kiệt, Trần đức Lương, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh, Phan văn Khải, Nguyễn văn An và tập đoàn Việt gian cộng sản, ngụy quyền Hà-nội hiện nay noi theo;



    - Cũng từ Hồ mà sự kỳ thị Bắc-Nam xuất hiện và phát triển không ngừng, gây hậu quả tiêu cực trên mọi b́nh diện văn hóa, kinh tế, xă hội của Việt Nam. Và, cũng lần đầu tiên lịch sử Việt Nam phải chứng kiến cảnh liều mạng ra đi của nhiều triệu người Việt Nam để tỵ nạn cộng sản mà chí ít cũng gần nửa triệu người phải bỏ ḿnh dưới biển Đông. Và, Việt Nam cho đến năm 2002 này vẫn áp chót trên thế giới, điển h́nh về nghèo đói, tội phạm, đĩ điếm, không tự do, không hạnh phúc và nhân phẩm bị chà đạp bởi một thể chế chính trị độc tài, công an trị mà lịch sử Việt Nam chưa bao giờ xuất hiện và tồn tại cho đến khi có Hồ và cái tập đoàn Việt gian cộng sản của hắn;



    - Cũng từ Hồ là kẻ hủy bộ tư pháp, bỏ khoa luật; cai trị bằng sắc lệnh, bằng lệnh miệng; bằng đàn áp khủng bố, phân chia đẳng cấp v.v… cho nên đă đẻ ra, phát triển thành bản chất chế độ là nạn cửa quyền, tham nhũng, ô dù, vô liêm sỉ, vụ lợi vị kỷ, lăng phí cả tài nguyên, con người, trí tuệ và v.v…



    Chính lúc Hồ cầm quyền, chưa ai được biết chi, thu như thế nào. Tiền của nhân dân đă chi cho “đảng Việt gian” của Hồ như thế nào. Nghĩa là người dân đúng là “nô lệ”, chỉ biết lao động sản xuất hay chém giết theo sự điều động của Hồ và tập đoàn Việt gian cộng sản của hắn. Mọi sự chi, thu v.v…, nghĩa là việc chung của đất nước hoàn toàn không được biết và cũng không cho phép được biết!!!



    Nhân sự được Hồ lựa chọn, sử dụng đều là lũ lưu manh, khát máu, đầu hàng, trộm cướp, đĩ điếm với một quá khứ không rơ ràng. Trọn vẹn bọn chúng là lủ lừa thầy phản bạn, bội tín, bất nhân bất nghĩa, vô luân như tạm điểm mặt một số bọn chúng đă nêu ở những phần trên.



    Cho nên, sau ngày Hồ chết, người Hà-nội của đầu thập niên 70, được nghe một bài “thơ ghế đá” có tựa đề:



    Đảng lợn dê



    Lê Duẩn ba vợ, ba nhà

    Mỗi người riêng ở một ṭa khang trang

    Vợ cả già xấu, tính ngang

    Vợ ba trẻ đẹp, hai đàng ghen nhau

    Vợ cả dứt tóc, đập đầu

    Vợ ba gào khóc, hạt châu tràn trề

    Người này gớm, kẻ kia ghê

    Làm cho Lê Duẩn năo nề xót xa

    Nghĩ ḿnh phương diện quốc gia

    Chuyện này không khéo lọt ra bên ngoài

    C̣n ǵ uy tín của ngài

    Trước dân khoe mẽ đức tài vẹn đôi

    Luật hôn nhân để đâu rồi

    Chồng một vợ một cho người thôi ư

    Xét trong đảng của họ Trư

    Trai th́ thừa vợ, gái dư nhân t́nh,

    Thọ, Đồng hai vợ đ́nh huỳnh

    Giáp, Dũng nhân t́nh nhân ngăi lăng nhăng

    Xuân Thủy hết B́nh lại Hằng

    Trần Độ Thị Định nhập nhằng với nhau

    Vợ Liêm rước Côn cổng sau

    Bách lấy vợ trẻ bỏ mau vợ già

    Trân chơi Gia Tường cả nhà

    Lần con lần mẹ chẳng tha người nào

    Danh Tuyên dê cụ làm sao

    Gọi nhân viên vào hiếp giữa buya-rô

    Đến như “đạo đức” họ Hồ

    Thế mà hắn cũng dăm cô nhân t́nh

    Cẩn, Thập, Mỹ nên hiển vinh

    Cũng v́ được hắn làm t́nh nhiều phen

    Dê theo đường cũ đă quen

    Từ trên xuống dưới lèm nhèm như nhau

    Nói th́ đạo đức cao sâu

    Làm th́ ra lũ đầu trâu mặt người

    Nói th́ cách mạng đổi đời

    Làm th́ đói khổ gấp mười thực dân!

    Chết c̣n ướp xác, xây lăng

    Lễ nghi bày đặt trăm phần xa hoa

    Các vua phong kiến thua xa

    Đổi đời “cách mạng” hóa là chủ nô

    Ḷi đuôi đầy tớ Nga-xô

    Buôn xương, bán máu giặc Hồ gian manh

    Tượng, bia rồi cũng tan tành

    Miệng dân mới thực sử xanh ngàn đời

    Lăng xây, xác ướp lỗi thời

    Ngàn năm c̣n để cho đời cười chê

    Đúng là đảng lũ lợn dê!!!



    Tập đoàn Việt gian cộng sản và ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội hiện nay đang bị tấn công tới tấp cả ở trong và ngoài nước. Cộng đồng người Việt ở hải ngoại, cho dù bị “phê b́nh” là chia rẽ, nhưng vẫn là lực lượng trụ cột làm lay động chế độ mafia đỏ hiện nay ở Việt Nam.



    Chính là nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà những nhân vật như Nguyễn chí Thiện, bác sỹ Nguyễn đan Quế, Đoàn viết Hoạt, Dương thu Hương, Bùi minh Quốc, Bảo Ninh, Vũ thư Hiên, Bùi ngọc Tấn, Nguyễn hguy Thiệp, Ḥa thượng Thích quảng Độ, Cụ Lê quang Liêm, Cha Nguyễn văn Lư, cựu tướng cộng sản Trần Độ, đại tá cộng sản Phạm quế Dương, phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ tức Hà sỹ Phu, tiến sỹ Nguyễn thanh Giang, đồng bào ở Tây Nguyên, nông dân đấu tranh ở Đồng-nai, Thái-b́nh, Đông-anh (Hà-nội) và v.v... mới được quốc tế biết đến”. Sự phẫn nộ của cộng đồng người Việt ở hải ngoại (nhất là ở Mỹ) đă khiến tập đoàn khát máu ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội phải “uyển chuyển” không dám hiện nguyên h́nh sói lang. Nếu không, những nhân vật nêu trên đă bị “nấu lẩu”.



    Đă có cuộc sống tự do, ổn định, nhưng cộng đồng người Việt vẫn bỏ “tiền túi”, bỏ công sức đấu tranh chống tập đoàn Việt gian cộng sản tiếm quyền hiện nay ở Việt Nam th́ phải khẳng định đây là một cộng đồng yêu nước nồng nàn không v́ thời gian mà phai nhạt, không v́ no đủ mà ngại khó ngại khổ bỏ quên đồng bào bên quốc nội.



    Bản thân tụi đầu nậu mafia đỏ Hà-nội cũng biết cộng đồng người Việt ở hải ngoại là chỗ dựa tin cậy của các cá nhân và tổ chức trong nước đă và đang đấu tranh đ̣i mọi quyền tự do, quyền làm người, cho nên chúng đẻ ra mọi tổ chức, mọi chính sách, âm mưu gây chia rẽ trong cộng đồng, gây tranh luận những chuyện trời ơi đất hỡi đánh lạc hướng đấu tranh hiện nay của cộng đồng người Việt. Chúng dùng “tiền, quyền, hư danh” mua chuộc những cây bút cơ hội, những văn nghệ sỹ “óc đất gan muỗi” để thăm ḍ, để thử, để làm lẫn lộn thực giả. Khi th́ “trộn” lẫn nhạc sỹ người Việt tự do với tụi trí nô cung đ́nh mafia đỏ; khi th́ cho ra những băng video ca nhạc nửa úp nửa mở với nội dung cứ như bồi bút mafia đỏ biên soạn; khi th́ thương khóc, kỷ niệm thổi ống đu đủ, nâng những tên mafia đỏ nằm vùng như Trịnh công Sơn thành “thiên tài”; rồi tranh luận nào là “quên quá khứ hướng về tương lai; rồi lần lượt “vinh danh” tất cả trí nô, bồi bút của mafia đoû, không phân tích, mơ mơ hồ hồ đánh đồng loạt. Vụ “Trần Trường” chúng đưa ra để thăm ḍ phản ứng đă bị nếm mùi thất bại, nên tập đoàn Việt gian mafia đỏ ma giáo hơn, chúng cho một lũ giả tỉnh giả mê, làm như Khuất Nguyên hay Lư Bạch bên Tàu để làm loăng tinh thần, nội dung đấu tranh của cộng đồng người Việt ở hải ngoại.



    Những nhà lănh đạo của cộng đồng người Việt đă bền bỉ kiên tŕ gần 30 năm đấu tranh; sức mạnh của khối “thầm lặng” đă bộc lộ rơ ràng trong vụ “Trần Trường” đă đem lại an toàn và sự thoát ra ẩn số cho hầu hết những người đấu tranh với mafia đỏ. Nhưng cũng cần dựa vào thực tế đă diễn ra để thấy không phải bất cứ ai bị mafia đỏ trù ép, tù đày đều đáng được ủng hộ mà không phân biệt. Có kẻ “bán của giả” cũng được đón nhận, đề cao để được uy tín “tầm cỡ quốc tế”. Có kẻ dựng ra chuyện bom Mỹ ném làm chết ba trăm ngàn người dân ở Bến-tre!(?) Nghĩa là gấp trăm lần mafia đỏ Hồ chí Minh giết dân Huế năm 1968!!! ở bên Anh lại có chuyện kỷ niệm ngày các Thánh tử v́ đạo th́ chọn ngày 2-9 và trên tờ Mục Vụ, hai dấu “nặng” được thay bằng hai “ngôi sao năm cánh”??? Có kẻ được thoát tù, được tặng khen của quốc tế, quay lại “từ chối lá cờ vàng ba sọc đỏ”. Thậm chí có kẻ tu hành, tay cầm hộ chiếu “cờ đỏ sao vàng” mà sang tới Mỹ, đến với cộng đồng người Việt nhưng không chịu nhận lá cờ Vàng ba sọc đỏ của quốc gia Việt Nam. Tôn giáo nào bắt buộc được đứng dưới lá cờ này mà không được đứng dưới lá cờ kia? Loại “sư săi mộc tồn” như vậy th́ có họa là “tu hú” tiền dành cho loại “sư săi mộc tồn” đó, dùng giúp các thương phế binh của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa c̣n kẹt lại ở Việt Nam hoặc đồng bào ở An-truyền hay Nguyệt-biểu c̣n hơn rất nhiều, và có ư nghĩa quan trọng và thiết thực trong lúc này.



    Gần 30 năm đă qua đi, cộng đồng người Việt ở hải ngoại rơ ràng đă thể hiện tấm ḷng sắt son, bền bỉ v́ dân v́ nước. Hoàn toàn là “cơm nhà việc nước” nhưng đă chứng tỏ sức mạnh có khả năng trấn áp sự man rợ của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh, ngụy quyền cộng sản Hà-nội hiện nay.



    Sức mạnh của cộng đồng sẽ được giải phóng hoàn toàn nếu bọn nằm vùng bị vạch mặt chỉ tên, bị tẩy chay (như trong vụ Trẩn Trường); bọn cơ hội đi hai hàng bị lật tẩy. Chỉ có “diệt xong phá hoại nội bộ” th́ mới có thể kiến tạo được sự đoàn kết trong cộng đồng, sức mạnh cứu nước sẽ được nhân lên gấp ngàn vạn lần, đóng vai tṛ quan trọng cùng nhân dân cả nước giành lại quyền làm chủ đất nước Việt Nam, giành lại trọn vẹn đất đai, sông biển của Việt Nam.



    Xét về mặt nào cũng vậy, tụi thương khóc tên nằm vùng Trịnh công Sơn, tổ chức vinh danh hắn, c̣n tệ hại hơn vụ “Trần Trường” và thách đố cũng hỗn xược hơn Trần Trường đối với cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Những cá nhân, tổ chức trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại có kiến thức về luật pháp cũng nên xét xem những kẻ làm đơn xin tỵ nạn cộng sản nay lại vinh danh gia nô của cộng sản công khai như vậy th́ là tỵ nạn thiệt hay thâm nhập nằm vùng, có thể đề nghị truy tố về tội khai man để được cư trú hợp pháp rồi hoạt động từng mức độ cho cộng sản hay không. Làm được việc này mặc nhiên sẽ loại được bọn nằm vùng làm trong sạch hàng ngũ người Việt ờ hải ngoại để trở thành chỗ dựa vững chắc, tiếng nói chính nghĩa của mọi h́nh thái đấu tranh tại quốc nội, chống tập đoàn mafia đỏ tiếm quyền ở Việt Nam hiện nay.



    Tội ác diệt chủng, bán nước của tập đoàn Việt gian cộng sản từ họ Hồ đến nay là Nông đức Mạnh đă rành rành. Cho nên không thể ỷ y vào “tự do” ở thế giới phương Tây để ca ngợi, vinh danh, hà hơi tiếp sức dù bằng kinh tế, hay kỹ thuật, hay văn hóa cho tụi Việt gian. Tất cả mọi sự hà hơi, tiếp sức cho Việt gian chỉ có thể kết luận đó là Việt gian hoặc hành động Việt gian!!!



    Toàn bộ nhân sự, kiểu tổ chức, đường lối chính sách của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh cho đến nay có bề dài thời gian hơn nửa thế kỷ, đủ để soi rọi rơ ràng cũng như chúng đă bộc lộ rành rành là một lũ băng đảng mafia, Việt gian; là nguồn gốc của tham nhũng, đĩ điếm, phá hoại, vô luân v.v… Và đặc biệt là trong lịch sử Việt Nam, tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh là tập đoàn duy nhất có chính sách nhất quán bán tài nguyên, con người và đất đai, sông biển của Việt Nam cho ngoại bang!!!



    Tất cả mọi đường lối chính sách từ khi Hồ c̣n cầm quyền cho đến khi hắn chết được bè lũ do Hồ đào tạo để thay thế hắn từ Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và nay là Nông đức Mạnh đều thực hiện khẩu hiệu:



    “Đối nội đàn áp thẳng tay

    Đối ngoại đầu hàng, kết thân”



    Và, đứa nào “nối nghiệp” cũng đều củng cố và nắm vững “cơ quan chuyên chính” là binh lính và công an cùng với độc quyền nắm chặt túi tiền.



    Tùy theo t́nh h́nh quốc tế và mức độ giác ngộ của dân chúng, việc thực hiện các chính sách phản dân hại nước của chúng có màu mè, uyển chuyển xoay quanh cái trục là hai khẩu hiệu hành động nói trên.



