Results 1 to 5 of 5

Thread: Kinh Nghiệm Ḥa Giải Quốc Cộng

  1. #1
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Kinh Nghiệm Ḥa Giải Quốc Cộng

    Kinh Nghiệm Ḥa Giải Quốc Cộng


    Vào cuối tháng Tư vừa qua, trong và ngoài nước xuất hiện một số bài báo đề cập đến vấn đề ḥa giải quốc cộng sau khi chiến tranh đă kết thúc 40 năm. Chuyện nầy chẳng có ǵ mới mẻ, cũng đă từng diễn ra năm 1945. V́ vậy, xin hăy cùng nhau ôn lại chuyện ḥa giải quốc cộng 70 năm trước để rút kinh nghiệm cho tương lai.

    Cách đây 70 năm, mặt trận Việt Minh (VM) thuộc đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) cướp được chính quyền. (Nhóm chữ “cướp chính quyền” là chữ do cộng sản đưa ra.) Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh, lănh tụ của đảng CSĐD, tuyên bố độc lập và ra mắt chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Gần 10 ngày sau, Trung ương đảng CSĐD họp tại Hà Nội ngày 11-9-1945 đưa ra nguyên tắc căn bản là đảng CSĐD nắm độc quyền điều khiển mặt trận VM và một ḿnh thực hiện cách mạng. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 143.) Đảng CSĐD nắm độc quyền VM, mà VM đang nắm chính quyền, cai trị đất nước; nghĩa là đảng CSĐD độc quyền cai trị đất nước.

    Dầu Hồ Chí Minh, VM và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) quyết ra tay nhanh chóng để tạo ra t́nh trạng chính trị đă rồi, nhưng các cường quốc không thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh và vẫn thi hành giải pháp do tối hậu thư Potsdam đưa ra ngày 26-7-1945, theo đó việc giải giới quân đội Nhật tại Đông Dương ở bắc vĩ tuyến 16 do quân đội Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) phụ trách và ở nam vĩ tuyến 16 do quân Anh phụ trách. Giải pháp nầy không đề cập đến việc sau khi quân đội Nhật bị giải giới, ai sẽ cai trị Đông Dương, tạo ra một khoảng trống chính trị và hành chánh ở Đông Dương.

    VIỆT MINH CỘNG SẢN GẶP KHÓ KHĂN

    Khoảng 200,000 quân Trung Hoa do các tướng Lư Hán và Tiêu Văn lănh đạo tiến vào Hà Nội từ giữa tháng 9-1945. Cũng trong thời gian nầy, quân Anh đến Sài G̣n do tướng Douglas Gracey chỉ huy. Nhờ sự giúp đỡ của người Anh, vào đầu tháng 10-1945, quân Pháp do tướng Leclerc cầm đầu đổ bộ khá đông ở Nam Kỳ và uy hiếp các lực lượng VM.

    Tại miền Nam, VM rất lúng túng trước việc quân Pháp càng ngày càng mở rộng vùng kiểm soát, dồn VM vào thế co cụm và lẫn tránh vào các vùng bưng biền. Tại miền Bắc, Hồ Chí Minh và mặt trận VM cũng khó khăn không kém, gặp ba áp lực cùng một lúc. Đó là: 1) Theo tối hậu thư Potsdam, 200,000 quân Trung Hoa vào Việt Nam giữa tháng 9-1945. 2) Các lănh tụ Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) từ Trung Hoa trở về Việt Nam sau thế chiến thứ hai, quyết liệt chống đối Hồ Chí Minh và mặt trận VM. 3) Sau khi tái chiếm miền Nam, người Pháp tiến quân từ nam ra bắc, dự tính tái chiếm toàn bộ Đông Dương. Lúc đó, VM chỉ có khoảng từ 2,000 đến 5,000 đảng viên cộng sản. (Philippe Devillers, sđd. tr. 182.)

    Khi mới nổi lên cướp chính quyền, Hồ Chí Minh và VM cộng sản đă giết nhiều người không theo VM như đảng viên các đảng phái ở Hà Nội, nhóm bảo hoàng ở Huế, nhóm Đệ tứ quốc tế ở Sài G̣n… Nay v́ khó khăn mới, Hồ Chí Minh và VM thực hiện một kế hoạch hai mặt. Bề ngoài, VM tỏ ra ḥa hoăn, nói chuyện với tất cả các phe phái, kêu gọi ḷng yêu nước, đoàn kết và liên hiệp để cùng nhau chống ngoại xâm. Bề trong, VM thực hiện các cuộc khủng bố ngầm, thủ tiêu lẻ tẻ những địch thủ chính trị và đe dọa những ai không theo VM.

    Khi cùng với Tiêu Văn, từ Quảng Châu về Việt Nam, Nguyễn Hải Thần, lănh tụ Việt Cách, liên lạc và hội họp với Jean Sainteny, đại diện Pháp ở Bắc Kỳ ngày 12-10 và 15-10-1945 tại Hà Nội, để thảo luận về tương lai chính trị Bắc Kỳ. Thấy thế, ngày 23-10-1945, Hồ Chí Minh liền mời Nguyễn Hải Thần họp tay đôi giữa hai bên, và kư thỏa thuận hợp tác giữa VM và Việt Cách.

    Để gây ḷng tin nơi các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, nhất là các tướng lănh Trung Hoa Quốc Dân Đảng đang có mặt ở Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán đảng CSĐD ngày 11-11-1945 và thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mă Khắc Tư [Mác-xít] do Trường Chinh (Đặng Xuân Khu) làm tổng thư kư. Tuy vậy, theo lời Hồ Chí Minh “dù là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn lănh đạo chính quyền và nhân dân.” (Hồ Chí Minh toàn tập, [tập 6], xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 161.)

    Trong khi đó, ngày 6-11-1945, Vũ Hồng Khanh, lănh tụ VNQDĐ về lại Hà Nội. Ngày 8-11-1945 Nguyễn Hải Thần đ̣i thành lập một chính phủ liên hiệp. Đ̣i hỏi nầy phù hợp với ư muốn của các tướng lănh Trung Hoa v́ trước khi Lư Hán qua Việt Nam, Hoa Kỳ gây ảnh hưởng để Tưởng Giới Thạch bắt tay với Mao Trạch Đông. (T.E. Vadney, The World Since 1945, London: Penguin Books, 1987, tr. 121.) Ngày 14-8-1945, chính phủ Tưởng Giới Thạch kư hiệp ước thân hữu với Liên Xô. (Trevor N. Dupuy, Curt Johnson và David L. Bongard, The Harper Encyclopedia of Military History, New York: HarperCollins, 1993, tr. 1423.) Do đó, chính phủ và các tướng lănh Trung Hoa, vừa ủng hộ các nhà lănh đạo Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc, vừa muốn Việt Nam theo công thức quốc cộng liên hiệp như Trung Hoa, nên họ áp lực cả hai phía ngồi lại với nhau. Các tướng lănh Trung Hoa c̣n muốn giải quyết cho xong vấn đề Việt Nam để rút quân về ứng phó với t́nh h́nh Trung Hoa.

    Lúc đó, ở Việt Nam lănh tụ các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc và các nhà trí thức yêu nước không phải là không biết về lai lịch Hồ Chí Minh, và cũng không phải không có những nghi ngờ đối với VM cộng sản. Tuy nhiên, các đảng phái quốc gia ở thế chẳng đặng đừng, phải gia nhập chính phủ liên hiệp, v́ đă chậm chân để cho VM chiếm được chính quyền trước; nay muốn tranh đấu giành lại chính quyền khỏi tay VM, th́ phải chấp nhận ngồi lại tranh đấu chính trị.

    CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP


    Ngày 23-12-1945, đại diện của VM, Việt Cách và VNQDĐ cùng họp tại số 40 đại lộ Gia Long (Hà Nội), dưới sự chủ tọa của tướng Tiêu Văn, kư thỏa thuận gọi là HỢP TÁC TINH THÀNH, gồm 18 điểm, đại khái là: Từ ngày 1-1-1946, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch. Nội các gồm VM (2 ghế), Việt Cách (2 ghế), QDĐ (2 ghế), Dân Chủ (2 ghế), độc lập (2 ghế). Quốc hội sẽ được tổ chức bầu cử ngày 6-1-1946. QDĐ giữ 50 ghế, Việt Cách 20 ghế. Các đảng cam kết không gây hấn với nhau. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A, Houston: Nxb. Văn Hóa: 1996, tr. 293.)

    Ngày 26-12-1945, báo chí Hà Nội đăng thông cáo chung của Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh, nguyên văn như sau:

    Ngày 24-12-1945, chúng tôi là Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh thay mặt cho Việt Minh, Quốc Dân Đảng và Cách mệnh Đồng Minh Hội, cùng kư tên công nhận những điều ước sau đây:

    1. Độc lập trên hết, đoàn kết trên hết. Căn cứ vào thái độ thân ái, tinh thành, cùng nhau thảo luận để giải quyết hết thẩy những vấn đề khó khăn trước mắt. Ai dùng ngang vũ lực gây nên những cuộc nội loạn sẽ bị quốc dân ruồng bỏ.

    2. Kể từ ngày 25-12-1945, đôi bên phải ủng hộ một cách thiết thực cuộc tổng tuyển cử, quốc hội và kháng chiến.

    3. Bắt đầu từ ngày 25-12-1945, đôi bên đều đ́nh chỉ hết thẩy những việc công kích nhau bằng ngôn luận và bằng hành động.

    Kư tên: Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh. (Chính Đạo, sđd. tr. 294.)

    Từ đó, CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP ra đời tại Hà Nội ngày 1-1-1946, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần phó chủ tịch, với đa số đảng viên cộng sản, thân cộng sản (cộng sản trá h́nh) và một số đảng viên các đảng phái khác làm bộ trưởng. Đồng thời một Hội đồng Quốc pḥng được lập ra do Vơ Nguyên Giáp làm chủ tịch và Vũ Hồng Khanh giữ chức phó chủ tịch. (Đây là chính phủ liên hiệp quốc cộng đầu tiên sau năm 1945.)

    Theo thỏa thuận “hợp tác tinh thành”, cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức ngày 6-1-1946 trên toàn quốc, gồm tổng cộng 333 ghế. Hồ Chí Minh đắc cử ở Hà Nội. Cựu hoàng Bảo Đại không kư đơn ứng cử, mà vẫn đắc cử ở Thanh Hóa. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 222.)

    Tuy quốc hội lập hiến đă được bầu xong, nhưng các đảng phái không cộng sản tiếp tục phản đối mạnh, v́ trong cuộc bầu cử nầy, số người đắc cử không ngoài các lănh tụ VM, những người thân VM, hoặc những người do VM chọn, như trường hợp cựu hoàng Bảo Đại. Lúc đó, VM buộc phải mở rộng quốc hội, thêm 70 đại biểu cho Việt Cách và QDĐ từ nước ngoài trở về, không thông qua bầu cử, như đă quy định trong cuộc họp ngày 23-12-1945. Như thế, tổng số đại biểu lên đến 403 người.

    Sau đây là lời sử gia Trần Trọng Kim mô tả cuộc bầu cử: “Khi ấy tôi đă về ở Hà Nội rồi, thấy cuộc tuyển cử rất kỳ cục. Mỗi chỗ để bỏ phiếu, có một người của Việt Minh trông coi, họ gọi hết cả đàn ông, đàn bà đến bỏ phiếu, ai không biết chữ th́ họ viết thay cho. Việt Minh đưa ra những bản kê tên những người họ đă định trước, rồi đọc những tên ấy lên và hỏi anh hay chị bầu cho ai? Người nào vô ư bầu cho một người nào khác, th́ họ quát lên; “Sao không bầu cho những người này? Có phải phản đối không?” Người kia sợ mất vía nói: “Anh bảo tôi bầu cho ai, tôi xin bầu người ấy.” Cách cưỡng bách ra mặt như thế, lẽ dĩ nhiên những người Việt Minh đưa ra được đến tám chín mươi phần trăm số người đi bầu.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài G̣n: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 103.)

    Quốc hội lập hiến họp kỳ thứ nhứt ngày 2-3-1946, cử ra CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP KHÁNG CHIẾN, do cựu hoàng Bảo Đại, nay là công dân Vĩnh Thụy làm cố vấn tối cao, và các chức vụ quan trọng là Hồ Chí Minh (chủ tịch), Nguyễn Hải Thần (phó chủ tịch), Huỳnh Thúc Kháng (bộ trưởng Nội vụ), Nguyễn Tường Tam (bộ trưởng Ngoại giao), Phan Anh (bộ trưởng Quốc pḥng). Đa số c̣n lại là bộ trưởng VM (cộng sản) và một số ít các đảng phái khác. Quân sự ủy viên hội vẫn là hai nhân vật chính là Vơ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh. (Đây là chính phủ liên hiệp quốc cộng lần thứ hai sau 1945.)

    Sử gia Trần Trọng Kim kể về hoạt động của chính phủ liên hiệp: “Khi tôi c̣n ở Hà Nội, cụ Huỳnh Thúc Kháng ra nhận chức bộ trưởng bộ nội vụ, có đến thăm tôi. Ngồi nói chuyện, tôi hỏi: “Cụ nay đứng đầu một bộ rất quan trọng trong chính phủ, chắc là bận việc lắm”. Cụ Huỳnh nói: “Bây giờ việc ǵ cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc ǵ mấy, và khi có việc ǵ, th́ họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ kư mà thôi”. Những khi có hội đồng chính phủ th́ bàn định những ǵ? “Cũng chưa thấy có việc ǵ, thường th́ họ đem những việc họ đă làm, rồi nói cho chúng tôi biết”. Xem như thế th́ các ông bộ trưởng chỉ đứng để làm vị mà thôi, chứ không có quyết định ǵ cả. Có người hỏi ông Nguyễn Tường Tam rằng: “Khi ông nhận chức bộ trưởng bộ ngoại giao, ông thấy có việc ǵ quan trọng lắm không?” Ông trả lời: “Tất cả giấy má trong bộ ngoại giao của cụ Hồ giao lại cho tôi, tôi chỉ thấy có ba lá đơn của mấy người sĩ quan Tàu nhờ t́m cho mấy cái nhà, và t́m cái ví đựng tiền bị kẻ cắp lấy mất”. Câu chuyện có thể là ông Tam nói khôi hài, nhưng đủ rơ việc các ông bộ trưởng không có ǵ. Tôi đem câu chuyện đó nói ra đây để chứng thực là các bộ trưởng chỉ giữ hư vị chứ không có thực quyền. Cái thực quyền trong chính phủ lúc ấy là ở mấy người như ông Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp và ở tổng bộ cộng sản điều khiển hết cả.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 110.)

    Cần chú ư là lúc đó VM đang gặp khó khăn: Khoảng 200,000 quân QDĐ Trung Hoa chưa về nước sau lễ đầu hàng của quân đội Nhật ngày 28-9-1945. Quân đội Pháp chiếm được toàn bộ Nam Kỳ đang từ Nam Kỳ tiến ra Trung Kỳ và đe dọa Bắc Kỳ. V́ vậy, Hồ Chí Minh và VM mới nhượng bộ các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, tổ chức bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến pháp, để tạm ổn việc nội bộ nhằm rảnh tay giải quyết công việc ngoại giao.

    KẾT QUẢ

    Nhờ kế hoạch “hợp tác tinh thành” và liên hiệp với các đảng phái đối lập, Hồ Chí Minh và VM tạm ổn định t́nh h́nh nội bộ, quay qua vận động ngoại giao, kư với đại diện Pháp thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, rồi Tạm ước (Modus Vivendi) ngày 14-9-1946 tại Paris, hợp thức hóa việc Pháp trở lại Đông Dương và tái thiết lập lại toàn bộ các cơ sở Pháp tại Việt Nam.

    Trong khi tạm ổn về ngoại giao, VM quay qua tấn công các thành phần đối lập. Nguyễn Hải Thần âm thầm bỏ qua Trung Hoa. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 4, Paris: Nxb. Nam Á, 2002, tr. 2092.) Huỳnh Thúc Kháng được cử lên thay làm phó chủ tịch nước.

    Hồ Chí Minh qua Pháp theo phái đoàn tham dự Hội nghị Fontainebleau, rời Hà Nội ngày 31-5-1946. Hồ Chí Minh cử Huỳnh Thúc Kháng làm quyền chủ tịch nước. Nhân cơ hội Hồ Chí Minh đang c̣n ở Pháp, tức không có mặt ở Việt Nam, VM cộng sản mở cuộc đại khủng bố các thành phần đối lập nhằm chứng tỏ rằng Hồ Chí Minh là kẻ ngoại phạm, không liên can trong các vụ nầy.

    Để có lư do tấn công VNQDĐ, Vơ Nguyên Giáp, chủ tịch Quân sự uỷ viên hội, lấy cớ rằng có tin mật báo đặc vụ QDĐ âm mưu sẽ tấn công và ám sát các nhân viên chính phủ trong dịp tham dự lễ duyệt binh do Pháp tổ chức tại Hà Nội nhân ngày quốc khánh Pháp (14-7-1946), nên ngày 13-7-1946, Vơ Nguyên Giáp cho người lục soát trụ sở của VNQDĐ ở số 9 phố (đường) Ôn Như Hầu ở Hà Nội.

    Trụ sở nầy vốn của quân đội Nhật Bản giao lại cho quân đội Trung Hoa; rồi được chuyển cho QDĐ sử dụng. Quốc Dân Đảng sử dụng số 9 phố Ôn Như Hầu làm trụ sở của ban Tuyên huấn Đệ thất khu Đảng bộ của VNQDĐ. Việt Minh dùng vơ lực, bất ngờ tràn vào nhà, bắt tất cả những đảng viên QDĐ có mặt hôm đó tại trụ sở, tịch thâu một số giấy tờ quan trọng, trong đó theo lời VM, có “kế hoạch đảo chính” chính phủ Hồ Chí Minh. Việt Minh cho rằng đă t́m thấy trong khu vực nhà nầy một số xác người, và lập biên bản kết tội QDĐ tổ chức “hắc điếm” để bắt cóc, giết người, tống tiền, cướp của. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, tái bản kỳ 2, Sài G̣n, 1970, tt. 322-324.) Tiếp tục tại Hà Nội, tối hôm 20-10-1946, công an xung phong VM trang bị súng ống, tiến vào ṭa soạn nhật báo Việt Nam, tại số 80 phố [đường] Quan Thánh (Grand Bouddha cũ), Hà Nội. Nhật báo nầy do VNQDĐ lập ra vào cuối năm 1945, và do nhà văn Khái Hưng phụ trách. Sau khi lục soát toàn bộ khu nhà, phá hoại máy móc, VM bắt khoảng 20 người có mặt trong ṭa báo về ty công an ở đường Trần Hưng Đạo (Gambetta cũ).

    Việt Minh lùng bắt đảng viên QDĐ và Việt Cách. Báo Cứu Quốc của VM ngày 1-11-1946 loan báo đă bắt hơn 300 người vào ngày 29-10-1946, đa số bị đưa đi an trí. Đại đa số những người bị VM đưa đi an trí, nếu không trốn thoát, đều bị VM thủ tiêu luôn, nhứt là khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ngày 19-12-1946.

    Trong khi đó, sau biến cố “Ôn Như Hầu” (13-7-1946), nhiều đảng viên QDĐ lui vào hoạt động bí mật và nhất là rút lên các chiến khu tiếp tục chiến đấu. Để tấn công QDĐ, Vơ Nguyên Giáp dựa vào kết luận trong biên bản vụ Ôn Như Hầu do VM lập ra, cho rằng QDĐ tổ chức “hắc điếm”, để ra lệnh cho Vệ quốc đoàn VM tổng tấn công bảy chiến khu của QDĐ trên toàn quốc.

    Trong các vụ tấn công QDĐ, nghiêm trọng nhứt là vụ “Cầu Chiêm Sơn” ở Quảng Nam vào cuối tháng 7-1946. Chiêm Sơn ở xă Phú Tân (nay là xă Điện Quang, G̣ Nổi), huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Tàu hỏa chạy từ Đà Nẵng vào nam, qua cầu Kỳ Lam, vào cù lao G̣ Nổi (tên chữ là Phù Kỳ, ở Điện Bàn), và rời G̣ Nổi bằng cầu Chiêm Sơn, đi qua Trà Kiệu. Vào cuối tháng 7-1946, nhân một chuyến xe lửa chuyên chở vơ khí vào nam, ngang qua cầu Chiêm Sơn, đoàn xe dừng lại v́ có lửa đốt báo động nguy hiểm. Theo lời khai của tài xế lái tàu, ông ta phát hiện rằng có kẻ tháo bù-lon để làm sập cầu Chiêm Sơn (?). Việt Minh hô lên rằng QDĐ chủ mưu việc nầy, liền bắt Phan Bá Lân, bí thư kiêm phó chủ nhiệm tỉnh đảng bộ QDĐ Quảng Nam, và một số lănh tụ QDĐ địa phương như Phan Ngô, Huỳnh Ḥa, Phan Thiệp… Các ông bị tra tấn tàn bạo, nhưng chẳng có ai chịu nhận tội.

    Tiếp đó, VM ra lệnh khủng bố, lùng bắt và thủ tiêu đảng viên QDĐ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngăi, và B́nh Định, nhất là những tổ chức cơ sở QDĐ ở các huyện. Trong vụ nầy, QDĐ Quảng Nam bị thiệt hại nặng nhất. Việt Minh bắt đảng viên QDĐ bỏ vào bao bố, rồi thả trôi sông. Lúc đó, người dân đi qua cầu Câu Lâu (trên sông Thu Bồn) ở Điện Bàn, thấy nhiều bao bố nổi lềnh bềnh trên mặt nước.

    Khi chiến tranh Việt Minh với Pháp bùng nổ tối 19-12-1945, VM lại lợi dụng t́nh trạng chiến tranh, tiếp tục tiêu diệt những thành phần đối lập như Trương Tử Anh, Lư Đông A, nhà văn Khái Hưng Trần Khánh Giư. Tại Nam Kỳ, VM bắt và đem đi mất tích ngày 16-4-1947 một nhân vật quan trọng là Đức Huỳnh Phú Sổ, người khai sáng đạo Phật Giáo Ḥa Hảo.

    Từ khi nắm quyền, với chủ trương “giết tiềm lực”, VM không phải chỉ giết hại những thành phần nổi tiếng ở thành phố, mà VM c̣n giết hại, thủ tiêu những người bất đồng chánh kiến ở tất cả các cấp, xuống tận các làng xă và vùng rừng núi xa xôi. Bất cứ ai, lỡ phát biểu một ư kiến bất đồng nhỏ, cũng bị giết. Tất cả đă gây nên t́nh trạng khủng bố rùng rợn chung trên toàn quốc trong giai đoạn nầy.

    KẾT LUẬN

    Những diễn tiến trong cuộc ḥa giải và liên hiệp năm 1945 cho thấy các điểm sau đây: 1) Khi gặp thời, thế lực mạnh mẽ, th́ CS độc quyền chính trị, độc quyền cai trị đất nước. (Nghị quyết ngày 11-9-1945 của Trung ương đảng CSĐD tại Hà Nội.) 2) Khi yếu thế, gặp trở ngại, khó khăn, CS kêu gọi ḷng yêu nước, đoàn kết, ḥa giải, liên hiệp với các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, thậm chí c̣n giả vờ giải tán đảng CSĐD. (Hợp tác tinh thành và chính phủ liên hiệp.) 3) Sau khi ḥa giải, liên hiệp để thoát khỏi hoạn nạn, nắm được quyền lực, th́ CS quay lại độc quyền chính trị, thẳng tay tiêu diệt tất cả những ai bất đồng chính kiến, kể cả những người đă từng ḥa hợp ḥa giải với cộng sản. (Vụ án Ôn Như Hầu, vụ cầu Chiêm Sơn, các vụ thủ tiêu trên toàn quốc.) Như thế rơ ràng KINH NGHIỆM LỊCH SỬ NĂM 1945 CHO THẤY H̉A GIẢI VÀ LIÊN HIỆP VỚI CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT.

    Vậy ngày nay, người Việt nghĩ sao về chuyện ḥa giải ḥa hợp lần nữa với cộng sản Việt Nam trong khi điều 4 Hiến pháp năm 1992 vẫn c̣n đó và chi phối toàn bộ sinh hoạt trong nước?

    TRẦN GIA PHỤNG
    (Toronto, 12-5-2015)

    http://www.lyhuong.net/uc/index.php/bandoc/4139-4139

  2. #2
    Member boban's Avatar
    Join Date
    09-03-2011
    Posts
    99

    Hoà giải với CSVN là đắc tội với tiền nhân.

    Quote Originally Posted by Tigon View Post
    Kinh Nghiệm Ḥa Giải Quốc Cộng


    Vào cuối tháng Tư vừa qua, trong và ngoài nước xuất hiện một số bài báo đề cập đến vấn đề ḥa giải quốc cộng sau khi chiến tranh đă kết thúc 40 năm. Chuyện nầy chẳng có ǵ mới mẻ, cũng đă từng diễn ra năm 1945. V́ vậy, xin hăy cùng nhau ôn lại chuyện ḥa giải quốc cộng 70 năm trước để rút kinh nghiệm cho tương lai.

    Cách đây 70 năm, mặt trận Việt Minh (VM) thuộc đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) cướp được chính quyền. (Nhóm chữ “cướp chính quyền” là chữ do cộng sản đưa ra.) Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh, lănh tụ của đảng CSĐD, tuyên bố độc lập và ra mắt chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Gần 10 ngày sau, Trung ương đảng CSĐD họp tại Hà Nội ngày 11-9-1945 đưa ra nguyên tắc căn bản là đảng CSĐD nắm độc quyền điều khiển mặt trận VM và một ḿnh thực hiện cách mạng. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 143.) Đảng CSĐD nắm độc quyền VM, mà VM đang nắm chính quyền, cai trị đất nước; nghĩa là đảng CSĐD độc quyền cai trị đất nước.

    Dầu Hồ Chí Minh, VM và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) quyết ra tay nhanh chóng để tạo ra t́nh trạng chính trị đă rồi, nhưng các cường quốc không thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh và vẫn thi hành giải pháp do tối hậu thư Potsdam đưa ra ngày 26-7-1945, theo đó việc giải giới quân đội Nhật tại Đông Dương ở bắc vĩ tuyến 16 do quân đội Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) phụ trách và ở nam vĩ tuyến 16 do quân Anh phụ trách. Giải pháp nầy không đề cập đến việc sau khi quân đội Nhật bị giải giới, ai sẽ cai trị Đông Dương, tạo ra một khoảng trống chính trị và hành chánh ở Đông Dương.

    VIỆT MINH CỘNG SẢN GẶP KHÓ KHĂN

    Khoảng 200,000 quân Trung Hoa do các tướng Lư Hán và Tiêu Văn lănh đạo tiến vào Hà Nội từ giữa tháng 9-1945. Cũng trong thời gian nầy, quân Anh đến Sài G̣n do tướng Douglas Gracey chỉ huy. Nhờ sự giúp đỡ của người Anh, vào đầu tháng 10-1945, quân Pháp do tướng Leclerc cầm đầu đổ bộ khá đông ở Nam Kỳ và uy hiếp các lực lượng VM.

    Tại miền Nam, VM rất lúng túng trước việc quân Pháp càng ngày càng mở rộng vùng kiểm soát, dồn VM vào thế co cụm và lẫn tránh vào các vùng bưng biền. Tại miền Bắc, Hồ Chí Minh và mặt trận VM cũng khó khăn không kém, gặp ba áp lực cùng một lúc. Đó là: 1) Theo tối hậu thư Potsdam, 200,000 quân Trung Hoa vào Việt Nam giữa tháng 9-1945. 2) Các lănh tụ Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) từ Trung Hoa trở về Việt Nam sau thế chiến thứ hai, quyết liệt chống đối Hồ Chí Minh và mặt trận VM. 3) Sau khi tái chiếm miền Nam, người Pháp tiến quân từ nam ra bắc, dự tính tái chiếm toàn bộ Đông Dương. Lúc đó, VM chỉ có khoảng từ 2,000 đến 5,000 đảng viên cộng sản. (Philippe Devillers, sđd. tr. 182.)

    Khi mới nổi lên cướp chính quyền, Hồ Chí Minh và VM cộng sản đă giết nhiều người không theo VM như đảng viên các đảng phái ở Hà Nội, nhóm bảo hoàng ở Huế, nhóm Đệ tứ quốc tế ở Sài G̣n… Nay v́ khó khăn mới, Hồ Chí Minh và VM thực hiện một kế hoạch hai mặt. Bề ngoài, VM tỏ ra ḥa hoăn, nói chuyện với tất cả các phe phái, kêu gọi ḷng yêu nước, đoàn kết và liên hiệp để cùng nhau chống ngoại xâm. Bề trong, VM thực hiện các cuộc khủng bố ngầm, thủ tiêu lẻ tẻ những địch thủ chính trị và đe dọa những ai không theo VM.

    Khi cùng với Tiêu Văn, từ Quảng Châu về Việt Nam, Nguyễn Hải Thần, lănh tụ Việt Cách, liên lạc và hội họp với Jean Sainteny, đại diện Pháp ở Bắc Kỳ ngày 12-10 và 15-10-1945 tại Hà Nội, để thảo luận về tương lai chính trị Bắc Kỳ. Thấy thế, ngày 23-10-1945, Hồ Chí Minh liền mời Nguyễn Hải Thần họp tay đôi giữa hai bên, và kư thỏa thuận hợp tác giữa VM và Việt Cách.

    Để gây ḷng tin nơi các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, nhất là các tướng lănh Trung Hoa Quốc Dân Đảng đang có mặt ở Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán đảng CSĐD ngày 11-11-1945 và thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mă Khắc Tư [Mác-xít] do Trường Chinh (Đặng Xuân Khu) làm tổng thư kư. Tuy vậy, theo lời Hồ Chí Minh “dù là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn lănh đạo chính quyền và nhân dân.” (Hồ Chí Minh toàn tập, [tập 6], xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 161.)

    Trong khi đó, ngày 6-11-1945, Vũ Hồng Khanh, lănh tụ VNQDĐ về lại Hà Nội. Ngày 8-11-1945 Nguyễn Hải Thần đ̣i thành lập một chính phủ liên hiệp. Đ̣i hỏi nầy phù hợp với ư muốn của các tướng lănh Trung Hoa v́ trước khi Lư Hán qua Việt Nam, Hoa Kỳ gây ảnh hưởng để Tưởng Giới Thạch bắt tay với Mao Trạch Đông. (T.E. Vadney, The World Since 1945, London: Penguin Books, 1987, tr. 121.) Ngày 14-8-1945, chính phủ Tưởng Giới Thạch kư hiệp ước thân hữu với Liên Xô. (Trevor N. Dupuy, Curt Johnson và David L. Bongard, The Harper Encyclopedia of Military History, New York: HarperCollins, 1993, tr. 1423.) Do đó, chính phủ và các tướng lănh Trung Hoa, vừa ủng hộ các nhà lănh đạo Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc, vừa muốn Việt Nam theo công thức quốc cộng liên hiệp như Trung Hoa, nên họ áp lực cả hai phía ngồi lại với nhau. Các tướng lănh Trung Hoa c̣n muốn giải quyết cho xong vấn đề Việt Nam để rút quân về ứng phó với t́nh h́nh Trung Hoa.

    Lúc đó, ở Việt Nam lănh tụ các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc và các nhà trí thức yêu nước không phải là không biết về lai lịch Hồ Chí Minh, và cũng không phải không có những nghi ngờ đối với VM cộng sản. Tuy nhiên, các đảng phái quốc gia ở thế chẳng đặng đừng, phải gia nhập chính phủ liên hiệp, v́ đă chậm chân để cho VM chiếm được chính quyền trước; nay muốn tranh đấu giành lại chính quyền khỏi tay VM, th́ phải chấp nhận ngồi lại tranh đấu chính trị.

    CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP


    Ngày 23-12-1945, đại diện của VM, Việt Cách và VNQDĐ cùng họp tại số 40 đại lộ Gia Long (Hà Nội), dưới sự chủ tọa của tướng Tiêu Văn, kư thỏa thuận gọi là HỢP TÁC TINH THÀNH, gồm 18 điểm, đại khái là: Từ ngày 1-1-1946, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch. Nội các gồm VM (2 ghế), Việt Cách (2 ghế), QDĐ (2 ghế), Dân Chủ (2 ghế), độc lập (2 ghế). Quốc hội sẽ được tổ chức bầu cử ngày 6-1-1946. QDĐ giữ 50 ghế, Việt Cách 20 ghế. Các đảng cam kết không gây hấn với nhau. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A, Houston: Nxb. Văn Hóa: 1996, tr. 293.)

    Ngày 26-12-1945, báo chí Hà Nội đăng thông cáo chung của Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh, nguyên văn như sau:

    Ngày 24-12-1945, chúng tôi là Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh thay mặt cho Việt Minh, Quốc Dân Đảng và Cách mệnh Đồng Minh Hội, cùng kư tên công nhận những điều ước sau đây:

    1. Độc lập trên hết, đoàn kết trên hết. Căn cứ vào thái độ thân ái, tinh thành, cùng nhau thảo luận để giải quyết hết thẩy những vấn đề khó khăn trước mắt. Ai dùng ngang vũ lực gây nên những cuộc nội loạn sẽ bị quốc dân ruồng bỏ.

    2. Kể từ ngày 25-12-1945, đôi bên phải ủng hộ một cách thiết thực cuộc tổng tuyển cử, quốc hội và kháng chiến.

    3. Bắt đầu từ ngày 25-12-1945, đôi bên đều đ́nh chỉ hết thẩy những việc công kích nhau bằng ngôn luận và bằng hành động.

    Kư tên: Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh. (Chính Đạo, sđd. tr. 294.)

    Từ đó, CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP ra đời tại Hà Nội ngày 1-1-1946, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần phó chủ tịch, với đa số đảng viên cộng sản, thân cộng sản (cộng sản trá h́nh) và một số đảng viên các đảng phái khác làm bộ trưởng. Đồng thời một Hội đồng Quốc pḥng được lập ra do Vơ Nguyên Giáp làm chủ tịch và Vũ Hồng Khanh giữ chức phó chủ tịch. (Đây là chính phủ liên hiệp quốc cộng đầu tiên sau năm 1945.)

    Theo thỏa thuận “hợp tác tinh thành”, cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức ngày 6-1-1946 trên toàn quốc, gồm tổng cộng 333 ghế. Hồ Chí Minh đắc cử ở Hà Nội. Cựu hoàng Bảo Đại không kư đơn ứng cử, mà vẫn đắc cử ở Thanh Hóa. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 222.)

    Tuy quốc hội lập hiến đă được bầu xong, nhưng các đảng phái không cộng sản tiếp tục phản đối mạnh, v́ trong cuộc bầu cử nầy, số người đắc cử không ngoài các lănh tụ VM, những người thân VM, hoặc những người do VM chọn, như trường hợp cựu hoàng Bảo Đại. Lúc đó, VM buộc phải mở rộng quốc hội, thêm 70 đại biểu cho Việt Cách và QDĐ từ nước ngoài trở về, không thông qua bầu cử, như đă quy định trong cuộc họp ngày 23-12-1945. Như thế, tổng số đại biểu lên đến 403 người.

    Sau đây là lời sử gia Trần Trọng Kim mô tả cuộc bầu cử: “Khi ấy tôi đă về ở Hà Nội rồi, thấy cuộc tuyển cử rất kỳ cục. Mỗi chỗ để bỏ phiếu, có một người của Việt Minh trông coi, họ gọi hết cả đàn ông, đàn bà đến bỏ phiếu, ai không biết chữ th́ họ viết thay cho. Việt Minh đưa ra những bản kê tên những người họ đă định trước, rồi đọc những tên ấy lên và hỏi anh hay chị bầu cho ai? Người nào vô ư bầu cho một người nào khác, th́ họ quát lên; “Sao không bầu cho những người này? Có phải phản đối không?” Người kia sợ mất vía nói: “Anh bảo tôi bầu cho ai, tôi xin bầu người ấy.” Cách cưỡng bách ra mặt như thế, lẽ dĩ nhiên những người Việt Minh đưa ra được đến tám chín mươi phần trăm số người đi bầu.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài G̣n: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 103.)

    Quốc hội lập hiến họp kỳ thứ nhứt ngày 2-3-1946, cử ra CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP KHÁNG CHIẾN, do cựu hoàng Bảo Đại, nay là công dân Vĩnh Thụy làm cố vấn tối cao, và các chức vụ quan trọng là Hồ Chí Minh (chủ tịch), Nguyễn Hải Thần (phó chủ tịch), Huỳnh Thúc Kháng (bộ trưởng Nội vụ), Nguyễn Tường Tam (bộ trưởng Ngoại giao), Phan Anh (bộ trưởng Quốc pḥng). Đa số c̣n lại là bộ trưởng VM (cộng sản) và một số ít các đảng phái khác. Quân sự ủy viên hội vẫn là hai nhân vật chính là Vơ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh. (Đây là chính phủ liên hiệp quốc cộng lần thứ hai sau 1945.)

    Sử gia Trần Trọng Kim kể về hoạt động của chính phủ liên hiệp: “Khi tôi c̣n ở Hà Nội, cụ Huỳnh Thúc Kháng ra nhận chức bộ trưởng bộ nội vụ, có đến thăm tôi. Ngồi nói chuyện, tôi hỏi: “Cụ nay đứng đầu một bộ rất quan trọng trong chính phủ, chắc là bận việc lắm”. Cụ Huỳnh nói: “Bây giờ việc ǵ cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc ǵ mấy, và khi có việc ǵ, th́ họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ kư mà thôi”. Những khi có hội đồng chính phủ th́ bàn định những ǵ? “Cũng chưa thấy có việc ǵ, thường th́ họ đem những việc họ đă làm, rồi nói cho chúng tôi biết”. Xem như thế th́ các ông bộ trưởng chỉ đứng để làm vị mà thôi, chứ không có quyết định ǵ cả. Có người hỏi ông Nguyễn Tường Tam rằng: “Khi ông nhận chức bộ trưởng bộ ngoại giao, ông thấy có việc ǵ quan trọng lắm không?” Ông trả lời: “Tất cả giấy má trong bộ ngoại giao của cụ Hồ giao lại cho tôi, tôi chỉ thấy có ba lá đơn của mấy người sĩ quan Tàu nhờ t́m cho mấy cái nhà, và t́m cái ví đựng tiền bị kẻ cắp lấy mất”. Câu chuyện có thể là ông Tam nói khôi hài, nhưng đủ rơ việc các ông bộ trưởng không có ǵ. Tôi đem câu chuyện đó nói ra đây để chứng thực là các bộ trưởng chỉ giữ hư vị chứ không có thực quyền. Cái thực quyền trong chính phủ lúc ấy là ở mấy người như ông Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp và ở tổng bộ cộng sản điều khiển hết cả.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 110.)

    Cần chú ư là lúc đó VM đang gặp khó khăn: Khoảng 200,000 quân QDĐ Trung Hoa chưa về nước sau lễ đầu hàng của quân đội Nhật ngày 28-9-1945. Quân đội Pháp chiếm được toàn bộ Nam Kỳ đang từ Nam Kỳ tiến ra Trung Kỳ và đe dọa Bắc Kỳ. V́ vậy, Hồ Chí Minh và VM mới nhượng bộ các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, tổ chức bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến pháp, để tạm ổn việc nội bộ nhằm rảnh tay giải quyết công việc ngoại giao.

    KẾT QUẢ

    Nhờ kế hoạch “hợp tác tinh thành” và liên hiệp với các đảng phái đối lập, Hồ Chí Minh và VM tạm ổn định t́nh h́nh nội bộ, quay qua vận động ngoại giao, kư với đại diện Pháp thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, rồi Tạm ước (Modus Vivendi) ngày 14-9-1946 tại Paris, hợp thức hóa việc Pháp trở lại Đông Dương và tái thiết lập lại toàn bộ các cơ sở Pháp tại Việt Nam.

    Trong khi tạm ổn về ngoại giao, VM quay qua tấn công các thành phần đối lập. Nguyễn Hải Thần âm thầm bỏ qua Trung Hoa. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 4, Paris: Nxb. Nam Á, 2002, tr. 2092.) Huỳnh Thúc Kháng được cử lên thay làm phó chủ tịch nước.

    Hồ Chí Minh qua Pháp theo phái đoàn tham dự Hội nghị Fontainebleau, rời Hà Nội ngày 31-5-1946. Hồ Chí Minh cử Huỳnh Thúc Kháng làm quyền chủ tịch nước. Nhân cơ hội Hồ Chí Minh đang c̣n ở Pháp, tức không có mặt ở Việt Nam, VM cộng sản mở cuộc đại khủng bố các thành phần đối lập nhằm chứng tỏ rằng Hồ Chí Minh là kẻ ngoại phạm, không liên can trong các vụ nầy.

    Để có lư do tấn công VNQDĐ, Vơ Nguyên Giáp, chủ tịch Quân sự uỷ viên hội, lấy cớ rằng có tin mật báo đặc vụ QDĐ âm mưu sẽ tấn công và ám sát các nhân viên chính phủ trong dịp tham dự lễ duyệt binh do Pháp tổ chức tại Hà Nội nhân ngày quốc khánh Pháp (14-7-1946), nên ngày 13-7-1946, Vơ Nguyên Giáp cho người lục soát trụ sở của VNQDĐ ở số 9 phố (đường) Ôn Như Hầu ở Hà Nội.

    Trụ sở nầy vốn của quân đội Nhật Bản giao lại cho quân đội Trung Hoa; rồi được chuyển cho QDĐ sử dụng. Quốc Dân Đảng sử dụng số 9 phố Ôn Như Hầu làm trụ sở của ban Tuyên huấn Đệ thất khu Đảng bộ của VNQDĐ. Việt Minh dùng vơ lực, bất ngờ tràn vào nhà, bắt tất cả những đảng viên QDĐ có mặt hôm đó tại trụ sở, tịch thâu một số giấy tờ quan trọng, trong đó theo lời VM, có “kế hoạch đảo chính” chính phủ Hồ Chí Minh. Việt Minh cho rằng đă t́m thấy trong khu vực nhà nầy một số xác người, và lập biên bản kết tội QDĐ tổ chức “hắc điếm” để bắt cóc, giết người, tống tiền, cướp của. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, tái bản kỳ 2, Sài G̣n, 1970, tt. 322-324.) Tiếp tục tại Hà Nội, tối hôm 20-10-1946, công an xung phong VM trang bị súng ống, tiến vào ṭa soạn nhật báo Việt Nam, tại số 80 phố [đường] Quan Thánh (Grand Bouddha cũ), Hà Nội. Nhật báo nầy do VNQDĐ lập ra vào cuối năm 1945, và do nhà văn Khái Hưng phụ trách. Sau khi lục soát toàn bộ khu nhà, phá hoại máy móc, VM bắt khoảng 20 người có mặt trong ṭa báo về ty công an ở đường Trần Hưng Đạo (Gambetta cũ).

    Việt Minh lùng bắt đảng viên QDĐ và Việt Cách. Báo Cứu Quốc của VM ngày 1-11-1946 loan báo đă bắt hơn 300 người vào ngày 29-10-1946, đa số bị đưa đi an trí. Đại đa số những người bị VM đưa đi an trí, nếu không trốn thoát, đều bị VM thủ tiêu luôn, nhứt là khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ngày 19-12-1946.

    Trong khi đó, sau biến cố “Ôn Như Hầu” (13-7-1946), nhiều đảng viên QDĐ lui vào hoạt động bí mật và nhất là rút lên các chiến khu tiếp tục chiến đấu. Để tấn công QDĐ, Vơ Nguyên Giáp dựa vào kết luận trong biên bản vụ Ôn Như Hầu do VM lập ra, cho rằng QDĐ tổ chức “hắc điếm”, để ra lệnh cho Vệ quốc đoàn VM tổng tấn công bảy chiến khu của QDĐ trên toàn quốc.

    Trong các vụ tấn công QDĐ, nghiêm trọng nhứt là vụ “Cầu Chiêm Sơn” ở Quảng Nam vào cuối tháng 7-1946. Chiêm Sơn ở xă Phú Tân (nay là xă Điện Quang, G̣ Nổi), huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Tàu hỏa chạy từ Đà Nẵng vào nam, qua cầu Kỳ Lam, vào cù lao G̣ Nổi (tên chữ là Phù Kỳ, ở Điện Bàn), và rời G̣ Nổi bằng cầu Chiêm Sơn, đi qua Trà Kiệu. Vào cuối tháng 7-1946, nhân một chuyến xe lửa chuyên chở vơ khí vào nam, ngang qua cầu Chiêm Sơn, đoàn xe dừng lại v́ có lửa đốt báo động nguy hiểm. Theo lời khai của tài xế lái tàu, ông ta phát hiện rằng có kẻ tháo bù-lon để làm sập cầu Chiêm Sơn (?). Việt Minh hô lên rằng QDĐ chủ mưu việc nầy, liền bắt Phan Bá Lân, bí thư kiêm phó chủ nhiệm tỉnh đảng bộ QDĐ Quảng Nam, và một số lănh tụ QDĐ địa phương như Phan Ngô, Huỳnh Ḥa, Phan Thiệp… Các ông bị tra tấn tàn bạo, nhưng chẳng có ai chịu nhận tội.

    Tiếp đó, VM ra lệnh khủng bố, lùng bắt và thủ tiêu đảng viên QDĐ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngăi, và B́nh Định, nhất là những tổ chức cơ sở QDĐ ở các huyện. Trong vụ nầy, QDĐ Quảng Nam bị thiệt hại nặng nhất. Việt Minh bắt đảng viên QDĐ bỏ vào bao bố, rồi thả trôi sông. Lúc đó, người dân đi qua cầu Câu Lâu (trên sông Thu Bồn) ở Điện Bàn, thấy nhiều bao bố nổi lềnh bềnh trên mặt nước.

    Khi chiến tranh Việt Minh với Pháp bùng nổ tối 19-12-1945, VM lại lợi dụng t́nh trạng chiến tranh, tiếp tục tiêu diệt những thành phần đối lập như Trương Tử Anh, Lư Đông A, nhà văn Khái Hưng Trần Khánh Giư. Tại Nam Kỳ, VM bắt và đem đi mất tích ngày 16-4-1947 một nhân vật quan trọng là Đức Huỳnh Phú Sổ, người khai sáng đạo Phật Giáo Ḥa Hảo.

    Từ khi nắm quyền, với chủ trương “giết tiềm lực”, VM không phải chỉ giết hại những thành phần nổi tiếng ở thành phố, mà VM c̣n giết hại, thủ tiêu những người bất đồng chánh kiến ở tất cả các cấp, xuống tận các làng xă và vùng rừng núi xa xôi. Bất cứ ai, lỡ phát biểu một ư kiến bất đồng nhỏ, cũng bị giết. Tất cả đă gây nên t́nh trạng khủng bố rùng rợn chung trên toàn quốc trong giai đoạn nầy.

    KẾT LUẬN

    Những diễn tiến trong cuộc ḥa giải và liên hiệp năm 1945 cho thấy các điểm sau đây: 1) Khi gặp thời, thế lực mạnh mẽ, th́ CS độc quyền chính trị, độc quyền cai trị đất nước. (Nghị quyết ngày 11-9-1945 của Trung ương đảng CSĐD tại Hà Nội.) 2) Khi yếu thế, gặp trở ngại, khó khăn, CS kêu gọi ḷng yêu nước, đoàn kết, ḥa giải, liên hiệp với các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, thậm chí c̣n giả vờ giải tán đảng CSĐD. (Hợp tác tinh thành và chính phủ liên hiệp.) 3) Sau khi ḥa giải, liên hiệp để thoát khỏi hoạn nạn, nắm được quyền lực, th́ CS quay lại độc quyền chính trị, thẳng tay tiêu diệt tất cả những ai bất đồng chính kiến, kể cả những người đă từng ḥa hợp ḥa giải với cộng sản. (Vụ án Ôn Như Hầu, vụ cầu Chiêm Sơn, các vụ thủ tiêu trên toàn quốc.) Như thế rơ ràng KINH NGHIỆM LỊCH SỬ NĂM 1945 CHO THẤY H̉A GIẢI VÀ LIÊN HIỆP VỚI CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT.

    Vậy ngày nay, người Việt nghĩ sao về chuyện ḥa giải ḥa hợp lần nữa với cộng sản Việt Nam trong khi điều 4 Hiến pháp năm 1992 vẫn c̣n đó và chi phối toàn bộ sinh hoạt trong nước?

    TRẦN GIA PHỤNG
    (Toronto, 12-5-2015)

    http://www.lyhuong.net/uc/index.php/bandoc/4139-4139
    CSVN đă "bầu đoàn thê tử" kéo nhau qua Thành Đô để thậm thụt kư kết mật ước bán nước Thành Đô tháng 9/1990 , trong đó có Linh,Tổng Bí Thư Csvn và Phạm văn Đồng, kẻ bán biển đảo VN cho Trung Quốc năm 1958( có văn tự). Nay ta hô hào hoà giải với CSVN th́ có phải ta đồng ư với chúng về các việc trên sao? VNCH giữ nước, CSVN bán nước . Dứt khoát không thề có hoà giải hoà hợp ǵ ráo trọi. Muốn nói việc hoà giải hoà hợp hay cái chi chi đó, trưóc tiên phải giải tán đảng CSVN và đưa các tên trong Bộ Chính Trị/ đảng CSVN ra toà án Mặt Trận Cứu Nguy Tổ Quốc trước đă; nếu không làm thế mà chủ trương hoà giải hoà hợp với bọn tay sai bán nước cho Tàu Cọng là đắc tội với tiền nhân./.
    Last edited by boban; 23-05-2015 at 05:32 AM.

  3. #3
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022
    Tôi hoàn toàn đồng ư 101 phần trăm với Anh boban:


    trưóc tiên phải giải tán đảng CSVN và đưa các tên trong Bộ Chính Trị/ đảng CSVN ra toà án Mặt Trận Cứu Nguy Tổ Quốc trước đă; nếu không làm thế mà chủ trương hoà giải hoà hợp với bọn tay sai bán nước cho Tàu Cọng là đắc tội với tiền nhân./.

    Theo tôi : Ḥa giải với cs VN là tự sát!

    Những khó nói bọn Việt kiều óc heo phải dùng từ óc heo mới chính xác,
    Sống tai Hải ngoại mà dị tâm 2 ḷng!
    Bọn đó chỉ là rác rưởi của Đồng bào Hải ngoại và Đồng bào Quốc nội .

    Sẽ bị Lịch sử đào thải

    Không đáng quan tâm nữa, dù không phải là một số ít tại Hải ngoại, đây cũng là một trong những lư do mà Việt Nam Cộng Hoà bại trận năm xưa!

    Hiện tại tại Quốc nội đại đa số người dân kể cả Đảng viên cấp thấp và Trung cấp quan niệm đây là Chân Lư:


    Chống Mỹ là Ngu, theo bọn Tàu cộng là càng Đại Ngu, không những vậy vi phạm Tội ác bán nước phản bội Dân tộc!
    Thế mà bọn chóp bu Đảng Cs lại thực hiện chọn đây là kim chỉ Nam!
    Mỉa mai bon Việt kiều óc heo tại hải ngoại: Nhất trí Đồng ư thánh chỉ của Đảng như Nguyễn Phuơng Hùng, Nguyễn Ngọc Lập và mới đây là tên Phạm Ḥa xưng là Biệt Kích Dù!!!!


    Nhưng ở đời:
    Dây cung bị trương căng quá, th́ cây cung cũng sẽ găy!
    Trong đường Chết có con đường Sống !

    CSVN cũng sắp đến ngày tàn rồi!

    Các Anh Chi Em ráng chờ nghe 3 Tên phản bội QLVNCH, phản bội Dân tộc Việt Nam,phản bội Dân tộc Mỹ khi tuyên thệ nhập Quốc Tịch Mỹ không phải là cs ,không ủng hộ cs giải thích chạy tội trên các Diễn đàn hải ngoại, khi CSVN đến ngày tàn, khai sinh chính thể Cộng ḥa trên Tổ quốc Đất Mẹ mến yêu !

    Thân

    Nguyễn Hùng Kiệt

    **

    Nghe Mai Hân nhắc đến tên Phạm Ḥa xưng là Biệt Kích Dù, tôi đành Post cuộc đời bi thảm sau 1975 của Người Anh hùng Thiếu tá Nguyễn Sơn 1940-2014 Chiến đoàn trường Chiến đoàn 2 Biệt Kích Dù : Anh hùng KonTum, Anh hùng An Lộc Địa, Anh hùng Thung Lung Ashau ,Anh hùng Mai Lĩnh Chiến mùa hè Đỏ Lửa 1972 : 13 năm tù đày , tan nat gia dinh ,Tôi tính post trong ngược ḍng lịch sử thôi Post trước tại đây để nhắc nhở những kẻ nào Dị tâm 2 ḷng xưng là QLVNCH lai hô hào ḥa hợp ḥa giải với CSVN ???!

    Tivi SGN đă thực hiện 2 Clip Vinh danh Anh hùng Thiếu tá Nguyễn Sơn và nói lên thân phận bi thảm của người Lính VNCH sau 1975 ,mà Thiếu tá Biệt Kích Dù QLVNCH Nguyễn Sơn là trường hợp điển h́nh tù đày gian khổ 13 năm , trở về vùng kênh tê mới gia đ́nh tan nát !





    Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 2 BK 81 :
    Thiếu Tá Nguyễn Sơn








    Clip 1 :
    Nói về cuộc đời của Anh hùng Thiếu Tá Nguyễn Sơn :

    Cha bị CS Giết , các Anh Em là QLVNCH Tử trận .

    Tù đày 13 năm sau 1975 !
    Thân phận thua một con chó !







    Clip 2
    Ra tù về Vùng Kênh tế mới !
    Gia đ́nh tan nát !
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 23-05-2015 at 10:07 AM.

  4. #4
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    XIN ĐỪNG NÓI VỚI TÔI:
    "HOÀ HỢP VÀ H̉A GIẢI"





    Người về sau 13 năm tù "cải tạo" ở miền Bắc: Ngày đi tóc vẫn c̣n xanh, nay về tóc râu đă bạc, hom hem trong bộ áo tù màu xám. Người vợ sau 13 năm gian khổ mỏi ṃn, tóc cũng đă hoa râm, răng cũng rụng dần nhưng vẫn c̣n chút xuân sắc của một thời mệnh phụ. Người con, cằn cỗi với tháng năm trong một xă hội phân biệt đối xử v́ cha anh là tù "cải tạo", nức nở ôm tay cha già, sau anh là em anh cũng đang lau nước mắt.

    Những giọt nước mắt này phải chăng để mừng đời "giải phóng" hay ứa ra từ nỗi đớn đau của những người "thua cuộc?"

    Bạn có thể quên v́ bạn chưa sống với "người" Cộng Sản.
    Anh có thể quên v́ anh ở nước ngoài từ 1975.
    Em có thể quên v́ em sanh ra sau 1975.

    Nhưng tôi, tôi không quên được dù tôi muốn quên đi. Bức h́nh này làm tôi ứa nước mắt mỗi khi nh́n. Ở đó tôi thấy thân phận bạn bè tôi, đồng đội tôi,vợ con tôi và bản thân tôi của một thời dĩ văng.

    Chỉ v́ tôi là người trong cuộc!


    http://tinanvc.blogspot.com/2014/02/...-hoa-giai.html

  5. #5
    Member QuanTran's Avatar
    Join Date
    21-03-2011
    Posts
    222

    Chuyện vui: Cách duy nhất để lấy lại biển Đông của VN từ tay TC.


    Sau hai ṿng đàm phán không chính thức với mục đích nếu không đạt được Hiệp ước Liên minh Quân sự với Hoa Kỳ th́ ít ra cũng được phép mua vũ khí từ Mỹ, Đại diện CSVN đành về nước tay không với gói quà 18 triệu đô viện trợ cho Cảnh sát Biển.

    Hôm trước khi ra sân bay về nước, Đại diện CSVN có ngơ lời mời người đối tác phía Mỹ một buổi cơm tối thân mật tại một nhà hàng Tàu trong vùng Virginia. Nhà hàng này nổi tiếng với món Vịt Bắc Kinh và có rất nhiều Tổng thống Mỹ ghé qua ăn và chụp h́nh lưu niệm. Vừa bước vô cửa người đại điện Mỹ nói chào một cách dí dỏm:

    - Ông cũng khéo chọn lựa chứ? Mỹ gặp Việt trong nhà hàng Trung Quốc?

    Đại diện CSVN cười và giải thích:

    - Nhà hàng này có chủ là người Đài Loan. Cứ xem như kẻ thù của kẻ thù là bạn.

    Đại diện Mỹ buột miệng ra một câu tiếng Việt:

    - Thế ra là nhà hàng của “Thế lực THÙ (của) ĐỊCH” à?

    Đại diện CSVN phá lên cười:

    - Gớm. Ông cũng rành tiếng Việt đấy chứ?

    - Tôi học tiếng Việt ở Mỹ, học tiếng lóng tiếng láy ở Sài G̣n khi c̣n làm tùy viên văn hóa bên đó trước năm 1975. Sau này vẫn theo dơi thời sự và trao đổi trên Facebook. Chúng ta có thể thảo luận bằng tiếng Việt để khỏi mất th́ giờ. Ông muốn gặp tôi lần cuối chắc là có câu hỏi ǵ cho tôi?

    Đại diện CSVN vào thẳng vấn đề:

    - Hai ṿng đàm phán qua ông đă kết luận chúng tôi không thể có Liên minh Quân sự với Mỹ v́ Trung Quốc sẽ cản trở. Chúng tôi không có đủ ngân sách để mua vũ khí tự túc. Xem ra giải pháp quân sự lúc này với Trung Quốc không khả thi. Thế th́ giải pháp pháp lư, ông nghĩ có khả thi hay không? Ư tôi muốn nói rằng đưa Trung Quốc ra Ṭa án Quốc tế để kiện như Philipines đang làm th́ có khả thi không?

    - Cơ hội rất ít, thưa ông. Và các ông nên cân nhắc cẩn thận về các bằng chứng tŕnh trước ṭa. V́ nếu ṭa phán quyết các ông THUA th́ con đường tương lại c̣n gian nan hơn nữa. Phán quyết mới nhất của ṭa cấp quốc tế xem ra là bản án tử h́nh cho các ông tại Biển Đông. Khi ấy các ông bị đẩy ra bên lề mọi tranh chấp sau này của các nước trong vùng đối với Biển Đông.

    - Nhưng nếu chúng tôi liên kết kiện với Phi hay các nước khác?

    - Tôi cũng nhận thấy các ông đang có hướng này. Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ghé thăm Phi hôm qua. Nhưng khả năng Phi liên kết với ông trong vụ kiện rất thấp v́ khi Phi kiện các ông không ủng hộ. Bây giờ các ông tham gia với BẰNG CHỨNG BẤT LỢI hơn th́ dĩ nhiên Phi khó chấp nhận.

    - Chúng tôi có đầy đủ các bằng chứng THUẬN LỢI từ thời Thực dân Pháp đến Việt Nam Cộng Ḥa rằng Việt Nam có đă xác định chủ quyền trên hai quần đảo này liên tục cả trăm năm cơ mà. Sao ông lại nói BẤT LỢI?

    - Các ông đang trưng dẫn bằng chứng của những chế độ đă qua mà không hề có bằng chứng xác nhận chủ quyền cấp quốc tế từ chế độ của các ông. Xem ra khó thuyết phục ṭa án. Các ông có thể trưng dẫn h́nh ảnh thời thơ ấu trong một căn nhà, những câu chuyện tuổi thơ ở đó, trong khi người ta tŕnh ra GIẤY BÁN NHÀ của bố các ông, th́ dĩ nhiên ṭa án không thể cho các ông vào nhà được.

    - Ư ông muốn nói đến Công Hàm Phạm văn Đồng năm 1958?


    - Đúng. Các ông biết Công Hàm này đă lâu nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy các ông cố NÉ TRÁNH nó. Trong khi ngược lại gần đây Trung Quốc lại trưng công hàm này ra trước quốc tế. Xem ra họ có nắm đàng cán về vụ này!

    Đại diện CSVN cười sặc sụa:

    - Công hàm đó KHÔNG CÓ HIỆU LỰC ông ơi. Phạm văn Đồng dù có nói thẳng là “giao Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Quốc” th́ cũng không có hiệu lực. Đó chỉ là Đ̉N NGOẠI GIAO... KHÔN NGOAN của chúng tôi để nhận viện trợ từ Trung Quốc mà đánh Mỹ. Năm 1958 chúng tôi không có chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa.

    Chờ cho người đại diện CSVN cười xong, uống một ngụm nước, th́ đại diện Mỹ mới từ tốn lên tiếng:

    - Đối với luật pháp Tây Phương chúng tôi th́ chúng tôi phân biệt rất rơ sự tách biệt giữa “khế ước buôn bán” và “chủ quyền”.

    - Ư ông nói là các ông có thể bán những ǵ các không có cơ à. Thật là HOANG ĐƯỜNG và TRẺ CON.

    - Chuyện có thật ông à. Khế ước buôn bán là giao kết giữa hai hay nhiều bên về chuyển nhượng một cái ǵ đó nó có thể trong hiện tại hay trong tương lai để đổi lấy giá trị tiền bạc hay vật chất có thể giao hôm nay hay giao vào một thời điểm trong tương lai. Như vậy vào năm 1958 các ông hứa bán một cái ǵ đó các ông không có ngay lúc đó, và lời hứa sẽ giao hàng ngay khi các ông có. Vấn đề là phía Trung Quốc tin như vậy và ủng hộ các ông biến điều đó thành hiện thực. Đổi lại họ cung cấp viện trợ cho các ông gần cả tỷ đô la về vật chất và con người để tiến hành chiến tranh chống chúng tôi.

    Năm 1958 các ông không có CHỦ QUYỀN nhưng các ông đă làm KHẾ ƯỚC, th́ khi các ông có chủ quyền các ông phải thực hiện khế ước buôn bán đó.

    - Thế các ông có trường hợp buôn bán kiểu đó trong thực tế không?

    - Có chứ ông. Trong sở hữu chứng khoán, thị trường thế giới có cái gọi là “future options”. Ông không dám mua chứng khoán đó v́ ông sợ thua lỗ, ông có thể trả tiền với LỜI HỨA sẽ mua và công ty đó phải giao “chủ quyền” chứng khoán đó cho ông trước thời điểm nào đó, dù nó lên hay xuống thấp hơn giá trị ông trả. Rồi ông cần tiền ông vẫn có thể bán LỜI HỨA đó cho người khác và cứ thế cho đến khi thời điểm hứa đó đến th́ người cuối cùng phải... THỰC HIỆN. Cái đó là buôn bán thứ ông không có chủ quyền...

    Đại diện CSVN nghiêm mặt lại biện hộ:

    - Nhưng ông không đọc thấy trong ngôn từ Thủ Tướng Phạm văn Đồng rất KHÔN NGOAN không hề đề cập đến chuyện “giao chủ quyền” như cái ví dụ mà ông nêu. Ông ta chỉ nói: “có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển”

    Đại diện Mỹ cười rồi nói:

    - Các ông đă có lịch sử CÔNG NHẬN công hàm này. Đó là vào năm 1974 khi Trung Quốc tấn công Hoàng Sa thuộc chủ quyền VNCH. Các ông đă “tôn trọng hải phận của Trung Quốc trong mọi quan hệ trên mặt biển” nên các ông hoàn toàn để mặc cho Trung Quốc hành động chiếm chủ quyền... TƯƠNG LAI của các ông. Thế th́ sao các ông có thể biện minh trước ṭa rằng một văn bản không hiệu lực lại được tôn trọng?

    - Chúng tôi cũng như các ông thôi. Hạm đội 7 các ông nằm đó đâu có động tĩnh ǵ!

    - Hoa Kỳ bị ràng buộc bởi Thông cáo chung Thượng Hải với Trung Quốc và Hiệp định Paris, phải rút quân và trả lại quyền tự quyết cho VNCH.

    Đại diện Mỹ ngừng một lát rồi nói tiếp:

    - Tôi xem công hàm Phạm văn Đồng nhiều lần và phải công nhận vào thời điểm năm 1958, ông Đồng hay ai đó soạn cho ông Đồng kư công hàm này là “khôn liền” ngay lúc đó mà không có... “khôn lâu”.

    - Ư ông là?

    - Ngôn từ trong công hàm này vào năm 1958 rất là KHÔN NGOAN. V́ các ông BÁN VỊT TRỜI mà thu được gần cả tỷ đô la viện trợ của Trung Quốc cho một món hàng tương lai không biết có chiếm được hay không. Ví như một người muốn đi cướp nhà người khác không có súng, không có tiền, đi hứa với thằng cướp khác “khi nào tao cướp được nhà đó th́ tao tôn trọng quyền của mày được trồng rau ở sân sau”. Khi cướp được th́ phải thực hiện lời hứa đó.

    Đại diện CSVN mỉa mai:

    - Nếu “khôn lâu” như ông trong trường hợp đă lỡ kư LỜI HỨA đó th́ ông phải làm sao?

    - Nếu tôi là các ông mà tôi bắt buộc phải viết công hàm đó để có viện trợ th́ tôi vẫn viết như thế...

    - Huề tiền!

    - Tôi vẫn nhận gần cả tỷ đô la để đánh Hoa Kỳ và kéo nó đến bàn Hội Nghị Paris năm 1973 để nó phải rút quân...

    Đại diện CSVN phá lên cười:

    - Ông khôi hài quá, thế mà lại “dạy ngoại luộc trứng”

    Đại diện Mỹ vẫn từ tốn nói tiếp:

    - CSVN kư công hàm Phạm văn Đồng là "khôn liền" ngay năm 1958, nhưng ai đó quyết định xé hiệp định Paris chiếm Miền Nam năm 1975 là ĐẠI NGU để Trung Quốc nó... (xin lỗi tôi hay có tật nói láy) chiếm Miền Nam là biến công hàm đó thành hiện thực và đối diện gần 1 tỷ đô la nợ Trung Quốc, là từ bỏ 4 đến 6 tỷ đô la bồi thường chiến tranh của Hoa Kỳ... Việt Nam bỏ cơ hội thành một nước Đức và nước Nhật sau thế chiến thứ hai.

    Đại diện CSVN hết kiên nhẫn ngắt lời:

    - Ông có khiếu kể chuyện cổ tích. Xin phép trở lại trọng tâm. Thế th́ có giải pháp nào cho chúng tôi trong bế tắc này không?

    Đại diện Mỹ nh́n quanh rồi pha tṛ:

    - Có t́nh báo Hoa Nam Cục ở đây không?

    Rồi ông nói tiếp:

    - Theo tôi th́ các ông phải tuân thủ công hàm Phạm văn Đồng v́ 1974, các ông đă tuân thủ th́ hôm nay phải tuân thủ để yên cho Trung Quốc đặt giàn khoan.

    - Không c̣n cách nào hết sao?

    - Chỉ c̣n cách mà tôi đă nói với các ông hôm đầu tiên.

    - Cách ǵ ông nhắc lại đi.

    - Một cách vô cùng giản dị, không cần viện trợ của Hoa Kỳ, chẳng cần ủng hộ của thế giới, mà lại đoàn kết, ḥa hợp ḥa giải với mọi thành phần người Việt trong và ngoài nước và quan trọng là vô hiệu hóa công hàm Phạm văn Đồng.

    - Làm cách nào?

    - Ngay ngày mai...



    Đổi lại tên nước thành Việt Nam Cộng Ḥa.
    Lấy lại tên Sài G̣n và dời thủ đô về đó
    Lấy CỜ VÀNG làm quốc kỳ...




    Có như thế th́ trước diễn đàn thế giới. VNCH chỉ VẮNG MẶT... 39 năm chứ KHÔNG CHẾT. Công hàm Phạm văn Đồng chỉ là tờ “giấy lộn” v́ tên cướp có vô nhà nhưng chủ nhà về lại và đă đuổi cổ nó ra... Trời Việt lại... HỪNG ĐÔNG.

    Đại diện CSVN vuốt mồ hôi lạnh trên trán:

    - Chỉ đơn giản thế thôi sao?

    Vịt Bắc Kinh trên bàn đă NGUỘI LẠNH, lớp mỡ trắng đă bắt đầu đóng viền quanh dĩa v́ không ai c̣n đoái hoài đến nó.

    Đại diện Mỹ vỗ vai đại diện CSVN nói một câu tiếng Anh:

    - All roads lead to Rome (Đường nào cũng về La Mă)!

    Hăy trả cho Ceazar những ǵ của Ceazar!

    Các ông chỉ có một ĐƯỜNG BINH... cầm bài chi lâu cho nó... ƯỚT.

    Nguồn: http://hoithanhphucquyen.org/

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 22
    Last Post: 23-08-2012, 11:02 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 23-06-2012, 10:16 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 02-12-2011, 11:28 AM
  4. Replies: 4
    Last Post: 05-10-2011, 08:06 AM
  5. Replies: 6
    Last Post: 11-09-2010, 10:27 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •