Có biết mấy câu thơ của ai không ông "thành viên" mà cũng phê b́nh khen chê? những câu thơ là bản cáo trạng , nổ rền vang như bom đạn để lên án kẻ thù, nó trở thành đại chúng, ai là người VN cũng phải biết nên không cần nêu tên tác giả. Ông không biết th́ ông là ai ?
Ai đâu mà đủ quyền, đủ sức, đủ lư lẽ, đủ mồm, đủ miệng, đủ bầy, đủ đàn, mà bắt lỗi bọn chúng, nói ra cho rơ ràng phân minh, c̣n làm hay không th́ "tự xử", không làm th́ tôi đây chẳng nể kêu ông này tướng nọ, thay vào đó là, ngó lơ, 3 không, cũng đủ nhục rồi, cũng muốn chừa chỗ cho "thiện chí" nếu có,
tên den-ni-ồ hồ miệng hô răng đen mă tấu, cứ cái tṛ "đặt plastic", pháo kích, bỏ đi diễm ui
Bốn câu ngẫu hứng
Trông ḱa một "nhúm" nam nhi
Đứng trơ mắt ếch tu mi chỗ nào?
Nh́n xem dáng dấp nữ nhi
Tóat ra hùng khí hai bà Trưng xưa
Phú Yên
Last edited by Phú Yên; 31-10-2010 at 10:55 AM.
tôi tớ cho chệt cộng chắc bảnh hơn ngộ lồi, cho ngộ chút xí tiền li,--------------------------------------------------------------------------------
30-10-2010 07:51 PM #150 B́nh
Khách VC lo giỗ "chí sĩ" Ngô đ́nh Diệm
Xin hỏi tiền đâu mà bọn tôi tớ nhà Ngô làm giỗ "chí sĩ" Ngô đ́nh Diệm?
Bà Nhu có cho chúng đồng nào không ? Mặc dù tiền độc quyền đầu cơ gạo rồi bán cho VC, tiếp tế thuốc tây nuôi VC, độc quyền khai thác quế ở Trà bồng, Quảng ngăi rồi bán cho Trung công bà Nhu kiếm đến hàng trăm triệu đô la vào thời điểm 1960 mà bà có bố thí cho tôi tớ cỡ như lăo già Trương phú Thứ đồng nào không? Nếu không th́ tiền đâu mà chúng lo giỗ? Trả lời là có ngân quỹ dồi dào dành riêng cho nghị quyết 36 đấy . Nói lại cho rơ ràng là VC lo giỗ cụ Ngô đấy . Nghe rơ chưa mấy cả quỷnh
lông th́ bán luông nửa cái thác Bản Giốc cho chệt cộng li, rồi cho lị chút lỉnh
nị cứ làm bộ hoài, ĺnh b́nh hoài, bỏ đi, xưa rồi, ai cũng lỏ cũng biết hết rồi, bỏ li ĺnh b́nh ui, diễm ui
Hồ sơ về Dương Văn Minh - Phạm Mạnh Hùng
Thứ tư, 03 Tháng 6 2009 16:43
THÂN THẾ VÀ GIA Đ̀NH
Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Tho. Cha Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con), làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm).
Dương Văn Huề - Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gái. Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, vc. Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan VNCH. Gia đ́nh theo đạo Phật.
1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. 1942 vào quân đội Pháp.
1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ trang chống Pháp. Pháp trở lại, gia đ́nh Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị kẹt lại chưa t́m được đơn vị th́ bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội Pháp. Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường vơ bị, là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “Việt Nam Cộng Hoà”.
Minh can thiệp cho em trai bà Bùi Thị Mè, Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế – xă hội – thương binh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa Miền Nam, là thiếu tá VNCH bị t́nh nghi hoạt động cho “Việt Cộng” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), là em bạn d́ ruột bị bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù…
Minh sau ngày 30/4/1975, ông được vc cho về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, (Nguyễn Thị Minh Khai), Quận 3). Đời sống khó khăn, bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dày. Có lúc Vơ Văn Kiệt nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ư khéo là "Đảng và chính quyền thành phố" muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng Minh từ chối.
1983, Minh được vc chấp thuận để sang Pháp trị bệnh và thăm con, đề nghị giúp Minh vé máy bay và tiền gửi hành lư
QUÁ TR̀NH BINH ĐỊCH VẬN ĐỐI VỚI DƯƠNG VĂN MINH
Công tác binh địch vận đối với Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, T́nh báo, An ninh T4 (Sài G̣n - Gia Định), Trí vận…
1/ Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam
Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam), Vơ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đề nghị và được cấp trên đồng ư điều động Dương Thanh Nhựt, Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển ra nông trường quân đội về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn Minh. Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty. Cuối tháng 12/1960, Mười Ty lên đường.
Tháng 8/1962, Mười Ty móc được với gia đ́nh, trước hết là với Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và t́m hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Sài G̣n và em thứ tám là Dương Thu Vân.
Thấy t́nh h́nh thuận lợi, Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ư kiến của lănh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Trong lúc Minh đang bực tức Ngô Đ́nh Diệm độc tài, gia đ́nh trị, phủ nhận công lao của ḿnh (tảo thanh B́nh Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Minh hứa sẽ t́m cách làm.
Ngày 01/01/1963, Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và lên làm Quốc trưởng Việt Nam Cộng Ḥa lần thứ nhất. Mười Ty nắm được ư định Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương Cục.
Sau cuộc đảo chính Ngô Đ́nh Diệm một thời gian, Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, Mười Ty cho rằng Minh trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay th́ hết tranh căi về điều này, nhưng vẫn c̣n cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.
Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ "có lợi cho cách mạng":
+ Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương Văn Minh v́ sao làm thế? Minh trả lời, đại ư: Người Việt Nam có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đă gắn bó đời ḿnh và mồ mả ông cha. Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, v́ lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của ḿnh.
+ Bộ trưởng quốc pḥng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân sẽ đói… Dương Văn Minh lắc đầu từ chối.
+ Tháng 1/1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời.
+ Theo lời kêu gọi của "Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam" Dương Văn Minh tỏ ư muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt ḥa đàm, chống mọi xu hướng trung lập.
- Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ư đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng 01/1964, chính quyền Mỹ đă đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Ḥa Việt Nam bằng một cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay Cộng sản”.
Mỹ thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên chỉ thị cho Chính quyền Sài G̣n phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời Minh qua Mỹ một thời gian rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA, làm con bài dự trữ.
Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ư chờ tin của Mười Ty. Nhưng v́ CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Minh) kêu Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.
Khi Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là Minh không thể qua Pháp được nữa, th́ Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ư kiến của cấp trên cho Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ư kiến của cha anh với Mười Ty như sau:
“Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử th́ ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không nghĩa lư ǵ, miễn có lợi cho đất nước là hơn”.
Dương Minh Đức nói thêm: Ba cháu không c̣n lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có lợi hơn…
Sau đó, Mười Ty về Hà Nội, được Lê Duẩn gặp và mời cơm (với Vơ Văn Thời). Sau khi nghe Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được…”
Cuối năm 1970,… theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục t́m một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của vc trong sĩ quan là bạn bè và thầy tṛ có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh.
Tháng 3 và 4/1975, Tám Vô Tư thường gặp Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ư ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống th́ t́m cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.
Khi được tin Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28/4/1975, từ Cần Thơ, Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Sài G̣n gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, Hạnh đă góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Sài G̣n “án binh bất động”, tan ră tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho vc.
2/ Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”
Tháng 9/1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Sài G̣n - Gia Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”… (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư kư ṭa soạn báo Điện Tín, báo Đại dân tộc…).
Đầu năm 1975, Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban An ninh T4, chỉ đạo A10 t́m cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn Minh để tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Thời gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đ̣i Trần Văn Hương từ chức (Tổng thống).
Ngày 01/3 và cuối tháng 3/1975, Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề…) vào căn cứ báo cáo với Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh T4). Mai Chí Thọ chỉ đạo: “…Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của Đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.
3/ Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh
Cụm điệp báo VĐ2 thuộc pḥng t́nh báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông qua Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài G̣n. Theo Tô Văn Cang, sáng ngày 28/4/1975, Cang đến gặp Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà Ba Lễ (cơ sở t́nh báo) hẻm đường Triệu Đà, Sài G̣n, để báo ư kiến của Nguyễn Văn Diệp (trong Chính phủ Dương Văn Minh) muốn t́m gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam để xin ư kiến xử trí t́nh h́nh Sài G̣n. Sáu Trí phân tích t́nh h́nh và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ư kiến này được Cang phản ánh lại cho Diệp và sau đó Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh – Nguyễn Văn Huyền – Vũ Văn Mẫu.
4/ Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị
Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương (tháng 7/1973) đề ra nhiệm vụ:
“Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”;
“mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo, lực lượng ḥa b́nh, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài”.
Năm 1974, theo chỉ đạo của Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam, Quốc Hương (Mười Hương), Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đă chọn một số thanh niên, sinh viên cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba.
Trên thực tế th́ vc đă h́nh thành trước khi có hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và "nhà tư sản dân tộc" (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng 6/1969 với mục tiêu là: đ̣i các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ ḥa giải dân tộc. Sau đó, lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02/1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đ̣i thi hành hiệp định Paris”, xác định ḿnh là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đ̣i thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.
Thành viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập, kư giả, tướng lĩnh. Hằng tuần, nhóm họp bàn về t́nh h́nh thời sự chính trị (lúc t́nh h́nh sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh Dương Văn Minh có Văn pḥng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm Dương Văn Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước.
- Theo Lư Quư Chung (Hồi kư), tuần lễ đầu tháng 4/1975, Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đă họp tại Dinh Hoa Lan (nhà Minh) bàn và quyết định công bố ư định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để góp phần chấm dứt chiến tranh.
5/ Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Sài G̣n
Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đ̣i Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đ̣i thi h́nh hiệp định Paris, ḥa b́nh, chấm dứt chiến tranh, đ̣i dân chủ, cải thiện dân sinh… các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn người. Như cuộc xuống đường của 200 kư giả Sài G̣n ngày 10/10/1974, ngày “kư giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng tham gia đă có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày 20/4/1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức, thương phế binh… đ̣i Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đ̣i thi hành hiệp định Paris, đ̣i ḥa b́nh, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT…, là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris.
MỸ, PHÁP VỚI DƯƠNG VĂN MINH
* Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng ḥa miền Nam có dân chủ, nhưng phải thất cử để trở thành lănh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Dương Văn Minh từ chối. Đại sứ Mỹ Bunker c̣n trắng trợn hỏi Minh cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Minh cố nén giận, nhưng giữ lịch sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía cửa pḥng (không tiếp đại sứ Mỹ nữa). Cuộc bầu cử đó, Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ chót quyết định rút lui, chỉ c̣n Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên Tổng thống “độc diễn”, làm bẽ mặt Mỹ – Thiệu.
Sau khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đă bị nhân dân và báo chí Sài G̣n đấu tranh đ̣i Chính phủ Trần Văn Hương từ chức ngay lập tức. Trần Văn Hương tŕ hoăn việc giao quyền cho Dương Văn Minh, măi đến ngày 26/4/1975, lưỡng viện Sài G̣n đă bầu Dương Văn Minh làm Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa với 147/151 phiếu.
* Pháp: Theo Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28/4/1975), Bộ Ngoại giao Pháp gặp Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam) gợi ư Chính phủ Cách mạng lâm thời nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.
Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và Lư Quư Chung, sáng ngày 30/4/1975, tướng t́nh báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Dương Văn Minh, gợi ư Minh nên kêu gọi Trung Quốc can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt. Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đă từng làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ, đă quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc”.
DƯƠNG VĂN MINH VỚI 3 NGÀY LÀM TỔNG THỐNG
15 giờ chiều ngày 28/4/1975, Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.
"Tổng thống" Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau là quyền Tổng tham mưu trưởng.
Về Bộ quốc pḥng, Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ trưởng. (Theo Lư Quư Chung, việc Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng quốc pḥng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến tranh).
17 giờ ngày 28/4/1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.
Theo Hồ Ngọc Nhuận (Hồi kư), tối hôm đó, Minh giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh (đề pḥng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).
Đêm 28/4, Dương Văn Minh và gia đ́nh dời đến ở nhà một người bạn của Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà ông Minh).
Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi kư), đêm 28/4/1975, hai đại tá phi công lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, gặp Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đ́nh bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Minh trả lời: “Hai em có thể yên ḷng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo th́ có thể ra đi. Phần tôi, tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Sài G̣n, không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”.
Ngày 29/4/1975
Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi Việt Nam trong ṿng 24 giờ để giải quyết ḥa b́nh ở Việt Nam.
Đến 16 giờ chiều ngày 29/4, đă thực hiện xong việc trả tù binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện đă tan ră (trừ bộ phận biệt phái).
Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29/4/197, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đă ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.
Sau đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được Vơ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Liễng đă thông báo với phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Dương Văn Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, v́ đă thông báo cho bên trong biết “Sài G̣n không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến tranh. Theo Luật sư Liễng, Dương Văn Minh đă chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29/4/1975).
Từ chiều và tối ngày 29/4, cũng có một số người tác động Dương Văn Minh hướng “Thành phố để ngỏ”, đầu hàng. Như Lư Quư Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua Phan Xuân Huy và Đoàn Mai, thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Dương Văn Minh: “c̣n chờ ǵ nữa mà không đầu hàng” .
Ngày 30/4/1975
- 6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đă chuồn) và Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với Dương Văn Minh về toàn bộ t́nh h́nh quân sự. Sau đó, Minh (cùng Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất, nay là đường Lê Duẩn).
Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố này.
- 9 giờ, Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm.
Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Dương Văn Minh đồng ư có nhật lệnh cho quân đội. Hạnh soạn thảo nhật lệnh này. Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Minh trên đài phát thanh.
9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là ḥa giải và ḥa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Ḥa ngưng nổ súng, và ở đâu th́ ở đó”; “Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam Việt Nam để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong ṿng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”.
Sau đó, Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho vc.
Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đă xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở th́ tùy”.
11 giờ 30, xe tăng "quân giải phóng" vào Đinh Độc Lập. Xe "quân giải phóng" đưa Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
KẾT LUẬN
1/ Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ lúc đầu c̣n mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có ḥa b́nh, độc lập và ḥa hợp dân tộc.
2/ Theo Nguyễn Hữu Hạnh và Lư Quư Chung, Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ư để thương thuyết với cách mạng v́ đă thấy không c̣n khả năng thương thuyết; cũng không có ư để tiếp tục chiến tranh v́ lâu nay Minh chủ trương hoà b́nh, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rơ ở Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức th́ ngày 29/4/1975, đă ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v..
3/- Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần chúng ở thành phố Sài G̣n – Gia Định đă tạo sức ép quân sự lớn; công tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng vc với Dương Văn Minh; được sự đồng t́nh, tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Dương Văn Minh đă quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30/4/1975 là "hành động thức thời, làm giảm ư chí đề kháng của đại bộ phận quân đội Sài G̣n vào những giờ chót của cuộc chiến tranh", tạo thuận lợi cho "quân giải phóng" tiến nhanh vào "giải phóng" hoàn toàn thành phố Sài G̣n c̣n nguyên vẹn và không đổ máu. Nhiều thành phố và thị xă khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn thất.
"Chúng ta biết rơ giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công của các quân đoàn kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng địa phương đóng vai tṛ quyết định. Tuy nhiên, công bằng mà nói, hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông đă góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh sĩ và nhân dân, thành phố Sài G̣n và nhiều đô thị c̣n nguyên vẹn. Đó là nghĩa cử yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh."
"Tp. Hồ Chí Minh", ngày 30/10/2004
Dương Văn Minh đă lập những công lao rất lớn với VC đó là giết tổng thống Diệm, phá bỏ Ấp chiến lược, bắt tay với tên sư hổ mang Thích Trí Quang và bọn chó má "thành phần thứ ba", dâng miền Nam cho VC ngày 30-4, bởi vậy tụi VC nó viết bài tâng bốc tên đần độn này 1 chút cũng chẳng có ǵ lạ, tuy nhiên bất cứ ai biết suy nghĩ cũng dễ dàng nhận thấy tên này chỉ là thứ cặn bă, 1 kẻ làm tướng lănh được tổng thống Diệm cất nhắc mà lại phản phúc và ra lệnh giết 2 anh em tổng thống là hành động vong ân phụ nghĩa, vô đạo lư, thân làm tới chức đại tướng và từng làm tổng thống dù chỉ 2 ngày mà lại hèn hạ chấp nhận luồn cuối lũ giặc Cộng, khi thấy những quân nhân cán chính VNCH bị đày vào các trại cải tạo, gia đ́nh bị bắt đi kinh tế mới mà th́ cũng câm họng không dám nói 1 lời bênh vực th́ đúng là đê hèn không c̣n 1 chút danh dự của kẻ làm tướng, vậy mà trong đám tang của tên Ngô Công Đức th́ đám con cháu của Dương Văn Minh lại mặt dày tới mức ghi trong ṿng hoa viếng tang là "gia đ́nh đại tướng Dương Văn Minh" 1 kẻ hèn hạ như Dương Văn Minh mà c̣n tự xưng là đại tướng nữa sao.
Bài này ông Khai Quang phải đề rơ là khiêng ở đâu về, đồ mà không nguồn gốc là đồ gian :):):)
LTTD
There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)
Bookmarks