    Những cây bút “chống đối” ở trong nước thường phê phán việc đệ tử của Hồ đă thay đổi hiến pháp và sao chép điều 4 theo nội dung của hiến pháp Nga-xô (việc độc quyền của mafia đỏ) là làm sai đường lối của Hồ. Họ cố t́nh nhắm mắt giả làm “thầy bói sờ voi” để hô hoán rằng cái tai con chó Lê Duẩn, cái đầu con chó Trường Chinh, cái “giống” con chó Đỗ Mười, cái chân con chó Lê khả Phiêu, cái đuôi con chó Nông đức Mạnh không giống con chó sói Hồ chí Minh! Họ cố t́nh bỏ qua việc Hồ là kẻ mở màn việc hủy hiến pháp 1946 đẻ ra hiến pháp 1959 mà không “trưng cầu dân ư”. Họ cố t́nh không dám nghiên cứu xem âm mưu “cải cách ruộng đất” rồi “sửa sai cải cách ruộng đất”, “rèn cán chỉnh quân”, “cách mạng văn hóa tư tưởng”, “chỉnh đốn tổ chức”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, “ôn nghèo nhớ khổ”, “xây dựng con người mới XHCN”, “đào tạo cháu ngoan bác Hồ “ v.v… nhằm mục đích ǵ?(!) Họ cố t́nh quên việc Hồ trực tiếp ra lệnh cấm các đảng Dân chủ và Xă hội không được kết nạp đảng viên mới, không được phép xin ra đảng trừ khi bị chết (để tiện quản lư) và trong mỗi đảng có một “chi bộ cộng sản” trực tiếp lănh đạo, giúp việc cho một “phái viên cộng sản” chịu trách nhiệm chung (cụ thể là các tên Phạm Hồng, Nguyễn việt Nam, Phạm tuấn Khánh – Cứ trực tiếp gặp các ông Hoàng minh Chính và Phạm tuấn Khánh hỏi xem để biết “hư thực ra sao”). Họ cố t́nh không nói đến việc Hồ “ị” ra cái gọi là “mặt trận tổ cuốc” để gom toàn dân theo nghề nghiệp, giới tính vào cái lồng gọi là “tổ chức riêng biệt của từng giới”; rồi tất cả những cái lồng đó lại được xếp trong cái sân nuôi “gà vịt” có lưới thép bao quanh, mang tên “mặt trận tổ cuốc”! Lư lịch của “bầy gà vịt” trong “mặt trận tổ quốc” do cục 78 bộ công an ngụy quyền Hồ chí Minh quản lư hộ. Và, khi nào, con gà nào được đưa đi hội chợ, con nào được cho ra “chọi thi”, con nào sẽ “luộc”, sẽ “quay”, sẽ “tấn”, sẽ “bóp gỏi” đều có sự bàn bạc của tên “quản lư trại gà”, và với cục 78 bộ công an ngụy quyền. (Thời điểm hiện nay, tức dưới thời họ Nông, v́ tầm quan trọng nên do hai tên ác ôn là Phạm thế Duyệt và Lê minh Hương chỉ đạo việc lực chọn).



    Hiến pháp 1959 của Hồ không có khoản nào như điều 4 của hiến pháp 1992 của đệ tử của Hồ là v́ từ lúc bè lũ Hồ nhếch nhác vào Hà-nội 1954, tạm quản lư từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc th́ bằng những chính sách nói trên, Hồ đă giết, đă bỏ tù toàn bộ các nhân sỹ yêu nước, các đoàn thể không cộng sản, các hội đoàn tôn giáo, các chức sắc tôn giáo v.v… cho đến cả những người v́ nước bị đánh lừa vào tổ chức cộng sản. Nghĩa là toàn bộ những cá nhân, những tổ chức mà Hồ cho là vật chướng ngại, là không thích hợp cho việc thực thi chủ nghĩa thực dân đỏ. Hồ lại c̣n vô sản hóa toàn dân, biến tất cả thành nô lệ nên cần ǵ phải có cái kiểu như điều 4 hiến pháp 1992. Làm ǵ c̣n tổ chức nào, làm ǵ c̣n ai dám ra tranh quyền với Hồ và tập đoàn Việt gian cộng sản của hắn.



    Trong thực tế, dưới tay Hồ cầm quyền, từ ngụy quyền Hà-nội với tất cả các ngành các bộ; từ các đại biểu “cuốc” hội; từ các thế lực chỉ đạo mặt trận tổ “cuốc”; từ đầu nậu các cái gọi là đoàn thể quần chúng; từ sinh viên, học sinh, xă viên hợp tác xă, công nhân, nông dân; từ sỹ quan ngụy, sỹ quan công an, thuế vụ v.v… chẳng có chỗ nào có “đối lập”, chẳng có “chỗ nào dám đối lập” v́ tất cả đă được làm mồi cho giun hoặc đi “học tập” với “ngục sỹ Nguyễn chí Thiện”. Rồi bộ tư pháp bị hủy bỏ, không có khoa luật ở các trường; Hồ cai trị bằng sắc lệnh và lệnh miệng. Nghĩa là cái gọi là điều 4 được thực thi trọn vẹn và triệt để đến mức chẳng cần ghi vào hiến pháp vừa ḷng tḥng vừa lộ mặt chó sói của Hồ



    Xin lưu ư bạn đọc và các cây bút “chống đối” ở trong nước mà “đề cao Hồ”, rằng: Hồ là loại “siêu”, hắn không thèm ghi vào hiến pháp mà hắn cứ việc làm c̣n quá đáng hơn các đệ tử của hắn ghi vào hiến pháp “mới”! Dám làm!!!



    Các vị đều nếm mùi họ Hồ rồi, sao cố t́nh quên làm “chi dzậy”. Mong các vị, toàn là những học giả đầy lư luận, có dũng cảm “chống đối” tập đoàn cộng sản Việt Nam hiện nay hăy dũng cảm nh́n vào quá khứ thời họ Hồ để thấy một sự thật rơ ràng bằng cả số liệu, bằng cả h́nh ảnh rằng:

    Họ Hồ là cái gốc của mọi tội ác giáng lên đầu nhân dân đất nước Việt Nam, c̣n lũ kế nghiệp Hồ từ Lê Duẩn trở đi chỉ là các cành lá có kích thước, thậm chí mọc theo phương hướng khác nhau nhưng vẫn là cùng chung một gốc. Chỉ có chặt cái gốc mới tiêu diệt được mọi tội ác mà nhân dân và đất nước Việt Nam đă và đang phải gánh chịu!!!



    Một câu hỏi được đặt ra là tại sao lũ đệ tử của họ Hồ phải trắng trợn nặn ra cái gọi là “điều 4 hiến pháp ngụy quyền cộng sản 1992” và khai tử luôn hai cái đảng bại liệt Dân chủ và Xă hội?



    Câu trả lời thật ra rất đơn giản và rơ ràng. Chỉ có điều v́ thiếu “tư duy khoa học”, thiếu dũng cảm và trung thực nên người ta cố t́nh “nhắm mắt” giả ngủ mê, ú ớ nói mơ những điều mơ hồ vô nghĩa.



    Nhiều người đang đóng vai tiến bộ, ăn nói mạnh bạo nhưng chỉ đề cập đến những cái thứ yếu, mà vẫn né cái thực tế lù lù như thái sơn.



    Xin lặp lại chuyện cũ, bắt đầu từ trước 30-4-1975. Đó là “vụ án nhạc vàng” ở Hà-nội. Nhiều thanh niên Việt Nam ở Hà-nội khi đó, có cả cháu dâu Phạm văn Đồng, là diễn viên điện ảnh nổi tiếng, tên gọi là Trà Giang (ủy viên ban chấp hành hội liên hiệp văn học nghệ thuật, trụ sở tại 51 Trần Hưng Đạo, Hà-nội) thường tụ họp nhau hát “nhạc vàng”. Tức là hát những bài hát của Việt Nam Công Ḥa được phát trên làn sóng điện đài mà họ lén nghe và học htuộc được. Nạn nhân chính của vụ án nhạc vàng là ông Toán “xồm”, khi bị ṭa án mafia đỏ Hà-nội cật vấn, đă thành khẩn “nhận tội” yêu thích chế độ miền Nam mà chỉ do giai điệu và lời bài hát của miền Nam mà thôi. Kết quả là ông Toán bị kết án 12 năm tù khổ sai. Những người chung vụ bị án từ 6 năm đến 10 năm tù. Nhưng trên thực tế chẳng ai được ra tù sau khi măn hạn, mà ở mút chỉ luôn, có người bỏ xác lại nhà tù của “ông tiên” của Lữ Phương! Riêng Trà Giang thoát hiểm v́ có cái ô dù là Phạm văn Đồng, mặc dù Trà Giang c̣n “táo tợn” nhận xét: “Nhạc miền Nam t́nh người chứ không gân guốc sắt máu như nhạc miền Bắc!”



    Phóng viên AFP ở Hà-nội khi đó đă đưa tin và nhận xét nhẹ nhàng đại ư rằng: “Theo luật pháp hiện hành của Hà-nội th́ không có khoản nào nói rằng thích trong tư tưởng một chế độ xă hội nào đó mà bị coi là có tội”.



    Tổ tiên ta đă dạy rằng: “Trăm nghe không bằng một thấy. Trăm thấy không bằng một sờ. Trăm sờ không bằng một nếm”. Nhóm ông Toán chỉ “nghe” mà đă “yêu thích chế độ miền Nam”. C̣n Trà Giang, công dân loại 1, loại siêu (v́ Trà Giang c̣n là đại biểu “cuốc” hội ngụy quyền Hồ chí Minh), được ngụy quyền Hà-nội phong tặng danh hiệu “nghệ sỹ ưu tú”, “nghệ sỹ nhân dân” mà nhận xét nhạc miền Nam t́nh người, c̣n nhạc mafia đỏ th́ sắt máu. Chắc chắn chẳng ai ép buộc, dụ dỗ ông Toán và diễn viên Trà Giang phải nói như vậy. Có nghĩa là nhận xét chân thành từ trái tim.



    V́ sao có nhận xét đó? V́ các loại h́nh nghệ thuật trong tay Hồ chí Minh không được phục vụ nhu cầu thẩm mỹ mà là phương tiện kích động để thực hiện “tư tưởng” của Hồ là chém giết. Ngay trong giáo dục cũng vậy. Các em bé đi vườn trẻ, nói c̣n chưa sơi đă nghe “cô giáo” kể chuyện “Anh “bộ đội” mỗi ngày giết bao nhiêu “lính ngụy””. Rồi “cô giáo” hỏi các em: “Lớn lên các em làm ǵ?” Tất nhiên các em được dạy để đồng thanh trả lời: Lớn lên em cầm súng giết Mỹ-Ngụy”. Cô giáo hân hoan: “Đúng! Các em giỏi lắm! Các em sẽ là “bộ đội bác Hồ” giết thật nhiều Mỹ-Ngụy”. Nhiều em về nhà vẫn c̣n bị ám ảnh việc giết người như thế, nên có em hỏi cha mẹ: “Bố mẹ có muốn giết Mỹ-Ngụy không?”



    Cho uống mật gấu cũng chẳng ông bố bà mẹ nào dám nói không. Chưa nói đến việc nhiều gia đ́nh, bố mẹ c̣n hùa theo: “Phải giết thật nhiều mới là cháu ngoan bác Hồ”.

    Nội dung nghệ thuật và định hướng giáo dục đó của Hồ chí Minh đă “đơm bông kết trái”. Thí dụ cụ thể: hai đứa con trai của Đinh thị Cẩn (người t́nh của Hồ), phó chủ nhiệm thường trực ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ, nghe bạn cùng lớp có xích mích với một thanh niên nào đó, đă cầm dao giết người giữa thanh thiên bạch nhật ở phố Huế (cạnh tiệm phở Tân Việt). Khi biết giết lầm người chúng chẳng chút ăn năn mà c̣n định đi giết nữa. Dân qua đường, không biết chúng là con mụ Đinh thị Cẩn nên bắt giao cho công an, tạm giam ở Hỏa-ḷ. Ngay tối đó Hoàng quốc Việt đích thân lái xe hơi đến đón chúng ra, rồi cho qua Nga-xô học.



    Con trai tướng Nguyễn văn Vịnh cũng vậy. Một ông già đi xe đạp lúc tan đá bóng ở sân Hàng Đẫy (Hà-nội) ra, chập choạng tay lái va phải nó, thế là nó rút dao đâm chết ông già, nhổ nước miếng bỏ về nhà ở đầu Cao Bá Quát, gần ngay đó. Bị dân la ó, công an đuổi theo, khi thấy nó vào nhà Nguyễn văn Vịnh (lúc đó đă bị quản thúc v́ vụ án xét lại), công an mở số lùi. Thằng sát nhân đó cũng được cho vội qua Nga-xô để đào tạo.



    (Xin mời đọc tiếp bài 17)

  8. #18
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 17

    Sân bệnh viện 308 (tức bệnh viện Đồn Thủy cũ) chiếu phim ngoài trời, một thằng nhỏ 10 tuổi bị một bà già đặt ghế ngồi lên trước nó, thế là thằng nhỏ về nhà lấy dao ra đâm bà già chết tươi.



    Những chuyện trẻ em trên dưới 10 tuổi đâm chết người xảy ra như cơm bữa ở khắp nông thôn, thành thị miền Bắc Việt Nam vào lúc Hồ chưa ngỏm. Nơi xảy ra khá phổ biến và giết người một cách tàn nhẫn, như sát thủ chuyên nghiệp, lại chính là khu tập thể sỹ quan ngụy cấp tá ở Đống Đa (Hà-nội).



    Xin lưu ư rằng chuyện trẻ con giết người ở miền Bắc Việt Nam khi ấy là phổ biến và đều khắp ở mọi địa phương. Và, trẻ con, “những cháu ngoan bác Hồ” trở thành tai họa của xă hội. Chúng đi hàng đoàn, chọc ghẹo các người già; mới trên dưới 10 tuổi mà đă rượt theo bao vây những cô gái đi một ḿnh để bóp vú, cấu mông. Nhiều vụ “hiếp dâm” tập thể của con nít đă xẩy ra (chuyện này nếu cho là “chưa thuyết phục” th́ Lữ Phương có thể hỏi ông Kỳ “sữa”, cán bộ cao cấp của ngành du lịch ngụy quyền Hà-nội, xem bản thân ông ta trong một thời gian bao lâu và đă chứng kiến bao nhiêu vụ; hoặc có thể hỏi trung tướng công an mafia đỏ, nguyên tổng cục trưởng tổng cục bảo vệ kinh tế, khi c̣n là phó giám đốc công an mafia đỏ ở Hà-nội, xem hắn đă thụ lư bao nhiêu vụ, và ngay con trai hắn cũng ngang nhiên “bóp vú” cô giáo ở trường Lương-yên (Hà-nội); hoặc hỏi Hồng Vinh, nay là ủy viên trung ương mafia đỏ, chủ tịch hội nhà báo (láo) của mafia đỏ kiêm phó ban văn hóa tư tưởng (phó cho Nguyễn khoa Điềm), xem ngày hắn từ Hà-tĩnh về làm phóng viên nội chính của báo Nhân dân, hắn đă được đọc bao nhiêu biên bản về con nít giết người, hiếp dâm tập thể; cũng như hắn đă đọc bao nhiêu bản kiểm điểm của gái điếm bị giam ở Phủ-lư, Hoà-b́nh và Thái-nguyên khai đă được “công an”, cạo đầu mặc áo sư về trụ tŕ ở các chùa, đưa vào chùa hành lạc như thế nào. V́ tất cả mọi vụ nói trên bị Hồ xếp là “tiêu cực” do hậu quả của “chủ nghĩa thực dân mới” nên không bao giờ được đưa tin trên báo, đài).



    Cầm sách giáo khoa lớp 1, lớp 2 của ngụy quyền Hồ chí Minh biên soạn và phát hành mà hăi hùng. Trong phần học tính cộng, tính trừ cho lứa tuổi lên 6, lên 7 mà được dạy như sau:

    - Hôm trước anh “bộ đội giải phóng” bắn chết 3 “thằng lính ngụy”, hôm nay lại bắn chết 5 “thằng” nữa. Hỏi trong 2 ngày anh “bộ đội giết được bao nhiêu”?



    Trẻ em, “cháu ngoan bác Hồ”, ở lứa tuổi “đi ỉa c̣n phải có người lớn rửa đít cho” mà đă bị nhồi nhét toàn chuyện giết người th́ hỏi rằng dù có cố t́nh đến đâu cũng không thể chạy tội cho tên Việt gian Hồ chí Minh về dă tâm của hắn muốn biến nhân dân Việt Nam thành sát thủ binh nô cho chiến lược toàn cầu của mẫu quốc đỏ.



    - Nếu ai đó hỏi một đứa bé lớp 1 (tức 6 tuổi) rằng: “Lính ngụy là ai?” th́ được nghe trả lời: “Là lính Sài-g̣n!!!” Thật là đơn giản mà cũng thật là nguy hiểm và đau ḷng cho những ai c̣n nghĩ đến Việt Nam.



    Thật là rơ ràng họ Hồ muốn “trồng” những “con người mới XHCN”, là những con người chỉ có trong đầu một tiếng “giết”, và đối tượng để “giết” là Sài-g̣n! (Nghĩa là nhân dân miền Nam). Cho nên chẳng có ǵ lạ, khi Bùi b́nh Thi và Đỗ Chu (hai nhà văn ngụy quân cộng sản) trong chuyến đi theo lính ngụy cộng sản xâm lăng miền Nam Việt Nam 1975, chút xíu bị “bắn” tại Tây-ninh, chỉ v́ thấy đám lính ngụy cộng sản, tuổi chừng 17 cho đến 20 là cùng đă chôn cơm chúng ăn c̣n thừa chứ không cho các em nhỏ ở Tây-ninh lạc gia đ́nh bị đói xin ăn, nên “phê b́nh” chúng. Bọn ngụy quân cộng sản trẻ tuổi đó (lính của tướng Trần Độ) tuyên bố với Bùi b́nh Thi và Đỗ Chu rằng: “Địt mẹ, cho chết cha nó hết cái giống ngụy đi!!!” (Lữ Phương có thể điện thoại hỏi Bùi b́nh Thi (ở Hà-nội) và Đỗ Chu (Bắc-ninh) để biết “hư thực ra sao”). Nếu “ông phó chính ủy ngụy quân cộng sản ở miền Nam” không giáo dục quân lính cộng sản vào Nam ḷng căm thù ngụy như thế th́ “bố tiên sư mấy thằng nhóc lính ngụy cộng sản đó” đâu dám làm tàng mà “tuyên bố” như vậy, mà c̣n định “bắn” ngay chính 2 nhà văn ngụy quân cộng sản của chúng, chỉ v́ muốn chúng chí ít cũng “thử làm người một lần”.



    Đường lối giáo dục của “chủ nghĩa Hồ chí Minh” của mấy cây bút “chống đối” là như vậy.



    C̣n đường lối thương nghiệp của “chủ nghĩa Hồ chí Minh” như mấy cây bút “chống đối” hư cấu th́ như thế nào?



    Hồ ví von rằng “cán bộ thương nghiệp và mậu dịch viên là nàng dâu trăm họ”. Nói kiểu đó, từ mồm Hồ mà ra, th́ muốn hiểu sao cũng được. Tốt nhất là đưa thí dụ cụ thể cùng cách giải quyết của Hồ.



    Câu chuyện Hồ “hóa trang” ra chợ Đồng-xuân (Hà-nội) mua 150gr tem tiêu chuẩn thịt của người già, nhưng “mậu dịch viên” của ngụy quyền Hồ chí Minh, đă ném một cục xương cho Hồ, như đă nêu ở trên, mà Hồ cũng lờ đi. Cho nên “mậu dịch viên”, theo chính sách “nắm chặt bao tử của dân” của Hồ, trở thành “đại diện thường trực” của Hồ để uốn nắn giáo dục người dân trở thành ngoan ngoăn chấp nhận mọi điều phi lư, mọi sự sỉ nhục, mọi hành hạ y như con thú trong giờ được huấn luyện.



    Hà-nội, thuở Hồ c̣n ngự trị, là nơi duy nhất, có nghĩa là duy nhất cho cả miền Bắc XHCN của Hồ, là có bán bánh “Su-kem” ở cửa hàng Bô-đê-ga, ở phố Tràng-tiền. Người mua phải xếp hàng (cũng được); mỗi người chỉ được mua một cái (cũng được); nhưng “mậu dịch viên” bắt khách hàng phải ăn tại chỗ hoặc nếu muốn mang về th́ chí ít phải cắn ăn tại chỗ một miếng đă rồi mới được mang chỗ c̣n thừa về nhà. Vô lư đến như vậy mà mọi người vẫn phải chấp nhận. Khi biết chuyện này, Hồ cho gọi Hoàng quốc Th́nh, lúc đó y giữ chức bộ trưởng nội thương của ngụy quyền, và hỏi hư thực ra sao. Th́nh xác nhận là có chuyện đó, vậy mà Hồ khen: “Nhân dân chịu khó xếp hàng mua bánh ăn như vậy chứng tỏ đời sống có tiến bộ”!!! Hoàng quốc Th́nh khoái quá, khoe với mọi người về chuyện này. ở cỡ “bộ trưởng” mà óc bă đậu như vậy. Hoàng quốc Th́nh đâu biết âm mưu của Hồ là dùng mọi biện pháp, trong đó có thương nghiệp, để huấn luyện toàn dân miền Bắc thành người gỗ, không biết phản ứng trước mọi sự phi lư; không biết liêm sỉ khi nhân phẩm bị chà đạp. Nên Hồ “rất hài ḷng” về câu chuyện cách bán bánh ở cửa hàng Bô-đê-ga (Hà-nội). Nó giúp Hồ kiểm chứng hiệu quả “trồng người” của Hồ!



    Trong tay Hồ nhào nặn, ngay cái gọi là “trí thức XHCN” cũng thoái hóa, bệ rạc. Thí dụ như bác sỹ Trần duy Hưng, nhờ hết ḷng thờ phụng, tôn kính Hồ nên được Hồ chọn cho làm chủ tịch Hà-nội cho cân đối với bác sỹ Trần văn Lai thời chính phủ Trần Trọng Kim. ở cương vị “chủ tịch Hà-nội”, ngày nào bác sỹ Trần duy Hưng cũng được nhiều nơi mời đi tiệc tùng hiếu hỷ. Tất nhiên bác sỹ Trần duy Hưng đâu biết phép “phân thân” như “Tề thiên đại thánh”, nên chỉ có thể dự được ở một nơi. Khi chưa theo Hồ chắc chắn bác sỹ Trần duy Hưng nhớ làm ḷng câu dạy của ông cha chúng ta rằng: “Miếng ăn là miếng nhục”. Nhưng khi thành đảng viên mafia đỏ và là kẻ tôn thờ Hồ th́ với bác sỹ Trần duy Hưng, miếng ăn không như ông cha chúng ta dạy bảo, nên bác Sỹ Trần duy Hưng để vợ đến tất cả đám tiệc, mà bác sỹ Trần duy Hưng không đến được, để lấy hết phần ăn của bác sỹ Trần duy Hưng mang về!!!



    Trẻ em c̣n khờ khạo nên dễ bị Hồ nhào nặn đă đành. Ngay “trí thức thời Pháp” để lại như bác sỹ Trần duy Hưng mà Hồ uốn cũng dễ như chơi!



    Xin đưa vài thí dụ nữa kẻo me-xừ Lữ Phương lại nói rằng đó là cá biệt.



    Tạm điểm đến luật sư Phan Anh. Ông luật sư này đă từng được coi là cấp tiến, đă từng là thành viên của chính phủ Trần Trọng Kim. Ông ta cũng từng lập ra “Phong trào thanh niên Phan Anh” (na ná như phong trào của Kỹ sư Kha vạng Cân ở trong Nam trước 1945 vậy). Và, cũng từng là bộ trưởng quốc pḥng của Chính phủ Liên hiệp đa đảng (của những năm 1945-1951), bị Hồ đánh lừa qua hội nghị Fontainebleau ở Pháp nên để chiếc ghế bộ trưởng quốc pḥng lại cho Giáp. Thời Tây, ông luật sư Phan Anh này đă từng căi trong vụ án của ông “Hoàng minh Chính mà tiến sỹ Nguyễn thanh Giang của Hà-nội, mới đây có viết bài, khen tài căi của ông Phan Anh khiến ṭa án thực dân Pháp phải thua!(?)” (Không biết tiến sỹ Nguyễn thanh Giang có quá chủ quan không, chứ tài căi của ông Phan Anh thuở đó không có nổi tiếng như các luật sư Nguyễn mạnh Tường, Trần văn Chương và ngay cả với luật sư Đỗ xuân Sảng). Ông ta là luật sư nhưng nổi tiếng về tổ chức các hoạt động thể dục thể thao. C̣n ṭa án thực dân Pháp thua trong vụ Hoàng minh Chính v́ nó là công cụ của “thực dân xanh”, nên nó cũng biết tôn trọng “tṛ chơi pháp trị” chứ không dùng “luật chó sói của Lafontaine” như Hồ và “thực dân đỏ”! Cho nên Phạm Hùng, bị án tử h́nh, đang nằm chờ bị chém, được phái đoàn quốc hội Pháp qua, xét lại và cho hạ thành 9 năm tù (c̣n thua cha Nguyễn văn Lư mới đây bị án 15 năm tù thêm 5 năm quản thúc) th́ làm ǵ có luật sư Phan Anh. (Xin đọc hồi kư “Hai lần án chém” của Phạm Hùng để có dịp so sánh “luật thực dân xanh” với “luật thực dân đỏ”!)



    Luật sư Phan Anh dưới thời thực dân Pháp, dưới thời cụ Trần Trọng Kim cho đến một giai đoạn nhất định của Chính phủ Liên hiệp 1945-1951 (v́ sau 1951, trên thực tế Chính phủ Liên hiệp đa đảng đă bị Hồ đảo chánh ngầm) th́ oai phong, hào hùng như vậy. Khi vào tay Hồ, tuy được cho làm bộ trưởng ngoại thương nhưng thực quyền là ở trong tay Lư Ban và Nguyễn văn Đào. Cho nên luật sư bộ trưởng Phan Anh cũng… đói. Vợ con cũng thèm thịt. V́ thế mới dính vào chuyện của “anh chị xui” là phó thống đốc ngân hàng nhà nước trong vụ “ăn cắp tiền rách” để mua “gị chả” của Tân Việt hoặc của bà giáo Tích, và ăn bún thang bà Chưởng Đen ở chợ Đồng Xuân (Hà-nội)!



    Thêm một thí dụ nữa về ông giáo sư bộ trưởng văn hóa Hoàng minh Giám. Hiên con trai ông ta đang là giám đốc sở thể dục thể thao Hà-nội.



    Ông Hoàng minh Giám được Hồ cài vào đảng Xă hội, giữ chức phó tổng thư kư mà ông kỹ sư giám đốc nha khí tượng Nguyễn Xiển là tổng thư kư. Ông Hoàng minh Giám cũng là bộ trưởng bộ văn hóa, tiền nhiệm của Nguyễn văn Hiếu từ “bưng” sang Trung cộng làm “đại sứ” của “chính phủ phường chèo”, sau 1975 về thay ông Giám. Đi đúng con đường “giải phóng phụ nữ” của họ Hồ, nên mặc dù đă có vợ lai Pháp rất xinh đẹp, sau khi toa rập với Hồ, ông ta “dân tộc hóa hôn nhân” nên lấy thêm bà vợ hai là Việt 100%. Sau 1954, vào được Hà-nội, họ Hồ cho ra đời chế độ cung cấp đặc biệt cho “cán bộ” cao cấp của Hồ. Ông Hoàng minh Giám cũng được một thẻ cung cấp đặc biệt như mọi nhân viên cao cấp khác trong ngụy quyền Hồ chí Minh. Nhưng, khổ nhất là ở chữ “nhưng” này, v́ ông ta hai vợ, ở hai vi-la: bà cả vi-la trước bệnh viện St. Paul; bà hai ở vi-la đường Tăng Bạt Hổ, liền tường bệnh viện bưu điện (sau bệnh viện bưu điện bị đuổi xuống khu Chợ Trời, chùa vua, để cho đại sứ Hà văn Lâu cư ngụ), cho nên ông ta phải đặt kế hoạch mỗi bà giữ thẻ cung cấp đặc biệt một tuần. Thành ra mỗi bà “một tuần no tiếp theo một tuần đói”. Chẳng biết “kẻ xấu” hay “phản động” nào xúi bà cả rằng ở cương vị vợ lớn việc ǵ phải chịu cảnh “ngang vai phải lứa” với bà hai. Lúc được xúi bậy như vậy th́ tấm thẻ đang trong tay bà hai. Bà cả bèn đi thẳng tới bộ văn hóa (đường Ngô Quyền, Hà-nội) gặp ông Giám và nói rơ ư định của bà và yêu cầu trả lại thẻ cung cấp đặc biệt cho bà. Ông Giám sợ mất uy tín ở ngay văn pḥng cơ quan, nên hứa lèo là chiều về nhà bà hai lấy rồi đem lại ngay. Chiều về ăn cơm với bà hai, ông Giám có dám mở miệng hay không th́ c̣n là việc bí mật. Ăn cơm xong, ông Hoàng minh Giám tề chỉnh trong bộ đại cán 4 túi, màu xanh sẫm, ra xe hơi Volga màu vàng nhạt, đi chủ tŕ lễ khai mạc hội diễn chuyên nghiệp ở rạp Hồng-hà (tức rạp Olympia cũ ở phố Hàng Da). Vừa trong xe hơi bước ra, ông bị bà cả phục kích, xoắn cổ áo, thẳng tay cho một chưởng độ 5 thành công lực, khiến máu mũi tuôn ra. Bảo vệ vội giữ bà cả, để ông tháo chạy vào hậu đài.



    Nghe chuyện này, Hồ cười cười. Và, hôm sau khi thư kư riêng của Phạm văn Đồng, kiêm vụ trưởng vụ tổng hợp phủ thủ tướng ngụy quyền Hà-nội, là Việt Phương, lên báo cáo t́nh h́nh như thường lệ, Hồ cho ư kiến rằng: “Đồng chí nào hai hoặc ba vợ th́ từ nay mỗi vợ được riêng một thẻ cung cấp đặc biệt.” Thế là Trần huy Liệu cũng được hai thẻ, một cho bà vợ già khú đế và một cho bà hai cực xinh đẹp, nguyên là vợ Phạm Giao, con cả Phạm Quỳnh, do Trần huy Liệu giết chồng, cướp vợ. Khi Trần huy Liệu chết, bà vợ già nhất định đánh ghen trong ngày truy điệu. Cũng cái lệnh của Hồ là cho tổ chức truy điệu hai ngày: một cho bà cả chủ tŕ và một cho bà hai chủ tŕ. (Lữ Phương có thể hỏi ngay chính Trần văn Giàu về chuyện này xem để thấy việc lớn việc nhỏ đều qua tay Hồ, th́ làm sao có chuyện Hồ bị “cho ra ŕa”!)



    Ngay những bậc gọi là loại “đại trí thức” như giáo sư thạc sỹ y khoa Hồ đắc Dzi, con rể tổng đốc Vi văn Định, anh em “cọc chèo” với tiến sỹ bộ trưởng giáo dục Nguyễn văn Huyên, là giám đốc trường đại học y khoa Hà-nội, tối tối hai vợ chồng cùng vợ chồng giáo sư bác sỹ Tôn thất Tùng (cháu rể Vi văn Định) ra tiệm phở “thím Liên Tàu” ở sân số nhà 34 Phan Chu Trinh ăn phở. Khi những tô phở nóng hổi vừa được bê ra, bà vợ giáo sư Hồ đắc Dzi cẩn thận moi trong xắc tay ra một lọ nhỏ. Đó là lọ “ḿ chính” (tức bột ngọt). Bà ta trịnh trọng chia cho mỗi tô phở một chút bột ngọt. Đó là của quư với dân thường Việt Nam, có lẽ như vụn kim cương vậy. Chỉ chút bột ngọt mang theo đó đủ là nhăn hiệu cầu chứng loại “cao cấp”, có khi giá trị hơn khệ nệ ôm theo cái bằng thạc sỹ. Nếu Lữ Phưong vẫn thấy chưa “thuyết phục”, xin điện thoại hỏi Hồ thể Lan, người phát ngôn của ngụy quyền Hà-nội, cũng là con gái thạc sỹ Hồ đắc Dzi xem có đúng 100% không! Hay hỏi giáo sư Tôn thất Bách cũng được.



    Hai cập vợ chồng “đại trí thức” ấy được Hồ huấn luyện đến mức khư khư giữ lọ bột ngọt bằng ngón chân cái đó c̣n hơn giữ gia phả!!!



    Hai vợ chồng Trần văn Giàu, tối nào chẳng “đi guốc gỗ” từ căn nhà góc đường Ngô Quyền – Hàm Long, đến “phở thím Liên Tàu” cùng ăn với Phạm ngọc Thạch, bộ trưởng y tế. C̣n luật sư Nguyễn thành Vĩnh, từng là chủ tịch Mặt trận Liên Việt Nam bộ, th́ gầy như bộ xương cách trí, mặc chiếc quần thâm của vợ, bê cái tô ra, cũng tiệm phở đó, mua về cho vợ con. C̣n bản thân ông ta nhịn để giữ eo (mặc dù cân nặng độ 40kg)! Ông Vĩnh ở căn gác liền tường với khách sạn Hoàn Kiếm, là nơi cư ngụ của cái chính phủ phường chèo ở bưng, nhưng từ cấp thứ trưởng như Lữ Phương th́ chưa đủ tiêu chuẩn ở chỗ đó, nên không có dịp như các ông, bà Trương như Tảng, Dương quỳnh Hoa, Trần bửu Kiếm v.v… để tận mắt thấy ông Vĩnh mặc quần của vợ thải ra với áo may-ô màu nước phở đi mua phở nhưng không dám ăn!



    Với người có thiện chí th́ những thí dụ “người thật việc thật” như trên là tạm đủ. C̣n với Lữ Phương chắc vẫn c̣n “để xem sao!”



    Qua chuyện kể trên, có thể có câu hỏi: Vậy là đời sống “cán bộ” cao cấp của Hồ đâu có xa hoa?



    Thưa rằng không phải thế.



    Hồ tổ chức ra hai bộ phận cung cấp. Về phía ngụy quyền th́ do bộ nội thương chịu trách nhiệm. Về phía “đảng” mafia đỏ th́ văn pḥng trung ương mafia đỏ chịu trách nhiệm. Cho nên dù là bộ trưởng mà “bạch vệ” (tức không phải đảng viên mafia đỏ) như kiểu Phan Anh, hay phó thủ tướng như cụ Phan kế Toại v.v… cũng như bộ trưởng mà chưa là thành viên trung ương mafia đỏ, th́ do bộ nội thương cung cấp, th́ không đến nỗi đói lắm nhưng cũng chẳng lấy ǵ làm no. C̣n loại “cán bộ” của Hồ mà nằm trong trung ương mafia đỏ th́ cái chế độ chính trị lúc đó Hồ gọi là “Việt Nam dân chủ cộng ḥa” nhưng văn pḥng trung ương mafia đỏ cung cấp cho thành viên trung ương mafia đỏ theo “cộng sản chủ nghĩa”, tức là “làm theo năng lực nhưng lại được hưởng theo nhu cầu”. Chỉ v́ cái “miếng đỉnh chung” đó mà thằng nào, con nào cũng cố gắng làm “người học tṛ giỏi của Hồ” để được hưởng theo nhu cầu. V́ thế người Hà-nội, thuở Hồ chưa ngỏm, mới đùa câu của Hồ tiểu di cho đệ tử theo kiểu “sấm” rằng:



    “Tiên thiên hạ chi ưu

    Hậu thiên hạ chi lạc”



    Chính là Hồ dặn khéo:

    “Tiên thiên hạ chi ưu tiên

    Hậu thiên hạ chi lạc hậu”



    Cho nên Hồ chết mới xây lăng, ướp xác v.v… và toàn bộ những thằng kế nghiệp Hồ đều ăn ở, hưởng thụ ra sao kể cả con cháu của chúng, chắc Lữ Phương không thể nào giả bị bịnh tâm thần mà chối rằng: không biết!!!



    ở trong nước hiện nay, có ng̣i bút “chống đối” nhắc đến việc Hồ khi chết, gia sản chỉ có “vài bộ quần áo và sổ tiết kiệm chỉ có hơn 3 ngàn”!(?) Đúng là người ta cố t́nh giả ngây thơ như bà phó Đoan của Vũ Trọng Phụng trong “Số Đỏ” khi bị Xuân tóc đỏ bị hiếp!!!



    Những chứng minh trên đă quá đủ, khỏi cần phân tích cái “mẹo vặt” này của Hồ nhằm vừa ḷng cái loại như bà phó Đoan và cậu Phước trong “Số Đỏ” của Vũ Trọng Phụng.



    Chỉ xin hỏi ng̣i bút “chống đối” cho Hồ rằng:



    - Từ ngày Hồ ngỏm, có ai dám vào ở cái “phủ chủ tịch” của Hồ và căn nhà gỗ, như ở các nước khác không?

    - Từ ngày Hồ chết đă chi tiêu bao nhiêu thứ cho Hồ, thành tiên là bao nhiêu?

    - Hơn ba ngàn trong sổ tiết kiệm của Hồ có đủ mua một đôi giày da cho một tên lính gác lăng không thôi?



    Nếu không có cộng đồng người Việt ở hải ngoại tăng hiệu quả cho th́ kiểu lư luận “cảm tính, lè phè” đó chắc chẳng ai biết đến. Trách nào lực lượng chủ lực là nông dân đâu có “nghe theo”!!!



    Ngay Hoài Thanh, một bồi bút cung đ́nh mafia đỏ, lương chính thiếu có “hai đồng” th́ đạt tiêu chuẩn được cấp thẻ đặc biệt mua hàng ở cửa hàng Tôn Đản. Hoài Thanh bèn giả vờ đánh rơi nhật kư, trong đó ghi nỗi ḷng lúc nào cũng muốn được “báo đáp công ơn bác và đảng đă cải tạo thành con người có lư tưởng”(?). Cuốn nhật kư của Hoài Thanh được trao cho công an và đến tay Tố Hữu. Hoài Thanh được Tố Hữu báo cho biết sẽ nâng lương (viện phó viện văn học) cho đạt tiêu chuẩn được mua hàng ở Tôn Đản. Hoài Thanh mừng quá, vội tổ chức cuộc b́nh thơ Tố Hữu. Chẳng biết “ma ám” hay “thiên bất dung gian” mà trong lúc cao hứng, Hoài Thanh lại lỡ mồm: “Anh (tức Tố Hữu) vốn sinh ra từ một nơi “sông không sâu, núi không cao” nên thơ anh hiền ḥa. Thế là có kẻ ném đá giấu tay, viết thư nặc danh gửi cho Tố Hữu, kể nguyên văn buổi b́nh thơ, chỉ có chút nhận xét riêng. Đại ư: “Đồng chí Hoài Thanh tuy khen thơ của đồng chí “tức Tố Hữu” hết lời nhưng cái câu “sông không sâu, núi không cao” h́nh như bỏ lửng như vậy để mọi người nên cảnh giác đồng chí”, v́ nếu nói đầy đủ th́ sẽ là:



    “Sơn bất cao,

    Thủy bất thâm,

    Nam đa trá!

    Nữ đa dâm!”



    Đ̣n “ném đá” thật hữu hiệu. Mấy ngày sau có quyết định nâng lương cho một số cán bộ ở Viện văn học. Vũ đức Phúc, cũng là viện phó, được nâng cho đủ tiêu chuẩn vào mua hàng ở Tôn Đản. C̣n Hoài Thanh th́ “chơớc quơớc”!



    Thuở đó dân gian có câu:

    “Tôn Đản là chợ vua quan

    Vân Hồ là chợ trung gian, nịnh thần

    Bắc Qua là chợ nhân dân

    Hàng Bè là chợ công nhân anh hùng.”



    Trong tay họ Hồ, đến lăng mạn như Xuân Diệu cũng trở thành “thực dụng tàn bạo”. Mỗi lần Xuân Diệu đi cơ sở b́nh thơ theo “quỹ văn hóa quần chúng” của cơ sở, đều đặt yêu cầu với ban tổ chức rất cụ thể:

    - Ngày ăn mấy bữa. Thức ăn mỗi bữa ra sao.

    - Không lấy tiền thù lao. Chỉ xin giúp đỡ cái này, cái nọ tính ra gấp chục lần tiêu chuẩn thù lao.



    (Chuyện về Hoài Thanh, Xuân Diệu – Lữ Phương có thể điện ra cho nhà thơ trào phúng Yên Thao, ở Hà-nội, để biết hư thực. C̣n dân gian nói về các chợ, có thể hỏi phu nhân tướng Trần Độ, v́ xưa kia bà ấy là Cửa hàng trưởng cửa hàng Vân Hồ (Hà-nội).)



    C̣n nhà trí thức Huỳnh văn Tiểng, từ khi theo Hồ th́ bỏ luôn đặc tính hào phóng của “dân Nam-kỳ”, để ăn cơm với vợ, ăn bữa nào trả tiền bữa ấy rất chi là ṣng phẳng. Chuyện này do nhà thơ Trinh Đường và nhà triết học Trường Lưu ở chung nhà với vợ chồng Huỳnh văn Tiểng kể lại, chí ít cũng vài trăm người biết. Lữ Phương cũng có thể kiểm chứng.



    Riêng vợ chồng Phạm văn Bạch, một đại phú của miền Nam, nên hồi 1945, Hoàng quốc Việt theo lệnh Hồ vào Sài-g̣n để “giảm” uy thế của nhóm Trần văn Giàu và Dương bạch Mai, đă “tiến cử” Phạm văn Bạch vào ghế chủ tịch Nam-bộ. Sau 1954, Phạm văn Bạch ra Hà-nội ngụ tại vi-la ở ngơ Trần Hưng Đạo, đối diện cổng sở công an Hà-nội. Hai vợ chồng Phạm văn Bạch nuôi một bà già để hầu hạ. Gốc đại phú ở Nam-bộ; lại giữ ghế Chánh án Ṭa án tối cao ngụy quyền Hồ chí Minh; lại đi theo con đường “giải phóng nô lệ” của Hồ, ấy thế mà mỗi lần bà già người làm lỡ tay làm vỡ cái chén ăn cơm là phải để cho vợ Phạm văn Bạch nhéo thâm tím khắp người. Nhiều lần bà già này chạy sang sở công an tŕnh báo nhưng “công an bạn dân” khuyên bà nên nhẫn nhịn, coi đây là phục vụ “tổ cuốc”, dù sao cũng không đau khổ hay bị chết như ra chiến trường!!! Một đại phú, lại có học và gốc Nam-bộ mà vào bàn tay Hồ nhào nặn cũng thành biển lận trội hơn nhân vật trong kịch của Molière hay tiểu thuyết của Balzac!



    Những tầng lớp trên và có học trong xă hội của Hồ kiến tạo là như vậy, th́ tầng lớp dưới, đă ít học lại lúc nào cũng đói đến mức sang thời nhà văn Nguyễn huy Thiệp nổi danh rồi mà cái xă hội đó vẫn làm một người như Nguyễn huy Thiệp đói (trả lời phỏng vấn của báo Libération) cho nên phép lạ xuất hiện.



    Những năm gần đây, nhiều thước phim, quay lại cảnh chiến tranh ở Việt Nam, được chiếu trên màn ảnh truyền h́nh. Một cảnh vừa đau ḷng vừa hài hước là cảnh ngụy quân cộng sản Hà-nội đặt gót xâm lược vào Sài-g̣n, ngày 30-4-1975. Bên cạnh những tên lính mặt non choẹt, gầy g̣; những người dân bồng bế con cái khóc than; xác người xác xe đầy đường th́ Lê đức Thọ, Văn tiến Dũng, Vơ nguyên Giáp mặt mũi béo tốt, ngoác miệng ôm nhau cười, lộ rơ những chiếc răng trắng hếu và cái cổ họng đỏ ḷm! Chúng cười trên nước mắt, trên xác chết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Chúng cười v́ dưới tài nhào nặn của Hồ, những thanh niên nam nữ miền Bắc Việt Nam, bị đói thường trực, đă thành con thú lao vào máu thịt như điên như rồ!



    Chúng cười v́ chúng nghĩ rằng chúng là kẻ thắng!



    Nhưng, phép lạ đă xuất hiện.



    Bao năm bị nhồi nhét những luận điệu tuyên truyền theo kiểu “tô hồng, bôi đen” hiện thực của ngụy quyền Hồ chí Minh, đến mức những đệ tử chóp bu của Hồ như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Vơ nguyên Giáp, Lê đức Thọ, Văn tiến Dũng, Tố Hữu cũng tin ở những lời nói láo do chính chúng đồng lơa với Hồ bịa đặt ra.

    Bọn chúng cùng với lũ ngụy quân cộng sản và tụi ở bưng nhào về thành thị, không đứa nào dám nói với đứa nào, nhưng chúng cùng có chung một tâm lư của những hồn ma bị giam ở ngục tối âm-ty, bỗng một phút ngả vào thiên đường.



    Lũ ngụy cộng sản đầu tiên vào được dinh Độc-lập đă biểu diễn động tác của các “anh bộ đội cụ Hồ” bằng chui vào xe tăng bê các thúng gạo dự trữ ra đổ đi, tranh nhau thúng mủng để vào dinh Độc-lập xúc từng thúng “quẹt gas” và “transistor” có khắc các chữ “Tổng thống Nguyễn văn Thiệu thân tặng”. Khi chia “quả thực” đă xong, bọn chúng thản nhiên tắm và vo gạo ở bồn nước trước dinh để nấu cơm. Củi th́ “tạm” hạ một vài cửa sổ xuống, chẻ ra để đun. Lữ Phương thử “khách quan” nhận xét xem những hành động của “anh bộ đội cụ Hồ” như vậy là “anh hùng giải phóng” hay là của một bầy lính man rợ, lạc hậu trong đội quân xâm lược? Sau này, Bùi Tín cũng như Nguyễn trần Thiết, viết bài tranh công xem ai là kẻ nhận sự đầu hàng của Big Minh, nhưng chẳng ai dám trung thực viết lại những cảnh đó!!!



    Sau khi cơm no bụng và kiểm tra lại số “quẹt gas” và “transistor” có đủ không hay bị đồng đội, đồng chí “thuổng” mất, bọn ngụy quân cộng sản chia nhau lục soát hết dinh Độc-lập, không phải để “t́m địch” mà để t́m xem những ǵ có thể cướp được. Thôi th́ từ dây dẫn điện, bóng đèn điện, màn che cửa, bọc nệm ghế v.v… đều bị cắt ra chia nhau. V́ thế, chỉ một ngày sau, tức 1-5-1975, các đầu nậu mafia đỏ từ Hà-nội bay vào tổ chức mít-tinh, dây điện bị ngụy quân cộng sản lấy hết nên Lê đức Thọ phải một tay chỉ cho Tôn đức Thắng “đánh vần” diễn văn, một tay cầm quạt nhè nhẹ quạt cho Tôn đức Thắng đỡ rôm sẩy! C̣n Trường Chinh, lóa mắt trước sự giàu đẹp của miền Nam, vội vàng tuyên bố: “Miền Nam phải tiến ngay lên chủ nghĩa xă hội.” Đó là tiếng lóng của tụi mafia đỏ Hà-nội mà nghĩa đen là: “Phải cướp hết tài sản của nhân dân miền Nam; phải bỏ tù không xét xử mọi thành phần không thích hợp với chế độ mafia đỏ; phải đuổi dân thành phố, thị xă đi lưu đày ở nơi hoang hóa; phải tăng cường các nhà tù để bóc lột lao động; và cái ư nghĩa quan trọng nữa là: “Dẹp ngay các đoàn tuồng, chèo chính trị”, trong đó có cái chính phủ phường chèo mà Lữ Phương từng vinh dự được đóng vai phụ (tức thứ trưởng)!



    C̣n Lê Duẩn, thận trọng hơn Trường Chinh, vội vă đi thăm các nhà công thương nổi tiếng của miền Nam để ve vuốt, v́ sợ họ dzọt mất. Cho nên Duẩn mới chụp ảnh chung với ông Nguyễn thành Nam, chủ hăng National, và tuyên bố “duy tŕ 5 thành phần kinh tế”. Một số nhà công thương miền Nam, không hiểu ngôn ngữ của mafia đỏ Hà-nội nên bị lừa trắng mắt. V́, Duẩn nói là duy tŕ 5 thành phần kinh tế để chờ sát thủ thân tín của Hồ là Đỗ Mười vào, sẽ làm một quả “thiến nhanh”, “thiến mạnh”, “thiến trọn vẹn” những ai có tới một chỉ vàng. Thế là đổi tiền, thế là chiến dịch X1 và X2. Thế là tổ chức cho quân, dân, cán, chính của miền Nam đóng tiền học 10 ngày. Và sau 10 ngày không phải đóng tiền v́ không học nữa mà là đi tù. Quả lừa đó là thành tích của Cao đăng Chiếm được Lê Duẩn khen và chuẩn y. C̣n Trần quốc Hoàn (bộ trưởng công an), phải chờ sau vụ “vàng và hạt xoàn” trong nhà gián điệp ba Tàu cộng mới đẻ ra cái tṛ “kim loại màu vàng và đá quư” để cướp không vàng thật và hạt xoàn của nhân dân miền Nam!



    Mọi sinh hoạt ở miền Bắc chỉ c̣n thoi thóp, v́ không chỉ dân miền Nam tập kết ra Bắc, mà “thủ trưởng” lớn nhỏ của các cơ quan, cán bộ, công nhân viên và dân thường đua nhau vào Nam để t́m cơ hội đổi đời. Nhất là sau vụ Hà-nội ồn lên về việc nhà mấy đại tá ngụy quân cộng sản, ở khu tập thể Đống-đa, bị “an ninh quân đội” khám xét mà có nhà có hàng chục cái xe đạp, 4 ti-vi, hàng trăm đồng hồ, hàng thùng xi-líp ny-lông của nữ giới màu sắc chói chang, hàng chục ca-sét v.v…

  9. #19
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 18

    Tiếp theo là các chợ trời đều tràn ngập hàng hóa từ miền Nam theo chân lũ quân xâm lược về thăm quê nhà. Ga-len và ngay cái đài bán dẫn Orionto của Hung; Xiang-mao của Trung cộng, từng là “hạnh phúc” và “niềm tự hào” của “dân, quân, cán, chính” của miền Bắc nay đều trở thành lạc hậu, chỉ thiếu điều bị vứt ra đống rác. Giờ là Sony, National, Aiwa, Hitachi v.v… C̣n đồng hồ, tha hồ mà chọn, đủ cả “hai cửa sổ”, “ba cửa sổ” chẳng ai thèm ngó đến đồng hồ Poljot của Nga-xô mà mới trước đó vài tuần, riêng tiền mua cái phiếu thôi cũng trị giá bằng lương của “cán sự bậc 4”! (Tức 75 đồng tiền Hà-nội của năm 1975).



    Các sứ quán Nga-xô, Trung cộng, Mông cổ, Bắc hàn, Algéria cũng đua nhau mang hàng va-ly tiền giấy của ngụy quyền Hà-nội vào Sài-g̣n sắm các hàng điện tử đem về nước! Đặc biệt sứ quán Trung cộng, cả lũ lên cơn “Tô Định”, chỉ muốn vơ vét hết, nên bịa chuyện điện về Bắc-kinh xin cho một tàu thủy mang tên Hồng-kỳ vào Đà-nẳng vận chuyển giúp, nhưng kỳ thực là cướp các đồ điện tử, trong đó có dàn máy tính ở Đà-nẳng mang về Tàu lục địa.



    Xin hỏi nhà lư luận Lữ Phương cũng như tướng Trần Độ (tự hào thành tích “giải phóng” miền Nam Việt Nam) rằng bản thân tụi dân, quân, cán, chính của ngụy quyền Hà-nội, cả lớn cả nhỏ đều vào Nam giết người cướp của lại c̣n rủ rê, cho phép đồng minh Nga-xô, Trung cộng, Bắc hàn cùng vào cướp bóc như vậy th́ phải gọi là “giải phóng” hay “xâm lược”. Xin đừng loanh quanh mà hăy cố dũng cảm trung thực lấy một lần để trả lời rơ ràng là xâm lược hay giải phóng?(!)



    Nhân sự trong ngành thương nghiệp của ngụy quyền Hà-nội khôn khéo kết hợp “cái chung” và “cái riêng” rất chi là Hồ chí Minh. Nghĩa là, chúng mang nắm giấy vụn của Hà-nội, được gọi là tiền, để mang vào Nam vơ vét không thiếu một thứ ǵ, từ cái xi-líp nữ cho đến các loại xe Falcon; Peugeot 404, 504; Mercedes; Toyota v.v… và xe gắn máy Honda, Suzuki v.v…; đồ điện tử; áo quần, mùng mền cho đến cả ḿ ăn liền, để bán ở cửa hàng cung cấp đặc biệt cho trung ương (cạnh nhà hàng Phú Gia, phố Hàng Trống, Hà-nội) với giá bằng một phần năm giá mua vào, nghĩa là bù lỗ!!! Ngay nhạc sỹ Đỗ Nhuận, với tư cách tổng thư kư hội nhạc (mafia đỏ) cũng lấy tiền quỹ của hội, vào Sài-g̣n mua 5 cái đàn dương cầm nhăn Yamaha mang về Hà-nội, đem biếu con gái Lê Duẩn một cái; con gái Trường Chinh một cái; bản thân “mượn không thời hạn” một cái, c̣n nhạc sỹ cả hội dùng chung hai cái!!!



    Các ngành, các bộ từ Hà-nội đua nhau vào giành giật nhà cửa, xe hơi, đồ đạc để làm cơ sở phía Nam và chuyển ra Bắc. Ngụy quyền Hà-nội lại c̣n bày tṛ cấp giấy phép vào Nam. Việc buôn bán giấy phép thật là nhộn nhịp ở câu lạc bộ Thống Nhất, ở cửa sau của ủy ban nhân dân thành phố Hà-nội; ở các văn pḥng khu công an; ở văn pḥng ủy ban thống nhất (đường Cao Bá Quát); ở văn pḥng bộ giao thông vận tải và ở ga Hà-nội. Giá một giấy phép lên tới 300 đồng tiền Hà-nội lúc đó, nghĩa là hơn lương tháng của “chủ tịch nước”!!! C̣n vé tàu liên vận và xe hơi “Bắc-Nam” th́ chỉ có chợ đen với giá gấp 5 đến 10 lần giá chính thức. Rất nhiều cán bộ cơ quan, sỹ quan và lính ngụy cộng sản cũng như công an ngụy bỏ việc t́m đường vào Nam. Đây là điều chưa từng bao giờ xảy ra dưới chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh ở miền Bắc Việt Nam cho đến ngày 30-4-1975! Nghĩa là người ta không sợ sợi dây cột bao tử của chế độ nữa.



    Nếu tập đoàn Lê Duẩn phấn khởi về cái gọi là “mùa xuân đại thắng” bao nhiêu th́ người dân thường, kể cả cán bộ, công nhân (giai cấp tiên phong) lại tỏ ra thất vọng cứ như chính họ bị thất bại. Điển h́nh là ở công trường Đập sông Đáy ở Hà-tây.

    Tại công trường Đập sông Đáy lúc nào cũng có hàng vạn người lao động. Đó là công nhân xây dựng chuyên nghiệp của các công ty Thủy lợi; lao động là nông dân bị đi sưu; lao động là học sinh, sinh viên, xă viên hợp tác xă tiểu thủ công và cán bộ, công nhân viên bị đi theo “nghĩa vụ lao động” (3 tháng/năm).



    Tin Big Minh đầu hàng và “chiến dịch Hồ chí Minh” (tức xâm lăng miền Nam) thắng lợi hoàn toàn được đài phát thanh truyền tới hệ thống loa của công trường. Cả rừng người trên công trường, im như thóc, nghe đài. Sau bản tin chiến thắng là bài hát của Phạm Tuyên “như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” ông ổng sủa lên. Rừng người vẫn im lặng, và như một mệnh lệnh từ một đấng vô h́nh, tất cả chẳng ai bảo ai, tự động bỏ việc đi về lán, lủi thủi như người mất hồn.



    Vài tiếng đồng hồ sau, ban chỉ huy công trường phải gọi loa tập hợp lao động toàn công trường để mít-tinh chào mừng “chiến thắng”. Mọi người đến chỗ tụ họp cứ như đi đưa ma, chỉ có tiếng muỗi đêm bay vo vo. Đại diện ban chỉ huy công trường đọc lại “tin chiến thắng”, rồi đọc quyết tâm thư của toàn công trường gửi lên “trung ương đảng và chính phủ”. Như mọi lần là cả công trường vỗ tay như sấm rồi hát ḥ hoan hỉ. Nhưng lần này, chẳng một ai vỗ tay, kể cả thành viên “đoàn chủ tịch” cuộc mít-tinh. Quản ca của công trường bắt nhịp hát bài “giải phóng miền Nam”, cũng chỉ có ḿnh hắn hát. Tất cả tự động giải tán về lán.



    “Sài-g̣n thất thủ” như tiếng sét, khiến mọi người bàng hoàng quên hẳn vai kịch hằng ngày để sống đúng với con người thật.



    Kẻ viết những ḍng này có mặt ở công trường Đập sông Đáy đúng hôm đó, theo lời mời của giám đốc công ty Thủy lợi số 3. Dự mít-tinh xong vội ra về cùng giám đốc công ty và phóng viên báo Nhân dân là Vũ Hạnh. Khi đi qua lán, nghe nam nữ công nhân đang chua chát chửi:

    - Đ… mẹ tụi miền Nam sướng quá hóa quẩn. Hàng triệu quân mà đánh đấm như vậy. Làm tướng và tổng thống ǵ mà hèn thế, không dám bắn một phát vào đầu tự tử cho con cháu sau này được hănh diện mà đầu hàng một cách hèn hạ như vậy!

    - Ḿnh cứ tưởng miền Nam sẽ ra giải phóng cho kiếp trâu chó của chúng ḿnh, nào ngờ, đù mẹ nó, thế là hết hy vọng! Để cho bọn chúng được nếm mùi “xă hội chủ nghĩa” rồi mới hết phản chiến với du ca. Đ… mẹ cái thằng Trịnh công Sơn!

    - Bọn mấy cái mặt trận dân tộc với liên minh rồi sẽ hết cả tộc với liên. Thân phận bọn Trịnh đ́nh Thảo chưa chắc đă được như Nghiêm xuân Yêm, Đỗ xuân Sảng.

    - Ông mà gặp mấy thằng nhạc sỹ làm bài hát phản chiến th́ ông nhét cà vào mồm nó.

    - Đ… mẹ nó lại làm bài hát ca ngợi “đảng” và “bác” xin đầu quân “ông Lành” (tức Tố Hữu) th́ có khi nó cho mày bú cà nó đấy!



    (Có thể c̣n được nghe giai cấp công nhân “thổ lộ” nhiều bí mật nữa. Nhưng, giám đốc công ty Thủy lợi số 3 “sợ” quá nên cứ thúc ra xe về Hà-nội.)



    Nghe những “nỗi ḷng” nêu trên của “giai cấp chính thống công nhân của miền Bắc XHCN” từ cái thuở 1975 đó mới càng thấm thía trước cảnh lũ khóc mướn cho Trịnh công Sơn ở hải ngoại. Đúng là “ăn cơm “tự do” thờ gia nô cộng sản”.



    Sau này, tập đoàn cộng sản Việt gian đă làm một sự sai lầm không thể cứu văn. Đó là chúng đưa các quân, cán, chính của Việt Nam Cộng Ḥa ra các trại tù ngoài Bắc. Thế là ngay cả những người dân miền Bắc, quá nghèo khổ, không dám và không thể vào thăm miền Nam được, đột nhiên được biết miền Nam qua những con người bằng xương bằng thịt bị tù đày đó và thân nhân của họ từ miền Nam ra thăm nuôi. So sánh với h́nh ảnh của con người miền Bắc bị hơn 20 năm trong tay tập đoàn sát nhân Hồ chí Minh, dù mù cũng thấy đâu là người đâu là thú. Và, công tŕnh tẩy năo, xuyên tạc của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh bị sụp đổ như lầu đài cát. Tất cả các vị quân, dân, chính của Việt Nam Cộng Ḥa bị đưa ra nằm tù ngoài Bắc đều là nhân chứng về chuyện này. Khi ra Bắc th́ bị ném đá. Khi trở về Nam th́ bị ném bằng thuốc lá, bánh chưng! Lữ Phương và những “đồng chí” của Lữ Phương có thể kiểm chứng dễ dàng. Đó là sự thức tỉnh để những năm 1978 trở đi, nhiều người miền Bắc đă đoạn tuyệt với cái bánh vẽ vĩ đại của tên phù thủy Hồ chí Minh, t́nh nguyện đến xứ sở của đế quốc Mỹ và đồng bọn “xin được bị bóc lột”, v́ quá sợ cảnh làm chủ nhân của thiên đường XHCN, dù biết rằng ba người ra đi chắc chắn một người sẽ làm mồi cho cá biển Đông!!! Nghĩa là, ngay dân miền Bắc XHCN, th́ sau 30-4-1975, chợt tỉnh cơn mộng du trên đường lầy do Hồ Việt gian lựa chọn, và họ thà chết c̣n hơn tiếp tục đi con đường lầy của họ Hồ, dù có người đă u mê trên con đường đó một phần tư thế kỷ!



    Những người miền Bắc XHCN được dịp vào phần đất của Việt Nam Cộng Ḥa, ngay cả những người nhiều đời ở cái đất Hà-nội phồn hoa của thuở trước 1954, đều ngỡ ngàng cứ như “chim chích lạc rừng”. Tại Sài-g̣n, hàng hóa chất cao như núi suốt từ phố Lê Lợi qua Trần Hưng Đạo vào tận Chợ-lớn, chưa kể các nơi khác. Người bán “lễ phép” đến mức nhiều người Bắc “phát hoảng” v́ đă bao năm ở ngoài Bắc, chỉ có cảnh người mua phải nịnh và lễ phép với người bán.



    Sách báo của Sài-g̣n bán ra cũng nhiều. Đâu đâu cũng có, nhất là ở “passage” của cao ốc Eden. Có thể mua cả các sách Mác-xít thoải mái, đủ loại. Và, tác giả công khai thích Mác, không chỉ là ngoại quốc mà ngay chính nhà trí thức nổi tiếng là giáo sư Nguyễn văn Trung, từng dạy ở trường Vơ-bị Đà-lạt!!! Cả thơ của Paul Eluard, cả A. Gide bên cạch I-li-a E-ren-bua, Gô-gôn. Và Verlain bên cạnh Pút-xkin v.v… Nghĩa là ở xă hội Việt Nam Cộng Ḥa tha hồ độc giả đỏ, xanh, trắng và cả mọi loại Serie noire đều được hết. Chỉ sợ không có th́ giờ đọc, không đủ tiền mua.

    Ăn uống của Việt Nam Cộng Ḥa cũng khác hẳn. Bên Bắc cầu Hiền-lương th́ hàng quán xa thưa thớt. Nếu có vào cũng chỉ trà xanh, vài quả chuối c̣m và khá hơn th́ vài hột vịt luộc. Qua bờ Nam Bến-hải đă như trời với vực. Quà ăn, nước uống phong phú, sạch đẹp mời chào tận miệng. Gần một phần tư thế kỷ dưới sự thống trị của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, người dân miền Bắc XHCN muốn ăn phải đi t́m như chó t́m xương, lại c̣n phải vẫy đuôi sợ bị đá vỡ mỏ. Nay vào đến đất của Việt Nam Cộng Ḥa, được mời chào cứ như “thị vệ dâng cơm cho vua”. Họ chợt tỉnh cơn u mê gần phần tư thế kỷ để mở đầu cho việc đi t́m lại chính ḿnh.



    Phép lạ của Sài-g̣n Việt Nam Cộng Ḥa biến đổi những người miền Bắc XHCN thành:



    1) Những người có chút lư tưởng th́ bừng tỉnh lo cho số phận của dân tộc Việt Nam rồi sẽ ra sao trên mép vực XHCN. Đó là những người như Nguyễn Hộ, Bùi minh Quốc, Dương thu Hương, Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ Phu) v.v… tuy c̣n ngộ độc của quá khứ ở các mức độ khác nhau!



    2) Những lũ cơ hội đi vô thực dụng một cách tàn bạo. Chúng nhào vào Nam hôi của, ngay chính với cả bà con, họ hàng, thân tộc. Lừa đảo, cướp đoạt trắng trợn.



    3) Những tên lớn bé của bậc thang quan lại đỏ lộ nguyên h́nh yêu ma đội lốt người. Vài thí dụ cụ thể về đàn áp:



    - Quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Ḥa bị lừa đi tù, bị ghép tội “phản động”;



    - Người có của bị ghép tội tư sản, cũng tù đày, tịch thu tài sản; cưỡng bức đi lưu đày vùng hoang hóa;



    - Trẻ em mới học cấp 1 đă bị “cải tạo lao động”, phải đi làm vệ sinh đường phố, làm cả ở những nơi nguy hiểm. Nhiều em chết v́ ḿn, v́ lựu đạn rơi rớt;



    - Lệnh ngăn sông, cấm chợ để trả thù “nhân dân miền Nam” đă không vùng lên khi cộng sản xâm lăng, khiến chết v́ đói, chết v́ mất hy vọng, v́ uất ức biết là bao nhiêu;



    - Nhà tù mọc như nấm, đến mức trường học, bệnh viện, khách sạn v.v… cũng bị dùng làm nhà tù. Thí dụ như khách sạn Đại-lợi ở chợ Ông Tạ (Sài-g̣n)



    - Trong cái không khí đàn áp, trả thù của đạo quân xâm lược mà cũng chỉ có quân xâm lược mới làm như vậy, th́ các đầu nậu chóp bu tập đoàn cộng sản Việt gian Hồ chí Minh sinh hoạt ra sao?



    - Văn pḥng trung ương mafia đỏ lẹ nhất, đă cử người đi khắp miền Nam, đặc biệt là Sài-g̣n và Đà-lạt, để chiếm các vi-la to đẹp nhất, dành cho trung ương.



    - Văn pḥng thủ tướng ngụy quyền Hà-nội cũng cho người nhào dzô để kiếm nhà, kiếm xe cho cái gọi là “nhà khách chính phủ”.



    - Cho đến cả “cuốc hội” ngụy quyền và cái gọi là “mặt trận tổ cuốc” cũng vào xí phần. Khu vi-la ở đường Hiền Vương (sau đổi là Vơ thị Sáu); một số vi-la lớn ở Nguyễn Minh Chiếu và cả ṭa nhà của dược sỹ Nguyễn cao Thăng bị biến thành tài sản của “mặt trận tổ cuốc”.

    - Các bộ, các ngành cũng đua theo, nhiều khi chiếm rồi bỏ đấy như dăy nhà ở Duy Tân – Vơ văn Tần, do tổng cục lâm nghiệp chiếm chỉ có hai, ba gia đ́nh ở để giữ phần. Các pḥng gạch men đẹp như vậy bị dùng làm chỗ nuôi heo và gà!



    - Mấy tên ở bưng về và tụi nắm quyền ở Sài-g̣n như Trần nam Trung, Vơ văn Kiệt chiếm trọn vẹn cả đường Tú Xương! (Thật tội nghiệp cho ông Tú).



    - Lép vế như hai đảng Dân chủ và Xă hội cũng cướp được căn vi-la đồ sộ ở Duy Tân (sau đổi là Phạm ngọc Thạch), gần nhà “đồng chí” thẩm phán tối cao pháp viện của miền Nam là Trần thúc Linh.



    - Vợ và con Lê Duẩn “được” làm ở báo “Sài-g̣n giải phóng” để có quyền chiếm dụng nhà cửa, dư thừa đến mức đóng cửa bỏ đó như ṭa nhà đồ sộ ở cuối đường Vơ văn Tần.



    - Anh em nhà Lê đức Thọ và con cháu th́ khỏi nói. Mai chí Thọ 4 lần đổi nhà, mỗi lần đi sang nhà mới th́ mang hết đồ đạc theo, chỉ trả lại xác nhà. Cuối cùng cướp luôn hai vi-la: an cư tại vi-la ở đường Phạm ngọc Thảo, c̣n vi-la ở đường Duy Tân sau này cho hăng Shell thuê. Thậm chí lũ gia nô của Lê đức Thọ cũng trở thành sáng giá. Thí dụ: Văn Lượng, phóng viên ảnh của Việt Nam thông tấn xă, nhờ theo Lê đức Thọ qua chụp ảnh ở hội nghị Paris về Việt Nam, được đặt lên ghế giám đốc công ty nhiếp ảnh của Sài-g̣n. Nguyễn văn Bẩy, lái xe cho Lê đức Thọ ở Paris, trở thành phó giám đốc sở ngoại vụ của Sài-g̣n. Và, tất nhiên có chức th́ cũng có quyền cướp tài sản của nhân dân miền Nam.



    - Ngay Trường Chinh, người “đồng chí” của tiến sỹ Nguyễn thanh Giang, đă khiến Nguyễn thanh Giang “bật ḷ xo” khi thấy Trần Quỳnh động đến Trường Chinh, cũng cho phép bản thân và con cháu nội ngoại, xa gần quyền ăn cướp. Đến mức, một tên “người dưng nước lă” có công t́m được mộ một người bà con của Trường Chinh bị quân lực Việt Nam Cộng Ḥa trừng trị về tôi xâm lược, cũng được Trường Chinh đích thân ra lệnh cho tụi đô hộ Sài-g̣n cấp cho hắn một căn nhà ở ngay ngă tư Lê Lợi – Pasteur, mà chỉ cần cho mướn cái quầy hàng không thôi đă cho hắn cuộc sống vật chất trên mức phong lưu.



    - Bọn bồi bút như Bảo định Giang, Nguyễn quang Sáng, Đinh Phong, Xuân Hồng v.v… một bước lên vi-la, xe hơi. Trần minh Tước (tức Xích Điểu), nguyên chủ tịch hội nhà báo của ngụy quyền Hà-nội chiếm cả căn lầu lẫn cửa hàng của căn phố ở đường Tự Do (sau đổi là Đồng Khởi), trước khi kiếm được cô vợ trẻ bằng chưa đến 1/3 tuổi của hắn th́ tạm thời cặp bồ với Kiều mộng Thu.



    - Diệp minh Châu chiếm căn vi-la số 222 đường Pasteur với đầy đủ đồ đạc, xe hơi (nghe đâu đó là tư gia của ông Nguyễn Đệ, đổng lư văn pḥng của quốc trưởng Bảo Đại).



    - Ngay những nhân vật “nhếch nhác” ở Hà-nội trước 4-1975 như luật sư Nguyễn thành Vĩnh cũng lên hương. Cũng chiếm được nhà cửa xe cộ và béo trắng, bệ vệ hẳn ra. C̣n Trần văn Giàu cũng chiếm được một cái vi-la đồ sộ, cuối năm 2001 mới đây bán được mấy ngàn lạng vàng, đă bỏ ra 1000 lạng làm giải thưởng lịch sử hằng năm cho các nhà “xuyên tạc lịch sử” trong thế hệ trẻ. Không con cái, Trần văn Giàu muốn đi với lịch sử măi măi. Hắn già nên nghĩ quẩn mà thôi, chắc chắn chỉ riêng tín đồ Ḥa Hảo cũng sẽ măi măi nhớ tên Trần văn Giàu, Dương bạch Mai là những đứa đă hăm hại Đức Huỳnh Giáo Chủ và hàng chục ngàn tín đồ và chức sắc Ḥa Hảo khác!



    Cuộc chiến thắng của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh trong việc xâm lăng miền Nam Việt Nam, là một mất mát không ǵ bù đắp được cho không chỉ đối với nhân dân miền Nam mà là cho cả đất nước Việt Nam. Lịch sử bị kéo lùi lại c̣n tệ hơn thời thực dân Pháp cai trị. Các giá trị vật chất, tinh thần bị phá hoại nghiêm trọng, không biết phải bao thế hệ nữa mới hàn gắn lại được. Cái mất mát lớn nhất là sự kỳ thị Bắc – Nam; là truyền thống gia đ́nh bị đổ vỡ v́ cảnh “miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”.



    Bọn đệ tử của Hồ, những Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng thi hành tiếp lịch tŕnh của Hồ đă vạch, bất chấp thực tế xă hội. Lê Duẩn cầm đầu một phái đoàn gồm gần trọn vẹn chính trị bộ của đại hội mafia đỏ lần 4, sang mẫu quốc đỏ Nga-xô kư hiệp ước “hữu nghị và hợp tác”, nội dung na ná như hiệp ước Patenôtre. Nghĩa là gần như công khai Việt Nam trở thành một bộ phận lănh thổ Nga-xô. Chính Tố Hữu, trong hội nghị tuyên huấn đă phấn khởi tuyên bố: “Cơ duyên đă khiến Việt Nam trở thành cái đuôi của phe XHCN”!



    Và, 1979 cái đuôi đó bắt đầu quậy sang Tây-Nam để thành chiến tranh bành trướng sang Căm-bốt và phía Bắc để đoạn tuyệt với “anh hai Trung cộng”, giữ phẩm tiết “tôi chung thờ một chúa”, đó là Nga-xô!



    Có nhiều nguyên nhân thúc đẩy bọn đệ tử của Hồ phát động chiến tranh, nhưng cũng có một nguyên nhân quan trọng là bọn chúng vốn được h́nh thành để chém giết, phá hoại; có thói quen cai trị trong thời chiến và thói quen ăn cướp để tồn tại. Nói một cách khác, cái tổ chức Việt gian cộng sản của Hồ là tụi phi sản xuất tuyệt đối, là kư sinh trùng của xă hội. Cho nên chúng phát động chiến tranh để ăn cướp thêm của dân cả hai phía: Việt Nam và Căm-bốt; để duy tŕ sự độc tài; để đổ lỗi cho chiến tranh gây ra mọi khó khăn cho dân, y hệt Hồ một mặt xâm lăng miền Nam, một mặt đổ lỗi cho “Mỹ-Ngụy” là nguyên nhân gây ra mọi đói kém của miền Bắc!!! Và, quan trọng nhất là chúng thực hiện mục tiêu là nguyên nhân ra đời cái tổ chức Việt gian của chúng. Đó là “đảng cộng sản Đông-dương”, công cụ bành trướng của thực dân đỏ.



    Ngay sau đại hội mafia đỏ lần 4 (1976), nh́n vào thành phần trung ương mafia đỏ, người ta đă thấy đây là nhân sự để làm chiến tranh.



    Nhưng cái nguyên nhân chủ yếu gây chiến tranh sang Căm-bốt của tập đoàn cộng sản Việt gian là chúng muốn tiêu diệt sự vùng lên của nhân dân miền Nam Việt Nam.



    Sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, tập đoàn Việt gian cộng sản, qua cuộc chiến Xuân-lộc, qua việc nhân dân miền Nam không nổi dậy như chúng mong muốn, mà chỉ có tụi nằm vùng của chúng cùng lũ lưu manh trộm cắp mà nhân dân miền Nam gọi là “cách mạng 30”. Như ở Sài-g̣n, lũ gọi là đoàn luật sư do Đỗ hữu Cảnh cầm đầu; tụi sinh viên phản chiến do Dương văn Đầy, Kim Hạnh lèo lái; Trịnh công Sơn lên đài hát bài “nối ṿng tay lớn”, có sự phụ họa của tụi Miên đức Thắng; rồi bọn công an nằm vùng Huỳnh bá Thành, Vũ ngọc Nhạ; bọn cơ hội như Nguyễn văn Bảy ở hội công thương; Kiều mộng Thu, Ngô công Đức, Lư quư Chung, thẩm phán Trần thúc Linh, mụ Ngô bá Thành, giáo sư Lê văn Thới, Vũ Hạnh, phó thủ tướng Nguyễn văn Hảo, “chuẩn tướng” Nguyễn hữu Hạnh v.v… là vẫy đuôi mừng quân xâm lược. C̣n nhân dân miền Nam lại tiếp tục sinh hoạt b́nh thường. Mỹ thôi “can thiệp”, quốc tế “giả mù giả điếc”. Cho nên tập đoàn Việt gian cộng sản hết do dự, nhất là sau khi đă lừa được quân, dân, chính miền Nam vào các trại tù. Đấy là bước thứ nhất. Như vậy là chúng tạm thời vô hiệu hóa được lực lượng nguy hiểm trước mắt là quân đội, chính quyền và các đảng phái chính trị.

  10. #20
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 19


    Bước thứ hai là tập đoàn Việt gian cộng sản vô hiệu hóa sức của nhân dân ở đô thị miền Nam bằng các chiến dịch đổi tiền; chiến dịch tiêu diệt tư hữu mang tên X1 và X2, và đuổi đi lưu đày ở rừng núi hoang hóa. Chúng hiểu rằng hoàn toàn khác với nông thôn, người dân đô thị hầu hết không ủng hộ chúng và thời gian họ sẽ là lực lượng chống đối mănh liệt bộc lộ dưới nhiều phương diện, cả kinh tế, cả văn hóa, cả sinh hoạt xă hội.



    V́ vậy chúng quyết định “thừa thắng xông lên”. Cho nên mới có chuyện điều động lực lượng ra biên giới với Lào và Căm-bốt, bằng cách lập nông trường quân đội, đẻ ra cái gọi là “tổng cục kinh tế của bộ quốc pḥng”, và di dân từ Bắc vào, di nguyên cả làng. Bởi trong hai chục năm chiến tranh, các làng xă ở Bắc Việt Nam đều là “dân vi binh”. Có ban chỉ huy cấp tiểu đoàn ở xă. Và dân quân th́ thông thạo sử dụng đủ loại vũ khí, đến mức dân quân vùng biển có pháo tầm xa để bắn ra tàu biển. Cho nên cần nhớ rằng: Di dân Bắc vào và thành lập các nông trường quân đội chính là điều động binh lực chốt ở biên giới định làm cuộc chiến bành trướng bất ngờ.



    Nếu bước thứ nhất, tập đoàn Việt gian cộng sản tạm thành công việc vô hiệu hóa quân, dân, chính, đảng ở miền Nam, th́ bước thứ hai là vô hiệu hóa nhân dân đô thị đă không như ư muốn của chúng. Nhiều tổ chức phục quốc với nhiều danh xưng khác nhau mọc lên khắp nơi. Tuy rằng chưa có tổ chức nào gây được tiếng vang lớn, nhưng đó là chỉ dấu hoàn toàn khác với sự an phận của nhân dân miền Bắc sau 1954.



    Vừa nằm trong âm mưu “giữ con tin”, vừa có nhân lực cho chiến tranh bành trướng thực dân đỏ, tập đoàn Việt gian cộng sản tiến hành bước ba, nghĩa là chúng bắt thanh niên nam nữ của miền Nam vào “thanh niên xung phong” và đi “lính ngụy cộng sản”. Như thế là chúng sẽ tiêu diệt được lực lượng đối kháng tương lai, dùng địch giết thế hệ trẻ của miền Nam và dùng máu xương thế hệ trẻ của miền Nam mở rộng địa bàn của chủ nghĩa thực dân đỏ. Đồng thời cột gia đ́nh những thanh niên bất hạnh đó vào cái lồng vô h́nh “cha mẹ, vợ con bộ đội cách mạng”, không dám giúp đỡ các tổ chức “phục quốc” của miền Nam.



    Từ một ḷ ma giáo mà ra, nên đường đi nước bước của tập đoàn Việt gian cộng sản làm sao qua mặt được “anh hai Trung cộng”, v́ thế cả Uông đông Hưng, thường vụ chính trị bộ Trung cộng và Đặng dĩnh Siêu, vợ của Chu ân Lai, th́ thọt qua Căm-bốt với Pôn-pốt, Khiêu-xăm-phon và Iêng-xa-ri. Và, kẻ bị bất ngờ lại là tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng, chết chóc, tang tóc đau khổ vẫn giáng lên đầu nhân dân, cả miền Nam, cả miền Bắc. Một phong trào phản kháng kiểu mới bùng nổ không ǵ cản nổi: vượt biên bằng mọi giá của nhân dân cả hai miền Nam và Bắc.



    Khỏi cần nhắc lại cái giá của cuộc vượt biên đi t́m tự do.



    Khỏi cần nhắc lại những khó khăn của những người tỵ nạn cộng sản Việt Nam phải vượt qua để hội nhập với nơi cư trú mới, kiến lập cuộc sống ổn định. Và, những gương thành công mọi mặt từ kinh tế đến khoa học kỹ thuật của cộng đồng người Việt hải ngoại đă được thống kê và nhắc đến nhiều.



    Cái đáng nói là vẫn mở đầu bằng quân lực Việt Nam Cộng Ḥa trong cuộc chiến kiểu mới chống tập đoàn Việt gian cộng sản. Đó là phó đề đốc Hoàng cơ Minh, là đại tá Vơ đại Tôn, là anh hùng Lư Tống v.v… Từ đó các tổ chức yêu nước tự phát h́nh thành, phối hợp với nhau đă gây nên tiếng vang cả quốc tế, cả trong nước.



    Sự thành công trong cuộc chiến của cộng đồng người Việt hải ngoại chống tập đoàn Việt gian cộng sản, khiến chúng không dám hỗn láo gọi cộng đồng người Việt hải ngoại là “đĩ điếm, phản động, tỵ nạn kinh tế v.v…”. Chúng phải thừa nhận cộng đồng người Việt hải ngoại là Việt kiều yêu nước!!! Và, chúng thi hành những âm mưu thâm độc là cài người nằm vùng trong các tổ chức của cộng đồng người Việt; lèo lái, mua chuộc những tụi cơ hội; đe dọa những người trót làm “ăng ten” cho chúng khi c̣n ở trong nước, khi c̣n ở các “trại cải tạo” để làm việc cho chúng, từ kinh tế lái sang văn học nghệ thuật rồi cái đích cuối cùng là lập trường chính trị. Thủ đoạn của chúng là phá sự đoàn kết của cộng đồng, phân hóa thành nhiều phe nhóm; phá hoại trong từng nhóm; đẻ ra nhiều quan điểm để mọi người mất th́ giờ tranh luận, quần chúng thầm lặng chán nản. Khai thác tính ngại khó ngại khổ, nôn nóng và vụ lợi của người ta (nói chung) để đưa ra những lập luận “nghe th́ có vẻ ôn ḥa, hợp lư” nhưng thực ra rất nguy hiểm như “ma túy bọc đường”. Bên cạnh đó th́ chúng tung tin bịa đặt để dần dần làm mọi người lúc nào cũng “hoài nghi”, không biết tin vào đâu.



    Hoàn toàn khác với miền Bắc trước 4-1975. Loại trừ sự phản kháng với kiểu “lửa rơm” của “nhân văn – giai phẩm”, mau chóng bị dẹp, sự phản kháng của nhân dân miền Bắc Việt Nam cao nhất là “lăn công, lăng phí, buôn lậu, phá hoại sản xuất” mà cũng chỉ là tự phát, không có tổ chức. Ngoài ra, trong lĩnh vực văn học cũng chỉ t́m cách “luồn lách” vài bài chửi chế độ một cách bóng bẩy, xa xôi đến mức quần chúng cũng chẳng để ư tới. Và nực cười là chính lũ gác cửa ṭa nhà văn nghệ của chúng v́ la lối nên mới làm cho người đọc hiểu ra cái mặt thật của ông Lư Toét!!!



    Về danh nghĩa, có hai đảng Dân chủ và Xă hội, nhưng lănh đạo chủ yếu lại là “chi bộ cộng sản” nằm vùng với mấy con rối như Nghiêm xuân Yêm, Trần đăng Khoa, Nguyễn Xiển, Đỗ xuân Sảng v.v… tất cả đều không c̣n gan và mật và bộ óc th́ chín phần mười được thay bằng bă đậu phụ!!!



    Cho nên hai đảng Dân chủ và Xă hội được dùng làm đồ trang trí cũng như làm “bông hoa mướp vàng” để câu mấy chú ếch làm chính trị ở trong Nam như Lâm văn Tết, Dương quỳnh Hoa, Trương như Tảng, Trần bửu Kiếm v.v… như nhóm gọi là “thành phần thứ 3” ở Vạn Hạnh v.v… hay cha con Ngô bá Thành, tụi “phản chiến” như anh em Hoàng phủ ngọc Tường, Trịnh công Sơn, Lê văn Hảo, Miên đức Thắng v.v…



    Tập đoàn Việt gian cộng sản, dưới sự chỉ đạo của tên gián điệp dày dạn Hồ chí Minh, trong thực tế đă vô sản hóa toàn dân miền Bắc, nô lệ hóa từ trí thức tới tiểu thương buôn thúng bán mẹt, mua bán ve chai, cho tới cả các đảng phái không cộng sản, nhân sỹ và các hội đoàn tôn giáo. Cho nên Hồ không cần ghi vào hiến pháp 1959 của hắn “sự độc quyền lănh đạo”. Và, cũng không thể ghi như thế được, v́ đó là cái “lỗ hổng” để Hồ lừa những chú dế mèn ở miền Nam, có bệnh đứng núi này trông núi nọ, làm cái chuyện “dế mèn phiêu lưu chính trị”!!!



    C̣n ở miền Nam Việt Nam sau 1975, lũ đệ tử Việt gian cộng sản của Hồ phải đương đầu với tinh thần làm chủ, ư chí bất khuất của nhân dân miền Nam, sau khi đă được sờ cái “thiên đường XHCN ở miền Bắc” không chỉ qua đường lối cai trị mà bằng “những con người mới XHCN” từ miền Bắc vào, trông na ná như người đói của Thái-b́nh năm Ất Dậu (1945) bỏ làng đi t́m miếng ăn!



    Các tổ chức chống cộng ồ ạt nổi lên hệt như các phong trào nổi lên của người Việt Nam thời Bắc thuộc và thời thực dân Pháp. Tổ chức nào cũng có tuyên ngôn, cương lĩnh chính trị và dùng biện pháp vũ trang phục quốc.



    Những h́nh ảnh lịch sử của Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu được tái lập qua các anh hùng của lực lượng vũ trang của Việt Nam Cộng Ḥa như liệt sỹ Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Văn Long v.v…



    Những h́nh ảnh hiên ngang, tự hào là quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa, ngay trong hàng rào kẽm gai, ngay trước họng súng của cai ngục công sản như tấm gương của trung úy Vơ Văn Tưng (Ḥa Hảo, cùng ở trại giam ngày đầu tiên với trung tướng Huỳnh văn Cao) không phải là cá biệt. Trong nhà tù của Việt gian cộng sản có rất nhiều tù nhân mới ở lứa tuổi 16, đă tự nguyện vùng lên lật ách cộng sản. Tuy ngoài mặt bọn công an, báo chí của tập đoàn Việt gian cộng sản “chế giễu” những tổ chức đó, nào là “ngoan cố”, nào là “vài mống”, nào là “rổm”, đủ thứ ngôn ngữ mà bọn chúng chế biến được. Nhưng, thực ra chúng hiểu rằng những đốm lửa quật cường đó tuy “nhỏ”, “lẻ loi”, nhưng lại đều khắp, và nếu có “thời cơ”, sẽ có thể thành băo lửa. Đấy là lư do các đệ tử của Hồ phải xóa sổ hai đảng Dân chủ và Xă hội, ghi vào hiến pháp của chúng sự độc quyền đảng trị của tập đoàn Việt gian cộng sản.



    Nghĩa là chúng có thể nới lỏng về kinh tế (chấp nhận thành phần kinh tế tư nhân); nới lỏng về văn hóa (văn thơ mùi mẫn, bớt sắt máu). Nhưng về chính trị và tư tưởng th́ chúng vẫn ngoan cố bám giữ và độc quyền nắm lực lượng vũ trang (lính, công an và hải quan).



    Nói tóm lại, những dẫn chứng ở trên đă chứng minh rằng, trước 4-1975, ở miền Bắc Việt Nam:



    - Không có cá nhân hay tổ chức nào tranh quyền lănh đạo với tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh (ngoại trừ đấu đá nội bộ giữa “xét lại” và “giáo điều” th́ cả hai vẫn là cộng sản);

    - Cần thiết giấu mặt “độc tài đảng trị” để lừa miền Nam Việt Nam (và cả quốc tế nữa).

    Cho nên Hồ không cần ghi vào hiến pháp của hắn điều khoản độc tài đảng trị.

    C̣n sau tháng 4-1975, ở miền Nam Việt Nam:



    * Các tổ chức Phục quốc nổi lên như nấm, cùng có mục tiêu chung là “lật đổ tập đoàn Việt gian cộng sản, xóa bỏ chế độ cộng sản và hệ lụy của nó”;



    * Đặc biệt sự h́nh thành của cộng đồng người Việt ở hải ngoại là thách đố thường trực đối với tập đoàn Việt gian cộng sản. Tuy chưa thống nhất được lực lượng do âm mưu của tập đoàn Việt gian cộng sản cài người nằm vùng đánh phá, gây chia rẽ trong cộng đồng, làm phân hóa lực lượng, giành quyền kiểm soát cộng đồng. Nhưng sức mạnh của cộng đồng cả kinh tế, cả văn hóa, cả chính trị đă lay động sự lănh đạo của tập đoàn Việt gian cộng sản khiến chúng bị động và cũng bị phân hóa lực lượng, ngày càng lộ nhược điểm chủ yếu;



    * Cộng đồng người Việt hải ngoại là chỗ dựa cả tinh thần và cả vật chất cho nhân dân quốc nội vùng lên.



    Nhờ sự đấu tranh bền bỉ của cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà “toàn bộ” các cá nhân, các nhóm bất đồng chính kiến ở quốc nội mới thoát ra ẩn số, được quốc tế biết đến, được các giải thưởng quốc tế, cho nên tập đoàn Việt gian cộng sản không dám “khát máu”, uyển chuyển trong đàn áp. Sự ra đời nghị định 31/CP do Vơ văn Kiệt kư, sau Phan văn Khải bổ túc lại. V́ thế, ít ra những người bất đồng chính kiến cũng an tâm chịu tù, quản chế nhưng không sợ bị thủ tiêu hoặc tử h́nh.



    Đó là lư do chủ yếu tập đoàn Việt gian cộng sản phải dựa vào hiến pháp của chúng “điều 4” và “bảo vệ nó như con ngươi của mắt”.



    Việc “đưa điều 4 vào hiến pháp” không hề trái với tư tưởng chủ đạo của Hồ như một số cây bút “đấu tranh” cố t́nh hư cấu chạy tội cho Hồ. V́ Hồ luôn căn dặn đệ tử:

    * Không được chia quyền lănh đạo lực lượng vũ trang;

    * Phải xây dựng thành công CNXH;

    * Yêu nước là yêu CNXH.



    Thử hỏi:

    Tại sao tập đoàn Việt gian cộng sản phải “độc quyền” lực lượng vũ trang?

    Bởi “độc quyền” lực lượng vũ trang th́ mới thực hiện được trọn vẹn sự độc tài đảng trị. Cho nên dù có như thời của những năm 50, sau Hồ khi nắm trọn được lính và công an, th́ trên thực tế Chính phủ Liên hiệp đa đảng chẳng c̣n quyền ǵ. Đó là một cuộc đảo chính âm thầm.



    Và, cũng v́ “độc quyền” nắm giữ lính và công an nên Hồ mới cho bắt “nhóm xét lại” dễ như tḥ tay vào túi vậy.



    Nhưng có một ư nghĩa quan trọng hơn cả là phải dùng lính và công an để bắt nhân dân xây dựng chủ nghĩa xă hội, có nghĩa bản thân Hồ (và bây giờ là lũ đệ tử) cũng hiểu cái chủ nghĩa xă hội chẳng có ích lợi ǵ cho nhân dân Việt Nam mà chỉ đem lại sự hưởng thụ trọn vẹn cả tinh thần cả vật chất cho Hồ và tập đoàn Việt gian của hắn mà thôi.



    Một câu hỏi khác:



    Tại sao phải xây dựng thành công chủ nghĩa xă hội?



    Trước hết phải nói đến nội dung của chủ nghĩa xă hội, mà như bọn Việt gian cộng sản truyên truyền rằng:

    1- Có năng xuất lao động cao hơn hẳn năng xuất lao động của chủ nghĩa tư bản;

    2- Không có cảnh người bóc lột người;

    3- Làm theo năng lưc, hưởng theo việc làm;

    4- Tài nguyên đất nước, tài sản xă hội đều thuộc quyền sở hữu của toàn dân.



    Cái nội dung trên, thực tế như son phấn tô điểm trên mặt gái điếm hay kiểu “nước vỏ lựu, máu mào gà” mà cụ Nguyễn Du viết trong truyện Kiều mà thôi. V́ chưa thấy đạt được một điểm nào ngay chính tại Nga-xô cũ.



    C̣n cái nội dung đích thực chính là:

    * Bần cùng hóa toàn dân. Toàn bộ tài nguyên đất nước, tài sản xă hội, toàn thể nhân dân đều thuộc quyền sở hữu của tập đoàn Việt gian cộng sản. Có như vậy chúng mới “tự do” thực thi chiến lược bành trướng của mẫu quốc đỏ. Và, gần đây nhất (1999-2001) chúng đă dâng đất, dâng biển cho “anh hai bá quyền Trung cộng” của chúng, coi nhân dân chỉ là con số “0”!!!



    Bốn cái nội dung mị dân nói trên bị lộ vở, v́ ngay Nga-xô và khối Đông-âu t́m măi để cuối cùng trở lại lối ṃn của kinh tế thị trường! Cho nên bây giờ chúng cố moi ra cái gọi là kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Đó là tiếng lóng của mafia đỏ cộng sản, mà nghĩa đen của nó là:



    * Kinh tế thị trường là nới lỏng cái tḥng lọng kinh tế, cho họ hàng tay chân dựa vào sự nới lỏng đó mà bung ra làm kinh tế, tự nuôi lấy thân mà phục vụ tập đoàn Việt gian cộng sản, tha hồ bóc lột dân;



    * Định hướng XHCN là tất yếu tập đoàn Việt gian cộng sản phải là chủ nhân của lực lượng vũ trang, chủ nhân của tài nguyên đất nước và chủ nhân của đám “quan lại đỏ, cường hào đỏ” và chủ nhân của toàn dân.



    Sự khác biệt với trước kia là xă hội có thêm giai cấp tư sản đỏ và địa chủ cường hào đỏ là chỗ dựa của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhân dân lao động bao gồm công nhân, nông dân, tiểu chủ trở thành đối tượng bị bóc lột. Bản thân những tên trong trung ương mafia đỏ và tay chân thân cận thành “cá mập đỏ” và bọn chúng cấu kết thành “tập đoàn tài phiệt đỏ”, chia sẻ quyền bóc lột nhân dân Việt Nam, tài nguyên của Việt Nam với các tập đoàn tài phiệt quốc tế.



    Câu hỏi chót là: Tại sao yêu nước lại phải yêu CNXH?

    Bộ trước khi tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh mang bệnh Aids XHCN về Việt Nam th́ ở Việt Nam không có khái niệm yêu nước và không có ai yêu nước sao? Cho nên đây cũng là lối nói tiếng lóng của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, mà nghĩa đen là: Ai không yêu tập đoàn Việt gian cộng sản là bị khép tội không yêu nước. Và tất nhiên không yêu nước th́ phải giết đi hoặc cho vào tù khổ sai. Tại sao lại có ư nghĩa như vậy? Bởi v́ cái gọi là CNXH th́ chưa ai biết nó “đầu dê ḿnh ngựa” ra sao, ngay tại cả Nga-xô trước đây (nói CNXH với bốn cái nội dung trên). Cho nên chỉ c̣n lại cái gọi là “đảng cộng sản” là những kẻ tự hào cho là biết h́nh thù cái CNXH đó như thế nào và sẽ lănh đạo mọi người đi t́m CNXH. Chứ các đảng khác như ở Việt Nam th́ có VNQDĐ, Đại Việt, Duy Dân, Phục Quốc v.v…, thế giới có các đảng Cộng ḥa ở Mỹ, Bảo thủ ở Anh, Dân chủ Tự do ở Nhật v.v…, chẳng đảng nào biết và t́m cái gọi là CNXH.



    Bởi thế, tập đoàn Việt gian cộng sản cố t́nh giáo dục thiếu nhi như chúng nêu lại “mục tiêu giáo dục đào tạo” nhân cái gọi là kỷ niệm 60 năm thành lập đoàn thiếu niên tiền phong, là:



    “Một ḷng một dạ trung thành với đảng (tức cộng sản)… phấn đấu trở thành cháu ngoan bác Hồ, đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ chí Minh”!!! (Nhân dân điện tử, số 773, chủ nhật, 13-5-2001).



    Cho nên “tư tưởng lưu manh của Hồ” trong câu: yêu nước là yêu chủ nghĩa xă hội, muốn căn dặn đệ tử rằng: Ai chống đảng cộng sản là chống chủ nghĩa xă hội, ai chống chủ nghĩa xă hội là không yêu nước, là phản quốc nên cứ việc giết thẳng tay hoặc cho đi tù khổ sai chung thân.



    Thử tính xem, từ ngày Hồ chí Minh và tập đoàn Việt gian cộng sản của hắn đảo chính Chính phủ Liên hiệp đa đảng, tiếm quyền thống trị, bọn chúng đă “giết” và “bỏ tù” bao nhiêu chục triệu nhân dân Việt Nam. Cuộc chiến xâm lược miền Nam Việt Nam do Hồ phát động cũng chính nhằm mục đích trừng phạt nhân dân miền Nam v́ không yêu CNXH, tức không “yêu nước” nên bị Hồ gọi là “ngụy”, là “phản động”.



    V́ thế, người Việt ở hải ngoại nên cảnh giác lối chơi chữ và nói tiếng lóng của tập đoàn Việt gian cộng sản. Bị dụ khị bởi cụm từ “kinh tế thị trường” nhào về Việt Nam làm ăn (dù động cơ “chụp giựt” hay “muốn xây dựng đất nước”), coi chừng cái “”định hướng XHCN” sẽ nuốt cả vốn lẫn lăi và có khi cả thân xác nữa đấy!!! (v́ XHCN là vô sản hóa, là nô lệ hóa). Lúc há miệng kêu, chúng sẽ nói rằng chúng đă ghi rơ là “định hướng XHCN” đấy thôi; y như bài học hơn hai mươi năm trước đây của cái gọi là “duy tŕ năm thành phần kinh tế” và “đóng tiền đi học tập 10 ngày”.



    Hiện nay, tập đoàn Việt gian cộng sản đă thống nhất cấu kết với nhau dâng đất dân biển cho Trung cộng. Đây là gót chân Archill của chúng. Mọi cây bút có trách nhiệm của quốc nội và hải ngoại cần tập trung vạch mặt Việt gian dâng đất, dâng biển cho Trung cộng của chúng, từ khi Hồ c̣n cầm quyền đến nay là Nông đức Mạnh, có sự nhất trí của tất cả các đời “tổng bí thư” của chúng là Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và Nông đức Mạnh, cũng như tất cả những tên từng là thành viên chính trị bộ của chúng, từ thời Hồ đến nay.



    Nếu nhân dân quốc nội, nhất là nông dân, được giải phóng khỏi cái “thần tượng” Hồ chí Minh th́ họ sẽ thấu hiểu sâu sắc rằng muốn có tự do, cơm no, áo ấm cho bản thân và các thế hệ con cháu, th́ chỉ có một con đường duy nhất: đó là nỗ lực thay đổi thể chế xă hội hiện nay ở Việt Nam, để cho nhân dân thực sự là chủ, thực sự tự do bầu người đại diện để quản lư đất nước và bảo vệ toàn vẹn lănh thổ của Tổ quốc Việt Nam.

    Hồ là chỗ dựa lư luận của tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền hiện nay. Bọn chúng đă và đang nhét một lô các luận điệu mị dân, các bánh vẽ vào cái gọi là “tuyển tập Hồ chí Minh”. Cái ǵ Hồ lỡ miệng nói láo th́ chúng bỏ đi hoặc sửa lại cho phù hợp với hiện tại. Chúng c̣n cố t́nh bịa thêm vào cái gọi là “kho tàng” của “tư tưởng Hồ chí Minh” khiến những nhà nghiên cứu, quen như ở các nước thuộc thế giới tự do, dựa vào đống tài liệu giả đó th́ làm sao hiểu được sự thật, và mất th́ giờ như mấy nhà giả kim thuật thời trung cổ vậy.



    Cho nên các ng̣i bút ở hải ngoại cần tập trung đánh vào nền tảng lư luận của tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền là “tư tưởng Hồ chí Minh”, là “chủ nghĩa Hồ chí Minh” do mấy cây bút “chống đối” hư cấu.



    Nhiều bộ óc cả nể đă đưa ra những lập luận mơ hồ, nước đôi. Họ không dám (mà cũng có thể là không nỡ) tách bạch cái đúng và cái sai của những ng̣i bút “chống đối” hoặc “ly khai”.



    Thí dụ: Ông Bùi Tín

    Trong các sách của ḿnh và các bài viết, có công vạch phần nào “mặt thật” của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh. Nhưng ông cũng để lộ ra nhiều “mặt giả”. Ngay bản thân ông ta, cũng chưa thấy cái sai (kiểu cộng sản) khi ông ta hăm hở viết cuốn “Mặt thật các tướng ngụy Sài-g̣n”, với nhiều t́nh tiết của ng̣i bút được đào tạo và nhuần nhuyễn “bôi đen, tô hồng”. Ông Bùi Tín có thể bôi bẩn trọn vẹn các tướng lănh của QLVNCH mà chắc chắn hoặc ông chỉ nghe nói hay “hư cấu”. C̣n với các tướng ngụy cộng sản, ông đă được chung sống với chúng th́ chưa thấy ông vạch “mặt thật” hết bọn chúng ra, kể cả Vơ nguyên Giáp.



    Ông Trần Độ

    Vẫn c̣n tự hào là môn đồ trung kiên của Hồ, vẫn chưa thấy cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam là một vết đen trong đời ông, từ một người yêu nước biết thành kẻ giết dân mà ông đầy tự hào.



    Ông Nguyễn thanh Giang

    Có nhiều mâu thuẫn trong viết và trả lời phỏng vấn khiến lúc ông đỏ, lúc xanh, không rơ ràng. Gần đây nhất, trong cuộc trả lời phỏng vấn của đài Little Saigon, ông nói “lănh đạo cộng sản bị Trung cộng lừa”, trong vụ kư kết hiệp định biên giới Việt-Hoa. Nội dung đó là sự xuyên tạc trắng trợn, bây giờ cũng nguy hiểm và càng nguy hiểm hơn cho thế hệ Việt Nam tương lai. V́ căn cứ vào lời phát biểu của một “nhân vật chống đối nổi tiếng” cả trong và ngoài nước; một người có bằng cấp tiến sỹ, nghĩa là “dùng chữ chính xác”, “ăn nói có suy nghĩ” th́ như vậy, tập đoàn Việt gian cộng sản vô tội, chúng bị lừa nên chúng chỉ là nạn nhân thôi.



    Thời Hồ cầm quyền, tập đoàn Việt gian cộng sản đă dâng đất, dâng biển cho Trung cộng. Chứng cớ rành rành với chữ kư của Ung văn Khiêm (1956) và Phạm văn Đồng (1958). C̣n hiện nay, từ 1997 cho đến khi đặt cọc mốc đầu tiên tháng 12-2001, trong 4 năm trời tin đi mối lại với đủ bộ mặt đặc sệt Việt gian là Nguyễn văn Linh, Vơ văn Kiệt, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Lê khả Phiêu, Nguyễn mạnh Cầm, Trần đức Lương, Nông đức Mạnh, Nguyễn văn An th́ thọt sang Tàu, lén lút kư, lén lút thông qua, bất chấp mọi tiếng nói cảnh tỉnh của từ cụ Đỗ việt Sơn, đến luật sư Lê chí quang và .v.v…, cả trong và ngoài nước. Xin hỏi ông tiến sỹ Nguyễn thanh Giang rằng: Quá tŕnh hành động của tập đoàn Việt gian cộng sản như vậy là chúng ngoan cố và cố t́nh dâng đất, dâng biển cho Trung cộng “hay là chúng bị lừa”. (Nghĩ rằng ḷng trung thực sẽ thúc đẩy ông lên tiếng cải chính v́ chót lỡ lời). Tṛ “ảo thuật” chỉ qua mắt một số nào đó vô t́nh, nhưng không thể qua mắt được số đông, trước sau cũng lộ vở. Chuyện đời là như vậy!



    Tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền tiếp tục thần thánh hóa họ Hồ.



    Một số ng̣i bút “chống đối” ở quốc nội và hải ngoại tiếp tục đề cao họ Hồ qua huyền thoại và hư cấu ra cái gọi là “chủ nghĩa Hồ chí Minh”.



    Hai bên rơ ràng cùng thờ một chủ. Hay nói cách khác là giống như xưa kia tờ Nouvel Observateur đă vẽ hư họa cuộc đấu đá của “xét lại” và “giáo điều”. Có nghĩa họ là anh em cùng cha khác mẹ.



    Một bên là định hướng xă hội chủ nghĩa và độc quyền đảng trị.



    Một bên “hứa” đa đảng (như Hồ thuở 1945-52) và xây dựng chủ nghĩa xă hội (kiểu mô h́nh Hồ chí Minh đă thể hiện qua “cải cách ruộng đất”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” và v.v…). H́nh thù vẫn là cái bánh vẽ của người chưa được cầm quyền, giống hệt khi Hồ c̣n chưa nắm được quyền lực trọn vẹn. Và với cái “chủ nghĩa Hồ chí Minh” chỉ đạo, họ sẽ hành sử như thế nào là điều có thể thấy được rồi.



    Cộng đồng người Việt hải ngoại nên ôn lại bài học lịch sử đă qua. Nếu không sẽ là câu chuyện gậy ông đập lưng ông. Trong khi chúng ta ủng hộ, cổ vơ, bảo vệ những cây bút đeo nhăn “chống đối” mà không phê phán những quan điểm sai trái của họ, thế là chính chúng ta đánh bóng họ từ A đến Z, làm cho họ thoát ra ẩn số. Có uy tín cả trong nước, cả quốc tế. Hầu hết họ được giải thưởng quốc tế hoặc được đề nghị xét tặng giải thưởng quốc tế là hoàn toàn do công sức của cộng đồng người Việt hải ngoại. C̣n người Việt ở hải ngoại có biết bao người bị bỏ quên như Lư Tống, Hoàng cơ Minh, Vơ đại Tôn, kể cả những người đă hy sinh như Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch và bao ng̣i bút đấu tranh không mệt mỏi như Nguyễn Văn Canh, luật sư Nguyễn Văn Thắng, Tưởng Năng Tiến, Đại Dương, Lê Hữu Mục, Vơ Văn Aí, Phương Nam, Trần B́nh Nam, Trần Viết Đại Hưng, Trương Gia Phụng, Lâm Lễ Trinh, Đinh Từ Thức, Trực Ngôn v.v…



    Thử tưởng tượng, v́ tội ác dâng đất dâng biển cho Trung cộng quá rơ ràng (chứ không phải bị lừa như tiến sỹ Nguyễn thanh Giang nhận định), nên tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền đành lùi một bước. Giả dụ là xóa bỏ điều 4 trong hiến pháp của chúng (v́ chúng vẫn c̣n độc quyền lực lượng vũ trang, công an) và cho bầu lại quốc hội có giám sát quốc tế. Chúng ta thử nghĩ xem, cũng giả dụ là ông Vơ Đại Tôn và luật sư Nguyện Văn Thắng từ hải ngoại về mà cũng được ứng cử th́ số phiếu của 4 người như ông Vơ Đại Tôn, luật sư Nguyễn Văn Thắng với tiến sỹ Nguyễn thanh Giang và Trần Khuê, nhóm nào được phiếu nhiều hơn.



    Chắc chắn tiến sỹ Nguyễn thanh Giang và Trần Khuê sẽ nhiều phiếu hơn. Và giả dụ là họ trúng cử vào quốc hội. Thử hỏi nếu tập đoàn Việt gian cộng sản đưa ra thông qua cái chính sách mà chúng “đi theo con đường của Hồ” th́ các ông tiến sỹ Nguyễn thanh Giang và Trần Khuê sẽ chống hay ủng hộ?



    Chúng ta v́ là “nạn nhân của con đường Hồ lựa chọn” nên mới phải lưu vong ra nước ngoài. Có thể nào chúng ta quên bài học đó để tiếp tục cho những người nhân danh “chủ nghĩa Hồ chí Minh” xỏ mũi dắt đi như dắt trâu không?!!!



    Tóm lại, tất cả những dẫn chứng được nêu trên nhằm phản bác không chỉ “huyền thoại Hồ chí Minh” do Lữ Phương viết mà c̣n vạch trần cái gọi là nội dung của “chủ nghĩa Hồ chí Minh” (nếu gọi đó là chủ nghĩa) chính là “chủ nghĩa đầu hàng bá quyền nước lớn, trước là Nga-xô và Trung cộng, nay là Trung cộng”.

    Mới đây, tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền dâng đất, dâng biển cho Trung cộng là cái tất yếu phải như vậy, v́ chúng đă được dẫn dắt bằng “tư tưởng Hồ chí Minh” mà các cây bút “chống đối” ở trong nước đánh bóng, nâng cấp thành “chủ nghĩa Hồ chí Minh”.



    Xưa Hồ chí Minh dâng đất, dâng biển cho Trung cộng để đổi lấy sự ủng hộ của Trung cộng trong việc xé bỏ hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, thực hiện nô lệ hóa nhân dân miền Bắc Việt Nam; mượn đường của Trung cộng để chở vũ khí từ Nga-xô về cũng như mua vũ khí của Trung cộng, để xâm lược miền Nam Việt Nam, tiến tới nô lệ hóa cả hai miền Bắc và miền Nam Việt Nam, đặt ách thực dân đỏ.



    Nay lũ đệ tử của Hồ nắm quyền lănh đạo tổ chức Việt gian cộng sản của Hồ để lại, tiếp thu bài học bán nước của Hồ, đă trắng trợn dâng đất dâng biển cho Trung cộng nhằm:



    1- Dựa vào Trung cộng để đối phó với sự nổi dậy của nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước.



    2- Để chuyển tài sản bọn chúng đă bóc lột, ăn cướp được, trong những năm cầm quyền, mà trước đây chúng gửi tại ngân hàng phương Tây, nay gửi vào ngân hàng của Trung cộng. Như thế vừa bí mật vừa dùng ngân hàng của Trung cộng để rửa tiền ăn cướp, tham nhũng, vừa đề pḥng khi bị xét xử, nếu tiền gửi ở phương Tây sẽ bị trả lại cho chính phủ phi cộng sản của Việt Nam tương lai; c̣n gửi tại Trung cộng được Trung cộng cam đoan giữ an toàn. Và, nếu ngày nào đó không xa, bị nhân dân lật đổ, chúng cùng gia đ́nh và tay chân có thể an toàn “cư trú chính trị”, sống cuộc đời vương giả ở Trung cộng.



    Ngày nay, giới chức nào trong tập đoàn Việt gian cộng sản cũng vơ vét được cả trăm triệu US đô-la. Những tên có trên một tỷ US đô-la đă bị lộ (chưa kể của ch́m hoặc tiền gửi chưa bị lộ) đều liên quan trực tiếp đến việc dâng đất đâng biển cho Trung cộng, như:



    - Nguyễn tấn Dũng, phó thủ tướng thường trực: 1 tỷ 480 triệu đô-la

    - Phạm văn Trà, bộ trưởng quốc pḥng: 1 tỷ 360 triệu đô-la

    - Phạm thế Duyệt, chủ tịch mặt trận “tổ cuốc”: 1 tỷ 173 triệu đô-la

    - Lê khả Phiêu, nguyên tổng bí thư: 1 tỷ 170 triệu đô-la

    - Nguyễn mạnh Cầm, phó thủ tướng: 1 tỷ 150 triệu đô-la

    - Trương tấn Sang, trưởng ban kinh tế: 1 tỷ 124 triệu đô-la

    - Phan văn Khải, thủ tướng: 1tỷ 200 triệu đô-la



    (Theo tài liệu của cụ Hoàng cơ Thụy).



    Loại bạc tỷ đô-la Mỹ như trên c̣n dài dài, v́ phải thêm tên tụi Lê đức Anh, Vơ văn Kiệt, anh em Lê đức Thọ, Mai chí Thọ; gia đ́nh Lê Duẩn, Trường Chinh, Văn tiến Dũng và v.v… Mà con số tiền tỷ đô-la Mỹ đó cũng mới chỉ là phần nổi bị lộ; chưa kể phần chưa bị lộ; chưa kể các bất động sản, các cổ phần hùn hạp, vàng, hạt xoàn v.v… Ngay Nông đức Mạnh, Nguyễn văn An bị coi là chậm chân mà mỗi đứa cũng có ngót 150 triệu US đô-la, kể cả tên bộ trưởng Lê minh Hương hoặc nguyên thư kư của Đỗ Mười là Lê xuân Tùng.



    Cần lưu ư rằng tất cả số tiền chúng có đều vơ vét trong khoảng chục năm hoặc hơn chục năm mà thôi. Thật là kỷ lục!!!



    Chính v́ đống đô-la Mỹ bộn xộn như vậy nên bọn chúng đồng tâm nhất trí để “bị lừa”, như chữ nghĩa của ông tiến sỹ Nguyễn thanh Giang, nhà “chống đối” nổi tiếng cả trong và ngoài nước Việt nam.



    Nhưng lịch sử đă chứng minh rằng: “Kẻ đă và đang bị lừa là nhân dân Việt Nam. Và cũng chính nhân dân Việt Nam sẽ vạch mặt tụi lừa đảo và cho chúng đi cải tạo cùng Hồ ở hỏa ngục!”



    Một “huyền thoại về Hồ chí Minh” của Lữ Phương chứ vạn “huyền thoại về Hồ chí Minh” cũng chỉ đă, đang và măi măi sẽ là bọt bèo, làm sao cứu được sự chết đuối của tập đoàn Việt gian cộng sản!!!

    Xin hăy chờ xem!


    Xuân Nhâm Ngọ – 2002

    Việt Thường

    Chú thích:

    - Sự tích: Con yêu râu xanh ở Việt Nam, do cơ sở Quật Khởi, ở Hoa kỳ, ấn loát và xuất bản, năm 2002.

    - Quư độc giả có thể t́m mua ở nhà sách “Văn Bút”, Little Saigon, Hoa kỳ. Hoặc có thể liên lạc với Nguyệt san Người Dân, địa chỉ: P.O. BOX 2674 – Costa Mesa – California 92628 – USA.

    Trân trọng cảm ơn quư độc giả đă dành th́ giờ cho quyển sách này.

    Thân kính,

    Việt Thường

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 83
    Last Post: 22-04-2012, 09:11 PM
  2. Tàu Vinalines mất tích do rơi vào vùng quân sự?
    By NguờiPhu_KhuânVác in forum Tin Việt Nam
    Replies: 116
    Last Post: 03-01-2012, 11:55 AM
  3. Sự tích T́nh yêu
    By lavivi in forum Thơ Văn Sưu Tầm
    Replies: 0
    Last Post: 16-09-2010, 03:09 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •