Sách Việt Ở Thư Viện San Jose Bị Phá Hoại
Tác giả: Nguyễn Chính Tiệp
Thư viện chính của thành phố San Jose (Main Library) chứa số lượng sách khá dồi dào; một phần cho độc giả, phần lớn cho sinh viên San Jose State University. Ngoài tiếng Anh, thư mục ngoại ngữ khá phong phú trên tầng 3; trong đó tiếng Việt chiếm một khu vực rộng răi gồm 7 khoang, chia làm nhiều kệ, chứa sách cả 2 mặt. Riêng tiểu thuyết (Fictions) chiếm 3 kệ rưỡi). Non fiction có đủ các môn triết học, tôn giáo, xă hội học, lịch sử, địa lư, văn học, kỹ thuật, thi ca, hội hoạ, tạp chí ... Nh́n chung, sách có hai nguồn:
A - Sách xuất bản ở Sài G̣n trước 1975, được Xuân Thu, Đại Nam ... tái bản, và một số sách cũ, có lẽ do nhiều người qua định cư mang theo và gởi cho thư viện.
B - Sách mới xuất bản ở Việt Nam: Gần đây, bên Việt Nam gởi cho thư viện rất nhiều sách đủ loại. Riêng từ điển tiếng Việt là một nhu cầu cần thiết cho người Việt Hải Ngoại và sinh viên tra cứu về ngôn ngữ và văn hoá Việt th́ trên kệ sách, chúng tôi thấy có 5 quyển từ điển chính:
1 - Từ Điển Từ và Ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (1998);
2 - Đại Từ Điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ư, Trung Tâm Ngôn Ngữ và Văn Hoá Việt Nam, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo xuất bản năm 1999 (trên kệ có 2 quyển, và c̣n nhiều ở các thư viện chi nhánh khác);
3 - Từ Điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, in 2001, ghi là Viện Ngôn Ngữ Học-Trung Tâm Biên Soạn Từ Điển, Hà Nội-Đà Nẵng 2001;
4 - Từ Điển Tiếng Việt- Ban Biên soạn Từ Điển Hànội- Nhà Xb Văn Hoá Thông Tin in 2005.
5 - Từ điển Tiếng Việt của Bùi Đức Tịnh in 2006, khổ nhỏ. Tác giả đă từng viết quyển Văn Phạm Việt Nam do Vĩnh Bảo in 1952 tại Sài G̣n.
Đối lại, người Việt Hải Ngoại cũng đóng góp một số lớn sách của nhà xuất bản Xuân Thu, Đại Nam ... trong đó đồ sộ nhất là bộ:
a- Thi Ca B́nh Dân Việt Nam của Phan Canh và Nguyễn Tấn Long do Sống Mới Sài G̣n xuất bản, được Xuân Thu cho tái bản ở Mỹ. Mỗi bộ gồm 4 quyển, mỗi quyển độ 600 trang.
b- Vẻ Vang Dân Việt của Trọng Minh (5quyển), Lê Tú Vinh dịch ra Anh văn. Một số sách cũ in trước 1975, có lẽ do người Việt qua định cư, đem theo tặng thư viện để làm tài liệu cho thế hệ trẻ tham khảo.
Về từ điển, chúng tôi thấy có:
1 - Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Húnh Tịnh Paulus Của, in năm 1895, Văn Hữu tái bản tại Sài G̣n 1974.
2 - Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, in năm 1931 tại Hà Nôi, Trường Thi tái bản tại Sài G̣n 1957.
3 - Việt Nam Tự Điển của hội Khai Trí Tiến Đức, in năm 1931, tái bản năm 1973 tại Sài G̣n.
4 - Từ Điển Việt Nam minh hoạ của Thanh Nghị, in 1967 tại Sài G̣n.
5 - Tự Điển Việt Nam của Lê văn Đức do Lê Ngọc Trụ hiệu đính, Khai Trí xuất bản 1970. Từ điển gồm 2 quyển, tổng cộng 1865 trang, trong đó có 376 trang thành ngữ và 273 trang nhân danh, địa danh được xếp vào phần cuối mỗi quyển.
Sau khi đọc bài “Cái Chết của Một Ngôn Ngữ: Tiếng Việt Sài G̣n Cũ” của cô Trịnh Thanh Thuỷ, tôi hơi buồn cười cái nh́n bi quan của cô. Cô viết: “Sự ra đi của một chế độ kéo theo nhiều thứ: con người, tài sản, nhà cửa, vườn tược, lịch sử ... nhưng có cái bị lôi theo mà người ta không ngờ nhất lại là "cái chết của một ngôn ngữ". Đau ḷng lắm thay! Cô cho rằng ngôn ngữ Miền Nam tức là ngôn ngữ Hải Ngoại sẽ chết dần, trong khi ngôn ngữ Việt Nam ‘bây giờ’ phát triển mạnh nhờ học sinh du học, ca sĩ ra ngoài tŕnh diễn, và cơ quan truyền thông Hải Ngoại hùa theo ... "Song song với việc thống nhất đất nước, nhà cầm quyền Việt Nam đă 'thống nhất hoá' (?) tiếng Việt và gọi đó là "tiếng Việt toàn dân". "Khi tiếng Việt được thống nhất và chuẩn hoá, toàn quốc sử dụng chung một thứ ngôn ngữ theo một tiêu chuẩn, mẫu mực nhất định. Tiếng Việt Sài G̣n cũ, gồm những từ ngữ mà tiếng Việt miền Bắc đă có từ ngữ thay thế, sẽ bị quên đi hoặc bị đào thải". Tôi đọc cả 5 quyển từ điển mới in ở Việt Nam mà không thấy ngôn ngữ được 'chuẩn hoá' thế nào.
Mỗi tác giả xưng danh một tổ chức văn hoá: Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Trung Tâm Ngôn Ngữ và Văn Hoá Việt Nam; Viện Ngôn Ngữ Học, Trung Tâm Từ Điển Học ... Chỉ có Cụ Nguyễn Lân là không nhân danh một tổ chức nào, mà mượn cán bộ cộng sản Vũ Khiêu đề tựa. Và nội dung th́ chẳng có ǵ thống nhất, hay chỉ thống nhất những từ rỗng tuếch: khẩn trương, phong kiến, chất lượng, tham quan ... Về chính tả th́ măi đến 1994, Hoàng Phê mới sửa cách đặt dấu giọng trong Từ Điển Tiếng Việt. C̣n trong Từ Điển Chính Tả Tiếng Việt, Nhà Xuất Bản Giáo Dục in năm 1985, vẫn bỏ dấu trên bán âm. Và bà Trần thị Th́n trên trang web ngonngu.net bịa ra nhiều nguyên tắc để khen cách viết sai. Cô Thuỷ c̣n khen các từ miền Bắc dùng nghĩa ‘rộng’(!) hơn: “Có những từ cùng nghĩa nhưng cách dùng khác nhau. Tỷ như chữ 'quản lư' là trông nom, coi sóc. Miền Nam chỉ dùng từ này trong lănh vực thương mại trong khi miền Bắc dùng rộng hơn trong cả lănh vực cá nhân như một người con trai cầu hôn một người con gái bằng câu: "Anh xin quản lư đời em". Hoặc từ "chế độ" cũng vậy, miền Nam chỉ dùng trong môi trường chính trị như "chế độ dân chủ". Miền Bắc dùng bao quát hơn trong nhiều lănh vực như "chế độ xem", "chế độ bao cấp". Song cô không cho biết nói như vậy ‘có văn hoá’ không? Có phải v́ không dùng các từ 'hiện đại' này mà tiếng Việt Miền Nam, nay là tiếng Việt Hải Ngoại phải 'chết' không ? Hay tiếng Việt 'hiện đại' chỉ là cách “Xấu khoe tốt, dốt nói chữ”. Con người nói được, song con vẹt cũng nói được. Chỉ khác là con người ‘ăn phải nhai, nói phải nghĩ’; c̣n con vẹt chỉ nói theo những ǵ người ta luyện cho nó. Tôi sẽ có bài viết về một số quan điểm của cô Thuỷ.
Nhưng trước tiên, tôi có ư định so sánh số từ trong Tự Điển Việt Nam in trước 1975, so với số từ trong Đại Từ Điển Tiếng Việt in năm 1999 xem lượng từ sách in 1999 hơn sách in 1970 là bao nhiêu, có bao nhiêu chữ trong Tự Điển Việt Nam biến mất trong Đại Từ Điển Tiếng Việt, và bao nhiêu từ mới được tạo ra; và dự kiến đến bao giờ số từ trong Tự Điển Việt Nam (1970) bị biến mất trong Đại Từ Điển Tiếng Việt (?). Từ đó, tôi có ư định lưu lại bộ Tự Điển Việt Nam in 1970 vào computer để làm tài liệu so sánh lượng chữ với các sách in sau này xem mức độ phát triển ngôn ngữ Việt ra sao, dù biết Từ Điển Việt Nam cũng có nhiều thiếu sót. Một số chữ thông dụng ở Miền Nam trước 1975 th́ lại sót trong Tự Điển Việt Nam. Ví dụ: ẩn số, ẩn nấp ... Ngay tên sách 'Tự Điển Việt Nam' nghe cũng không xuôi. Tôi nhớ khi đề tựa quyển Ngữ Pháp Việt Nam của GS Lê Văn Lư trước khi giao cho Trung Tâm Học Liệu in, GS Nguyễn Khắc Kham đề nghị sửa lại tên sách là Ngữ Pháp Tiếng Việt, nhưng GS Lư vẫn cho in tên sách theo ư ḿnh. GS Lê Ngọc Trụ cũng thuộc lớp thầy bảo thủ như vậy. Rồi nhà sách Khai Trí khi đóng b́a mạ vàng sách cũng tự ư đổi tên thành ‘Việt Nam Tự Điển’ như tên sách của Hội Khai Trí Tiến Đức in năm 1931. Dù sao th́ Tự Điển Việt Nam cũng là sách xuất bản sau cùng ở Miền Nam, chúng ta có thể dùng để nghiên cứu số từ ngữ và cách dùng vào thời điểm lịch sử này. Ưu điểm của nó mà các từ điển xuất bản sau 1975 không có là:
1- Số luợng chữ dồi dào: chữ ghép với ‘ẩn’ có 32; Đại Từ Điển Tiếng Việt chỉ có 27.
2 - Cách bỏ dấu đúng trên nguyên âm. GS Lê Ngọc Trụ đă dựa trên nguyên tắc ngữ học của Gusta Hue và Leopold Cardière: Bỏ dấu trên nguyên âm chính, không bỏ trên bán âm. Ví dụ: hoà hoăn, quả cảm. C̣n ĐTĐTV th́ vẫn bỏ dấu trên cả bán âm.
3 - Định nghĩa - xin so sánh:
a- Việt Nam Từ Điển: phong kiến: phong quan kiến điền gọi tắt; cắt đất và phong làm chư hầu để cai trị và hưởng thuế má vùng đất ấy.
b- Đại Từ Điển Tiếng Việt: phong kiến: chế độ do vua cai trị, quyền hành, ruộng đất thuộc vào tay vua chúa, quan lại, địa chủ ... Như vậy, các tác giả không phân biệt được phong kiến và quân chủ. Nhưng vẫn c̣n đỡ hơn Từ Điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, Bùi Đức Tịnh, và của Lạc Việt Từ Điển. Tất cả đều cóp nhau định nghĩa: (TĐTV - Hoàng Phê). Đọc định nghĩa trên, không ai hiểu nổi phong kiến là ǵ cả. Họ học mấy khẩu hiệu đấu tranh giai cấp của Liên Xô, Trung Cộng làm khẩu hiệu để đấu tố nông dân, chớ chính họ cũng không hiểu phong kiến là ǵ. Gần đây, ngay cả Wikipedia cũng định nghĩa: “Phong kiến là chữ viết tắt của phong vương kiến địa, có từ thời Tây Chu, vua đem đất đai phong cho bà con, lập ra các nước chư hầu”. Trong lịch sử Việt Nam, chỉ có nhà Trần theo chế độ phong kiến vào giai đoạn đầu. Vua phong Vương, Hầu cho gịng họ, lập các thái ấp do các Vương, Hầu làm chủ, thu thuế, tuyển mộ binh lính ... Khi có giặc, vua ra lệnh hội quân các Vương, Hầu để chống giặc như cuộc hội quân ở Vạn Kiếp năm 1285. Chúng ta thấy có Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, An Sinh Vương Trần Liễu, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản ... C̣n các triều đại khác chỉ theo chế độ quân chủ tập quyền. Nếu các nhà soạn từ điển miền Bắc có học, chắc đă đọc định nghĩa trong Hán Việt Từ Điển của cụ Đào Duy Anh. Văn hoá Miền Nam đă phát triển rực rỡ trong ṿng 20 năm, từ 1955 đến 1975 mặc dù chưa hoàn chỉnh. C̣n văn hoá Miền Bắc tụt hậu trong suốt thời gian này. Từ năm 1980, tôi t́m đỏ mắt không ra một quyển từ điển Tiếng Việt xuất bản ở Miền Bắc cùng thời gian trên; trong khi ở Miền Nam xuất bản rất nhiều từ điển của Đào văn Tập, Thanh Nghị, Lê văn Đức, bách khoa từ điển của Đào Đăng Vỹ ... Thế mà, khi vào miền Nam, họ bắt dân miền Nam phải dùng những chữ ‘bồi Tây, bồi Tàu’ của họ. Họ bắt dân chúng phải dùng chữ 'săm, lốp' thay v́ vỏ ruột xe, dùng 'giáo án, đáp án thay cho 'sổ soạn bài, trả lời; dùng khẩn trương lên' thay cho 'lẹ lên, nhanh lên', pḥng sanh đổi thành 'xưởng đẻ', du ngoạn đổi thành ‘tham quan’ ... Không những thế, họ c̣n quy chụp cho 'vỏ ruột xe, sổ soạn bài, lẹ lên ... là 'từ nước ngoài', ‘nhân dân’ không được dùng. Từ điển Lạc Việt 2009 c̣n có chữ 'a lê hấp' và chú thích là 'phiên âm từ tiếng Anh (!)' Văn hoá Việt Nam gần đây đă quay ngược dần trở về văn hoá Miền Nam trước 1975. Chiếc áo dài thướt tha của các cô giáo, từ tháng 05/1975 bị buộc đổi thành áo bà ba cho nó có 'tác phong lao động'. Sau đó v́ giáo viên lănh lương 10 đồng 1 tháng, không may nổi áo, phải cắt cụt áo dài thành áo xẩm. "Lănh đạo" trường thấy hay, may luôn bộ đồ xẩm cho 'hợp thời trang'. Khoảng 1979 lại có lệnh giáo viên 'gái' phải mặc áo dài. Tháng 05/1975, nam giáo viên đến trường tŕnh diện, mặc áo bỏ trong quần, đi giày, bị phê b́nh là ‘có tác phong tiểu tư sản’. Đến cuối năm 1979, lệnh bắt buộc giáo viên trai mặc áo bỏ trong quần cũng áp dụng lại. Chiếc áo dài nữ sinh cũng trở lại khoảng 1986, được tô vẽ là do sáng tạo của một cô giáo vườn nào ở Miền Tây. Chiếc áo dài xanh của nam giới, được coi là biểu tượng ‘phong kiến’ nay cũng được các cán bộ cao cấp hănh diện khoác vào. Đường phố không c̣n là sân vận động cho trẻ em như cuối thập niên 1970, mà trở lại sinh hoạt náo nhiệt; lề đường cũ bị cuốc lên trồng rau muống, xuyên tâm liên ... nay lại lát gạch, trồng cỏ rồi. Nhạc miền Nam trước đây dân chúng phải hát lén, nay được công khai tŕnh diễn, giết chết nhạc mới mang vào năm 1975. Song cái ngôn ngữ ‘vẹt’ th́ mọi người cứ phải nói như vẹt.
Đau đớn là, ngày 24/11/2010, tôi mượn lại quyển Tự Điển Việt Nam th́ mới hay: Có kẻ nào đó nhẫn tâm phá hoại bộ từ điển này của thư viện. Họ cắt đi nhiều xấp, suốt từ đầu đến cuối sách, làm cho chúng ta không thể tra cứu được nữa. Mất trang 131-138 Mất trang 166-175 Mất trang 233-266 Trên Quyển Thượng (A-L), Phần Từ, sách bị cắt chỉ, lấy mất từ trang 1 tới 38; trang 75-102; 131-138; 166-175; 233-266; 272-289; 482-490; 619-645; 793-808. Phần Tục Ngữ, Thành Ngữ, Điển Tích bị cắt từ trang 103 (chữ D) đến hết chữ L. Phần Nhân Danh, Địa Danh bị cắt hết phần chữ A (trang 1-9); sau đó cắt từ chữ H (trang 74) đến hết chữ L. Trên quyển Hạ (M-X) cũng bị cắt trang: 1015-1150; 1223-1226; 1245-1251; 1381-1414; 1447-1478; 1665-1703. Phần Nhân danh, Địa danh bị cắt trang 155-182; 249-252. Bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của in năm 1895, được Văn Hữu tái bản năm 1974, tuy không phải là công tŕnh văn hoá Miền Nam trước năm 1975, song có lẽ nó thể hiện sự quan tâm về văn hoá của người Miền Nam trước 1975 nên cũng bị phá hoại.
Tập I: Ngay từ trang VIII phần tổng quan đă bị cắt hết cho đến trang10 vần Ă (tháng 10/2009 th́ chưa bị cắt) (1) Mất từ tr IX phần I đến tr 10 phần Tự điển; (2) Mất từ trang 263 đến 280; (3) Mất trang 439-463; Tập II: mất từ trang 321-324; trang 299-362; trang 429-456.
Tôi có kiểm lại các quyển từ điển mới in ở Việt Nam th́ thấy vẫn nguyên vẹn. Cả 2 bộ Đại Từ Điển Tiếng Việt, Tự Điển Từ và Ngữ Việt Nam, Từ Điển Việt Nam vẫn mới nguyên như chưa có người dùng.
Từ đó tôi không thể đối chiếu tài liệu một cách khách quan, t́m ra được những từ trước và sau 1975 đă biến đổi thế nào. Tôi cố gắng t́m hiểu nguyên nhân khiến kẻ nào đó lại đang tâm làm như vậy, nhưng không giải thích được hành vi này; ngoại trừ giả thuyết là một âm mưu phá hoại tài liệu văn hoá, ngôn ngữ Miền Nam trước đây, để các sách của Việt Nam mới qua độc chiếm lănh vực văn hoá Việt trong thư viện ở Hải Ngoại. Nếu chúng ta đến thư viện tra cứu các chữ dùng trước 1975 hoặc sinh viên Việt Nam qua du học th́ chỉ thấy mấy quyển sách quá cũ của Miền Nam trước đây; chỉ c̣n cách tra mấy quyển sách từ Việt Nam mới gởi qua. Nếu để mấy quyển sách này tại thư viện, sinh viên qua du học sẽ thấy rơ văn hoá Miền Nam Việt Nam trước 1975 đă đi trước Miền Bắc ít nhất nửa thế kỷ. Số từ vựng của Miền Nam vượt trội và không có các tiếng bồi như từ điển mới nhất của Miền Bắc.
San Jose State University lại có rất nhiều sinh viên Việt Nam qua du học v́ họ nhận điểm thấp. Nếu đánh cắp sẽ bị lộ. Chi bằng vô hiệu hoá bằng cách cắt xén cho quyển sách trở thành vô dụng. Tôi biết có lẽ hiện c̣n có người giữ được mấy bộ sách trên. Song đưa vào thư viện công cộng cho lớp trẻ tham khảo th́ khó khăn và sợ bị phá hoại như vậy. Tôi cũng có một số sách xưa, nhưng chưa dám gởi vào thư viện. Họ luôn tuyên truyền nhồi nhét cho học sinh, sinh viên văn hoá Miền Nam trước đây đồi truỵ, vong bản, trong khi chính họ mới áp đặt nền văn hoá nô dịch lên đầu dân Việt.
Sau 30/04/1975, họ cho đốt phá các nhà sách Khai Trí, Sài G̣n, Xuân Thu ... Cho người đi tịch thu sách báo cũ từng nhà, từng tổ dân phố, hăm doạ người lưu trữ sách cũ. Nay con cháu họ ra nước ngoài du học, đọc lại sách vở "chế độ cũ", chúng sẽ vỡ lẽ, khinh khi các đỉnh cao trí tuệ, nên phải cho người phá hoại tiếp tục. Có vị cho tôi là chủ quan khi ám chỉ kẻ chủ mưu. Nhưng đối với hành động ném đá giấu tay, chúng ta chỉ có bằng chứng về sự phá hoại, song khó có tang chứng về kẻ phá hoại.
Năm 2009, Viện Việt Học cũng đă bị cộng sản xâm nhập, phá hoại. Chúng đánh tráo bài viết về văn học của Hồng Liên Lê Xuân Giáo bằng bài của Vũ Khiêu, cán bộ cộng sản, đăng lên tập san Ḍng Việt 23 của Viện. Các trí thức kư Bản Lên Tiếng, phản đối Ban Biên Tập. GS Lê Văn, chủ bút nhận trách nhiệm và cả hai ông bà từ chức viện trưởng, viện phó Viện Việt Học. GS Lê Văn lại là Khoa trưởng Đại Học Sư Phạm đầu tiên của Viện Đại Học Huế. Thấy báo chí đăng tải, các GS cựu sinh viên Đại Học Sư Phạm Huế, lên tiếng bênh vực thầy cũ. Để tránh hai con chim bị hạ v́ một mũi tên, GS Trần Huy Bích không thể tiếp tục truy nguyên sự phá hoại này. Sự xâm nhập, đưa bài của cán bộ cộng sản đăng trong Ḍng Việt là có thực, song truy t́m ra thủ phạm lại khó khăn v́ GS Lê Văn chỉ nhận lỗi "người phụ trách lại xếp lộn để in bài của Vũ Khiêu" và xin từ chức; không cho biết ai đă đem bài của Vũ Khiêu đến ban biên tập để tráo bài và ai đánh máy bản in mà không nhận ra luận điệu chửi các nhà văn Miền Nam trước đây của cộng sản.
Trong trường hợp sách ở thư viện San Jose cũng vậy. Chúng ta chỉ biết hành động phá hoại này có thể đoán được kẻ chủ động. Song chúng ta không thể bắt tận tay người phá hoại. Song không v́ một âm mưu thâm độc th́ không ai đi làm việc vô tích sự này. Rồi đây, con cháu chúng ta vào thư viện Mỹ tra cứu, chúng ta sẽ chỉ thấy văn hoá Việt Nam là văn hoá cộng sản, anh hùng dân tộc chỉ c̣n là Lê văn Tám, Bế Vân Đàng, Phan Đ́nh Giót ...
(*nguồn: www.tvvn.org)
============
Ư kiến của Phú Yên:
Đáng lư tôi lấy tựa bài viết của tác giả Nguyễn Chính Tiệp, "Sách Việt ở Thư Viện San Jose Bị Phá Hoại", để mở "new thread" nhưng đọc kỹ nội dung của toàn bài viết th́ chẳng những chỉ có chuyện phá hoại ở Thư Viện San Jose mà tác giả Nguyễn Chính Tiệp c̣n phơi bầy cho người đọc biết những chuyện phá hoại khác nữa, và có thể nói đó là một âm mưu thâm độc của kẻ chủ mưu . Nên tôi nhớ có lần ông bạn nào đó có lời mỉa mai "nh́n đâu cũng thấy VC". Thôi th́ chọn tên cho cái "new thread" này là -NH̀N ĐÂU CŨNG THẤY VC- (thêm dấu ? đằng sau) để làm đề tài thảo luận.
Tác giả Nguyễn Chính Tiệp "không nói thẳng" kẻ chủ mưu phá hoại là đảng và nhà cầm quyền csvn, nhưng chắc chắn độc giả đă tự đoán ra rồi.
Như vậy ở bất kỳ lănh vực nào (văn hoá nghệ thuật, chính trị, tôn giáo và ngay cả trong "quần chúng ta" cũng có VC nằm vùng âm thầm phá hoại; thế mà nực cười thay, có một số kẻ miệng mồm "múa lưỡi" chê trách người này kẻ nọ là "chống cộng quá khích, chống cộng sai lầm, nh́n đâu cũng thấy VC...", để làm ǵ? hay chỉ tại muốn khoe mẻ ta đây có phương cách chống cộng tuyệt vời? Thôi cũng được, anh có tài, có cách chống cộng tuyệt vời, kết quả thành công cao th́ đâu cần phải "đạp người chống cộng cách khác" xuống đau xuống đớn như thế? Anh chỉ cần âm thầm thực hiện phương cách chống cộng tuyệt vời của anh và tạo những thành tích sáng ngời th́ tự nhiên những người "chống cộng cực đoan, quá khích", những kẻ "chống cộng sai lầm", những kẻ chửi rủa mồ cha VC ... sẽ tự nhiên thoái trào . Lo ǵ cơ chứ!
Hành động nhanh lên! Gấp gáp lắm rồi! C̣n đợi ǵ nữa?
Phú Yên
Bookmarks