Originally Posted by
Bảo Giang
Việt Nam, dẫu có đôi ba phen bị chia cắt. Cũng có lúc có hai, ba cơ chế công quyền khác nhau. Hoặc giả, có đôi lần bị đô hộ bởi ngoiại bang, nhưng người Việt Nam xem ra vẫn luôn có được những điều đáng tự hào, đáng hănh diện, hơn hẳn những sắc dân, hay những quốc gia đồng thời với ḿnh từ khi lập quốc như: Tề, Hàn, Triệu, Sở, Tần, Tấn, Ngụy, Ngô, Việt ( của Việt vương Câu Tiễn trong bách Việt) là chúng ta, dẫu là một sắc dân nhỏ sống rải rác ở phía nam sông Dương Tử đến lưu vực sông Hồng. Bị đẩy dần về phương nam, nhưng vẩn c̣n một quốc thể, một ngôn ngữ, một văn tự, một ṇi giống sống chung trên một giải đất h́nh chữ S mang tên Việt Nam, chạy dài từ ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu. Cộng với một biển đông xuôi theo chiều dài của bờ đất, vươn ra ôm lấy các đảo, và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không rời. Như thế, Ta hănh diện. Ta c̣n có một quê hương, một dân tộc đứng riêng ở cơi trời Nam là nhờ vào ư chí của tiền nhân qua nhiều đời luôn trung thành với hai nguyên tắc bất di bất dịch: Hy sinh v́ đại nghĩa và tru di kẻ bán nước cầu vinh.
Tiếc rằng, bài sử kư này chỉ được nguời dân Việt Nam ở miền nam trân trọng học tập và thực hiện việc bảo vệ giang sơn của cha ông cho đến ngày 30-4-1975 là… chấm hết. Bởi v́, từ sau ngày quốc nạn 30-4-1975, và trước đó, từ 3-2-1930 đến 20-7-1954, tại miền bắc Việt Nam, dưới chế độ cộng sản, đă chẳng có sách vở nào được ghi chép, đă chẳng có người dân nào được phép nhắc nhở đến bản đồ địa lư mà cha ông ta để lại, cũng như chẳng ai được nhăc đến chuyệt phạt Tống, b́nh Ngô, triệt Hán, diệt Thanh của cha ông ta nữa. Lư do:
Đảng cộng sản được thành lập từ 3-2-1930 với 7, 8 ủy viên tại Hồng Kông, nhưng đến năm 1941 đă chết sạch, ngoại trừ một ḿnh Hồ tùng Mậu đang thọ án chung thân khổ sai ở cao nguyên, và một Trinh đ́nh Cửu … mất tích, không một tin tức, không có một hoạt động nào đáng được ghi lại từ sau ngày thành lập cho đến khi ông ta chết sau này. Bỗng dưng, vào cuối năm 1938, TC cho một nhân vật có tên là Hồ Quang mang quân hàm thiếu tá trong Bát Lộ Quân của Chu Đức đóng ở Quế Lâm, Quảng Tây xuất hiện. Hồ Quang sau này được gọi là Hồ chí Minh, về VN lănh đạo đảng và nhà nước VNDCCH từ 1940-1969. Hồ Quang là một cái tên nghe lạ tai, nhưng thật ra đây là một trong số 169 cái tên gọi, bút hiệu, bút danh của HCM được nhà nước Việt cộng chính thức công nhận và công bố. Theo bản công bố này, Hồ Quang có một sơ yếu lư lịch về năm sinh, học vấn, hoàn toàn khác biệt với sơ yếu lư lịch của Nguyễn sinh Cung ( Nguyễn ái Quốc) Tài liêu ghi nhận: “ Sơ yếu lư lịch của Hồ Quang tại Lớp huấn luyện Nam Nhạc /thuộc tỉnh Hồ Nam. Năm 1939. Hồ Quang 38 tuổi- Phụ trách điện đài - Quảng Đông - Thiếu tá - tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam – Giáo viên trường Trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ. (ảnh 1, ảnh 2) Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc”. 胡光(即胡志明主席)1939年在湖南省南 岳培训班的简历。 胡光—电台员---38岁----广东----少校 ----毕业于岭南大学------中学教师。会外语和国语 .
Theo bản lư lịch chính thức này th́ Hồ Quang sinh năm 1901. Trong khi đó Nguyễn sinh Cung sinh năm 1891. Thứ đến, Hồ Quang có sở học và nơi chốn học tập hoàn toàn khác biệt với lư lịch của Nguyễn sinh Cung. Liệu việc giới thiệu Hồ Quang có phần lư lịch riêng trong danh sách 169 bí danh, bút hiệu của Hồ chí Minh do nhà nước VC công bố, có dụng ư ǵ khác thường chăng? Liệu sự kiện này có phải là một h́nh thức gián tiếp giới thiệu về lư lịch thật của người mang tên HCM là chủ tịch đảng và nhà nước Việt cộng từ 1940-1969 hay không? Nếu không, th́ nó mang một ẩn ư ǵ?
Trở lại chuyện của Hồ Quang. Từ sau khi xuất hiện, Hồ Quang được TC hỗ trợ và đưa về VN, đến khoảng tháng 8-1942 đổi là Hồ chí Minh, bị bắt ở Túc Vinh v́ giấy tờ đă hết hạn? Sau khi ra tù, Y trở lại Việt Nam và trở thành lănh tụ của đảng cộng sản và chủ tịch của nhà nước VNDCCH từ 1945. Nhưng măi sau này, khoảng 1948-49, sau khi biết chắc không c̣n một người Việt Nam nào hoạt động cùng thời kỳ trước 1930, hay thân nhân nào biết rơ về tông tích diện mạo của Nguyễn ái Quốc c̣n sống. Cũng như biết rơ, hồ sơ của y không thể bị tiết lộ từ phía cộng sản Liên Sô và Trung cộng, HCM mới từ từ úp mở cho người ngoài biết y là Nguyễn ái Quốc! Tuy nhiên, tất cả mọi hoạt động của Hồ chí Minh và tập đoàn CS đều cúc cung phụng vụ cho Tàu cộng và ra sức thực hiện chủ nghĩa vô tổ quốc tại nước ta. Với chủ trương này, CS đă tuyên truyền và mở cuôc chiến tranh vào miền nam với chiêu bài giải phóng dân tộc. Nhưng thực tế là thực thi những sách lược do Trung cộng đề ra như lời công bố của Lê Duẩn bí thư đảng cộng lúc bấy giờ là:“ cuộc chiến này là đánh đánh cho Trung quốc, đánh cho liên Sô” hay là “công việc của chúng tôi là phụ thuộc vào Mao chủ Tịch” ( Lê Duẫn,).
Mặt khác, Hồ chí Minh đă chỉ đạo cho Phạm văn Đồng, người đang giữ chức Thũ Tướng của nhà nước VNDCCH kư công hàm công nhận chủ quyền 12 hải lư thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trương sa là thuộc Trung cộng theo bản công bố chủ quyền trên vùng lănh hải lănh thổ do Chu ân Lai trước đó hai tuần lễ. Việc công nhận này đă gây ra một hậu quả nghiêm trọng cho chủ quyền về biển đảo của Việt Nam hiện trực thuộc chính phủ Việt Nam Cộng Hoà tại miền nam quản lư theo Hiệp Định 1954. Nó cũng là nguyên cớ làm cho h́nh dạng bản đồ địa lư của Việt Nam không ngừng thay đổi.
Trước tiên, về việc tranh chấp, định ước quốc tế “ Estoppels” quy định rằng “ Trong một tranh chấp cụ thể, vào một thời điểm nào đó, nếu một bên có thỏa thuận hay đồng ư ngầm, hoặc công nhận chủ quyền của một bên khác đối với một vùng lănh thổ đang tranh chấp, th́ sự công nhận hoặc đồng thuận đó có hiệu lực pháp lư.” Ai cũng biết, Trung cộng đă từng mưu toan gây tranh chấp về chủ quyền biển đảo Hoàng Sa và Truờng Sa với Việt Nam sau đệ nhị thế chiến. Tuy nhiên, trong hội nghị San Francisco năm 1951, dù được Nga bảo trợ, Trung cộng đă hoàn toàn thất bại trong việc tranh chấp chủ quyền với 3 phiếu thuận và 47 phiếu chống. Sau cuộc bỏ phiếu này, trưởng phái đoàn và cũng là Thủ Tưóng đương nhiệm chính quyền Việt Nam lúc bấy giờ là Nguyễn văn Hữu đă tái công bố chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Lời công bố của TT Hữu không có bất cứ một đại biểu nào trong 51 phái đoàn được mời đến để tham dự Hội nghị này, kể cả Liên Sô và ngựi đại diện của Trung cộng lên tiếng bác bỏ. Theo nguyên tắc, chủ quyền của Việt Nam đối với Hoang Sa, Truờng Sa là không thể có tranh căi nữa. Tuy nhiên, TC dường như chưa bao giờ từ bỏ cuồng vọng bành trướng, nên không muốn tuần thủ những quy định mang tính quốc tế từ hội nghị này.
Theo đó, việc Phạm văn Đồng kư công hàm công nhận chủ quyền của Trung cộng theo công bố của Chu ân Lai (1958) trên những vùng lănh hải, lănh thổ này, dù không phải là đơn vị có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền này theo Hiệp Định geneve 1954, đă đặt Việt Nam vào t́nh trạng có thể mất Hoảng Sa, Trường Sa vào tay TC. Hoặc ít nhất, là VNDCCH tự cho ḿnh quyền đại diện cho Việt Nam để từ bỏ quyền chủ quyền thuộc vùng lănh hải và lănh thổ này cho TC chiếm giữ theo định ước Estoppel. Bởi v́ theo định ước này diễn giải, “một khi bên nào đă đồng ư, hoặc đă công nhận chủ quyền đang tranh căi thuộc về phía bên kia th́ sẽ không thể bác bỏ chủ quyền của bên kia đối với vùng lănh thổ đó sau này. Trái lại phải tôn trọng chủ quyền của bên kia”. Lời giải thích này đă hoàn toàn đẩy VNDCCH và kế thừa của nó là CHXHCNVN ra khỏi cuộc tranh chấp với Trung cộng về Hoàng Sa, Trường Sa. Hơn thế, việc Phạm văn Đồng c̣n làm Thủ Tướng của nưóc Việt Nam thống nhất sau khi họ xóa bỏ hiêp định geneve và Paris đểchiếm đóng miền nam bằng bạo lực vào ngày 30-4-1975, và không hề có bất cứ một lời nói, một văn thư nào đá động đến việc tiếp quản chủ quyền trên Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam theo Hội Nghị quôc tế San Francisco và hiệp định geneve 1954 làm cho Việt Nam mất dần tiếng nói đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Đây là một sự im lặng tồi tệ, đáng nguyển rủa v́ nó đă đồng loă với nội dung bản công hàm mà chính y đă kư trước kia.
Tuy thế, không phải một ḿnh Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng, Lê Duẫn, hay trường Chinh theo đuổi chủ trương bán nước, thờ Tàu. Trái lại, sau những kẻ mở đường này là đến Nguyễn văn Linh, Lê khả Phiêu, Đỗ Mười, Nguyễn mạnh Cầm, Lê đức Anh, Phan văn Khải… qua hai Hiệp Định, Hiệp Thương biên giới vào 1999 và 2000 là 796 km2 đất giáp ranh biên giới với Trung cộng thưộc các vùng Bản Giôc, Nam Quan, Lăo Sơn, Tục Lăm và gần 3/4 diện tích vịnh bắc bộ đă bị chúng kư bán cho Trung cộng với gía là 2,5 tỷ đô la như một số tin tức ṛ rỉ và lan truyền trên báo chí. Từ đó, Việt Nam đă mất hẳn những vũng đất này, và không ai c̣n được nhắc đến nũa! Nếu mai sau, có một thể chế mới muốn t́m lại cái cọc mốc của biên giới đă được kư kết phân ranh giữa Việt Nam với Măn Thanh vào năm 1883 th́ cũng chẳng c̣n t́m ra dấu tích nó nằm ở đâu nữa. Tệ hơn, nếu cộng sản c̣n tồn tại trên phần đất này, không biết sau 5, 10 năm nữa con cháu ta phải học bài sử kư ghi chép ra sao? Bời v́ dưới thời của những cái tên Mạnh, Kiệt, Dũng, Trọng ,Sang, Hùng, Lưu, Luận, Hải… th́ không c̣n phần đất nào của Việt Nam thiếu dấu chân đi lại của quan cán Trung cộng, và không biết là có bao nhiêu khu rừng, vùng biển hay những nơi gọi khu đặc cư, những khu làng Tàu, cơ sở thương mai, kinh doanh cho riêng Tàu nhân, mọc lên như nắm ở trên nước Việt. Trong lúc người dân Việt lầm than, lang thang không có vài mét đất làm cái lều để sinh sống!
Có nước mắt nào của ngựi Việt Nam không rơi xuống trước thảm cảnh này không? Hỏi xem, tại sao cha ông ta trải qua hàng ngh́n năm trong những nỗi khó khăn tột cùng vẫn để lại cho con cháu được phần di sản thiêng liêng to lớn như thế, mà nay con cháu sao mà tệ?
Tôi cho rằng, con cháu cũng chẵng tệ ǵ lắm. Tuy nhiên, sau gần 70 năm bị bào ṃn bởi bởi ư thức vô tổ quốc của CS, thế hệ lớn th́ vị tư kỷ thành ích kỷ, lớp trẻ th́ không được giáo dục về ḷng yêu quê hương, yêu đồng bào một cách đứng đắn. Cộng với một cuộc tàn phá tôn giáo và luân thường đạo lư do Việt cộng thực hiện, đă tạo ra một xă hội với những sinh hoạt bát nháo, hỗn mang, đầy tính lọc lừa vô đạo, làm cho ḷng người thêm chán nản, mất niềm tin. Họ đành phải sống chụp giựt, buông xuôi, tư kỷ thành ích kỷ. Đă thế, họ không được nhắc nhở, thấm nhuần giáo huấn của tiền nhân ta trong công cuộc giữ nưóc và kiến quốc là nuôi ḷng hy sinh v́ đại nghĩa và dứt khoát tru di những kẻ măi quốc cầu vinh, mà nên nỗi!
1. Hy sinh v́ đại nghĩa dân tộc.
Phải nói ngay rằng, người dân như một thúng bột tinh nguyên. Bột không có nước quyện vào, chỉ cần một cơn gío nhẹ lướt qua, bột sẽ bay đi và vương văi khắp nơi. Ḷng hy sinh v́ đại nghĩa của người dân cũng thế. Nếu không được giáo dục về ḷng yêu nước thương ṇi một cách nhân bản, nhân văn, đứng đắn theo lịch sử để gắn kết lại với nhau, chỉ cần những biến động nhỏ, ḷng người đă ly tán. Nhưng nếu ḷng dân luôn được nhào nặn và nuôi sống bằng tinh thần nhân bản, bằng ư thức tổ quốc th́ nó luôn kết hợp với nhau, dẫu có là giông băo, biến động, bột cũng không ĺa khỏi thúng! Theo cách nh́n này, ḷng hy sinh v́ đại nghĩa dân tộc trong ḷng người Việt Nam lúc nào cũng có và có đầy ắp. Đặc biệt, sẽ phát huy thành sức mạnh lớn để bảo vệc sự trường tồn của quê hương. Nhưng xem ra là rất dửng dưng trước những tranh chấp của các phe phái. Đó là điều rất đáng qúy và cha ông ta đă biết cách chỉ tên kẻ thù, biết cách biến ḷng hy sinh này thành những ngọn sóng thần, vùi dập tất cả những thế lực binh cường tướng mạnh từ Tống, Minh, Hán, Nguyên, Thanh khi chúng xâm phạm bờ cơi Việt Nam.
Nay, không phải ḷng hy sinh v́ đại nghĩa của dân ta không c̣n. Nhưng một phần bị chính những kẻ bán nước cầu vinh triệt hạ. Bị triệt hạ bằng những thủ đoạn đê hèn, hay bằng những ngôn từ lừa dối như t́nh hữu nghị, láng giềng tốt khi đưa rước giặc vào nhà. Một phần v́ người dân dửng dưng, chán ngán với những ngôn từ của các đảng phái, hay của các nhóm đấu tranh, đôi khi lạm dụng cả danh nghĩa của tôn giáo, làm người dân mất hướng, không nhận diện được kẻ thù đích thực của dân tộc. Kết quả, người dân lui dần vào cuộc sống tự kỷ, buộc phải lo cho ḿnh hơn là cho việc bao đồng, bị lợi dụng.
Về chuyện này ta không thể trách ai, nh́n lại cuộc sinh hoạt tại miền nam trước khi mất nước, dẫu là trong lúc chiến tranh, dân số không bao nhiều mà cũng có tới mấy chục đảng phái và tổ chúc đấu tranh xuất hiện. Có nghười cho rằng, sở dĩ ta có nhiều đảng phái, tổ chức là v́ “ ta” không quen làm đảng …. phó, hay phó thủ lănh! Kết quả, nguời dân chẳng c̣n lỗi tai nào để mà phân biệt đúng sai. Trống một nơi, chiêng một nẻo. Sang đến chế độ cộng sản, lại là một nỗi kinh hoàng khác. Trăm lời nói, trăm việc làm không có được lấy một điều thật, điều nhân nghĩa!Tất cả là giả dối, lưu manh phản trắc. Duy chỉ có cái búa cái liềm của chúng là bằng sắt thép thật và cũng là thước đo công lư! Từ đó, một tên tội đồ ác độc hạng nhất trong lịch sử, từng cho người giết vợ, quăng xác ra đường gỉa làm tai nạn lưu thông, cũng có thể được chúng biến thành một “ cha già” dân tộc với đàn cao, hương án. Tệ hơn, chúng c̣n phỉ báng tôn giáo bằng cách ép, đem cái đầu lâu của Y vào nhà chùa, vào đền miếu, bày trơ cúng bái để kiếm lấy phần sôi, phần bổng lộc! Với một cuộc sinh hoạt bát nháo như thế mà gọi là “ chính phủ” th́ người dân không muốn lui vào trong tự kỷ cũng không có đựng chọn lựa khác!
2. Tru di những kẻ bán nước cầu vinh.
H́nh như cha ông chúng ta giỏi nhận ra chân tướng của những kẻ bán nước cầu vinh và cũng dưt khoát với những thành phần này hơn chúng ta. Điển h́nh là những trường hợp của Thống soái Ngô vương Quyền trảm Kiều công Tiễn trước khi đóng cọc nhọn xuống Đằng Giang để tiêu diệt quân Hán,. Hay tể tướng Lữ Gia, tập hợp gia nhân binh lực để khu trù Cù thị cứu nước. Rồi những Trần ích Tắc, Mạc Đăng Dung. Lê chiêu Thống cũng chịu chung một số phận. Trong khi đó, xem ra trong chúng ta lại không thể phân biệt được gỉa chân. Kẻ tội đồ của dân tộc được phe đảng của chúng đắp tượng đưa vào chủa để kiếm phần sôi, phần bổng lộc đă đành. Nhưng phe “ta” lại có những kẻ tự cho ḿnh là trí thức, có những mảnh bằng to hơn bàn tay. Hoặc giả, là lănh tụ đảng phái, đoàn thể hay tôn giáo. Lúc trưóc khi chưa mất miền nam th́ phá rối, thông đồng với giặc bằng cách này hay cách khác để đấu với tranh, bức tử Đệ Nhất Cộng Ḥa, để đưa đến cái chết của Tự Do vào ngày 30-4-1975. Sau đó người th́ bi cộng săn rọ miệng, kẻ ra hải ngoại. Khi ra ngoài, tưởng họ làm được những điều hữu ích cho dân, lên tiếng vạch ra những tội ác của chúng để cho người dân nhận diện ra kẻ bán nước cầu vinh. Không ngờ, lại v́ cái bả hay mộng vinh hoa. Hay sợ người đời quên mất tên ḿnh, nên phải làm sớ, làm kiến nghị “dâng kế” cho cộng sản với ngôn ngữ gỉa tạo “ dâng kế sách cho CS thực hiện để cho dân ḿnh bớt khổ”. Hỡi ơi cái đầu gối! Nếu CS muốn dùng những lương sách để làm cho dân bớt khổ đau th́ chúng đă làm từ lâu rồi, cần ǵ đến cái bản kiến nghị nhố nhăng ấy!
Khi viết ra những lời này, tôi thực ḷng, không chỉ trích, hay bóng gío một ai (nếu ai cảm thấy bị xúc phạm, tôi thành thật xin lỗi trước). Tôi chỉ muốn dẫn chứng một điều. Chúng ta vẫn chưa nh́n ra được kẻ thù của dân tộc là ai. Trái lại, chỉ loanh quanh, nay bảo là gia đ́nh trị họ Ngô. Mai lại bảo, khéo là Ông… Thiệu, hoặc giả, là Hồ chí Minh và tập doàn CS. Một khi, chúng ta chưa đồng nhất chỉ ra được kẻ thù của dân tộc là ai, ở đâu, người dân Việt Nam cũng chưa thể có đối sách, chưa thể có hướng đi, chưa thể có hành động để thoát ra khỏi con đường ṿng quanh, tăm tối ấy. Theo đó, tôi cho rằng, nếu muốn t́m ra con đường, t́m ra phương thức hành động thích ứng cho Việt Nam, tất cả mọi người, không trừ ai, phải nhận diện được kẻ thù của dân tộc là ai, ở đâu. Khi chúng ta đă nhận diện được kẻ thù của dân tộc th́ kế sách vẹn toàn của cha ông ta đă có sẵn, cứ thế mà thi hành để cưu quốc và kiến quốc. Chuyện mười năm không thành th́ hai, ba mươi năm phải thành..
3. Hồ chí Minh là ai? Y có phải là kẻ tội đồ đă mở đường cho Tàu vào xâm lấn nước ta và gây ra cảnh cùng khốn cho dân ta hôm nay không?
Như ở phần trên tôi đă viết. Hồ Quang là một cái tên khác của Hồ chí Minh với lư lịch như sau: ): “ Sơ yếu lư lịch của Hồ Quang tại Lớp huấn luyện Nam Nhạc /thuộc tỉnh Hồ Nam. Năm 1939. Hồ Quang 38 tuổi- Phụ trách điện đài - Quảng Đông - Thiếu tá - tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam – Giáo viên trường Trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ. (ảnh 1, ảnh 2) Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc”. 胡光(即胡志明主席)1939年在湖南省南 岳培训班的简历。 胡光—电台员---38岁----广东----少校 ----毕业于岭南大学------中学教师。会外语和国语 .
Trong khi đó, Nguyễn sinh Cung, cũng gọi là Nguyễn tất Thành, người làng Kim Liên, Nam Đàn, sinh năm 1891. Theo tài liệu của sở mật thám Pháp th́ Nguyễn sinh Cung đă chết vào năm 1933 v́ bệnh lao phổi. Nay theo ông Phạm quế Dương cho biết, Nguyễn ái Quốc, đă chết v́ bệnh lao tại Hồng Kông với những phần ghi chú như sau: “ Tác gỉa Hùynh Tâm cũng là người Trung quốc (trong tập tài liệu dầy 141 trang) xác định Hồ chí Minh là Hồ tập Chương. Tài liệu viết: Theo hồ sơ của nhà tù Hương Cảng, Nguyễn tất Thành đang lâm nguy bởi nhiều bệnh do trác táng,say đắm phong trần làm cơ thể hao ṃn, mang bệnh truyền nhiễm cấp độ cao hết thuốc trị liệu… Năm 1832 Nguyễn tất Thành qua đời tại nhà tù Hương Cảng, hưởng dương 40 tuổi (1892-1932). Người thân (tên Hồ Vinh - Nguyễn Vinh) đến nhận xác và tất cả vật dụng cá nhân của tử tù và đemđi hỏa táng. Tro cốt của Nguyễn tất Thành mà số 00567, lưu trữ tại nghĩa trang Kuntsevew Moscow Russian…. Tài liệu này được lưu trữ tại nhà tù Hương Cảng”.
Dĩ nhiên là chúng ta không hoàn toàn tin vào tài liệu này. Bởi v́ khi “ họ “ cho ám số về tro cốt, chúng ta yêu cầu xét nghiệm tro cốt này bằng DNA th́ có thể vấp ngà lớn v́ có thể bị lừa. ( bởi v́ nó sẽ không trùng khớp với Nguyễn sinh Khiêm). Tuy nhiên, Hồ chí Minh cũng không thể có cách chứng minh Y là Hồ Quang và cũng là Nguyễn sinh Cung. Bởi lẽ hai người có hai bản sơ yếu lư lịch hoàn toàn khác nhau. Tôi không thể đồng ư với ư kiến lập luận rằng, Hồ Quang chỉ là một tên gọi khác của Hồ chí Minh như hằng trăm tên khác do nhà nước Việt cộng sưu tầm và công bố, có ǵ là không đúng, có ǵ cần thắc mắc” Có, nó có chỗ không đúng và có chỗ đáng thắc mắc. Bởi v́ trong tất cả 169 cái tên kia không một cái tên nào có lư lịch riêng. Đó thuần tuư là bút hiệu, bút danh hay tên gọi có thể là của một người ( hoặc nhiều người bị tước đoạt và được gán cho Hồ chí Minh) Riêng cái tên Hồ Quang có sự khác biệt. Đó là một nhân sự có sơ yếu lư lịch riêng, có quân hàm có đơn vị, có địa bàn hoạt động trong hàng ngũ bộ đội của Trung cộng. Nó hoàn toàn không phải là một bí danh. Nhưng là một người khác. Trường hợp cho rằng v́ phải dấu thân phận trong cuộc vận động chính trị cũng khó chấp nhận. Bởi lẽ, nếu cần dấu thân phận th́ chỉ cần một cái tên, cấp bậc là đủ, không càn phải có sơ yếu lư lịch, sở học, nghề nghiệp, nơi sinh hoạt một cách rơ ràng công khai hóa như thế. Nếu cho đó là một cái sơ yêu lư lịch gỉa th́ bản thân của Hồ chí Minh cũng là gỉa nốt. Chẳng có ǵ là sự thật. Và Y có thể là người Tàu gỉa làm người Việt Nam?
Ngoài ra, cũng theo tài liệu này do ông Phạm quê Dương ghi lại: “cũng có ghi chú về gia phả và sự nghiệp của Hồ tạp Chương trong hồ sơ HTC4567 lưu trữ tại quân ủy trung ương (CPC) và t́nh báo Hoa Nam Trung quốc như sau: “ Đương sự được đảng cộng sản trung quốc huấn luyện hơn một thập niên tại Học viện Hoàng Phố, Vân Nam. .. Kế quả, Trung quốc dốc hết nhân lực, tài khí tài vật lập ra một thế lực mới tại Vệt Nam và t́nh báo Hoa Nam thổi lên một Hồ chí Minh làm chủ tịch nước VNDCCH” Cùng nguyên tắc, chúng ta không hoàn t́n và bám vào những tài liệu này làm chứng cứ. Nhưng chỉ t́n vào một điều chắc chắn là, dù là Hồ Tập Chương hay là Nguyễn ái Quốc, Hồ Quang khi làm lănh tụ đảng cộng sản và là chủ tịch nước VNDCCH đă là một mối đại họa cho Việt Nam. Đối nội th́ Y thủ tiêu những nhà ái quốc Việt Nam, và tàn sát dân chúng qua những cuộc đấu tố, mở rộng chiến tranh vào miền nam. Rồi tạo nên một xă hội không c̣n luân thường đạo lư. Đối ngoại th́ liên hệ với kẻ thù của dân tộc. Bán đất dâng đảo cho chúng để nắm lấy công quyền. Chỉ bấy nhiêu, cũng đủ để Y được liệt kê vào thành phần thủ lănh của Kiều công Tiễn, Cù thị, Trần ích tắc, Lê chiêu Thống, Mạc Đăng Dung… Đối với thành phần này, di chiếu của tiền nhân ta c̣n đây. Muốn cứu quốc và kiến quốc th́ phải dứt khoát tru di những kẻ bán nước cầu vinh. Ngoài ra không có một phuơng cách nào khác.
4. Làm ǵ để cứu non sông đây?
Một điều cần khẳng định là, dù Hồ Quang là người Tàu hay là người Việt th́ Y vẫn là một thiều tá trong đội quân của CS Trung cộng trước khi xâm nhập vào hệ thống CSVN với chủ đích lũng đoạn và t́m cách đưa Việt Nam vào làm chư hầu cho Trung cộng. Âm mưu này đă đuợc cộng sản Trung cộng che chắn và bảo vệ cẩn thận suồt thời kỳ 1940-1969 và sau đó. Tuy nhiên, bộ mặt thật và những việc Y làm lợi cho Trung cộng đă lộ diện. Người Việt Nam không nên nghi ngờ ǵ về trường hợp của Hồ chí Minh nữa. Trái lại, phải dứt khoá đi thôi!
Trong tay chúng ta không có một tấc sắt th́ làm được cái ǵ?
Hăy làm một công việc bé nhỏ nhất. Mọi người cùng tham gia phát động phong trào nói lên sự thật. Nghĩa là, người người bảo nhau, người biết nói cho người không biết. Người già nói cho trẻ cùng nghe là Hồ chí minh và đảng CS đă dẫn Tàu cộng vào chiếm nước ta. Rồi nhà nhà giáo huấn, trao đổi và bảo nhau về việc Tàu cộng đang xâm chiếm nước ta. Đồng thời nhắc nhở cho nhau về ư chí tru diệt kẻ xâm lăng và những kẻ măi quốc càu vinh của cha ông ta. Ư chí này nếu hôm nay chưa thực hiện được th́ ngày mai cũng sẽ. Đừng sợ hăi, đừng e dè. Ngày nay không c̣n là thời con cái trong nhà đi tố cha mẹ anh em ḿnh. Không phải là lúc hàng xóm láng giềng, bạn bè tố cáo chúng ta về những lời nói này với công an, với cán bộ nhà nước để kiếm sống. Dẫu có cũng chẳng hệ ǵ. CS có thể bắt được trăm ngựi , thậm chí, vài ngàn người, nhưng không thể bắt hàng triệu triệu người. Như thế, tuyên ngôn sự thật sẽ được truyền đến mọi người, mọi nhà, mọi chân trời góc bể. Kẻ xâm lược nhất định thua, kẻ bán nước nhất định sẽ bị tru diệt.
Hỡi những người đă từng được gọi là anh hùng vượt biển đông. Những người đă đạp trên cái chết mà đi sau 30-4-1975, những người đă làm cho cả thế giới súc dộng và ngưỡng mộ v́ ḷng can đảm khi vưọt biển trên chiếc thuyền mong manh. Nay, nếu cần về Việt Nam th́ cứ về. Chỉ xin qúy vị về với 1/100 ḷng can đảm của lúc ra đi. Hăy về và nói cho thân nhân và người quen biết sự thật là Hồ chí Minh, và cộng sản đă đưa Tàu cộng vào chiếm nước ta. Hăy nói cho bà con của ḿnh nghe về nhân quyền của con ngựi đích thực là như thế nào. Đừng hèn nhát, đừng cúi đầu như một kẻ tội phạm, đừng dùng năm ba đồng để bán rẻ cái nhân phẩm của ḿnh khi đút lót cho nhân viên trong các trạm kiểm soát từ phi trường. Đừng dùng năm ba đồng, vài chai bia,lon nước cho cán bộ khu vực để được nghênh ngang nơi minh về thăm. Bởi v́, nào có phải là ta “áo gấm về làng” đâu? Ta về đây là về v́ t́nh ruột thịt với thân nhân, với dân làng, với nước non. Là chia xẻ nỗi bất hạnh với đất nước. Như thế, có ǵ đáng để khoa trương Việt kiều? Mà chúng ta cũng có phải là Việt kiều đâu? Chúng ta là người tỵ nạn chính trị cộng sản đấy. Ta có phải là người của chế độ đưa đi sinh sống tại nước ngoài và chấp nhận quyền lănh đạo của họ đâu? Trái lại, ta đi v́ Tự Do khi quê hương ta gặp đại nạn cộng sản. Nên khi về, xin hăy về bằng khí phách, bằng ư chí mănh liệt “đem nhân nghĩa thắng hung tàn” đem sự thật về góp phần vào việc cứu non sông. Có thế sự ra đi của chúng ta mới có ư nghĩa.
Chỉ nói bấy nhiêu thôi ư?
Vâng, chỉ bấy nhiêu thôi. Vô tri bất ngộ. cha ông ta đă dạy như thế. Nếu dân không hề hay biết về những chuyện phản trắc của Hồ chí Minh và đảng cộng sản với tổ quốc. Chúng ta hăy rỉ tai và nói cho họ nghe. Họ sẽ hiểu phải làm gi. Ta chỉ cần làm công việc nhỏ bé thôi. Việc tuy nhỏ, nhưng xem ra lại là con đường duy nhất để chúng ta cứu lấy non sông và dân tộc trong giai đoạn này. Bởi v́, khi có được 70% dân số nước ta biết rơ bộ mặt Tầu của Hồ chí Minh, biết rơ bộ mặt thật của cộng sản là tập đoàn bán nước cầu vinh như Lê chiêu Thống, Cù thị, Kiều công Tiễn… th́ cơn hồng thủy tru di kẻ bán nước lập tức nổi lên và người Việt Nam yêu quê hương, trọng nhân bản sẽ đứng cao trên đỉnh chiến thắng vinh quang. Kẻ bán nước sẽ bị triệt tiêu. Đó chính là cái nghĩa của con đường tay không tấc sắt chống bạo tàn. Đường đi có thể dài năm năm, mười năm hay hơn nữa, nhưng chắc chắn sẽ tới, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng và ư chí của tiền nhân sẽ được thực hiện. Trái lại, sự giữ yên lặng của chúng ta, cuộc đi về bằng sự hèn nhát sẽ là những hành động đồng loă với những kẻ bán nước cầu vinh, và dâng đất nước của tiền nhân vào tay Tàu cộng.
Bảo Giang
Tháng 7-2014
Bookmarks