Results 1 to 5 of 5

Thread: Nh́n lại nạn đói Ất Dậu 1945 - Ai chịu trách nhiệm chính

  1. #1
    Member
    Join Date
    12-05-2011
    Posts
    6

    Nh́n lại nạn đói Ất Dậu 1945 - Ai chịu trách nhiệm chính

    Nguyên nhân:

    Nạn đói năm Ất Dậu là một nạn đói xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 làm khoảng từ 400.000 đến 2 triệu người dân chết đói.

    Nguyên nhân xảy ra nạn đói năm Aát Dậu (1945)

    Theo nhiều tài liệu nghiên cứu phân tích, các nguyên nhân đưa đến nạn đói năm Aát Dậu 1945 mang nhiều t́nh tiết phức tạp sau đây:


    1/- Về phía người Nhật

    Trước t́nh thế có thể nguy ngập v́ xung đột lẫn nhau, ngướ Nhật đang nắm thế thượng phong ở chiến trường Thái B́nh Dương, đă lần lượt chiếm đóng Trung Hoa, rồi tràn xuống phía Nam châu Á, tiến đến các lănh thổ Phi Luật Tân, Mă Lai, Nam Dương, Việt Nam, Thái Lan và nhiều hải đảo phía nam, kể cả Uùc châu.

    Khi chiếm đóng Đông Dương, quân đội Nhật muốn chọn Việt-Nam, đặc biệt Nam Kỳ như một bàn đạp hậu cần để tiến xuống vùng hải đảo. Do đó, quân đội Nhật không những tận thu các sản phẩm lúa gạo, cao su và nhiều tài nguyên kỹ nghệ nông nghiệp khác, mà c̣n bắt nông dân Việt-Nam phải phá bỏ các ruộng lúa mà thay vào đó, phải trồng đay lấy sợi làm bao chứa gạo và khí tài quân sự, vận chuyển tiếp tế cho các hải đảo vùng Đông Nam Á.

    Do điều kiện địa lư, ngay chính quốc Nhật cũng từng thiếu diện tích trồng lúa. V́ vậy việc phá lúa trồng đay xảy ra rất tàn bạo quyết liệt tại Miền Bắc và vùng Bắc Miền Trung. Ở vùng lănh thổ nầy, đồng lúa vốn đă hiếm, phương chi phải chuyển ruộng lúa thành ruộng trồng đay th́ việc thiếu lúa gạo là tất nhiên.

    2/- Về phía người Pháp

    Họ cũng cần thu quén lúa gạo để nuôi quân và đề pḥng bị cô lập hóa với mọi nguồn tiếp tế ở bên ngoài, nên vừa phải thu lúa gạo cho quân đội Nhật, dưới áp lực của chính quân phiệt Nhật, vừa phải dành lúa gạo cho quân dân chính trong khu vực ḿnh kiểm soát. Tất cả các nguồn lợi mà người Pháp vẫn nhận từ chính quốc ở Aâu châu và các nước khác chẳng bao lâu bị cắt đứt.

    3/- Về phía quân dân kháng chiến Việt-nam

    Tất cả các lực lượng có xu hướng chính trị kháng chiến – quốc gia và không quốc gia – cũng đều lo tích trữ lương thực hiếm hoi trong t́nh thế nguy ngập đó, nhất là những lực lượng kháng chiến do phong trào Việt Minh kiểm soát. Vào thời điểm có nạn đói, những thanh niên như Nguyễn Mạnh Hà và Nguyễn Đ́nh Đầu là những người tích cực tham gia hoạt động cứu đói, nhưng không thể không điều phối ở tầm mức chiến lược nào đó với kế hoạch tích trữ lương thực nuôi quân chiến đấu, giành dân với lực lượng không Cộng sản.

    4/- Sau cùng những trận oanh tạc của Đồng Minh

    Người ta không quên được những trận oanh tạc khủng khiếp của Đồng Minh mà đứng đầu là Hoa Kỳ, đêm ngày oanh kích những địa điểm chiến lược nông công nghiệp trọng yếu để phá tan hệ thống giao thông đường sắt và đường bộ, những đường tiến quân của quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản ở Việt-Nam, nhất là ở miền Bắc, xây dựng cơ sở hậu cần để yểm trợ tiền tuyến, hầu tiến quân xuống các hải đảo Đông Nam Á và phía Nam Thái B́nh Dương.

    Chiến tranh không lực đă góp phần quan trọng vào việc làm đ́nh trệ tất cả sinh hoạt vốn hạn chế ở khu vực công nghiệp, nông nghiệp và công nông dân đang sinh hoạt ở đó, nhất là tại những vùng quân đội Nhật Bản bắt buộc canh tác đay và vùng mỏ khai thác than đá, nhằm mục đích tiêu diệt khả năng tiếp vận và cơ sở hậu cần của đối phương.

    6/ Thiên tai:
    Ngoài bối cảnh chiến tranh, chính trị và kinh tế, t́nh h́nh thời tiết ngoài Bắc cũng đă góp phần trong những động lực tạo ra nạn đói. Mùa màng miền Bắc bị hạn hán và côn trùng phá hoại, khiến sản lượng vụ đông-xuân từ năm 1944 giảm sụt khoảng 20% so với thu hoạch năm trước. Sau đó là lũ lụt xảy ra làm hư hại vụ mùa nên nạn đói bắt đầu lan dần. Mùa đông năm 1944-45 ác nghiệt thay cũng lại là một mùa đông giá rét khiến các hoa màu phụ cũng mất, tạo ra những yếu tố tai ác chồng chất giữa bối cảnh chiến tranh thế giới.

    Hậu quả:
    Không có số liệu chính xác về số người đă chết đói, nhưng một số nguồn khác nhau ước tính là từ khoảng 400.000 đến 2 triệu người đă bị chết đói tại miền bắc Việt Nam trong thời điểm này. Tháng 5 năm 1945, bảy tháng sau khi trận đói bùng nổ tại miền bắc, toà khâm sai của triều đ́nh Huế tại Hà Nội ra lệnh cho các tỉnh miền Bắc phúc tŕnh về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo số người chết v́ đói ở miền bắc là hơn 380.000, chết v́ bệnh – không rơ nguyên nhân – là hơn 20.000, tổng cộng 400.000 cho riêng miền bắc. Tháng 10 năm 1945, theo báo cáo của một quan chức quân sự của Pháp tại Đông Dương khi đó là tướng Mordant th́ khoảng nửa triệu người chết. Toàn quyền Pháp Jean Decoux th́ viết trong hồi kư của ông về thời kỳ cầm quyền tại Đông Dương "À la barre de l’Indochine" – là có 1 triệu người miền Bắc chết đói. Các nhà sử học Việt Nam ước đoán là từ 1 đến 2 triệu

    H́nh ảnh:



  2. #2
    Member
    Join Date
    12-05-2011
    Posts
    6

    Những câu chuyện đằng sau nạn đói

    Thảm cảnh quê nhà

    Hơn 2 triệu người đă chết v́ đói... Cả nhà đói, cả ḍng họ đói, cả làng cả xóm cùng đói. Cái đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945 ấy, người trẻ hôm nay sẽ không tưởng tượng nổi. Và bước vào Ất Dậu 2005 này, chúng ta hăy cùng mở lại những trang hồ sơ về trận đói khủng khiếp để đừng bao giờ quên nỗi đau ấy...

    Chúng ta tự hào bởi lịch sử dân tộc hào hùng và kiêu hănh. Nhưng chúng ta cũng không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc ḿnh. Những người đang sống hạnh phúc hôm nay không hẳn ai cũng nhớ tới nỗi khổ nhục kinh hoàng nhất trong lịch sử dân tộc Việt với hơn 2 triệu đồng bào đă chết trong sự đày đọa đến tận cùng của cái đói.

    Năm đó, 1945, cũng là năm Ất Dậu, cách đây tṛn một ṿng quay 60 năm của vũ trụ.

    Tiết xuân thanh khiết, đằm ngọt trong gió lành và lộc biếc. Con đường phẳng rộng thênh thênh chạy từ phố xá phồn hoa đến làng mạc trù phú. Lúa chiêm xanh non trải từ bờ ruộng mải miết đến tận chân trời.

    Từ thành phố Thái B́nh xe chạy chừng nửa tiếng đồng hồ th́ đến xă Tây Lương, huyện Tiền Hải. Làng quê khang trang như phố; người xe vui như hội. Cảnh thái b́nh no ấm đầy căng trong tiếng trẻ nô cười. Nhưng 60 năm trước, nơi đây là một địa ngục thảm khốc...

    Bàn chân quỷ đói

    Ông lăo khoan thai quắc thước không giấu vẻ măn nguyện của cảnh đề huề phúc lộc. Ông là Lại Thanh Hằng, người thôn Trung Tiến, tuổi 77, sức vẫn khang cường, vợ chồng yên ấm, nhà cửa đàng hoàng. Gần chục người con đều đă nên gia thất, tài danh hưng vượng. Nhưng câu chuyện của 60 năm xa xưa ấy đă làm ông bật khóc. Tiếng nấc khô khốc và giọt nước mắt người già thấm qua những nếp nhăn sâu hằn, bật lên nỗi đau khổ tột cùng.

    Ông kể: Ngày ấy, gia đ́nh ông cũng như bao nông dân khác nối đời sống bên ruộng lúa, vườn khoai. Cái bóng của đồn Tây và cổng đ́nh bao năm đè nặng kiếp người. Đường làng khi in thêm dấu giày lũ Nhật lùn th́ cuộc sống ngày càng ngột ngạt bởi sưu cao thuế nặng. Cái khô ngái của giong, khoai, củ chuối... ngày một đậm đặc trong nồi cơm.

    Thế nhưng nạn đói tàn khốc nhất lịch sử chính thức ập đến từ vụ mùa năm 1944. Năm ấy điềm trời hung gở khác thường. Không chỉ cánh đồng mấy trăm mẫu của Tây Lương mà khắp nơi đâu đâu lúa cũng chết vàng. Lúa dâu, lúa di, lúa tám đều bị hoàng trùng (nay gọi là rầy) phá hết. Nhà ông cấy 2 mẫu nhưng sau khi trừ tô thuế đem về được hơn 1 tạ thóc. Đó là lương thực của bốn người lớn trong suốt sáu tháng dài ṛng ră.

    Bố mẹ ông bàn tính ǵ đó rồi mỗi bữa cơm cắt bớt phần gạo. Dần dần bớt cả bữa ăn. Năm đó ông 17 tuổi, sức đương trai nhưng mỗi ngày cũng chỉ có nửa bát cơm, hai củ khoai. Sau rồi mỗi sáng ông đi chăn trâu, mẹ ông cho một nắm thóc rang vừa đầy một ḷng bàn tay. Ông gói qua mấy lần lá rồi vài tiếng lại lấy ra vă vào mồm nhai cả trấu, chia đều cho cả ngày dài.

    Đêm đêm gia đ́nh ông h́ hụp ngoài sông Sứ cất vó tép. Ba, bốn người ngoi ngóp cả đêm may ra hôm sau đem ra chợ đổi được một chén thóc. Có hôm không ai mua th́ đem về đổ vào nồi nấu cháo. Đầu tháng Giêng, mẹ ông bắt đầu đem nồi đồng, mâm, ấm, lư hương, tủ thờ... đi bán.

    Rồi bố ông dắt trâu xuống huyện cầm cố đem về được 2 yến thóc. Mẹ ông giấu lúa vào b́, lấy gỗ đá, cối xay chất lên làm sao để không ai có thể lấy ra được. Chỉ ḿnh bà biết một cái lỗ thông bằng mắt trâu có thể thọc tay móc ra ít một. Thỉnh thoảng bố ông nói: “Bọn cướp đang ŕnh nhà ḿnh...” rồi ông kê chơng ngủ bên ngoài với một cái thuổng sắc.

    Nhà ông bắt đầu phải giết chó, giết lợn, giết gà… Không chỉ để ăn, mà bởi cũng không c̣n ǵ để nuôi nó. Có nhà phải giết chó mẹ và 4 chó con vừa mở mắt. Hết gia súc, gia cầm, người ta đào củ chuối, hái rau rệu, rau má, bẻ cây ngô, ṃ ốc, đào cua, bắt cà niễng, cào cào, châu chấu… để ăn. Cầm cự đói, nhà ông cùng dân làng ra đồng bắt chuột.


    La liệt người chết Aoi. Ảnh tư liệu

    Chuột năm ấy chậm chạp, lại dạn người có lẽ cũng v́ đói và liều nên rất dễ bắt. Thời gian đầu c̣n chuột th́ chúng được nấu giả cầy, nướng lá chanh, hấp chấm muối, bó gị... Nhà ông c̣n kho đến mấy nồi đất toàn chuột nấu đông ăn dần. Sau hiếm chuột. Bắt được một con cả nhà mừng như phá cỗ, nướng qua loa rồi xé vội vàng ăn...

    Tất cả các loại cây đu đủ, dứa dại, chuối, giong... ngoài đường, trong vườn đều bị đốn ăn không c̣n một mống. Có gia đ́nh đói quá nghiền trấu, trộn mùn cưa vào cháo ăn. Cháo ít hồ dần, cuối cùng toàn mùn cưa với trấu. Làng bên c̣n có người ăn cả đất. Lại có người ngày nào cũng chạy theo mấy con ngựa của Nhật, Tây để hốt phân của nó về đăi lấy hạt ngô chưa bị tiêu hóa để ăn...

    Cái đói giày ṿ, đày đọa con người đến cùng cực. Nó cào ruột suốt ngày đêm. Nó mở banh con mắt không cho ngủ. Nó kéo bàn chân lê khắp ruộng, khắp làng. Nhà ḿnh đói, làng ḿnh đói th́ nhà người ta, làng người ta cũng đói nên có ǵ đâu mà kiếm. Nhưng cái đói nó không cho ngồi, nó bắt phải đi. Kể cả đi đến nơi mà hôm qua vừa bỏ về…

    Làng quê tan hoang xơ xác. Cỏ dại lút đầu gối mọc khắp đường đi, sân nhà, ngơ xóm. Tiếng trẻ con khóc như mèo hoang ai oán suốt đêm. Người người đổ hết ra đường, lê la ngoài bụi chuối, cánh đồng. Cái lạnh thấu xương, bóng đêm đen đặc xuyên qua cái tết lúc nào chẳng hay… Cả thế gian là một màu vàng vọt, xiêu vẹo của đói và đói... Bắt đầu đă có người chết đói trong làng…

    Người khiêng xác

    Chỉ ra vườn chuối phía sau nhà, ông Hằng nghẹn ngào nói: “Cái chết đau thương nhất đối với tôi là bác Ngảnh, đó là bác ruột tôi và cũng là một trong những người đầu tiên của thôn chết đói.

    Thật ra th́ bắt đầu khoảng rằm tháng Giêng đă có người chết đói ngoài chợ, ngoài đồng. Những gương mặt phù thũng, những ánh mắt thất thần, những thân h́nh tiều tụy dúm dó bên đống rạ, bụi chuối... đă mang nặng bóng dáng của thần chết rồi.

    Nhưng nửa đêm nghe tiếng khóc khô khản vẳng ra từ nhà người thân th́ tôi thật sự hăi hùng. Bác Ngảnh chết lạnh cứng đờ, người co quắp trong ổ rơm. Lật thân h́nh da bọc xương, dúm dó trong mấy miếng vải rách nát, tôi thấy mấy sợi rơm c̣n vương trong miệng bác. Đó cũng là người đầu tiên trong họ nhà tôi chết đói”.

    Khiêng người bác ra đồng chôn, về đến nhà lại có người nhờ bố con ông Hằng đi chôn người chết. Và bắt đầu từ đấy người chết đói trong làng đếm không xuể. Bố con ông Hằng là một trong số ít người c̣n đủ sức để chuyên đi chôn người chết.

    Hồi tháng hai, tháng ba, người chết c̣n được chôn bó chiếu. Sau đến tháng tư, năm cả làng chết đến mấy trăm người th́ không ai c̣n sức, chẳng nhà nào c̣n đủ chiếu chăn th́ bó xác người bằng vó, bằng lưới, vùng biển th́ bằng mảnh buồm. Có khi bó một người lớn với hai ba đứa nhỏ trong một tấm vó.

    Ông Hằng thấp hơn nên thường đi trước. Ông nhớ có hôm ḿnh phải đi chôn 4-5 người, mệt quá không nhấc cao tay lên được. Cái đầu người chết thả trễ xuống đất cứ đập b́nh bịch vào gót chân ông theo mỗi bước đi. Ông Hằng trở thành người chuyên chôn xác đói lúc nào không hay.

    Bà Hoàng Thị Chén, 87 tuổi, người thôn Hiên, nói: thôn này lúc cao điểm một ngày chết mấy chục người. Cả người thôn ḿnh lẫn người nơi khác đến đây rồi chết.

    Cứ sau mỗi đêm lạnh là lại la liệt xác người trong nhà ngoài ngơ, giữa đồng. Tuần đinh lấy dây buộc vào cổ tay, cổ chân, cổ họng người chết rồi kéo lê ra hố quăng xuống. Sau này chồng bà cùng những người khác đào hố lên thấy có những đám cả 4-5 người bị chôn ở tư thế ngồi, họng c̣n thắt sợi dây thép.

    Ông Lê Văn B́nh ở huyện Đông Hưng c̣n kể: bấy giờ ở những khu phố hay cổng làng nhà giàu, quan lại người ta c̣n phải thuê người đem xác dân chết đói đi chôn, tránh thối rữa trong làng xă, khu phố. Giá ban đầu là một đồng một xác người, sau hạ xuống 5 rồi 3 hào. Có tay làm ăn dối trá, đào hố nông choèn, vùi lấp qua loa. Vài ngày chuột, quạ, sâu bọ lại bới lên thối không chịu được...

    Theo giáo sư Văn Tạo, nguyên viện trưởng Viện Sử học VN, ngoài các chính sách tô cao thuế nặng, Nhật c̣n đưa ra một “chương tŕnh kinh tế chỉ huy” nhằm thực hiện một cách triệt để chủ trương phát xít của ḿnh.

    Cụ thể, bắt đầu từ ngày 6-5-1941 Nhật buộc Pháp kư một hiệp ước kinh tế yêu cầu Pháp phải cung cấp lương thực ở Đông Dương cho Nhật hằng năm.

    Bốn năm liền từ 1941-1944 Nhật - Pháp đă kư bốn hiệp định giao nộp lúa, ngô cho Nhật mỗi năm từ 700.000 - 1,3 triệu tấn, tương đương 50-80% tổng sản lượng lương thực VN thời đó.

    Để phục vụ chiến tranh, phát xít Nhật c̣n cần rất nhiều nguyên liệu từ những cây trồng có sợi, có dầu như đay, gai, bông, thầu dầu... nên chúng đă bắt rất nhiều vùng quê nhổ lúa trồng đay và các loại cây trên.

    Tài liệu của người Pháp thống kê: năm 1944 VN trồng tới 45.000ha đay, gấp chín lần diện tích của năm 1940 do 10 công ty độc quyền của Nhật thu mua, chế biến, kinh doanh thứ cây này.

    Cũng theo tài liệu trên, chiến tranh của đồng minh với Nhật tại Đông Dương khiến 50% hệ thống giao thông Nam - Bắc VN bị phá hủy, 90% phương tiện vận tải bị hư hỏng khiến việc đưa lương thực cứu trợ từ Nam ra Bắc càng thêm khó khăn.

    Chiến tranh làm cho nhu cầu nhiên liệu: than, dầu, điện của Nhật tăng cao. Chúng đă lấy ngô, vừng, lạc và cả lúa gạo để thay thế những nhiên liệu này phục vụ mưu đồ phát xít, đẩy người dân vào thảm họa chết đói.

    Quang Thiện (Tuổi Trẻ)

  3. #3
    Member
    Join Date
    12-05-2011
    Posts
    6
    Chết v́ đói là cái chết đáng sợ nhất của bất cứ sinh vật nào. Cái chết đến từ từ, không ngừng giày xéo, đày đọa con người trong đau đớn, tủi nhục và sợ hăi. Thế nhưng nạn đói năm 1945 c̣n gây nên những tấn thảm kịch mà không ai có thể tưởng tượng được.

    Nhà hoang - làng trắng



    Xương người chết đói được cải táng từ những hố chôn tập thể - Ảnh: Vơ An Ninh
    Trong căn nhà bê tông lát gạch được tô điểm bằng những chậu hoa, cây cảnh điệu đàng, gia đ́nh ông Tô Văn Nuôi (xóm Trại, Tây Lương - Thái B́nh) rộn ră tiếng cười quanh đứa bé 5 tháng tuổi bụ bẫm đáng yêu như ḥn ngọc quư. Ông Nuôi là người đàn ông duy nhất trong ḍng họ Tô của xóm Trại sống sót qua nạn đói 1945.

    Bà Duy - cô ruột của ông, năm nay 87 tuổi - kể lại: “Chính trên nền đất này bố tôi đă chết hồi tháng hai năm đó. Mấy tuần sau mẹ tôi chết cứng lạnh khi ba chị em tôi vẫn ôm bà ngủ trong ổ rơm. Cả họ chết dần và đến tháng tư c̣n lại một ḿnh nó (ông Nuôi)...”.

    Ông Nuôi khi ấy mới 5 tuổi nhưng bà Duy cũng không biết làm thế nào giúp cháu. Thậm chí bà cũng không c̣n nhớ là có một đứa cháu bị đánh rơi, bởi chính chồng con bà cũng chết v́ đói, bản thân bà cũng đă phù thũng mặt mày, nằm gục rồi lại dậy, không biết c̣n sống đến hôm nào.

    Ông Nuôi cũng không c̣n nhớ chút ǵ về gương mặt, t́nh cảnh hay cái chết của bất cứ ai trong nhà ḿnh. Ông chỉ biết rằng một ḿnh ông hết sáng lại tối, không quần áo ḅ lê quanh nền bếp đầy rơm, muỗi và thạch sùng. Nhà không một bóng người. Xóm cũng không ánh đèn, không tiếng người, tiếng chó. Ông Nuôi không thể nhớ ḿnh đă sống qua ngày ấy như thế nào, đó là địa ngục hay trần gian.

    Ông nói: “Có lẽ tôi bốc tất cả những ǵ ḿnh gặp để cho vào mồm. Khóc rồi ḅ. Ḅ rồi ngủ...”. Măi 15 năm sau, khi ông lấy vợ th́ căn nhà ấy mới có thêm một con người.

    Bà Hoàng Thị Chén (thôn Hiên, Tây Lương) kể rằng mỗi đêm làng lại thưa thớt thêm vài ánh đèn. Ấy là khi lại có nhà chết hết hoặc chết gần hết và bỏ đi. Thậm chí nhiều làng, nhiều xóm không c̣n một ai. Vườn chuối nhà bà hôm nay, 60 năm trước là nhà ông Hoàng Bê, họ hàng của bà.

    Một hôm bà thấy mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, chạy sang th́ cả sáu người nhà ông Bê nằm chết dụi mỗi người một xó. Thây người thối rữa, chuột, bọ, kiến, muỗi... nhâu nhâu. Dân làng đến kéo sập mái nhà vách đất rồi châm lửa đốt... Ông Lại Thanh Hằng (thôn Trung Tiến, Tây Lương) cũng kể khi nghe báo nhà bà Lụt chết cả ba mẹ con trong bếp, chuột ăn, bọ rúc hết rồi..., dân làng lấy xẻng xúc đất lấp nhà bà Lụt.

    Theo điều tra của Viện Sử học, chuyện tương tự đă diễn ra ở cả ba gia đ́nh thuộc xă Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa. Đó là nhà ông Cao Nhuần Sặng, Tŕnh Văn Tự, Nguyễn Văn Tự đều chết cả nhà, không ai chôn được nên làng kéo sập nhà vùi tại chỗ.

    Ḍng họ Tô của ông Nuôi có 35 người th́ chết 31 người. Ḍng họ Hoàng của nhà ông Hoàng Bê có 31 người - chết 26 người, c̣n hai người nữa sống chết nơi nào chẳng rơ. T́nh trạng chết cả nhà, cả ḍng họ, cả xóm, thậm chí cả làng không c̣n một người diễn ra ở không ít địa phương miền Bắc lúc bấy giờ.

    Riêng ở xóm Bối Xuyên, xă Tây Lương có 51 hộ th́ 40 hộ có người chết đói. Trong đó 18 hộ chết không c̣n ai. Hai ḍng họ Tô và Lại gần như bị xóa sổ. Tỉ lệ chết đói là 62%. Đặc biệt xóm Trại ở thôn Thượng có 21 hộ, 82 nhân khẩu đều chết không c̣n một ai. Xóm bị xóa sổ.

    Bi thương hơn chết đói

    Ông Nguyễn Văn Thiết (xă Tây Ninh, Tiền Hải - Thái B́nh) nói: “Tôi không nhớ là nhà ai trong xă, chỉ biết rằng đôi vợ chồng trẻ ấy mới sinh được đứa con đầu ḷng chưa đầy ba tháng tuổi. Đói quá, chồng chết từ mấy hôm trước. Vợ không c̣n sữa cho con bú, không có ǵ để ăn nên để con ở nhà lang thang đi kiếm ăn.

    Không kiếm được ǵ, người mẹ biết ḿnh sẽ chết, không thể về v́ đường xa, bụng đói, sức tàn. Gặp người làng, chị nhờ trông hộ con. Nhưng khi người đó về tới nhà chị th́ thấy đứa bé chỉ c̣n trơ cái cẳng chân tím đen ruồi, kiến bu kín. Nền nhà đầy vết chân chó và máu. Người ta nói đêm nọ nghe trong nhà có tiếng kêu như mèo con. Chắc chó hoang ở đâu đói quá vào ăn thịt đứa trẻ”.

    Đoàn cán bộ điều tra nạn đói của Viện Sử học cũng ghi lại rất nhiều chuyện trẻ sơ sinh không người trông, tiếng khóc khi đói lả giống tiếng mèo nên đă bị chó hoang ăn thịt như thế...

    Họa diệt thân năm ấy đến bằng đủ cách. Ông Hằng nhớ ở làng có gia đ́nh nhà ông Tác rất giàu có nhưng cũng chết đói cả nhà. Khi nạn đói ập đến, dân t́nh đem đủ đồ đạc, của cải, đồ gia bảo ra chợ bán tống bán tháo để lấy tiền mua gạo. Có cái nồi đồng b́nh thường đổi vài tạ thóc, lúc ấy chỉ đổi được vài ống lúa.

    Nhà ông Tác đem hết thóc lúa đổi của cải. Khi hết lương thực dự trữ, ông bán đồ đạc th́ không ai có tiền mua nữa. Thế là cả nhà chết rục bên mấy kho của cải. Riêng xă Tây Lương cũng có tới ba, bốn nhà giàu chết như vậy, như nhà ông Nguyễn Văn Tứ, Bùi Văn Dị.

    Ở Thanh Hóa c̣n có người đào được vàng năm 1934 và trở thành hào phú, nhưng v́ mua sắm nhiều thứ của người đói bán rẻ năm 1945 nên đến lúc hết tiền, bị đói không bán đồ được cũng chết. Ông này khi chết c̣n mặc áo dài, đội khăn xếp co quắp ở gốc phi lao...

    Đói ăn vụng, túng làm liều. Ông Hằng kể: tháng ba Ất Dậu biết tin có thuyền thóc của Hàn Thùy (một hội đồng dân biểu) chở về qua sông Trà Lư, năm, sáu ông là Xiêm, Trật, Đót, Hỷ, Uẩn, Phiên... bày mưu cướp thóc. Đêm ấy họ đă ăn trộm được mỗi người một bị lúa chừng 10kg. Lệnh quan truy nă, tội phạm không ai kịp ăn đă phải đem lúa đi chôn.

    Ông Đót bị bắt trói vào cột ven đường. Tên lính Nhật vung kiếm chẻ đôi vai, máu nhuộm đỏ chiếc áo bông rách nát. Những người c̣n lại cũng dần bị bắt rồi chết hết. Số lúa họ cướp được đem đi chôn ở đâu không ai biết. Tài liệu của Viện Sử học c̣n ghi câu chuyện ông Nguyễn Văn Hợp (xă Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa) đi lĩnh cháo phát chẩn. Chen nhau, bị hương kiểm bắt đánh đập, tẩm dầu vào tay đốt. Ông lết về đến nhà th́ chết. Cả nhà cũng chết theo không c̣n một ai…

    Cũng ở xă này, vợ chồng ông Viên Đ́nh Thiện đói quá không chịu được cứ bốc vỏ trấu nhét mồm nhai măi không chán. Nhai đến một lúc chồng lăn ra chết rồi vợ cũng chết theo, thối rữa ở trong nhà. Người làng đặt xác họ vào cái bồ rồi kéo đi chôn.

    Ngoài thị xă Thái B́nh có người bán cám cho Nhật để chúng cho ngựa ăn. Loại cám này những người bán hàng đă pha mùn cưa để bán cho người đói nhưng lính Nhật mua và cho rằng bị lừa nên đă mổ bụng ngựa, giết chết người bán cám và nhét vào bụng con vật mà khâu lại… Những câu chuyện rùng rợn và bi thương của nạn đói khiến nhiều người ám ảnh suốt cuộc đời. Họ không muốn nhắc lại v́ dường như sợ những oan hồn ấy c̣n quanh quất đâu đây.

    * Lịch sử tỉnh Thái B́nh ghi: năm 1945 cả tỉnh có 280.000 người chết đói, chiếm 25% tổng dân số. Nhiều địa phương chết tới trên 50% dân số như xă Tây Lương: 67%; Sơn Thọ, Thụy Anh (Thái Thụy): 79%; xă Thanh Nê (Kiến Xương) có 4.164 người th́ chết gần 2.000 người; xă Tây Ninh (Tiền Hải) có 171 gia đ́nh chết không c̣n một ai…

    * Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất bản năm 1988 ghi: Phủ Nghĩa Hưng, Nam Định mỗi ngày chết 400 người. Huyện Kim Sơn (Ninh B́nh) cả vụ đói có 22.908 người chết. Trong 6.161 hộ th́ có 1.571 hộ chết không c̣n người nào. Nam Định chết 212.218 người; Ninh B́nh: 37.939 người, Hà Nam: 50.398 người.

    * Theo giáo sư sử học Văn Tạo - nguyên viện trưởng Viện Sử học: nạn đói năm 1945 đă diễn ra ở 32 tỉnh thành cũ từ Quảng Trị trở ra.

    Từ năm 1990-1995 Viện Sử học với hàng trăm cán bộ nhân viên, có sự giúp đỡ của hàng trăm cộng tác viên của các tỉnh, thành cùng sự trợ giúp của nhiều giáo sư, tiến sĩ Nhật Bản đă tiến hành ba đợt điều tra nghiêm túc, tỉ mỉ và rất khoa học tại 23 điểm đại diện cho các tính chất dân cư khác nhau về nạn đói này.

    Kết quả trung b́nh cộng cho thấy tỉ lệ người chết đói tại các địa phương là 15%. Dân số VN năm 1945 tại 32 tỉnh thành lúc đó là trên 13 triệu người. Con số 2 triệu người chết một lần nữa được khẳng định.

  4. #4
    Member
    Join Date
    12-05-2011
    Posts
    6
    Lũ lượt những đoàn người như h́nh nhân bỏ quê hương t́m lên phố xá, mong kiếm thứ bỏ vào mồm. Và cuộc hành tŕnh ấy kéo dài từ xó nhà đến Hà Nội đă biến con người thành hồn ma xác quỉ. Hoặc là gục chết bên đường hoặc ngoai ngoác sống trong khổ nhục...

    Đoạn trường đày ải


    Vợ chết rồi, chồng nh́n con, chờ đến lượt ḿnh rồi con ḿnh ngă xuống. Ảnh: Vơ An Ninh

    Nghe chúng tôi nhắc tới h́nh ảnh những người đói kéo nhau lên Hà Nội, bà Chén (xă Tây Lương, Tiền Hải, Thái B́nh) cố ngước đôi mắt mù ḷa, lẩy bẩy đôi chân c̣m nhưng đă phù đỏ để đi ra ngơ. Bà nhớ từ cái ngơ này, 60 năm trước bà đă ôm con ḥa cùng đoàn người lê theo sự dẫn dắt của cái đói.

    Đi đâu, về đâu th́ không ai biết nhưng cứ từng đoàn từng đoàn rách rưới, giơ xương, trũng mắt như quỉ đói âm thầm, dắt díu nhau đi. Họ không phân biệt được nam nữ, già trẻ. Chỉ có thể thấy những thân h́nh dài ngắn không đều mà đoán trẻ con hay người lớn mà thôi. Họ đi chậm. Không ồn ào, không cười nói. Thỉnh thoảng có người đổ gục xuống đường không giăy giụa. Nhiều thây người bất động, mắt mở trừng trừng không biết sống hay chết.

    Tại các cổng chợ, ngă ba, đầu cầu, gốc cây họ nằm ngồi la liệt ch́a tay ăn xin hay bới t́m lục lọi. Ngay đầu chợ, một người đàn bà có vẻ giàu có đi ngang qua, không hiểu bà ta kinh tởm hay ốm đau thế nào mà ôm bụng gập người nôn thốc nôn tháo. Hai ba đứa trẻ vội lao vào tranh nhau bốc băi nôn, hối hả nhét vào mồm…

    Bà Chén cũng gặp nhiều người ôm con nhỏ như ḿnh. Những đứa trẻ c̣n sức th́ khóc, không c̣n th́ lả gục trên vai mẹ. Một người đàn bà xin được chút ǵ đó để ăn, bà ta kéo đầu con để chia cho nó. Gọi hồi lâu người mẹ ấy mới biết con ḿnh đă chết tự khi nào. Trong góc chợ lại có một người đàn bà nhe răng, trợn mắt nằm co quắp chết bên hai đứa trẻ.

    Thằng bé chắc chừng một tuổi không biết ǵ cứ h́ hục nhay vú mẹ cho đến tận lúc tối trời. Bà Chén đi hai ngày một đêm như thế th́ đến thị xă Thái B́nh… Một số chết, một số ở lại, c̣n bà Chén và những đoàn người đói rách vô hồn đó cứ như thế tiếp tục đi lên Hà Nội…

    Trong Viện Sử học VN có lưu một bức thư của một tác giả nước ngoài là Vespy viết tháng 4/1945 tả về thảm cảnh của những cuộc hành tŕnh này: “Họ đi thành rặng dài bất tuyệt, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lơa lồ, gầy guộc giơ xương, ngay cả những thiếu nữ đến tuổi dậy th́ đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế.

    Thỉnh thoảng họ dừng lại vuốt mắt cho một người trong bọn đă ngă và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột một miếng giẻ rách không biết gọi là ǵ cho đúng để che thân người đó. Nh́n những h́nh người xấu hơn con vật xấu nhất, nh́n thấy những xác chết nằm co quắp cạnh đường chỉ có vài nhành rơm vừa làm quần áo vừa làm vải liệm, người ta thật lấy làm xấu hổ cho cái kiếp con người”.

    Nhân tính tiêu tan... v́ đói

    Lục t́m trong tâm khảm sâu thẳm, đau đớn nhưng chắc hẳn c̣n sáng rơ của ḿnh, bà Chén nói: “Ánh mắt người đói lúc đó không có màu, không có thần. Nhiều lúc họ xử với nhau như thú đói, không nhân tính...”. Bà Chén lúc ấy bế một đứa con nhỏ trên tay. Dành dụm suốt từ đầu vụ đói, bà c̣n được mấy hào trong túi để dành cho chuyến đi này.

    Chợ Bo (thị xă Thái B́nh) lúc đó là một băi đất được căng lên những mảnh ni lông, đay hay lá khô trên những chiếc cọc tre xiêu vẹo. Cả một biển người nằm ngồi lê la bới rác, xin ăn chập chờn như những bóng ma. Vài người ngồi xổm ánh mắt láo liên đầy cảnh giác bên những cái thúng úp mẹt và thường là có thêm một, hai người đàn ông to khỏe dựng đ̣n gánh đứng bên.

    Đó là những người bán hàng. Khoai, ngô, hay bánh cám, bánh đúc… trộn đầy trấu hoặc mùn cưa… Ai mua hàng phải ch́a tiền. Đứng tới nửa ngày bà Chén mới cảm thấy có thể an toàn để lại gần người bán bánh hỏi mua. Thế nhưng đang định xé bánh cho con th́ cả đám người đang nằm như thây ma vùng dậy vồ lấy mẹ con bà, tranh nhau chiếc bánh.

    Những ngày sau, trên dặm hành tŕnh địa ngục ấy, tất cả số tiền bà có đủ để mua ba chiếc bánh th́ bà đều bị cướp hết. Cuối cùng bà cũng chỉ c̣n cách chờ nhặt rác rưởi, cọng rau, xin ăn và tham gia cướp của kẻ khác như họ đă cướp của bà để ăn. Bà không nhớ ḿnh đi mấy ngày, mấy tuần hay mấy tháng th́ tới Hà Nội.

    Con trai bà Chén năm nay cũng đă ngoài 60 tuổi. Anh nói: “Những câu chuyện cướp bóc, thú tính trong nạn đói, 60 năm qua mẹ tôi không bao giờ muốn nhắc lại. Chỉ có một lần bà kể cho tôi nghe một câu chuyện kinh hoàng: khi bế con đi Hà Nội, qua sông Long Hầu bà thấy có hai bố con nhà nọ đói lả, phù thũng, chắc là sắp đến lúc chết. Người con chừng 7-10 tuổi.

    Không hiểu lúc ấy họ kiếm được thứ ǵ, chắc là có thể ăn được nên hai người tranh nhau rất dữ. Đứa con co cả người nắm chặt tay bố. Hồi lâu đẩy con ra không được, người cha liền co chân đạp con xuống cầu. Đứa trẻ cố níu lấy thành cầu, hai mắt không rời miếng ăn trên tay bố. Người cha lúc ấy kiên quyết hơn và ông ta đă đạp được đứa con rơi xuống nước rồi ngấu nghiến nhét thứ đó vào mồm...”.

    Theo điều tra của Viện Sử học tại xă Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa: ông Viên Đ́nh Hữu đói quá quẳng con trai 4 tuổi xuống sông Đơ. Ông Hoàng Bảo ở xóm Cháy (Đông Hưng, Thái B́nh) thấy bố của ông Bắc (cùng xóm) thổi nồi cơm. Ông Bắc bóp cổ bố đến chết để ăn một ḿnh...

    Suốt chặng đường khổ ải từ quê nhà lên Hà Nội, bà Chén c̣n gặp rất nhiều cảnh mẹ bỏ rơi con, chồng chạy trốn vợ, rồi cướp bóc, giết chóc lẫn nhau v́ miếng ăn một cách đau thương và rùng rợn như vậy. Nhưng Hà Nội lúc này cũng là địa ngục...

    Hà Nội - điểm hẹn sinh tồn

    Ông Nguyễn Ngọc Liên, 82 tuổi, hiện trú tại pḥng 105, nhà C6, khu tập thể Kim Liên, Hà Nội kể: “Ngày đó nhà tôi ở 233 phố Huế. Bắt đầu từ mùa đông năm 1944, tôi đă thấy những đoàn h́nh nhân vô cùng thảm hại ùn ùn dắt nhau qua các phố.

    Áo quần họ là miếng giẻ buộc túm dính vào những bộ xương lắc lư. Những cái đầu trơ sọ, đính hai con mắt vàng trũng thất thần. Ban đầu người hàng phố cho họ ăn những thứ có thể, nhưng càng ngày họ đến càng đông, hết lớp này đến lớp khác. Họ nằm, ḅ, lê và chết gục khắp đường, ngơ, vỉa hè...

    Ai c̣n sống th́ cứ lang thang xin ăn, không ít trường hợp cướp giật, móc mồm người khác giành ăn. Của bố thí không thể đủ cho đoàn người đói khát. Họ chết ngày một nhiều. Một buổi sáng tôi vừa mở cửa th́ hai xác chết lạnh cứng đổ ập vào tôi. Đến tận bây giờ tôi vẫn không quên được cảm giác hăi hùng và xót thương lúc đó”.

    Ông Đặng Văn Cự - 87 tuổi, hiện ở phường Giáp Bát, Hai Bà Trưng (Hà Nội) - nói: “Ban đầu cũng chia sẻ với bà con nhưng chúng tôi cũng đói, lương thực cạn kiệt và trước cảnh tàn ác của Pháp - Nhật th́ cũng không dám chắc mai này ḿnh có thoát cảnh ma đói hay không.

    Trong thành phố, nhiều thanh niên, nhà hảo tâm thành lập đoàn khất thực có trung tâm ở phố Hàng Da, quyên góp cơm cháo chia cho bà con. Nhưng v́ số lượng quá lớn, tổ chức chỉ là t́nh cảm của một số người có điều kiện nên đoàn khất thực tồn tại không được bao lâu.

    Chúng tôi cũng bị cướp giật bánh trái, ngô khoai, nhưng không ai nỡ đánh đập người đói mà chỉ tránh né. Người làng tôi bán bánh th́ làm bằng đất bày ở quầy, mẹt, thúng. Ai mua th́ mới đến chỗ khác lấy bánh thật ra. Ai cướp th́ chỉ cướp được bánh đất mà thôi”.

    Cảnh người đói sinh trộm cướp và bị giết chóc th́ nhiều lắm. Ông Liên nhớ: một buổi chiều trên đường Trần Quang Khải bây giờ. Một đoàn bốn chiếc xe ḅ chở những b́ lúa chất cao 3-4m. Mỗi xe có một người kéo và bốn người đẩy. Phía trước và sau có 9-10 tên lính Nhật súng gươm tuốt trần áp tải.

    Một người trong đám phu xe, bí mật dùng một chiếc dùi thép chừng 20 phân đâm một lỗ nhỏ vào bao lúa và gí một chiếc túi vải con vào hứng ḍng lúa chảy. Tên lính Nhật phát hiện. Không nói ǵ, hắn dùng mũi kiếm đâm xuyên lưng người móc gạo. Nạn nhân rú lên một tiếng rồi đổ gục xuống đường, lênh láng máu. Đoàn xe vẫn tiếp tục đi...

    Những ḍng người khất thực đă kéo nhau đi trong đói lả vật vờ... Rồi họ cũng t́m đến điểm cuối cùng của cuộc hành tŕnh - nơi chấm dứt mọi nỗi dày ṿ đau đớn của một kiếp người. Của triệu kiếp người...

    Quang Thiện (Tuổi Trẻ)

  5. #5
    Member
    Join Date
    12-05-2011
    Posts
    6
    Đường Giải Phóng, yết hầu giao thông nối Hà Nội với các tỉnh phía Nam, vươn ḿnh qua cây cầu vượt với hàng vạn chuyến xe. Phố xá sầm uất quay cuồng với nhịp sống đô thị, ngập tràn hàng hóa và tiền bạc.

    Nơi đóng cửa trần gian

    Dưới chân cầu vượt là một ống cống lớn bắc qua sông Sét, chảy cắt ngang đường. Sau ống cống đó là một ngă ba có con phố rẽ tay phải dẫn đến những khu nhà đang hối hả xây dựng. Đó là những khu dân cư, các công ty và kho hàng. Ít ai biết 60 năm trước đây là điểm tụ tập đông nhất những sinh linh trước giờ chết đói: trại tế bần.

    Ông Đặng Văn Cự, người dân gốc ở làng Tám (Giáp Bát), nay 87 tuổi, kể lại: thời đó làng Tám là ngoại ô, thuộc tổng Thịnh Liệt, Thanh Tŕ. Khu bến xe, ga tàu, bệnh viện Bạch Mai bây giờ là cánh đồng mênh mông với con sông Sét chảy vắt ngang. Từ Hà Nội đi qua cống Phố Hàn (nay là cống sông Sét nằm trên đường Giải Phóng) khoảng 20m có khu gia binh rộng 25 mẫu.

    Theo Báo B́nh Minh ra ngày 12/4/1945, những người VN hảo tâm khi thành lập đoàn khất thực để cứu trợ đồng bào đă chọn khu gia binh làm trại tế bần. Bắt đầu từ ngày 9/4, có 2.000 người ăn xin đă được đưa xuống đó, được phát cháo và nghỉ ngơi. Sau đó, những người ốm đau, hấp hối cũng được đưa về trại bằng xe ḅ.

    Khi người đói chưa nhiều, trại c̣n có ngày hai bữa phát chẩn. Nhưng chỉ sau vài tuần số người tự t́m đến đă đông hàng vạn. Lương thực dù có nhiều đến mấy cũng không đủ cho mỗi người một bát cháo/ngày.

    Ông Nguyễn Văn Điền ở Giáp Bát kể: mọi ngả đường chết đói của thành phố đều dồn về đây, từng đoàn từng đoàn những h́nh nhân tưởng như bất tận. Họ ngồi chật kín trại, kín cổng trại, kín cả đường vào trại và vật vờ, xiêu vẹo trên cống Phố Hàn, gặp ai cũng ch́a tay xin ăn. Từ đây trại Giáp Bát trở thành nơi chứa người chết đói.

    Báo Tin Mới số ra ngày 29/4/1945 viết: “Tấm bảng treo trước cổng trại ghi: ngày 26/4: buổi sáng số người c̣n lại 3.020 - số người chết 16. Buổi chiều, số người mới vào 2.000, số người chết 18”. Ông Điền kể: đó là số người trong trại, c̣n những người chờ chực bên ngoài th́ nhiều vô kể và họ chết bất cứ lúc nào.

    Ông nhớ măi h́nh ảnh một cụ già tuy đă đói khổ nhiều ngày nhưng nh́n rất quắc thước, đạo mạo. Cụ ngồi trên cống Phố Hàn giống mọi người. Nhưng điều rất đặc biệt là cụ không xin ai một câu nào. Ai cho th́ nhận. Ánh mắt cụ rất buồn, long lanh chứ không vàng nhợt vô hồn. Cụ ngồi đó mấy ngày rồi không ai thấy nữa. Người trong và ngoài trại chết ngày một nhiều. Khẩu phần lương thực phân phát cho người đói thành muối bỏ biển và tạo nên những cuộc tranh giành thảm khốc. Nhưng rồi hàng vạn sinh linh ấy cũng “gặp nhau” trong những cuộc mai táng đau thương...

    Những hố chôn tập thể

    Suốt 60 năm sau, bà Chén (Tây Lương, Tiền Hải, Thái B́nh) vẫn sống trên mảnh đất quê nhà Tây Lương. Bao dâu bể đổi dời, tâm khảm không ngừng muốn xóa nḥa quá khứ đau thương, khiến nhiều câu chuyện, nhiều dấu tích của nạn đói đă không c̣n lưu giữ trong bà. Nhưng bà vẫn biết rằng dưới ba thước đất, trong ḷng đất quê hương, những ánh mắt trẻ, những tiếng khóc già cùng sự quằn quại của những linh hồn đói khát vẫn c̣n đó.

    C̣n đó trong những nấm mồ chôn vùi hàng chục, hàng trăm sinh mạng không hương khói, không mộ chí, không gỗ ván - ở quê hương bà đó là g̣ Ông Cảm, g̣ Lâu nằm giữa cánh đồng thôn Hiên bát ngát cánh c̣...

    Bà nhớ khi người chết đói quá nhiều, trai đinh, lính tuần khuân xác người trong những manh chiếu, mảnh vó buộc túm hai đầu, quăng xuống những cái hố to như cái ao rồi lấp. Hôm nay lấp hố này, mai lại lấp hố khác. Khi không c̣n chiếu, c̣n vó, c̣n bao bố và không c̣n cả sức người th́ họ lấy dây thừng, dây thép buộc vào cổ, vào tay, chân những thây người khô khẳng đó, cho trâu, ḅ kéo lê theo đường ruộng hoặc trên bùn ướt rồi quăng xuống hố.

    Trong tài liệu của Viện Sử học, rất nhiều địa phương như Hải Pḥng, Thanh Hóa, Ninh B́nh, Nam Định... đă đặt tên cho những hố chôn tập thể như thế thành cồn Ma, mả Quán, mả Đói, g̣ Ma... Tuy nhiên nhắc đến hố chôn tập thể th́ khủng khiếp nhất vẫn là ở Hà Nội.

    Ông Nguyễn Ngọc Liên (khu tập thể Kim Liên) kể: ngày ngày sếp đội mặc quần soóc, chạy ra phố huưt một tiếng, đám đông khất thực liền chạy ùa lại. Sếp chỉ tay vào chiếc xe kéo thùng gỗ hai bánh, nói vài câu rồi chia hai người một xe kéo rong ruổi suốt từ phố Hàm Long đến chợ Mơ, rồi dọc tuyến Hàng Đẫy, Tràng Tiền... về gần cầu Giấy đi nhặt xác người.

    Mới đầu người ta c̣n bọc chiếu, sau th́ chỉ túm đầu, túm chân quẳng lên thùng xe. Trẻ con, người già, đàn bà, đàn ông, đầu, tay chân... lủng lẳng hoặc kéo lê trên đất. Ngày nào cũng vài chục xe như vậy rong ruổi. Mấy người kéo xe kể: nhiều hôm họ quăng xác chết lên xe, trong xe có tiếng thều thào… Có anh xe dừng lại bới đống xác th́ không thấy ai kêu nữa. Có anh xe th́ nói vọng vào: “Thôi đằng nào cũng ra nghĩa địa th́ đi đi kẻo mai không ai chôn”.

    Mọi chuyến xe đều đổ về hai nghĩa trang Hợp Thiện và Phúc Thiện nằm ở cánh đồng ngoại ô hai đầu nam - bắc thành phố. Nay Hợp Thiện thuộc quận Hai Bà Trưng, bám bên sông Kim Ngưu. Phúc Thiện nằm trong công viên Thủ Lệ. Tại nghĩa trang người ta đào những cái hố sâu 3-4m, dài rộng hàng chục mét, quẳng xác chết xuống đó rồi rắc vôi bột lên trên và lấp. Từ khi xuất hiện trại tế bần Giáp Bát với lượng người chết 30-50 người mỗi ngày th́ cánh đồng xung quanh cũng trở thành những hố chôn người.

    Ông Điền kể rằng sau nạn đói, cánh đồng Giáp Bát lúa năm ấy không trồng nhưng từ những gốc rạ vẫn trổ đ̣ng xanh ngăn ngắt. Người ta tranh nhau đi gặt. Gặt xong cày bừa, tung lên bao nhiêu đầu lâu, chân tay. C̣n ở cánh đồng thôn Hiên, những đêm đông rét buốt hoặc những buổi trăng rằm sương lạnh trước vụ mùa, bà Chén vẫn như nghe thấy ngoài g̣ Ông Cảm xôn xao tiếng người như họp chợ. Phiên chợ của những hồn ma đói khát...

    Khi chúng ta no ấm



    Cây số 3 trên đường từ Thái B́nh đi Hà Nội nay là một cụm công nghiệp, thương mại sầm uất của thành phố Thái B́nh với những hàng quán ăn uống đặc sản đủ món Tây, Tàu. Nếu không được nghe những câu chuyện của 60 năm trước th́ không ai nghĩ từng có hàng vạn con người đói rách quằn quại tụ tập ở đây mà hy vọng một con đường sống.

    Bảo tàng tỉnh Thái B́nh đang hoàn thành giai đoạn cuối những hạng mục xây dựng tân thời. Thật khang trang, quy mô và cũng khá phong phú các hiện vật trưng bày. Thế nhưng rất tiếc, về nạn đói đau thương nhất lịch sử dân tộc và lịch sử Thái B́nh th́ nơi này chỉ trưng bày 5-6 tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Vơ An Ninh.

    Trở về Hà Nội, t́m đến nơi từng là nghĩa trang Phúc Thiện, nấm mồ tập thể chôn vùi hàng vạn con người không gỗ ván, không hương khói, mộ chí, tôi lạc vào công viên Thủ Lệ, được nh́n thấy những con người đang hạnh phúc nô cười trong tiết thanh xuân.

    Đi t́m nghĩa trang Hợp Thiện tôi phải mất mấy ngày ḍ hỏi mới đoán được khu vực cần đến. Đó là khu tập thể Nhà máy dệt 8-3, quận Hai Bà Trưng. Nghĩa trang đă bị xóa dấu tích hoàn toàn. Những căn nhà cao tầng thi nhau mọc lên. Người bán nước nói: thỉnh thoảng người ta làm đường, xây nhà cũng gặp hàng núi đầu lâu, chân tay người chất chồng trong ḷng đất. Họ thắp nén hương rồi gạt xương ra và tiếp tục đào...

    Theo lời chỉ dẫn của những người già, tôi t́m vào một hẻm nhỏ trên đường Kim Ngưu, rẽ vào ngách 559 với những dăy nhà cao vút nhưng chỉ chừa đủ chỗ cho một chiếc xe luồn lách. Bên phải cái ngách này là đường cụt. Nh́n thật kỹ mới thấy cổng vào rộng chừng 1,5m của khu tưởng niệm những nạn nhân 1945. Khu tưởng niệm lọt thỏm trong những bức tường nhà kiên cố.

    Công tŕnh lớn nhất ở đây là tấm bia đá khắc bài tế của giáo sư Vũ Khiêu cho những vong hồn xấu số. Kế bên là bức tường đắp ḍng chữ “Nơi an giấc ngàn năm của đồng bào chết v́ oanh tạc và nạn đói 1944 - 1945” và vài bệ đặt bát hương. Coi giữ nơi này là một người đàn bà luống tuổi, không ngớt mồm quảng cáo về chuyện âm hồn, linh ứng để mời khách đặt lễ...

    Có lẽ công việc công phu nhất của người c̣n sống khi ghi lại dấu ấn này chính là những tấm ảnh của nghệ sĩ Vơ An Ninh và công tŕnh khoa học đầy đặn của giáo sư Văn Tạo và các cộng sự. Tuy vậy công tŕnh nghiên cứu trên mới chỉ in vài trăm cuốn một lần vào năm 1995.

    Nước ta nay đă là một trong những quốc gia xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới. Xóm Trại, xă Tây Lương - nơi đă chết gần hết số dân sở tại - nay cũng đă là một làng quê giàu có, thanh b́nh. Bữa cơm của gia đ́nh ông Tô Nuôi hôm nay dù đă hết dư vị ngày Tết nhưng vẫn thịnh soạn, thơm ngon. Lịch sử dân tộc cũng như cuộc sống mỗi người đă sang trang mới tốt lành, sáng đẹp. Nhưng như giáo sư Văn Tạo nói: chúng ta không được quyền quên kỷ niệm đau thương và rùng rợn nhất đó của lịch sử!

    Không quên được, không cách ǵ tan biến được nỗi đau ấy trong kư ức của người từng đói cơn đói Ất Dậu. GS Phong Lê - nguyên viện trưởng Viện Văn học, năm ấy 7 tuổi, nhưng nỗi khổ nhục của cả làng xă đă măi măi khắc dấu vào tâm trí ông. Ông gọi đó là “tri thức của tôi trong năm đói 1945” - một “tri thức” đau đớn, chỉ dạy con người cái cách phải ăn những ǵ để sống.

    Quang Thiện (Tuổi Trẻ)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 29-09-2011, 06:19 PM
  2. Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm tại Biển Đông
    By xuân khê in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 03-08-2011, 10:40 AM
  3. Replies: 2
    Last Post: 05-01-2011, 12:04 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 11-11-2010, 08:41 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •