Page 2 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 11 to 20 of 41

Thread: Chính Đề Việt Nam by Ngô Đ́nh Nhu and his group

  1. #11
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo


    Công cuộc Tây phương hóa, nhất định phải toàn diện

    Tóm lại, nếu đóng cửa không đón tiếp văn minh Tây phương, th́, v́ kém kỹ thuật, sẽ bị Tây phương chiến bại, và biến thành thuộc địa hay bán thuộc địa. Sau khi chiến bại rồi sẽ bị Tây phương hóa nhưng công cuộc Tây phương hóa sẽ không được hướng dẫn và sẽ đưa đến những kết quả thảm hại mà chúng ta biết.

    Nếu muốn Tây phương hóa có giới hạn để bảo vệ các giá trị cũ th́, một là công cuộc bảo vệ sẽ không thực hiện được và quốc gia sẽ lâm vào t́nh trạng của các nước đóng cửa không tiếp đón kỹ thuật Tây phương. Hai là sẽ tạo hoàn cảnh cho một cuộc cách mạng nội bộ để đưa đến một cuộc Tây phương hóa toàn diện. Như vậy th́, đằng nào rồi những sự kiện lịch sử cũng sẽ đưa đến một cuộc Tây phương hóa toàn diện. Nếu đă thế th́ thượng sách không phải là nên tự ư Tây phương hóa toàn diện hay sao? Có như vậy một mặt chúng ta sẽ có thể rút ngắn thời gian, một mặt chúng tạ mới có thể chủ động được công cuộc Tây phương hóa đế cho những chấn động, mà chắc chắn một công cuộc như vậy sẽ gây ra cho xă hội ta, không có thể phá hoại xă hội ta, như trong trường hợp một cuộc Tây phương hóa không hướng dẫn.

    Tóm lại, một công cuộc Tây phương hóa chỉ hữu hiệu khi nào chúng ta được tự ư thực hiện nó và thực hiện toàn diện, nghĩa là trên lĩnh vực quân sự, chính trị, xă hội và theo đó là kinh tế và văn hóa.

    Nếu ta tự ư Tây phương hóa, th́ chúng ta chủ động được công cuộc Tây phương hóa của chúng ta và chúng ta sẽ bảo vệ được độc lập và xă hội, nhưng nhiều giá trị tiêu chuẩn phải được đổi mới.

    Nếu chúng ta không tự ư Tây phương hóa th́ rồi cũng bị Tây phương hóa. Nhưng cuộc Tây phương hóa sẽ không được hướng dẫn, không đường lối và không mục đích. Sở dĩ sự kiện phải diễn tiến theo cơ thức như đă phân tích trên đây là bởi v́ một nền văn minh là một toàn bộ quân b́nh, gồm có các tiêu chuẩn giá trị, có hiệu lực trong các lĩnh vực.

    Nếu chúng ta thâu nhận những thực hiện của Tây phương trong một lĩnh vực nào đó th́ sớm hay muộn những thực hiện đó cũng lần lần kéo đến và bắt buộc chúng ta thâu nhận những thực hiện của Tây phương trong một lĩnh vực khác có liên hệ. Một mặt khác, nếu chúng ta đă thâu nhận những kỹ thuật trong một lĩnh vực th́ lần lần chúng ta sẽ thâu nhận những nguyên tắc khoa học, đă làm căn bản cho sự phát minh ra các kỹ thuật đó. Và nếu chúng ta thâu nhận các nguyên tắc khoa học, th́ chúng ta lại đi đền chỗ thâu nhận lối suy luận đă tạo ra các nguyên tắc khoa học. Nghĩa là cơ thức của sự Tây phương hóa đi từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, và từ cương vị thấp đến cương vị cao, từ lĩnh vực cụ thể đến lĩnh vực trừu tượng. Và sự diễn biến, tự nhiên sẽ đến không có ǵ ngăn trở được. Bởi v́ những yếu tố, mà toàn bộ hợp thành một trạng thái thăng bằng, trong một nền văn minh, không thể tách rời ra được. Sự sống, của từng yếu tố, tùy thuộc sự có mặt của các yếu tố khác. Nếu chúng ta nhận yếu tố kỹ thuật quân sự, sớm muộn ǵ chúng ta cũng phải nhận yếu tố khoa học, bới v́, mỗi yếu tố, không thể sống một ḿnh được, tất sẽ tự gây lại trạng thái thăng bằng từ đó nó đă phát sinh, và trong đó nó có thể sống mạnh.

    Trong sự liên lạc giữa hai văn minh, một việc này lại mang đến một việc khác và tuần tự sẽ mang đến hết toàn bộ văn minh mới.

    Ví dụ, nếu chúng ta mặc vải dệt ở các nhà máy Tây phương, th́ chẳng bao lâu chúng ta lại nhập cảng những nhà máy tương tự để dệt vải theo Tây phương tại xứ ta. Lần lần, chúng ta lại sản xuất các nhà máy tại chỗ, và, chừng đó người nông dân của chúng ta lại bỏ đồng ruộng để lên làm việc tại các nhà máy, và lúc bấy giờ, ngoài giờ làm việc họ lại thích các lối giải trí của Tây phương, và lần lần đầu óc của họ cũng nghĩ theo Tây phương, và cuối cùng, họ sẽ Tây phương hóa, từ vật chất lẫn tinh thần. Đó là một định luật xă hội nghiêm khắc.

    Như thế nào là Tây phương hóa đến mức độ đủ cao.

    Bài học của nước Nga

    Trong lĩnh vực này lịch sử của nước Nga là một bài học vô cùng quí báu.

    Nước Nga ở phía Đông Âu châu. Đối với Âu châu, nước Nga là một tiền đồn, mỗi khi các bộ lạc du mục Mông Cổ và Hung-nô ở các đồng hoang phía Đông Bắc Á châu xua quân đánh phá các dân tộc đă định cư trên hai đại lục Âu, Á. Vị trí địa dư ấy, đă dẫn dắt đến các sự kiện lịch sử quan trọng sau đây. Quan trọng đến nỗi, sau mấy ngàn năm biến cố khuynh đảo, nó vẫn c̣n chi phối nặng nề các nguyên tắc ngoại giao giữa Nga và các cường quốc Âu Mỹ. Và đây là một ví dụ, hết sức sáng tỏ, để chứng minh rằng, trong đời sống của một dân tộc, một thời gian mấy thế kỷ hay mấy ngàn năm vẫn chưa thấm vào đâu. Và cuộc cách mạng Sô Viết của nước Nga lại làm cho các sự kiện này trở thành một bằng cớ hết sức đích xác để chứng minh rằng dĩ văng của một dân tộc do hoàn cảnh địa dư và sự kiện lịch sử tạo thành, không có thể san bằng được dù là bằng một cuộc cách mạng vô cùng táo bạo, để xây dựng tương lai.

    Ngay từ thế kỷ thứ X, nước Nga đă có những sự liên lạc thường xuyên và chặt chẽ với đế quốc La Mă; khi đế quốc này chỉ c̣n ảnh hưởng ở phía Đông Địa Trung Hải và đặt kinh đô tại Constantinople, phía Bắc nước Hy Lạp, Gia Tô giáo cũng đă chia làm hai phái, Tây phái, Giáo chủ ở tại La Mă và Đông phái, Giáo chủ ở tại Constantinople, chống báng nhau v́ nhiều điểm về hành giáo và nghi lễ. Nước Nga, v́ liên lạc với Constantinople nên ngả theo Gia Tô Đông phái, trong khi các nước Âu châu đều được Tây phái La Mă truyền giáo. Sự kiện này vừa là cái mầm chia rẽ giữa nước Nga và các nước Âu châu, lại vừa là một di sản tinh thần chung cho hai bên. V́ vậy mà trong lịch sử bang giao giữa Nga và Âu châu, tùy theo hoàn cảnh, có lúc th́ sự kiện trên có hiệu lực như là một cái mầm chia rẽ, có lúc lại có hiệu lực là một di sản tinh thần chung.

    Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIII, tính cách di sản tinh thần chung lấn thế, nên sự mậu dịch rất thịnh hành giữa hai bên. Và nhiều cuộc hôn nhân chính trị, một yếu tố vô cùng quan trọng trong thời quân chủ, đă xảy ra giữa gịng vua Nga và các gịng vua Anh Pháp. Nếu t́nh trạng này kéo dài th́, mặc dầu những điểm dị đồng giữa hai phái Gia Tô, di sản tinh thần chung có lẽ đă thắt chặt các nước Âu châu và nước Nga lại làm thành một khối, và lịch sử đă có nhiều sự thay đổi lớn lao.

    Nhưng sau đó, vào thế kỷ thứ XIII, các bộ lạc Mông Cổ, dưới sự lănh đạo của Thành Cát Tư Hăn và các vị vua kế tiếp đă đưa quân đánh chiếm gần hết Châu Á và một phần lớn Âu châu, lập thành một đế quốc gồm các nước Đông Âu ngày nay (Ba Lan, Hung Gia Lợi, Ru-ma-ni, Bulgarie) cả nước Nga, hết trung bộ Châu Á, nội Mông Cổ, Tây Tạng và hết nước Tàu. Sự đế quốc Mông Cổ thống trị nước Nga trên 150 năm, ngày nay, vẫn c̣n lưu lại nhiều di tích vật chất và nhất là một sự kiện mà hậu quả lịch sử vô cùng lớn lao trong nhiều thế kỷ: sự thống trị của Mông Cổ đă cắt đứt hết các dây liên lạc nối liền nước Nga với khối văn minh Tây phương đang phát triển.

    Trong khi nước Nga bị xâm chiếm, và, nhờ vị trí tiền đồn của nước Nga mà các nước khác ở Tây Âu đă thoát sự đô hộ của Mông Cổ, th́ các nước này, chẳng những không có lúc nào t́m cách cứu viện một đồng minh cùng chung một di sản tinh thần, ngược lại, đă lợi dụng hoàn cảnh suy vong của Nga, để cắt xén và chiếm nhiều phần đất thuộc lănh thổ Nga.

    Trong những lúc đó, chính là tính cách mầm chia rẽ đă thắng tính cách di sản tinh thần chung của sự kiện mà chúng ta vừa nêu lên ở trên. Và sau khi đế quốc Mông Cổ tan ră, nước Nga thâu hồi độc lập, th́ từ đó sự bang giao giữa Nga và các nước Tây Âu lúc nào cũng mang dấu vết cay đắng của thời kỳ vừa qua. Do đó, lịch sử của cuộc bang giao giữa hai bên chỉ là một cuộc chiến đấu không ngừng, kéo dài cho tới ngày nay, lúc th́ Tây Âu chiến thắng, lúc th́ Nga chiến thắng, và chúng ta đang sống vào một thời kỳ mà Nga đang chiến thắng Tây Âu.

    Luôn luôn, Tây Âu nắm phần thắng những lúc nào mà kỹ thuật của họ tiến bộ hơn của Nga. Nhưng yếu tố dân đông và đất rộng của Nga, lần nào, cũng cứu Nga thoát khỏi một sự chiến bại hoàn toàn. Sau đó, các nhà lănh đạo Nga lại t́m cách thâu thập các kỹ thuật mới và khi hai bên đă ngang nhau trên phương diện kỹ thuật th́ yếu tố dân đông lại đưa phần thắng cho Nga. Thời gian qua, kỹ thuật của Tây phương lại tiến bộ hơn trước và đồng thời mang thắng lợi về cho Tây phương. Tấn tuồng lại cứ như thế mà tiếp tục diễn tiến, qua nhiều thế kỷ, lúc bên này được bên kia thua, và lúc bên kia được bên này thua.

    Thâu thập kỹ thuật.

    Lúc đầu sự thâu nhập kỹ thuật Tây phương không khó khăn, bởi v́ sự cách biệt giữa hai nền kỹ thuật chỉ nằm trong một vài phát minh được xem như là những bí mật quan trọng.

    Kỹ thuật chưa tiến bộ nhiều, phương pháp nghiên cứu chưa có qui củ, các phát minh c̣n thô sơ và rời rạc, thỉnh thoảng t́nh cờ mới t́m được một phát minh mới. Và quốc gia nào nắm được một phát minh mới, tuy thô sơ nhưng hiếm có đó, th́ đă nắm được trong tay một sức mạnh vô địch làm nghiêng hẳn cán cân lực lượng về phía ḿnh.

    Ở Trung Hoa, thời đại nhà Đường, vào thế kỷ thứ VII, sự t́nh cờ đă đưa đến cho Đường Thế Dân một phát minh, ngày nay chúng ta xem là thông thường, nhưng đă làm đảo lộn thế giới lúc bấy giờ: yên ngựa có chân đứng. Trước đó, người cưỡi ngựa chỉ ngồi trên ngựa, hai chân buông lỏng, v́ vậy mà thăng bằng không vững và kỵ binh chỉ là một phương tiện vận tải. Với phát minh mới, người ngồi trên lưng ngựa vững như dính liền với thú và kỵ binh trở thành một khí giới tấn công vô cùng sắc bén và dũng mănh. Chỉ nhờ có hai sợi dây da thô sơ buộc vào yên ngựa, nhưng lại có một tầm quan trọng rộng lớn không ngờ, mà nhà Đường, đă chuyển thế lâm nguy của Trung Hoa lúc bấy giờ, đang sống dưới sự đe dọa xâm lăng thường xuyên của các dân tộc du mục Trung Á, thành một thế chiến thắng. Và nhà Đường chẳng những đă đánh bại các dân tộc xâm lăng, giữ vững độc lập cho Trung Hoa, lại c̣n chinh phục ngược lại các lănh thổ của họ, lập thành một đế quốc hùng cường mà nền văn minh đă chói sáng khắp thế giới lúc bấy giờ trong hơn ba thế kỷ. Tất cả những thành tựu đó chỉ nhờ cặp chân đứng yên ngựa.

    Hơn thế nữa, cặp chân đứng yên ngựa, sau khi đă chấn hưng Trung Hoa đến cực độ, lại c̣n mănh lực xoay chiều luồng sóng chinh phục, lúc đó đang chảy từ Tây sang Đông, thành một luồng sóng chinh phục từ Đông sang Tây. Các dân tộc du mục Trung Á sau khi bị Trưng Hoa chinh phục và đồng thời thâu thập được phát minh mới, nguyên nhân chính yếu của sức mạnh của nhà Đường, đă quay lại chinh phục các dân tộc láng giềng ở phía Tây và lân hồi làn sóng chinh phục lại chuyển từ Đông sang Tây. Phát minh chân đứng yên ngựa cũng theo làn sóng đó mà đi từ Đông sang Tây.

    Cuối thế kỷ VII cặp chân đứng yên ngựa đă nhập vào xă hội Hồi Giáo, và nhờ nó mà xă hội này đă chinh phục gần hết các phần đất bao quanh Địa Trung Hải.

    Ví dụ trên kia cho ta thấy vai tṛ vô cùng quan trọng của kỹ thuật trong đời sống của các dân tộc. Lịch sử, trong thời kỳ khoa học chưa phôi thai, c̣n nhiều trường hợp như vậy: làm chủ được một phát minh kỹ thuật mới có nghĩa là làm bá chủ một vùng.

    Nhưng, cũng chính kư ức những trường hợp như vậy đă làm cho những nhà lănh đạo các quốc gia ngoài xă hội Tây phương, sau này, như chúng ta đă thấy, lầm tưởng rằng, chỉ thâu nhận được kỹ thuật mới của Tây phương là đủ bảo vệ nền văn minh cũ. Họ lầm bởi v́, sau khi khoa học đă phát triển sự nghiên cứu đă có qui củ, sự t́m ṭi đă có phương pháp, các phát minh không c̣n rời rạc nữa và trở thành một toàn bộ di sản của một nền văn minh. Cho nên, như chúng ta đă biết, nếu chúng ta thâu thập một kỹ thuật Tây phương th́ chúng ta phải thâu thập hết toàn bộ kỹ thuật Tây phương.

    Trở lại vấn đề cuộc chiến đấu giữa Nga Sô và các cường quốc Tây phương, chúng ta hiểu rơ v́ sao, lúc đầu, sự thâu thập kỹ thuật Tây phương không khó đối với Nga. Nhưng về sau, từ lúc khoa học đă bắt đầu phôi thai, các phát minh kỹ thuật càng phức tạp hơn, và sự thâu thập càng khó khăn hơn.

    Chúng ta thấy rơ sự tiến triển của cường độ khó khăn, khi chúng ta ư thức rằng lúc đầu sự thâu thập một kỹ thuật mới có thể thực hiện được một cách âm thầm, sau các chiến trận hoặc trong những cuộc trao đổi thương măi. Nhưng về sau, có lúc chính đại đế Pierre nước Nga đă phải đích thân hai lần cải trang sang viếng các nước Âu Châu cùng với một đội binh chuyên viên để thâu thập kỹ thuật Tây phương. Và sau đó đă bắt đầu kêu gọi đến kỹ thuật gia Tây phương bằng những lợi lộc hấp dẫn.

    Thâu thập khá năng sáng tạo kỹ thuật.

    Sự thâu thập càng ngày càng khó khăn này là một lư do khả dĩ giải thích một phần v́ sao mà trong cuộc chiến đấu với Tây phương, Nga nhiều lần bị kỹ thuật của Tây phương lấn áp. Lư do thứ hai dưới đây, có tính cách trừu tượng hơn nhưng lại minh biện hơn.

    Trong việc thâu thập kỹ thuật, Nga vẫn theo các nếp cũ, cho nên vẫn t́m cách thâu thập các kỹ thuật, chớ không bao giờ t́m cách thâu thập khả năng của lư trí, khả dĩ sáng tạo được kỹ thuật. Do đó, một khi Nga vừa chế ngự được một 'mớ kỹ thuật, th́ óc sáng tạo của Tây phương đă đẻ ra những kỹ thuật mới, tinh xảo hơn. Thành ra lối thâu thập cũ nếu có thể áp dụng ở thời kỳ tiền khoa học, th́ vào thời kỳ khoa học chỉ vừa đủ để cho những người áp dụng chạy theo đuôi Tây phương.

    Nguyên do ở chỗ trước kia các phát minh kỹ thuật là một sự t́nh cờ, thỉnh thoảng mới nẩy ra lúc th́ nơi này lúc th́ nơi khác. Nhưng từ ngày xă hội Tây phương đă chế ngự được khoa học, phương pháp hóa sự nghiên cứu, qui củ hóa sự t́m ṭi th́ các cuộc phát minh trở thành liên tục và biến thành một thế độc quyền của những ai chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học. V́ vậy mà vấn đề thâu thập kỹ thuật trước kia đơn sơ và ở vào tŕnh độ bắt chước, sau khi khoa học đă phát triển, phải được đưa lên đến tŕnh độ chế ngự khả năng sáng tạo khoa học. Phải như vậy, nếu những người thâu thập kỹ thuật Tây phương không muốn lúc nào cũng chỉ chạy theo đuôi Tây phương và lúc nào cũng bị kỹ thuật Tây phương chi phối.

    Nghĩa là công cuộc Tây phương hóa chỉ hữu hiệu khi nào được thực hiện đúng đến mức độ đủ cao.

    Đó là bài học mà nước Nga, sau nhiều thế kỷ kinh nghiệm và bằng một giá rất đắt, đă thâu thập được. Và đó là một bài học vô giá cho các nước ở trong t́nh trạng phải Tây phương hóa để bảo vệ sự sinh tồn của ḿnh.

    Chính nước Nga đă áp dụng ngay bài học đó trong cuộc cách mạng 1917. Và chung qui cuộc cách mạng 1917 của Nga chỉ là một cuộc Tây phương hóa toàn diện và tự đặt cho mục đích phải đến mức độ đủ cao. Nghĩa là phải làm thế nào khắc phục được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Cuộc Tây phương hóa ở Nga đă toàn diện, nhưng cuộc Tây phương hóa của Nga đă đến mức độ đủ cao chưa?

    Thời gian c̣n sớm quá nên chúng ta chưa có thể trả lời quả quyết được Tuy nhiên, sự sáng tạo các hỏa tiễn liên lục địa, các vệ tinh và hành tinh nhân tạo, các phi thuyền không gian, và nhiều phát minh khác trong mọi lĩnh vực, tuy không kích thích dư luận đại chúng, nhưng vẫn không kém phần quan trọng trên địa hạt khoa học, vượt hẳn khả năng sáng tạo của nhiều quốc gia Tây phương, là những triệu chứng cho chúng ta đoán rằng Nga đă thành công. Tuy nhiên, hăy c̣n sớm quá để chúng ta trả lời một cách dứt khoát. Ví dụ dưới đây lại thêm phần rơ rệt về tính cách tối quan trọng của mức độ đủ cao của công cuộc Tây phương hóa.

    Trường hợp của Nhật


    Cái hay phi thường của các nhà lănh đạo Nhật thời Minh Trị lúc bị Tây phương tấn công, là, mặc dầu không có cái kinh nghiệm chiến đấu trong mấy thế kỷ chống Tây phương như Nga, lại nh́n thấy ngay sự cần thiết của một công cuộc Tây phương hóa toàn diện. Nhưng có lẽ quan niệm về cao độ của công cuộc Tây phương hóa không được rơ rệt lắm cho nên đến ngày nay, mặc dầu công cuộc Tây phương hóa của Nhật đă thành tựu một cách không ai phủ nhận được, sự chế ngự khả năng sáng tạo khoa học của Nhật chưa có dịp xuất lộ một cách rơ rệt như của Nga. Trái lại một vài trường hợp lịch sử chứng minh rằng người Nhật trong công cuộc Tây phương hóa toàn diện, chưa đạt đến mức độ đủ cao.

    Lúc khởi đầu cuộc chiến tranh Thái B́nh Dương giữa Nhật và Mỹ, các phi công Mỹ đều khiếp sợ thành tích, tốc độ tầm hoạt động, sự dễ lái, hỏa lực và sức chịu đựng của loại phi cơ khu trục của Nhật gọi là Zéro. Và các cường quốc đều xem khu trục cơ của Nhật là một thực hiện bậc nhất trong thế giới của khoa học hàng không Nhật. Nhưng sau hai năm chiến tranh, trọng khi Mỹ lần lần cho xuất hiện những loại phi cơ vượt hẳn loại phi cơ Zéro về mọi mặt; th́ Tổng Tham Mưu Nhật và kỹ thuật hành không Nhật vẫn không sáng chế được một loại phi cơ nào hơn loại Zéro được. Do đó sự làm chủ không phận lọt vào tay Mỹ và chiến thắng cuối cùng về Mỹ như chúng ta đều biết.

    Có thể nhiều yếu tố đă ảnh hưởng cùng một lúc để đưa đến sự kiện trên. Nhưng một điều chắc chắn là trong số các yếu tố đó, có sự kiện là cuộc Tây phương hóa của Nhật, mặc dù đă kết quả rất tốt đẹp, vẫn chưa đi đến chỗ chế ngự một cách đầy đủ khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương.

    Trong thời b́nh, mặc dầu những bí mật của quốc pḥng vẫn được mỗi quốc gia giữ ǵn kỹ lưỡng, các tin tức khoa học vẫn được trao đổi giữa các cường quốc tiến bộ, hoặc bằng lối trao đổi văn hóa thông thường, hoặc bằng lối t́nh báo bí mật.

    Do đó, sự chênh lệch giữa các nước về kỹ thuật không đến đỗi to tát lắm. Nhưng trong thời kỹ chiến tranh, cố nhiên là những luồng giao hoán đều gián đoạn và mỗi nước phải sống với cái vốn sáng tạo riêng của ḿnh. Lúc bấy giờ, nếu tŕnh độ chế ngự khả năng sáng tạo khoa học của nước ḿnh chưa đủ cao th́ kỹ thuật sẽ sút kém và ảnh hưởng nặng nề đến chiến cuộc.

    Trường hợp trên đây của Nhật xác nhận hai điểm:

    Tây phương hóa đến mức độ đủ cao.

    1 -Tính cách thiết yếu của sự đạt đến mức độ đủ cao của công cuộc Tây phương hóa.

    2. Đạt đến mức độ đủ cao của công cuộc Tây phương hóa là một điều vô cùng khó khăn.

    Nếu chúng ta không đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc Tây phương hóa th́ chính là mục đích của công cuộc Tây phương hóa chúng ta không đạt được. Nghĩa là những kết quả của một công cuộc Tây phương hóa không đủ cao, sẽ không giúp cho chúng ta bảo vệ được sự tồn tại của dân tộc, lư do chính, v́ đó mà chúng ta nhận định rằng công cuộc Tây phương hóa là cần thiết.

    Nước Nhật, trong công cuộc Tây phương hóa của họ, đă đạt được nhiều kết quả mà, chẳng những chúng ta và các nước cùng đang theo đuổi công cuộc Tây phương hóa, đều thán phục, mà đến các nước Âu Mỹ cũng ngợi khen. Thế mà, trong giờ phút quyết liệt của cuộc chiến đấu quyết định sự thắng bại của dân tộc, th́ kỹ thuật của họ vẫn chưa sánh kịp với kỹ thuật Tây phương. Xem thế đủ biết rằng, việc chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học không phải là việc dễ làm. Nếu chúng ta đă quan niệm rằng sự đạt đến mức độ đó là thiết yếu, th́ việc đạt được vẫn c̣n là một việc vô cùng khó khăn. Nay nếu chúng ta không đặt vấn đề ấy là cần thiết, th́ chắc chắn là không bao giờ chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Và như thế là chúng ta đă đầu hàng trước khi ra trận.

    Tất cả các điều tŕnh bày trên kia lại càng xác nhận quan điểm cho rằng, công cuộc Tây phương hóa toàn diện và việc đạt được đến mức độ đủ cao là thiết yếu cho sự sống c̣n của dân tộc chúng ta. Và bởi v́ một công cuộc Tây phương hóa như vậy sẽ vô cùng khó khăn và đ̣i hỏi ở toàn dân những nỗ lực lớn lao và những hy sinh nặng nề, th́ nếu không phải chính chúng ta chủ trương và lănh đạo lấy, th́ chắc chắn rằng không làm thế nào chúng ta có thể thực hiện được công cuộc Tây phương hóa của chúng ta.

    Độc lập để Tây phương hóa.

    Sau khi đă phân tích như vậy rồi, chúng ta mới nhận thấy rằng chủ trương của một số nhà cách mạng trước đây, đề nghị nên hợp tác với Pháp để duy tân Việt Nam, là một chủ trương sai lầm. Sai lầm v́ những người ấy đă không phân tích vấn đề thấu đến tâm, nên tưởng rằng người ngoại quốc có thể trách nhiệm một công cuộc Tây phương hóa như chúng ta đă tŕnh bày ở trên. Thật sự, trong thời kỳ người Pháp ở đây, chúng ta đă có một cuộc Tây phương hóa.

    Nhưng chính v́ sự thống trị của người Pháp ở đây, nên cuộc Tây phương hóa đó không làm sao được hướng dẫn theo một chiều hướng có ích lợi cho đần tộc. V́ vậy cho nên, đă mang đến những hậu quả vô cùng tai hại, mà chúng ta đều biết.

    Như thế, điều kiện tiên quyết và thiết yếu để thực hiện cho được công cuộc Tây phương hóa là phải độc lập. Có độc lập chúng ta mới chủ động được vận mạng của chúng ta và lănh đạo được công cuộc Tây phương hóa, mà sự thành hay bại quyết định tương lai của chúng ta trong mấy thế kỷ sắp tới đây.

    Theo đó th́, những nhà cách mạng đă chủ trương hợp tác với Pháp đă đi sai đường lối. Chủ trương của họ chỉ có thể dung nạp với tác dụng của một chiến thuật giai đoạn, để có thể đỡ khổ cho dân chúng. Chính chủ trương của những nhà cách mạng chống Pháp một cách cực đoan là một chủ trương đúng. V́ vậy mà như chúng ta đă biết, và như chúng ta sẽ phân tích chi tiết hơn sau này, các nhà lănh đạo Việt Nam theo đường lối Cộng Sản, đă hành động đúng hoàn cảnh khi họ tự qui tụ dưới lá cờ Cộng Sản của Nga Sô trong giai đoạn chiến đấu giành độc lập. Nhưng độc lập không phải là mục đích, mà chỉ là một điều kiện khẩn thiết, như chúng ta vừa thấy trên đây, để có thể thực hiện được cuộc phát triển dân tộc Và khi bước sang giai đoạn phát triển dân tộc, sự tự qui tụ dưới lá cờ Cộng Sản c̣n có phải là một hành động lợi ích cho dân tộc không? Sau này chúng ta sẽ trả lời với chi tiết câu hỏi đă nêu lên. Bây giờ ta chỉ nên biết rằng mặc dầu sự tự qui tụ dưới lá cờ Cộng Sản, đă đưa đến nhiều kết quả trong công cuộc chiến đấu giành độc lập. Nhưng không phải v́ những thành tích ấy mà có thể quả quyết rằng nếu muốn đạt đến những thành tích khả quan tương tự trong giai đoạn phát triển, chúng ta lại cần phải qui tụ dưới lá cờ Cộng. Sản, như nhiều người đă nghĩ. Hoàn cảnh đă thay đổi và vấn đề đă thay đổi, th́ giải pháp không thể giữ như cũ được.

    Tây phương hóa và bản chất dân tộc.

    Trong phạm vi vấn đề Tây phương hóa, chúng ta c̣n phải trả lời một câu hỏi. Nếu chúng ta phải thực hiện cuộc Tây phương hóa toàn diện và đến mức độ đủ cao như trên đă nói th́ liệu bản chất của dân tộc chúng ta có c̣n tồn tại nữa không? Và, nếu sau cuộc Tây phương hóa mà bản chất của dân tộc đă mất, th́ công cuộc Tây phưỡn hóa có c̣n đáng để chúng ta theo đuổi để thực hiện với tất cả sự gian lao và hy sinh của toàn dân chăng? Và đă hư vậy th́ chúng ta thực hiện công cuộc Tây phương hóa để bảo vệ cái ǵ?

    Trước hết chúng ta nên nhận xét các sự kiện đă xảy ra nếu chúng ta không tự ư Tây phương hóa. Như chúng ta đă thấy, nếu chúng ta không tự ư Tây phương hóa, th́ trước hết chúng ta sẽ mất độc lập và sẽ mất chủ quyền định đoạt vận mạng của dân tộc chúng ta. Sau đó, cuộc Tây phương hóa vẫn sẽ thực hiện đối với chúng ta, nhưng không phải chúng ta lănh đạo và hường dẫn. Một cuộc Tây phương hóa không được hướng dẫn sẽ mang đến sự tan ră của xă hội chúng ta.

    Và nếu thật sự một cuộc Tây phương hóa tự ư và có lănh đạo không làm tan ră xă hội, lại có thê làm mất bản chất của dân tộc, th́ chúng ta có thề quả quyết rằng một cuộc Tây phương hóa bắt buộc và không hương dẫn, làm tan ră xă hội, chắc chắn sẽ làm mất mười lần hơn bản chất dân tộc của chúng ta.

    Như vậy giữa hai thái độ tự ư Tây phương hóa và bắt buộc Tây phương hóa, không c̣n có thể do dự nữa. Làm thế nào cũng phải lựa thái độ tự ư Tây phương hóa, dù mà, v́ cuộc Tây phương hóa đó mà bản tính dân tộc của chúng ta có bị mất. Nếu thật sự có mất, ít ra chúng ta cũng c̣n bảo vệ được độc lập chủ quyền, sự toàn vẹn của xă hội.

    Nhưng chúng ta sẽ chứng minh dưới đây rằng, không có ǵ có thể cho chúng ta quả quyết là công cuộc Tây phương hóa, như chúng ta chủ trương, sẽ đưa đến sự mất bản chất dân tộc.

    Trước hết chúng ta cần phải t́m hiểu một công cuộc Tây phương hóa toàn diện đ̣i hỏi ở chúng ta những thực hiện ǵ.

    Sau đó chúng ta cũng t́m hiểu một công cuộc Tây phương hóa đến mức độ đủ cao đ̣i hỏi ở chúng ta những thực hiện ǵ? Dựa trên đó chúng ta sẽ có đủ tài liệu để trả lời câu hỏi nêu lên ở đầu chương này.


    Còn tiếp

  2. #12
    Member
    Join Date
    24-03-2011
    Location
    New England
    Posts
    710
    Quote Originally Posted by chatnchit View Post
    Cuốn sách này rất hay. Không biết dịch giả sau này có thêm vào không, chứ theo cuốn sách th́ bọn CS ḷi mặt chuột ra cách đây 50 năm rồi.
    Tổng hợp rất nhiều kiến thức, thông tin vào những năm đó chứng tỏ ông Quản thư này mọt sách rất nhiều.

    Cuốn sách này nên được đưa vào giảng dạy trong chương tŕnh Đại học, đúng như tiêu đề của nó để trang bị cho SV cái nh́n cũng như tinh thần yêu nước. (Ít ra cũng thay được cái môn "Lịch sử Đảng" quái dị kia).

    Chúng ta cần copy nhiều bản vào nhiều forum để mọi người có thể đọc.
    Theo tiểu sử th́ ông Nhu học bên Pháp lấy bằng cử nhân về Văn Chương, thư viện và Palaeography tại trường:
    http://en.wikipedia.org/wiki/%C3%89c...le_des_Chartes
    Palaeography là cổ thư th́ phải . Có lẻ v́ cái nghiệp được đào tạo như thế nên ông ta nghiền đọc sách kim cổ là đúng rồi .

  3. #13
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo


    Cơ thức Tây phương hóa


    Như đă tŕnh bày trên đây,. nguồn gốc của một cuộc Tây phương hóa tự ư, trước tiên hết, là ư chí muốn thâu thập kỹ thuật tổ chức quân đội và kỹ thuật vơ trang quân đội.

    Thường thường th́ các nhà lănh đạo, chủ trương thâu thập các kỹ thuật trên, đều có ư định muốn ngừng lại sau giai đoạn đó. Nhưng mà như thế là phủ nhận một định luật xă hội không làm sao tránh được: khi hai nền văn minh gặp nhau, liền tháo chốt cho một gịng sự kiện tuần tự diễn tiến theo một cơ thức nhất định. Và với tất cả nỗ lực và phương tiện có thể vận dụng được, th́ ngay ở giai đoạn này, các nhà lănh đạo, đă bắt đầu công cuộc Tây phương hóa cũng không c̣n có thể ngưng lại được nữa. Công cuộc Tây phương hóa sẽ thực hiện với họ hay là không có họ. Theo một cơ thức nhất định, sau lĩnh vực quân sự, làn sóng Tây phương hóa sẽ làm tràn đến lĩnh vực cơ cấu chính trị. ít khi mà lĩnh vực cơ cấu chính trị được Tây phương hóa một cách êm ái, trừ ra khi nào chính các nhà lănh đạo đă ư thức được rơ rệt vấn đề tự ư Tây phương hóa, như ở nước Nhật. Thường thường th́ sau nhiều cuộc chánh biến, các cơ cấu chính trị của chế độ cũ, nhường chỗ cho những cơ cấu chính trị theo kiểu Tây phương. Ví dụ chế độ quân chủ chuyên chế nhường chỗ cho một chế độ quân chủ lập hiến theo kiểu Anh hay một chế độ cộng ḥa theo kiểu Pháp, hoặc một chế độ Tổng Thống chế theo kiểu Mỹ. Bới v́ lĩnh vực chính trị là một lĩnh vực chi phối tất cả đời sống của quốc gia, cho nên sức kháng cự lại làn sóng Tây phương hóa thường mạnh nhất ở lĩnh vực này, và công cuộc Tây phương hóa cũng đẫm máu nhiều nhất ở lĩnh vực này.

    Nhưng sau đó, từ lĩnh vực cơ cấu chính trị sang lĩnh vực giáo dục và sản xuất kinh tế th́ công việc lại trở nên dễ dàng và như không c̣n gặp trở lực nữa. Bắt đầu từ đây, công cuộc Tây phương hóa lại bước sang một giai đoạn mới. Từ trước chủ trương Tây phương hóa chưa hoàn toàn thắng lợi và phải nhiều cam go lắm mới lọt vào được nội thành của xă hội bị tấn công. Nhưng từ đây, chủ trương đă chiếm được thành rồi, sang giai đoạn mới, công cuộc Tây phương hóa toàn diện sẽ không gặp những trở lực do chủ trương thủ cựu dựng lên nữa. Sự thành tựu hay không của công cuộc Tây phương hóa, từ lúc này, chỉ c̣n tùy thuộc ở quan niệm một công cuộc Tây phương hóa đến mức hay không đến mức của người lănh đạo.

    Tây phương hóa sâu và rộng, hay là thất bại và sụp đổ.

    Giai đoạn mới này lại c̣n có một đặc điểm khác. Từ trước tới đây chủ trương Tây phương hóa chỉ liên quan đến số người lănh đạo. Chủ trương Tây phương hóa cũng họ mà chống đối cũng họ. Nhưng từ đây trở đi, vân đề Tây phương hóa, đă ngă ngũ ở trong giới của họ, mới bắt đầu lan ra đại chúng. Và cuối cùng th́ sự thành công hay thất bại của công cuộc Tây phương hóa lại ở chỗ sự Tây phương hóa có thật sự lan rộng và ăn sâu đến đại chúng không? Nếu sự Tây phương hóa có lan rộng và ăn sâu đến đại chúng th́, trong một thời giai ngắn hay dài, tùy theo những biện pháp áp dụng để thực hiện công cuộc Tây phương hóa, sự Tây phương hóa sẽ ăn rễ ở quần chúng. Và ngược lại những sinh lực phát sinh từ quần chúng đă bắt đầu Tây phương hóa, lại hợp thành một hậu thuẫn vừa củng cố vừa thúc đẩy công cuộc Tây phương hóa.

    Trái lại, nếu sự Tây phương hóa không lan rộng và ăn sâu đến đại chúng th́, trong một thời gian ngắn, quần chúng sẽ ly khai với nhóm người lănh đạo, và xă hội sẽ rơi vào một t́nh trạng phân ly rất là nguy hiểm cho sự tiến bộ của cộng đồng. Một bên, một thiểu số Tây phương hoá, một bên, khối đại đa số vẫn sống theo các giá trị tiêu chuẩn cũ. Sự cách biệt sẽ rất trầm trọng giữa hai bên, và công việc lănh đạo không thể thi hành được, giữa hai khối người không sử dụng cùng một lối suy tưởng và không cùng tôn trọng những giá trị tiêu chuẩn chung. Trong trường hợp đó, sự nắm chính quyền của nhóm người, đă ly khai với đại chúng, là một hiện trạng bất thường chỉ duy tŕ được bằng những biện pháp cảnh sát cứng rắn. T́nh thế đă chín mùi cho một cuộc cách mạng. Cách mạng sẽ bùng nổ, khi nào khối quần chúng được một lănh tụ qui tụ bằng uy tín cá nhân, hay được một đảng phái qui tụ bằng một đường lối, hay nữa, khi nào có một cuộc ngoại xâm. Xem thế chúng ta nhận thấy rơ tất cả các nguy hại nếu công cuộc Tây phương hóa thất bại trong giai đoạn này và đồng thời cũng ư thức tính cách thiết yếu của một sự thành công.

    Tây phương hóa nửa chừng.

    Bây giờ chúng ta trở lại các giai đoạn tiến triển của công cuộc Tây phương hóa. Những công cuộc Tây phương hóa, phân nửa thất bại, của các quốc gia ở Cận Đông giúp cho chúng ta một bản kê khai, khá đầy đủ, về sự tiến triển của công cuộc Tây phương hóa trong từng giai đoạn. Nhờ đó chúng ta được biết chắc chắn các sự kiện dưới đây.

    Từ lúc chủ trương Tây phương hóa đă lọt vào thành nội cơ cấu chính trị của một quốc gia rồi, th́ từ đó sự lan tràn sang lĩnh vực giáo dục và kinh tế không gặp khó khăn nữa.

    Từ hai lĩnh vực này, công cuộc Tây phương hóa mới bắt đầu ăn sâu và lan rộng vào đại chúng. Ở nhiều quốc gia Cận Đông ư chí Tây phương hóa đến mức này là măn hạn, v́ sự kém khả năng huy động quần chúng của chính quyền Trung ương.

    Trong trường hợp đó, công cuộc Tây phương hóa sẽ bắt đầu thất bại và sẽ mang đến những hậu quả không tốt, như chúng ta đă thấy trên kia. Cũng nhờ ở những sự thất bại, nhận thấy ở trên, mà chúng ta được biết rằng trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia, th́ lĩnh vực đời sống thông thường, mà ngày nay chúng ta quen gọi là lĩnh vực xă hội và lĩnh vực văn hóa, là hai lĩnh vực có sức kháng cự nhiều nhất đối với sự Tây phương hóa, sau lĩnh vực tín ngưỡng mà chúng ta sẽ bàn đến, một cách riêng biệt, sau này.

    Sở dĩ như vậy, là v́ hai lư do. Trước hết sự Tây phương hóa càng đi sâu vào những lĩnh vực liên quan đến số đông người, sức kháng cự càng mạnh, bắt nguồn ở sức thụ động của quần chúng. Lư do thứ hai là, sức kháng cự càng mạnh khi đụng đến các lĩnh vực liên quan đến những di sản tinh thần của dân tộc. Nếu hai lư do trên lại có cơ hội gặp nhau ở một lĩnh vực th́ sức kháng cự lại c̣n mănh liệt hơn nữa: Ví dụ như lĩnh vực tín ngưỡng và tôn giáo.

    Cho đến ngày nay, chưa có một cuộc Tây phương hóa nào, kể cả hai cuộc Tây phương hóa thành công nhất của Nga Sô và của Nhật, đă vượt qua được lĩnh vực tôn giáo. Sự kiện này giải thích v́ sao mà thế giới hiện nay, mặc dầu ở dưới sự chi phối hoàn toàn của kỹ thuật Tây phương, vẫn chia ra làm nhiều khu vực văn hóa và tôn giáo rơ rệt.

    Một ví dụ lịch sử.

    Nếu có người nghĩ rằng, có lẽ thời gian chưa đủ dài, để cho các công cuộc Tây phương hóa nói trên, hoàn toàn xâm nhập vào các lĩnh vực tôn giáo, th́ chúng ta có thể lấy trường hợp của đế quốc Hy Lạp La Mă khi xưa đối với các quốc gia ở trong khu vực ảnh hưởng của ḿnh, để thêm một bằng cớ rằng công cuộc Tây phương hóa ngày nay không vượt qua được lĩnh vực tôn giáo.

    Xưa kia, các nước nằm trong đế quốc La Mă, hoàn toàn La Mă hóa trên mọi lĩnh vực, trừ ra lĩnh vực tôn giáo, mặc dù sự thống trị của đế quốc La Mă đă kéo dài gần một ngàn năm. Hơn thế nữa, sau đó, chính một tôn giáo Đông phương, Gia Tô giáo, đă thống trị ngược lại hết đế quốc La Mă Hy Lạp lúc bấy giờ. Nhưng đó là một vấn đề thuộc về một địa hạt lớn lao mà chúng ta không thể đề cập ở đây được. Nay chỉ cần ghi nhớ thêm một điểm: Công cuộc Tây phương hóa không vượt qua được lĩnh vực tôn giáo. Sau này chúng ta sẽ trở lại vấn đề này.

    Trên lĩnh vực văn hóa, t́nh trạng có hơi khác. Văn hóa dân tộc bắt nguồn từ di sản tinh thần thừa hưởng của dĩ văng gồm, một mặt, các sáng tác văn hóa khẩu truyền hay thư loại, một mặt, đặc thức suy tưởng của dân tộc mà di sản đó đă hun đúc trong nhiều thế hệ. Nay, mở cửa tiếp văn minh Tây phương có nghĩa là thâu nhận thêm nhiều sáng tác văn hóa.

    Nhưng sự thâu nhận, dù có lên đến một mức độ quan trọng nào cũng không phủ nhận được di sản tinh thần của dĩ văng.

    Do đó, đặc thức suy tưởng cổ truyền của dân tộc, nếu có bị ảnh hưởng ít nhiều, vẫn giữ nguyên bản chất. Như vậy ta nên chia lĩnh vực văn hóa làm hai phần: phần thứ nhất là phần văn hóa hấp thụ, và phần thứ hai là phần văn hóa sáng tạo. Phần hấp thụ sẽ thu nhận văn hóa Tây phương và chịu Tây phương hóa. Nhưng phần sáng tạo chắc chắn sẽ giữ đặc tính của dân tộc v́ chịu ảnh hưởng đặc thức suy tưởng cổ truyền.

    Như vậy chúng ta có thể tin rằng công cuộc Tây phương hóa sẽ không làm mất tính chất dân tộc, nếu chúng ta, sau khi chế ngự được các kỹ thuật của Tây phương, lên đến mức độ sáng tạo với những phương tiện kỹ thuật đó. Những sự kiện dưới đây có thể xem như là những bằng cớ để xác nhận điều quả quyết trên đây.

    Các dân tộc ở Âu châu đều sống trong một nền văn minh kỹ thuật chung. Chẳng những tất cả các phương tiện kỹ thuật về sản xuất, về vận chuyển, về thông tin, vân vân..., đều như nhau, mà cho đến những chi tiết trong đời sống hằng ngày cũng giống nhau, mặc cùng một thứ quần áo, ăn cùng một thức ăn. Nhưng tất cả các sáng tác trong mỗi ngành của mỗi dân tộc đều khác. Ví dụ âm nhạc của một người Đức, không bao giờ giống âm nhạc của một người Anh. Nghĩa là, mặc dù sống trong một không khí văn minh kỹ thuật duy nhất, nhưng các di sản tinh thần của mỗi dân tộc vẫn cứ bộc lộ trong các sáng tạo của dân tộc đó.

    Sau hơn bốn mươi năm của một công cuộc Tây phương hóa triệt để, thâm nhập mọi lĩnh vực của đời sống, các sáng tạo văn hóa của Nga Sô vẫn mang đặc tính dân tộc người Nga.

    Sau hơn một trăm năm Tây phương hóa toàn diện, các sáng tạo văn hóa của Nhật vẫn mang đặc tính dân tộc Nhật.

    Có lẽ tới đây chúng ta không cần kéo dài cuộc biện luận nữa. Chúng ta có thể quả quyết rằng một công cuộc Tây phương hóa toàn diện không làm mất bản chất dân tộc, miễn là chúng ta phải vượt lên được đến mức sáng tạo. Dưới mức này, cố nhiên là dân tộc tính không bộc lộ được, và trong không khí ồ ạt của văn minh kỹ thuật Tây phương, dân tộc tính có vẻ như bị mất. Nay, nếu chúng ta phán đoán theo vẻ bên ngoài ấy th́ chúng ta sẽ rụt rè như các cụ, xưa kia, sợ mất quốc hồn quốc túy và công cuộc Tây phương hóa của chúng ta sẽ thất bại và mang đến tất cả các hậu quả tai hại, mà chúng ta biết.

    Ảnh hưởng tương phối giữa tôn giáo và sự kiện Tây phương hóa.


    Trước khi sang vấn đề Tây phương hóa đến mức độ đủ cao, chúng ta trở lại một chút về vấn đề tôn giáo và công cuộc Tây phương hóa. Công cuộc Tây phương hóa không vượt qua được lĩnh vực tôn giáo và tín ngưỡng. Vấn đề này đă được đề cập đến nhân khi bàn đến giới hạn ảnh hưởng của công cuộc Tây phương hóa. Tuy nhiên tự nó vấn đề tôn giáo không quan hệ đối với một công cuộc Tây phương hóa.

    Trước đây xă hội Tây phương xây dựng trên căn bản tinh thần của đạo giáo Gia Tô. Nhưng sau đó nhiều sự mâu thuẫn nội bộ về giáo lư đă làm nguồn gốc cho những cuộc chiến tranh tôn giáo tàn khốc làm suy giảm tín ngưỡng của đại chúng. Và kế đó, sau khi thoát khỏi sự g̣ bó tư tưởng của giáo hội La Mă, khoa học Tây phương mới phát triển được đến mức độ ngày nay và trang bị xă hội Tây phương với những phát minh hùng mạnh. Sự giảm tin tưởng vào một tôn giáo, đă có một thời chủ trương những tư tưởng chật hẹp về vũ trụ, đă làm lung lay đến tận nền tảng cơ sở tôn giáo của xă hội Tây phương. Nhưng vừa đúng lúc khi văn minh Tây phương chứng kiến sự suy giảm của đức tin vào sức mạnh tín ngưỡng mà Gia Tô giáo đă hun đúc trong nhiều thế kỷ, th́ văn minh Tây phương lại được khoa học tạo cho ḿnh một đức tin vào sức mạnh kỹ thuật, mà tính cách hữu hiệu trong công cuộc chinh phục thế giới c̣n hơn bội phần sức mạnh tín ngưỡng đă mất.

    Gần đây, sau khi khoa học đă tỏ ra không đủ khả năng để giải quyết một ḿnh các vấn đề căn bản của nhân loại, th́ tinh thần tôn giáo lại phục hưng. Nhưng cho đến ngày nay, sự phục hưng tinh thần tôn giáo trong xă hội Tây phương chưa lên đến một mức độ đủ cao để cho sự thâu thập văn minh Tây phương, mặc nhiên, bắt buộc sự thâu thập tôn giáo Tây phương.

    Do đó, trong thời kỳ hiện nay, có thể gọi là thời kỳ hậu tôn giáo của văn minh Tây phương, vấn đề tôn giáo không quan trọng đối với công cuộc Tây phương hóa. Nhưng vấn đề tôn giáo lại có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng cho công cuộc phát triển dân tộc như chúng ta sẽ thấy sau này.

    Công cuộc Tây phương hóa đến mức độ đủ cao.

    Mấy trăm năm kinh nghiệm của Nga và gần một thế kỷ kinh nghiệm của Nhật chỉ cho chúng ta thấy hai điều:

    Trước hết là, một khi, để chống lại với sự tấn công của văn minh Tây phương, chúng ta đă lao ḿnh vào công cuộc Tây phương hóa, và, nếu công cuộc Tây phương hóa của chúng ta không đạt đến một mức độ đủ cao th́, sự đe dọa nói trên vẫn c̣n măi, và mục đích của cuộc Tây phương hóa sẽ không đạt được. Bởi v́, như chúng ta đă thấy trong trường hợp của hai nước kể trên đây, và nhất là trong thời kỳ đầu của trường hợp Nga, nếu chúng ta không Tây phương hóa đến mức độ đủ cao th́ lúc nào chúng ta cũng chạy theo đuôi kỹ thuật Tây phương và do đó sự đe dọa không chấm dứt được.

    Điều thứ hai lại do điều thứ nhất mà ra.

    Muốn không chạy theo đuôi kỹ thuật Tây phương nữa th́ chúng ta phải chế ngự cho được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Lúc bấy giờ, như Nga Sô ngày nay, chúng ta sẽ có đủ khả năng để góp phần vào công cuộc sáng tạo kỹ thuật chung của nhân loại. Thực hiện được sự góp phần này đương nhiên chúng ta sẽ tự cung cấp hai thắng lợi: thứ nhất chúng ta sẽ trở thành ngang hàng với các nước trên thê giới trên phương diện đóng góp vào văn minh nhân loại, và thứ hai là sự ngang hàng đó, cũng như kỹ thuật đă tiến bộ của chúng ta, sẽ bảo đảm cho chúng ta thoát khỏi sự uy hiếp của các nước lớn, mối đe dọa truyền kiếp cho chúng ta đến ngày nay. Có một quan niệm sai lầm cho rằng công cuộc Tây phương hóa của một nước lên đến mức độ đủ cao khi nào nước đó có thể tự túc về các sản phẩm kỹ thuật và khoa học của Tây phương. Quan niệm đó sai lầm ở chỗ nó phản lại bản chất bao quát và nhân loại của khoa học. Và một khoa học cô lập là một khoa học không tiến bộ nữa. Nhưng vấn đề này lại thuộc một địa hạt rộng lớn khác.

    Trở lại vấn đề Tây phương hoá đến mức độ đủ cao, các đoạn trên này cho chúng ta thấy rằng Tây phương hóa đến mức độ đủ cao, có nghĩa là Tây phương hóa đến khi nào chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Cho đến khi nào chúng ta chưa ra khỏi giai đoạn hấp thụ khoa học và kỹ thuật Tây phương, th́ chúng ta vẫn chưa thoát lên đến mức độ đủ cao. Chỉ khi nào chúng ta sử dụng được, chẳng những là khoa học và kỹ thuật Tây phương, mà lại c̣n cả phương tiện sáng tạo khoa học và kỹ thuật, th́ chúng ta mới đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc Tây phương hóa.

    V́ vậy cho nên, khi nào chúng ta c̣n thấy tự măn sau khi đă hấp thụ được kỹ thuật và khoa học của Tây phương, th́ công cuộc Tây phương hóa đă bắt đầu thất bại. Trong thực tế bao giờ mà các chuyên viên của chúng ta gởi đi du học ngoại quốc c̣n lấy làm tự măn sau khi vừa hấp thụ xong các kỹ thuật và khoa học của ngành ḿnh, th́ công cuộc Tây phương hóa của chúng ta c̣n ở vào một mức độ thấp và lúc nào cũng bị sự thất bại đe dọa. Chỉ khi nào các chuyên viên của chúng ta, sau khi đă hấp thụ được các kỹ thuật và khoa học của ngành ḿnh, lại ư thức rơ rệt rằng, chỉ vừa bước đi qua một giai đoạn sơ khởi, và c̣n cần phải nỗ lực để đạt đến chỗ chế ngự được khả năng sáng tạo trong ngành của ḿnh, th́ lúc bấy giờ cuộc Tây phương hóa của chúng ta mới đi đúng đường và có hy vọng thành công.

    Sự kiện trên đây giải thích cho chúng ta hiểu v́ sao, trong thời kỳ Pháp thuộc khối người mới vừa Tây phương hóa được đến một mức độ rất thấp, chiếm được vài cái bằng cao cấp, đă lấy làm tự măn, và từ đó sự tiến bộ đă ngừng hẳn. Sự kiện này chứng minh một cách rơ ràng rằng công cuộc Tây phương hóa của chúng ta ở thời kỳ Pháp thuộc, không được hướng dẫn, không có lănh đạo cho nên những người “theo mới” không biết đi đến mức nào là đúng. Chưa chi đă lấy làm tự măn th́ làm sao c̣n có ư chí để thực hiện một công cuộc Tây phương hóa đến mức độ đủ cao, đ̣i hỏi nhiều nỗ lực và nhiều hy sinh.

    Một công cuộc Tây phương hóa đến mức độ đủ cao là một điều thiết yếu cho sự phát triển dân tộc, nhưng làm thế nào cho công cuộc Tây phương hóa đạt đến mức độ ấy?

    Sau khi đă phân tích như trên kia rồi th́ chúng ta không c̣n lọt vào sự lầm lẫn thông thường cho rằng hấp thụ kỹ thuật và khoa học là đă đạt đến mức độ đủ cao. Và chúng ta biết rằng muốn đạt đến mức độ đó th́ phải chế ngự cho được khả năng sáng tạo khoa học và kỹ thuật. Nghĩa là phải học cho được cái bí quyết của người Tây phương đă giúp cho họ đẻ ra khoa học và kỹ thuật.

    Đặc tính của văn minh Tây phương.

    Sau khi hấp thụ khoa học và kỹ thuật Tây phương, th́ mọi người đều công nhận khoa học và kỹ thuật Tây phương có những đặc tính sau đây: suy luận chính xác, tổ chức ngăn nắp và minh bạch. Và phần đông đều nghĩ rằng chính tinh thần khoa học Tây phương đă tạo những đặc tính ấy. Đó là một sự lầm lẫn thông thường rất tai hại và nếu đă nghĩ như vậy th́ không làm sao t́m được bí quyết đă giúp cho Tây phương sáng tạo khoa học và kỹ thuật.

    Sự thật là những đặc tính: chính xác về lư trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức là đặc tính của nền văn minh Tây phương. Và chính nhờ có những đặc tính này, mà nền văn minh Tây phương đă sáng tạo ra khoa học. Khoa học mang những đặc tính ấy như là những đặc tính bẩm sinh, chớ không phải khoa học tạo ra các đặc tính ấy. V́ vậy cho nên sự hấp thụ khoa học và kỹ thuật của Tây phương không, không đủ tạo cho người hấp thụ khả năng sáng tạo khoa học, tiêu chuẩn của một công cuộc Tây phương hóa thành công đến mức độ đủ cao.

    Trước khi khoa học phát minh và phát triển như ngày nay, tập quán của người Tây phương đă chính xác trong suy luận và ngăn nắp minh bạch trong tổ chức. Trái lại lối suy luận, ví dụ của người ở xă hội Đông Á là lối suy luận trực giác, h́nh ảnh, và do đó, mơ hồ. Nhưng chính người Tây phương đă thừa hưởng những đặc tính đó của văn minh Hy Lạp và La Mă. Chính xác về lư trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức đă nằm sẵn trong lối kiến trúc câu văn của Hy Lạp cũng như của La Mă.

    Sau khi đế quốc La Mă phía Tây, đóng đô ở Roma đă sụp đổ, xă hội Tây phương trải qua một thời đại đen tối v́ hai lư do. Trước hết sự xâm chiếm của các bộ lạc man rợ đă cắt đứt xă hội Tây phương với nguồn gốc Hy Lạp, La Mă. Lư do thứ hai là, v́ sự tồn tại của xă hội Gia Tô giáo Tây phương, giáo hội La Mă, trong một thời kỳ vô cùng hỗôn độn đă bắt buộc áp dụng một chủ trương đóng khung tư tưởng đến cực độ. V́ đó mà, nếu giáo hội với tư cách là người thụ thác của văn minh Hy Lạp La Mă khi xưa đă cứu vớt được tập quán ngăn nắp và minh bạch trong đời sống, đă không bảo vệ được, đặc tính chính xác về lư trí của văn minh Hy Lạp và La Mă.

    Sau đó, nhờ t́nh h́nh tương đối ổn định, sự nối lại với nguồn gốc văn minh Hy Lạp La Mă đă thực hiện được và xă hội Tây phương bước vào thời kỳ thường gọi là Phục Hưng, phục hưng tinh thần văn minh Hy Lạp và La Mă, đồng thời cởi bỏ được sự đóng khung tư tưởng của giáo hội. Và từ đó lần lần với sự củng cố chính trị của các quốc gia trong xă hội Tây phương, khoa học mới phát minh và nảy nở.

    Sở dĩ các sự kiện lịch sử trên đây được nhắc lại là để chứng minh rằng bí quyết đă giúp cho người Tây phương sáng tạo được khoa học và kỹ thuật là ba đức tính ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lư trí. Họ đă dùng những đức tính ấy như những khí cụ giải phẫu sắc bén để t́m hiểu vũ trụ và tạo hóa. Nếu không có những khí cụ thám cứu đó, sự t́m hiểu vũ trụ và tạo hóa không thực hiện được. Và nếu sự t́m hiểu vũ trụ và tạo hóa không thực hiện được th́ khoa học không phát minh và nảy nở được. Tưởng nên nhắc lại một lần nữa rằng người Tây phương không phải chỉ ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lư trí riêng trong lĩnh vực khoa học mà thôi. Họ đă ngăn nắp, minh bạch tổ chức và chính xác về lư trí trong câu văn, lời nói, hành động và đời sống hàng ngày. Trải qua nhiều thế kỷ các đức tính ấy đă được hun đúc thành tinh thần kỹ thuật Tây phương.

    Trở lại việc t́m hiểu vũ trụ và tạo hóa trên kia, chúng ta nên thêm rằng một khi đă có trong tay những khí cụ thám cứu, việc t́m hiểu vũ trụ chưa chắc đă có kết quả được, nếu chúng ta có một quan niệm chấp nhận vũ trụ như Thượng Đế đă ban cho, và v́ vậy, không cần t́m hiểu thêm nữa. Nhưng đây là một điểm đă lọt sang lĩnh vực tôn giáo và công cuộc Tây phương hóa dưới đây.

    Sự kiện đă như vậy th́, nếu chúng ta muốn chế ngự khả năng sáng tạo khoa học chúng ta cần tạo cho dân tộc các đức tính nói trên kia. Nói rơ hơn nữa đồng thời với vấn đề hấp thụ khoa học và kỹ thuật đương nhiên phải có, chúng ta phải gieo sâu vào trí năo của mọi người tập quán ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức, và chính xác về lư trí. Chính đó mới là căn bản của một cuộc Tây phương hóa chính danh có đường hướng và có mục đích. Vấn đề đă đặt ra như vậy, chúng ta mới ư thức rơ rệt tính cách vĩ đại của công cuộc Tây phương hóa mà chúng ta cần phải thực hiện. Không phải Tây phương hóa một nhóm người, mà Tây phương hóa toàn thể dân tộc. Không phải Tây phương hóa trên mặt, chỉ bắt chước lối sống của người Tây phương mà phải Tây phương hóa cho đạt đến cái tinh túy văn minh Tây phương. Công cuộc đă vĩ đại như vậy, th́, tuy chúng ta chưa bàn đến chi tiết thực hành, nhưng chúng ta cũng quan niệm được, ngay bây giờ, tính cách lớn lao của các phương tiện cần phải vận dụng, cũng như tính cách nặng nề của những hy sinh đ̣i hỏi và tính cách liên tục và trường kỳ của những nỗ lực phi thường cần thiết.

    Chúng ta phải ngăn nắp, minh bạch trong tô chức và chính xác về lư trí, không phải riêng cho lĩnh vực nào, mà trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, không phải riêng cho một tŕnh độ trí thức nào, mà cho tất cả các tŕnh độ trí thức.

    Nghĩa là ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lư trí phải chi phối tất cả hoạt động của chúng ta, trong gia đ́nh cũng như ngoài gia đ́nh, từ phạm v́ sinh hoạt thông thường đến những phát triển cao nhất của lư trí. Do đó, vai tṛ của mỗi người đều quan trọng, và do đó, vai tṛ của các người đàn bà trong gia đ́nh vô cùng mật thiết với sự phát triển dân tộc.

    Xem như thế, chúng ta lại c̣n phân biệt rơ rệt đặc tính của hai cuộc Tây phương hóa. Cuộc Tây phương hóa bắt buộc, không đường hướng, không mục đích, dưới thời Pháp thuộc, chỉ là một cuộc Tây phương nông cạn, của một mớ người. Thậm chí, đến các người phụ nữ cũng bị gạt ra khỏi việc theo mới: trong khi các ông mặc âu phục, ăn theo Tây và nói tiếng Tây, th́ các bà vẫn phải vận ta, ăn theo ta, nói tiếng ta, để mà bảo vệ phong tục Việt Nam.

    Trái lại, công cuộc Tây phương hóa tự ư, có lănh đạo, có mục đích, như chúng ta quan niệm ngày nay, là một cuộc Tây phương hóa toàn diện cho mọi người và đến mức độ đủ cao để cho mục đích của công cuộc Tây phương hóa đạt được.

    Cố nhiên một công cuộc đại qui mô như vậy đ̣i hỏi ở toàn dân, những nỗ lực phi thường một cách liên tục và trường kỳ, những hy sinh lớn lao và nặng nề. Nhưng thực hiện công cuộc phát triển dân tộc to tát đến tầm mức ấy, là một hành động có mănh lực hấp dẫn đến tột bậc, tất cả các phần tử của dân tộc.

    Một công cuộc phát triển dân tộc vĩ đại đến tầm mức ấy, hùng mạnh như nước hải triều đang lên, hấp dẫn và lôi cuốn mọi người, v́ đó là lẽ sống của dân tộc.


    Còn tiếp

  4. #14
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo



    Công cuộc Tây phương hóa tự ư.


    Một công cuộc Tây phương hóa tự ư, có đường hướng và có mục đích, phải toàn diện và đến mức độ đủ cao. Sự Tây phương hóa phải ăn sâu và lan rộng đến toàn dân. Ngược lại một công cuộc Tây phương hóa bắt buộc như thời Pháp thuộc, không có lănh đạo, không có mục đích, hỗn độn và nông cạn, chỉ giới hạn trong một nhóm người thường tiếp xúc với người Pháp. Công cuộc Tây phương hóa thời Pháp thuộc, là một công cuộc tự nó phát sinh như cỏ dại, đụng đâu mọc đấy, không ai chăm nom và cũng không ai thiết đến.
    Công cuộc Tây phương hóa chúng ta chủ trương là một công cuộc do chúng ta tạo ra như trồng một cây quí, lúc nào cũng phải săn sóc, vun phân, tưới nước.
    V́ các lư do trên, cho nên các nỗ lực Tây phương hóa của chúng ta phải đặt trọng tâm vào đại chúng. Mà ở xứ ta đa số quần chúng là ở nông thôn. Và lư luận đă dần dần dẫn dắt chúng ta đến một kết luận tối quan trọng cho hành động của chúng ta sau này: Công tác Tây phương hóa của chúng ta phải dồn nỗ lực về nông thôn, nơi tập trung đa số nhân lực và tài sản của quốc gia. Nếu chúng ta không làm như vậy th́ chúng ta sẽ rơi vào cái sai lầm của các nhà lănh đạo các quốc gia ở Cận Đông mà chúng ta đă thấy trên kia: đương nhiên công cuộc Tây phương hóa của chúng ta sẽ giới hạn trong một nhóm nhỏ. Công cuộc Tây phương hóa, sẽ thất bại và lần lần đại chúng sẽ tách rời với nhóm lănh đạo, và t́nh trạng đó sẽ tạo hoàn cảnh thuận tiện cho một cuộc cách mạng tiêu diệt nhóm người Tây phương hóa một cách riêng biệt.
    Sở dĩ chúng ta chủ trương một công cuộc Tây phương hóa đến mức độ đủ cao, mục đích là để chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học và kỹ thuật. Khoa học và kỹ thuật của Tây phương mà chúng ta đă hấp thụ là những phương tiện. Những đức tính ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức, chính xác về lư trí, sẽ cho chúng ta khả năng chẳng những để sử dụng, mà c̣n cải lạo những phương tiện trên. Như vậy khi nào chúng ta đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc Tây phương hóa, là chúng ta đă đạt lên đến lĩnh vực sáng tạo, và chúng ta đă thấy rằng đến mức đó, th́ công cuộc Tây phương hóa không làm cho mất bản chất dân tộc.
    Vả lại, ví dụ mà bản chất dân tộc có phải mất v́ lẽ chúng ta tự tạo cho chúng la được những đức tính ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức, và chính xác về lư trí, th́ có lẽ bản chất dân tộc gồm những đặc tính ngược lại với những đức tính trên. Nếu như thế th́, dù có phải mất bản chất dân tộc, để mà thâu phục được những đức tính trên, th́ cũng đáng mất.
    Trong khi t́m những lư lẽ để trả lời câu hỏi nêu lên ở đầu chương này chúng ta đă đương nhiên đề cập đến và giải thích như thế nào là một công cuộc Tây phương hóa toàn diện và đến mức độ đủ cao
    .
    Tôn giáo và công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa.

    Mục đích của công cuộc Tây phương hóa là để phát triển dân tộc, và chúng ta cũng thấy rằng, nếu tôn giáo không quan trọng đối với công cuộc Tây phương hóa, th́ trái lại tôn giáo lại là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với công cuộc phát triển dân tộc. Tính cách thiết yếu của công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa không cần phải chứng minh nữa. Trên căn bản đó, dưới đây chúng ta trở lại ảnh hưởng của tôn giáo đối với công cuộc phát triển dân tộc.
    Tất cả các giáo lư đều xây dựng trên một toàn bộ khái niệm về vũ trụ, trong đó đời sống của nhân loại ở thế gian này và ở thế giới bên kia là phần quan trọng nhất. Đi vào chi tiết hơn, các khái niệm sẽ liên quan đến các dây liên hệ giữa người và vũ trụ, và đến tính cách huyền bí của sự con người xuất ra từ vũ trụ. Hồi giáo và Gia Tô giáo, chú trọng về phần sau của mệnh đề trên đây, nên cả hai giải thích về số mệnh của con người sau khi rời cơi trần. Phật giáo, Lăo giáo lại chú trọng về phần trước của mệnh đề, dẫn dạy rất nhiều về tiền kiếp. Ấn Độ giáo chú trọng về cả hai phần của mệnh đề, và xây dựng thuyết linh hồn vũ trụ. Khổng giáo không phải là một tôn giáo.
    Chúng ta lại có thể chia các giáo lư ra làm hai loại theo tiêu chuẩn dưới đây:
    - Loại thứ nhất là các giáo lư công nhận đời sống ở thế gian này là sự thật và t́m cách giải quyết các vấn đề của nhân loại ngay trong cơi đời này.
    - Loại thứ hai là các giáo lư phủ nhận đời sống ở thế gian này, không t́m cách giải quyết các vấn đề của nhận loại trong đời sống ở thế gian này và chỉ chú trọng đến đời sống ở thế giới bên kia.
    Gia Tô giáo và Hồi giáo thuộc loại thứ nhất. Phật giáo, Lăo giáo và Ấn Độ giáo thuộc loại thứ hai.
    Ở đây không phải chỗ đê luận về tôn giáo nhưng để t́m hiểu ảnh hưởng tôn giáo đến công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa.


    Công nhận đ̣i sống và phủ nhận đời sống.

    Đời sống trên thể gian này, dù chúng ta có công nhận hay phủ nhận, th́ tự nó đă có. Đó là sự hiển nhiên. Và đối với chủ trương phủ nhận đời sống, th́ chính là v́ có đời sống, nên mới có người trụ vào đó mà phủ nhận đời sống. Như vậy th́, các giáo lư phủ nhận đời sống, đương nhiên đă ôm trong ḷng, ngay từ lúc đầu, một mâu thuẫn không bao giờ gỡ được. Các giáo lư công nhận đời sống, không có cái mâu thuẫn đó.
    Mâu thuẫn đó ảnh hưởng thực tế như thế nào?
    Các giáo lư phủ nhận đời sống, đương nhiên, giảng dạy các tín đồ không chú trọng về đời sống hiện tại, và chỉ t́m cách giải quyết các vấn đề vật chất trong thế gian này, vừa đủ để nuôi sống, chờ đợi ngày sang thế giới bên kia. Nhưng, mâu thuẫn nội bộ đă bộc lộ ra trong các giáo điều ấy, v́ như thế, th́ các tín đồ sẽ sống mà không sống, hay sẽ không sống mà sống.
    Các giáo lư công nhận đời sống, mặc dù không phủ nhận đời sống bên kia thế giới, vẫn giảng dạy các tín đồ t́m cách giải quyết ngay các vấn đề vật chất ở thế gian này, và, sống cho đúng mức và sống cho đáng sống.
    Do đó, các tín đồ của các giáo lư phủ nhận đời sống, sẽ có xu hướng trốn tránh cuộc đời, từ chối cuộc chiến đấu để sống, và không sẵn sàng đương đầu với các khó khăn khổ năo của cuộc đời. Nghĩa là sẽ không muốn và cũng không dám sống mạnh.
    Ngược lại, các tín đồ của các giáo lư công nhận đời sống sẽ có xu hướng t́m sống, công nhận cuộc chiến đấu để sống, và sẵn sàng đương đầu với các sự khó khăn và khổ năo của cuộc đời. Nghĩa là sẽ muốn sống mạnh và dám sống mạnh.

    Tôn giáo và phát triển dân tộc.


    Và tôn giáo sẽ ảnh hưởng quan trọng đến công cuộc phát triển dân tộc ở chỗ này. Một công cuộc phát triển dân tộc bằng cách lấy Tây phương hóa là một công tŕnh vĩ đại, và, như chúng ta sẽ thấy, sẽ đ̣i hỏi ở toàn dân nhiều nỗ lực phi thường, nhiều hy sinh lớn lao, và như vậy một cách liên tục và trường kỳ. Như vậy, mặc dầu một công cuộc phát triển vĩ đại sẽ hấp dẫn đến tột độ, đời sống đă là một cuộc chiến đấu tự nó đă gian lao, đặt vào khuôn khổ một công cuộc phát triển dân tộc, đời sống sẽ gian lao hơn bội phần. Trừ một vài hoàn cảnh rất đỗi thuận lợi và hiếm có, mà chúng ta sẽ xct ở một đoạn sau, chúng ta có thể quả quyết rằng ít hay nhiều, công cuộc phát triển của dân tộc sẽ diễn ra trong không khí khổ hạnh cho mọi người. Các trường hợp của Nga Sô và của Nhật là những ví dụ rất hùng biện. Nếu may ra, hoàn cảnh của chúng ta tương tự như hoàn cảnh của Nhật, th́ không khí khắc khổ sẽ giảm đi, nhưng dầu thế nào, vẫn có.
    Trong những điều kiện như vậy, cố nhiên là tín đồ của các giáo lư, thuộc loại thứ nhất, sẵn sàng tham gia một công cuộc phát triển dân tộc, như chúng ta đă tả trên đây, hơn là tín đồ của các giáo lư thuộc loại thứ hai. Bởi v́ những người trước để tâm đến đời sống hiện tại hơn, trong khi những người sau này, dù không phải nhận được đời sống hiện tại, vẫn không tích cực t́m cách giải quyết các vấn đề, liên quan đến đời sống ở thế gian này. Lúc gặp gian khổ, xu hướng tự nhiên của những người này là tránh phấn đấu, t́m cách yên phận cho qua cuộc đời tạm bợ. Trái lại, trong hoàn cảnh đó, xu hướng tự nhiên của những người trước là cố sức phấn đấu để t́m cách giải quyết các vấn đề ngay trong đời sống hiện tại.
    Những công cuộc phát triển dân tộc đă thành công có chứng minh lư luận trên đây không? Nhật Bản đă thành công trong công việc phát triển dân tộc, trong khi đó tôn giáo, của đa số quần chúng ở Nhật, là một môn phái của đạo Phật gọi là đạo Thiền. Như vậy trường hợp của nước Nhật mới xem qua, không xác nhận lư luận trên. Thật ra th́, mặc dù đạo Thiền là một môn phái của đạo Phật, nhưng sau khi sang đất Nhật rồi, đụng với dân tộc tính của Nhật, giáo lư nhà Phật đă thay đổi một cách sâu xa đến nỗi, thuyết bất bạo động của Phật đă biến thành tín ngưỡng của những nhà quí phái say máu của Nhật gọi là Samourai. Và giáo lư phủ nhận đời sống của Phật đă biến thành giáo lư công nhận đời sống của đạo Thiền. Hơn nữa các nhà lănh đạo Nhật Bản thời Minh Trị, chủ trương và hướng dẫn công cuộc Tây phương hóa nước Nhật đă đưa Thần đạo là lên hàng Quốc đạo. Căn bản của giáo lư Thần đạo là tôn sùng tạo hóa dưới tất cả h́nh thức nghĩa là công nhận đời sống hiện tại, một cách hùng biện.
    Trường hợp thứ nh́ của một công cuộc Tây phương hóa thành công là Nga Sô. Như chúng ta đă biết nước Nga theo Gia Tô giáo Đông phái. Gia Tô Đông phái ở Hy Lạp và Tây phái ở La Mă, đă phân ly với nhau, không phải v́ những nguyên nhân về giáo lư mà v́ những điều thuộc về nghi lễ và sử dụng tượng Thánh. Nghĩa là dân chúng Nga vẫn có tâm lư của những người tín đồ của một tôn giáo công nhận đời sống hiện tại. Tuy nhiên, trong trường hợp của Nga, yếu tố tôn giáo lại có một ảnh hưởng, không phải tích cực mà lại tiêu cực bởi v́ phương pháp áp dụng bởi các nhà lănh đạo Cộng Sản là một phương pháp cưỡng bách đến tột độ. Do đó mức độ tham gia, đ̣i hỏi ở dân chúng vượt xa khỏi mức độ sẵn sàng tham gia của tín đồ một tôn giáo công nhận đời sống.
    Trường hợp thứ ba là công cuộc Tây hương hóa có kết quả nửa chừng của Thổ Nhĩ Kỳ. Nguyên do của sự kết quả nửa chừng này ở chỗ các nhà lănh đạo Thổ Nhĩ Kỳ không quan niệm đúng mức sự cần thiết phải làm cho công cuộc Tây phương hóa ăn sâu và lan rộng vào quần chúng, hơn là ở chỗ tham gia thiếu hăng hái của quần chúng, v́ một lư do tôn giáo. Đáng lư ra, các tín đồ Hồi Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, theo đúng nhận xét trên đây, có thể đóng góp một sự tham gia tích cực vào công cuộc phát triển dân tộc Thổ, nhưng cơ hội không đến với họ chỉ v́ các nhà lănh đạo không nghĩ rằng sự tham gia của họ là thiết yếu.
    Ngay đối với các dân tộc đang nỗ lực t́m phát triển, ảnh hưởng tôn giáo đến công cuộc phát triển cũng có thê nhận thức được.
    Công cuộc phát triển của dân tộc Ấn Độ chậm hơn công cuộc phát triển của dân tộc Trung Hoa không phải chỉ v́ Trung Hoa áp dụng biện pháp cưỡng bách của khối Cộng Sản, trong khi Ấn Độ áp dụng biện pháp thuyết phục của khối Tự Do.
    Cho đến ngày Cộng Sản lên cầm quyền ở Trung Hoa, phản ứng tự nhiên của mỗi người Tàu, trước mọi vấn đề liên quan với đời sống, đều ăn khớp với luân lư Khổng Mạnh.
    Và đă là luân lư th́ đương nhiên công nhận đời sống hiện tại và lư do sinh tồn của luân lư chính là để giải quyết các vấn đề của đời sống ngay trong cơi thế gian này. Đa số dân chúng Ấn Độ theo Ấn Độ giáo mà bản chất là phủ nhận đời sống hiện tại. V́ thế cho nên chúng ta không nên lấy làm lạ mà nhận xét ở dân chúng Ấn Độ một sự tham gia kém hăng hái vào công cuộc phát triển của dân tộc hơn là dân chúng ở Trung Hoa. Giả sử mà hai khối dân chúng Ấn Độ và Trung Hoa có ở vào ngoại cảnh chính trị giống nhau đi nữa, th́ chắc chắn là vẫn sẽ có sự khác nhau về thái độ nói trên trước công cuộc phát triển.
    Nói rộng ra hơn nữa, chúng ta có thể nh́n vào bản đồ các tôn giáo trên thế giới đính kèm theo quyển sách này mà tiên đoán dân tộc nào sẽ góp một phần tích cực vào công cuộc phát triển và dân tộc nào sẽ tham gia một cách khó khăn hơn khi, v́ lẽ sống c̣n, các nhà lănh đạo bắt buộc thực hiện công cuộc phát triển dân tộc.
    Trên đây, chúng ta đề cập đến ảnh hưởng của tôn giáo đến công cuộc phát triển dân tộc, chỉ v́ mỗi tôn giáo, đương nhiên, rèn đúc cho tín đồ một tâm lư xă hội ăn nhịp với các khái niệm về vũ trụ và về đời sống của tôn giáo đó. Các khái niệm về đời sống đó đă ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người trước những sự kiện của đời sống, đều thích hợp với các khái niệm trừu tượng ấy.
    Ảnh hưởng mà chúng ta muốn nói trên kia đối với công cuộc phát triển dân tộc chính là ảnh hưởng vô h́nh đó. Và chúng ta đă cố ư để ra ngoài và không đề cập đến một thứ ảnh hưởng chính trị thiết thực của tôn giáo, khi một giáo phái nào tự xem ḿnh là một lực lượng quần chúng có thể dùng làm một hậu thuẫn chính trị. Hay là khi một giáo phái nào, đă bị nhà đương quyền của một quốc gia liệt vào hàng một nơi ẩn trú của những người chống đối lại với chủ trương chính trị của họ. Trường hợp sau này là trường hợp của các quốc gia có một chính thể độc tài như chính thể Cộng Sản.
    Hai trường hợp trên đều là hai trường hợp bất thường của một giáo phái đă tự ư hay bắt buộc đưa ḿnh xuống một h́nh thức thấp hơn h́nh thức tôn giáo một bậc. Và như thế sớm hay muộn tôn giáo sẽ trải qua một cơn khủng hoảng vô cùng mănh liệt.


    Phát triển dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam

    Nước Việt Nam, theo truyền thống văn hóa, nằm trong xă hội Trung Hoa và chịu ảnh hưởng văn hóa của Tàu. Về phương diện tôn giáo, Phật giáo và Lăo giáo đă ăn sâu vào đại chúng. Nhưng, cũng như ở Trung Hoa, sự phủ nhận đời sống hiện tại của hai giáo lư này đă được luân lư xă hội của Khổng Mạnh quân b́nh. Nhờ đó mà có thể nói rằng quần chúng Việt Nam sẵn sàng tham gia một công cuộc phát triển dân tộc. Nếu có trở lực, th́ chắc chắn trở lực không phải ở chỗ tiềm thức của dân tộc quá thiên về các giáo lư phủ nhận đời sống, nhưng mà ở chỗ xă hội chúng ta bị tan ră, nên các tín hiệu tập hợp không c̣n, dù là các tín hiệu tập hợp lấy trong giáo điều của luân lư Khổng Mạnh.
    Sau thời kỳ Pháp thuộc, và sau một công cuộc Tây phương hóa không có lănh đạo, một thiểu số đáng kể đă theo Thiên Chúa giáo. Theo sự kiện phân tích trên đây thiểu số tín đồ Thiên Chúa giáo, sẽ đóng góp một sự tham gia tích cực vào công cuộc phát triển dân tộc. Bởi v́, trước hết, ảnh hưởng quân b́nh của luân lư Khổng Mạnh đă chế bớt rất nhiều xu hướng trốn tránh cuộc đời của những tín đồ Phật giáo. Lẽ thứ hai là ngay trong Phật giáo cũng có hai thái độ. Thái độ xuất thế, để t́m sự cứu rỗi cho bản thân, không phải trong đời sống này mà cho đời sồng bên kia thế giới. Thái độ nhập thế, để t́m cách cứu độ chúng sanh ngay trong cơi đời này. Tuy nhiên suy nghiệm theo lời nguyện của các vị Bồ Tát, hiện thân của thái độ nhập thế, th́ mục đích của sự nhập thế này, không phải làm để giúp cho chúng sanh giải quyết các vẩn đề vật chất ngay trong đời sống này, nhưng mà để độ chúng sanh khỏi kiếp luân hồi, nghĩa là để thoát khỏi cuộc đời này. Như thế th́ ngay trong thái độ nhập thế đă hàm một hậu ư xuất thế. Sự kiện này làm bộc lộ một cách rơ rệt mâu thuẫn nội tâm, về đời sống, mà chúng ta đă nói ở một đoạn trên. Nhưng dù sao thái độ nhập thế đă là một thái độ công nhận đời sống hơn là thái độ xuất thế. Và do đó, trong công cuộc phát triển dân tộc, thái độ nhập thế của các vị Bồ Tát sẽ thích hợp với nhu cầu quốc gia hơn. Nhưng sự kém sống mạnh, có thể dẫn dắt đến một sự tham gia thiếu tích cực vào công cuộc phát triển dân tộc, của các tín đồ Phật giáo, vẫn nằm ở mâu thuẫn nguyên lai, phủ nhận đời sống hiện tại, của giáo lư nhà Phật.


    Còn tiếp

  5. #15
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo



    Hai cơ hội phát triển

    Trong các giai đoạn trên chúng ta nhiều lần nói đến hai cơ hội phát triển cho các quốc gia thuộc xă hội Đông Á.
    Dưới đây chúng ta sẽ t́m xem:
    * Như thế nào là một cơ hội phát triển.
    * Và hoàn cảnh nào tạo ra cơ hội phát triển.
    Xét lại lịch sử các cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa đă thành công như trường hợp của Nhật, của Nga, đă phân nửa thành công như của Thổ Nhĩ Kỳ, sở dĩ các công cuộc đó thực hiện được là v́ có một sự đồng thời hiếm có của hai loại sự kiện. Loại thứ nhất, liên hệ đến t́nh trạng nội bộ của mỗi quốc gia, có thể gọi là sự kiện chủ quan.
    Loại thứ hai, liên hệ đến hoàn cảnh bên ngoài, do t́nh trạng chính trị của thế giới lúc bấy giờ tạo ra, và có thể gọi là sự kiện khách quan.
    Trong số các sự kiện chủ quan, các đoạn trên đây đă cho chúng ta thấy rằng có hai sự kiện quan hệ nhất. Trước hết là sự có mặt, trong những giờ phút nghiêm trọng, và tại các giềng mối của bộ máy quốc gia, của những lănh đạo, đủ sáng suốt, để nhận thức sự cần thiết của công cuộc Tây phương hóa để phát triển dân tộc. Điều thứ hai là dân chúng có một tâm trạng sẵn sàng hưởng ứng công cuộc Tây phương hóa do người lănh đạo đề xướng.
    Các điều kiện khách quan lại thuộc về một loại cụ thể hơn. Như chúng ta đă thấy trên đây, công cuộc Tây phương hóa đ̣i hỏi rất nhiều kỹ thuật, v́, chính trọng tâm của công cuộc Tây phương hóa là hấp thụ những kỹ thuật và khoa học Tây phương. Nhưng ngoài kỹ thuật ra, công cuộc Tây phương hóa c̣n đ̣i hỏi rất nhiều vốn để xây dựng các kỹ nghệ căn bản làm cơ sở phát triển cho các kỹ nghệ sản xuất, rất nhiều vốn để trang bị các cơ sở chính trị, quân sự, văn hóa và xă hội, trong khi các lợi tức của quốc gia chưa thỏa măn được nhu cầu của dân tộc.
    Kỹ thuật phải hoàn toàn ở ngoài đưa vào, đại đa số vốn phải ở ngoài đưa vào. Điều kiện khách quan được thỏa măn, khi nào t́nh h́nh chính trị thế giới tạo một hoàn cảnh thuận tiện để cho kỹ thuật và vốn được đưa vào để giúp cho công cuộc Tây phương hóa.
    Như vậy th́, cơ hội đối với các nước đang t́m phát triển, như chúng ta ngày nay, là khi nào hoàn cảnh bên ngoài, thuận tiện đế cho kỹ thuật và vốn được đưa vào. Nắm được cơ hội hay không là do hai điều kiện nội bộ, như trên vừa kể ra.

    Cơ hội thứ nhất

    Vào khoảng các năm 30 của thế kỷ 19, sự phát triển và bành trướng của cường quốc Âu châu đă lên đến một mức độ tối cao. Trong nội bộ, những phát minh mới về khoa học và kỹ thuật đă tạo cho các quốc gia trong xă hội Tây phương một sự tự tin dũng mănh. Tín ngưỡng Gia Tô giáo đă hướng dẫn công cuộc chinh phục thế giới của văn minh Tây phương trong năm thế kỷ vừa qua. Sau đó, nhiều phát minh của khoa học lại tạo cho xă hội Tây phương một sinh lực mới, có phần dồi dào hơn sinh lực cũ do tín ngưỡng đă hun đúc trong nhiều thế kỷ. Trên phương diện thực tế, những thực hiện kỹ nghệ và kỹ thuật đă đặt trong tay các cường quốc Tây phương những khí giới chiến đấu có một sức mạnh chưa bao giờ thấy.
    Dưới sự thúc đẩy của các sự kiện trên, và, sau khi củng cố địa vị ở đại lục Ấn Độ và các quần đảo Nam Dương và Phi Luật Tân, bao vây các quốc gia thuộc xă hội Đông Á, các cường quốc Tây phương bắt đầu tấn công ngay vào các quốc gia này. Năm 1842 người Anh gây chiến tranh Nha Phiến ở Trung Hoa và mở màn cho một cuộc tổng tấn công vào xă hội Đông Á. Sự dùng vơ lực để mở hải cảng Uraga của Nhật năm 1853 của Đại tá Hải quân Mỹ Perry và cuộc pháo kích Đà Nẵng năm 1856 của chiến thuyền Catinat của Pháp đều là những sự kiện đồng thời và do một nguyên nhân sanh ra.
    Đứng trước mới nguy cơ chung, các quốc gia, thuộc xă hội Đông Á, có những phản ứng tự vệ khác nhau, như chúng ta đă biết. Nguy cơ tuy lớn lao thật, nhưng, đồng thời, lại là một cơ hội để Tây phương hóa, phát triển dân tộc. Bởi v́, sự bành trướng mạnh mẽ của hai Đế quốc Anh và Pháp, vừa là một nguồn mâu thuẫn giữa, một bên, hai đế quốc lớn, một bên, các quốc gia khác ở Tây phương. Thêm vào đó, nước Mỹ, vừa chấn chỉnh xong nội bộ quốc gia, cũng bắt đầu gấm ghé thực hiện ư định có mặt ở Thái B́nh Dương.

    Mâu thuẫn tạo cơ hội

    Tất cả các mâu thuẫn chằng chịt đó là cơ hội cho các quốc gia bị tấn công, để Tây phương hóa, phát triển dân tộc và bảo vệ chủ quyền của ḿnh. Những mâu thuẫn trên đă tạo ra một hoàn cảnh chính trị thế giới, làm cho công cuộc xâm lăng, chiếm đóng thật sự trở thành một việc vô cùng khó khăn, và vạn bất đắc dĩ. Nếu bây giờ, sự lănh đạo quốc gia được phần nào sáng suốt và hàng ngũ xă hội được bền chặt, th́, đương nhiên các mâu thuẫn trên đă trở thành những đồng minh, giúp cho các nước bị tấn công, bảo tồn sự độc lập của ḿnh. Hơn thế nữa, các mâu thuẫn trên, nghĩa là sự tranh giành ảnh hưởng giữa các đê quốc, sẽ mang lại kỹ thuật và vốn tư bản, để cho các nước bị tấn công thực hiện công cuộc phát triển dân tộc của ḿnh.
    Cơ hội đă như vậy đó, nhưng, trong các quốc gia bị tấn công, chỉ có Nhật Bản là có đủ điều kiện chủ quan để nắm cơ hội do các điều kiện khách quan đưa đến. Sự thành công của các nhà lănh đạo Nhật Bản như thế nào, tất cả chúng ta đều biết.
    Điều kiện chủ quan của quốc gia Trung Hoa, lúc bấy giờ, không có, bởi v́, người cầm quyền lại thuộc một dân tộc ngoại lai, mà người Trung Hoa oán ghét. Chẳng những thế, với thời gian, lịch sử c̣n chứng minh sự thiếu sáng suốt của các nhà lănh đạo Măn Thanh lúc bấy giờ. Tuy nhiên, những mâu thuẫn nội bộ giữa các cường quốc Tây phương cũng đă, đương nhiên, bảo vệ độc lập, ít ra, trên danh từ, cho Trung Hoa và tránh cho quốc gia này một sự thống trị trực tiếp như Việt Nam. Nhưng Trung Hoa cũng đă bỏ lỡ cơ hội thứ nhất để phát triển.
    Hoàn cảnh nội bộ của Việt Nam lại càng bi đát hơn nữa.
    Sau một cuộc nội chiến, tàn khốc và tiêu hao, kéo dài từ năm 1620 đến năm 1802, nhà Nguyễn vừa thống nhất quốc gia được bốn mươi năm, th́ họa xâm lăng Tây phương lại ồ ạt kéo đến. Những điều kiện chủ quan, như trên đă tŕnh bày, quốc gia Việt Nam hoàn toàn không có. Nhân tâm c̣n ly tán, chính trị của nhà Nguyễn không thâu phục được ḷng dân, nội loạn không lúc nào dứt. Các nhà lănh đạo của chúng ta, lại không kịp thời nhận thức vấn đề của dân tộc, trong một giai đoạn quyết liệt. Các tài liệu lịch sử về sự lănh đạo quốc gia, trong thời kỳ này c̣n giữ lại, không thấy đề cập đến vấn đề Tây phương hóa. Nhiều nhân vật có để lại những bản sớ, nói về tính cách cần thiết của sự thu thập kỹ thuật Tây phương, nhưng không thấy đề cập đến một công cuộc Tây phương hóa, như người Nhật quan niệm lúc bấy giờ. Chính những chương tŕnh do ông Nguyễn Trường Tộ đề nghị mặc dù có những kiến thức rất tiến bộ và sáng suốt, cũng vẫn là một chủ trương cải cách nhút nhát. Nếu có mang ra mà thi hành, th́ có lẽ, cũng chỉ dẫn dắt đến một cuộc Tây phương hóa thất bại mà thôi, v́ điều kiện chủ quan hoàn toàn không rơ rệt và rất sơ sài.
    Hơn nữa, các tài liệu lịch sử, trong giai đoạn quyết liệt này, không thấy có ư thức ǵ về các mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương. Trong khi đó, chính các mâu thuẫn này là lợi khí sắc bén nhất, trong cơ hội đưa đến cho chúng ta. V́ thế cho nên, ví dầu mà chương tŕnh của Nguyễn Trường Tộ có đem ra thực hiện, th́ tính cách ấu trĩ của thuật ngoại giao của chúng ta, lúc bấy giờ, cũng không cho phép chúng ta thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc. Xem thế, chúng ta càng nhận thấy kiến thức hẹp ḥi của các nhà lănh đạo lúc bấy giờ, và quan niệm chưa trưởng thành của họ về việc lănh đạo quốc gia.
    Các sự kiện trên càng. làm bộc lộ rơ rệt quan niệm, Việt Nam là một thuộc quốc đối với Trung Hoa, của các nhà lănh đạo lúc bấy giờ. Sự thiếu sót về ngoại giao trên đây, do một quan niệm thấp và hẹp về ư thức độc lập, là nguyên nhân chính làm cho chúng ta không lợi dụng được các mâu thuẫn, giữa các cường quốc Tây phương, để bảo vệ độc lập và chủ quyền cho dân tộc. Trong khi đó Thái Lan, lúc bấy giờ là Xiêm, mặc dầu không thực hiện được cuộc phát triển dân tộc nhưng ít ra, cũng cứu văn được độc lập bằng cách khai thác các mâu thuẫn giữa các cường quốc.
    Cơ hội thứ nhất đă lỡ, hậu quả của sự lỡ cơ hội tai hại như thế nào, dân tộc chúng ta đă ghi vào xương máu bài học kinh nghiệm đắt giá đó. Nhưng, giá hết sức cao mà chúng ta đă phải trả, để mua kinh nghiệm lỡ cơ hội lần thứ nhất, có đủ để làm cho các nhà lănh đạo, đương thời của chúng ta, nhận thức sự cần thiết phải vận dụng hết nô lực để nắm cho được cơ hội thứ hai, đang đến với chúng ta, để phát triển dân tộc không?
    Cơ hội thứ nhất đến ngay vào lúc những mâu thuẫn giữa các quốc gia Tây phương đi vào một giai đoạn rất gây cấn.
    Sự tranh giành ảnh hưởng đă đến một tŕnh độ hết sức căng thẳng giữa các đế quốc Anh, Pháp, Đức và Nga. Các yếu tố quân b́nh, trong khung cảnh chính trị cổ truyền của âu châu, được mang áp dụng giữa các cường quốc đi chinh phục. Ḥa ước Bắc Kinh, kư kết năm 1861 giữa Trung Hoa và các cường quốc chiến thắng, là một tài liệu thừa nhận sự phân chia nước Tàu làm nhiều vùng ảnh hưởng giữa các đế quốc.
    Nhưng, đồng thời và trước hết, đó là một tài liệu chứng tỏ sự cạnh tranh quyết liệt giữa các cường quốc Tây phương.
    Tuy nhiên, với sự biến chuyển của t́nh h́nh chính trị, các mâu thuẫn có thể tạm thời dẹp một bên bằng những thỏa hiệp. Đối với các quốc gia bị Tây phương tấn công, đó là lúc mà cơ hội mất. Riêng đối với Việt Nam th́ cơ hội đă mất, ngay khi chủ quyền đă mất.

    Cơ hội thứ hai

    Gần một thế kỷ sau, mâu thuẫn nội bộ giữa các cường quốc Tây phương lại bộc phát lên một cách dữ dội và dẫn dắt đến hai cuộc thế giới chiến tranh mà chúng ta đều biết.
    Chiến tranh chưa chấm dút, sự tranh chấp, giữa hai quốc gia đă chiến thắng trong trận thế chiến thứ hai, nay lănh đạo hai khối chính trị trên thế giới, đă tạo ra cho các quốc gia, bị Tây phương xâm chiếm một cơ hội duy nhất để tranh giành độc lập và phát triển dân tộc. Sự tranh chấp giữa Nga Sô và khối Tây phương ngày nay, là hiện trạng của một cuộc tranh đấu không ngừng đă diễn ra từ hơn bốn trăm năm nay. Lúc gay cấn đến xảy ra chiên tranh, lúc ngấm ngầm, khi bên này thắng, bên kia thua, cuộc tranh đấu không bao giờ ngừng v́ những lư do mà chúng ta đă t́m hiểu trong nhiều đoạn ở trên.
    Sở dĩ mà ngày nay, cuộc tranh chấp trở thành vĩ đại và bao trùm hết thế giới và mọi lĩnh vực của đời sống, là v́, như chúng ta đă thấy trong các chương đầu của tập này, lúc mở màn cho giai đoạn hiện tại, vị trí của hai bên như sau đây:
    Tây phương, lúc bấy giờ, chiếm gần hết thê giới. Thuộc địa của những đế quốc Tây phương nằm khắp năm đại lục.
    Lực lượng quân sự của Tây phương đóng giữ các vị trí chiến lược hiểm trở trên địa cầu. Chiến thuyền của Tây phương tung hoành, rẽ sóng bốn biển. Lưới kinh tế của Tây phương bủa vây thế giới.
    Đối với một địch thủ, nắm trong tay một lực lượng kinh khủng như vậy, nếu Nga Sô tiếp tục chiến đấu theo quan niệm cổ truyền, và đóng khung nỗ lực của ḿnh trong giới hạn lănh thổ Nga, th́ chắc chắn đă nắm phần bại về ḿnh, ngay từ lúc chưa ra quân. Bởi v́, một chiến lược như thế có nghĩa là Nga Sô sẽ bị Tây phương siết chết trong một ṿng vây không lối thoát. Các nhà lănh đạo Nga Sô, ngay khi cách mạng tháng Mười ở Mạc Tư Khoa chưa bùng nổ, đă đủ sáng suốt để nhận thức rằng, muốn tiếp tục công cuộc chiến đấu của dân tộc một cách thắng lợi, điều kiện tiên quyết, là phải đưa chiến lược lên một lănh vực bao trùm khắp thế giới, bởi v́ địch thủ đă áp dụng một chiến lược bao quát như vậy.
    Ngày nay cuộc chiến đấu vĩ đại vượt lên cả không gian, và lâm le thâu gồm vào ṿng chiến lược các hành tinh của Thái Dương hệ, cũng v́ lẽ, không một địch thủ nào muốn để cho bên kia bao vây ḿnh.
    Trở lại lúc đầu giai đoạn hiện tại của cuộc chiến đấu giữa Nga Sô và Tây phương, sở dĩ Nga Sô, lúc bấy giờ, quan niệm và thực hiện được một chiến lược minh mông, như nói trên, là nhờ ở những điều kiện dưới đây:

    Còn tiếp

  6. #16
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếptheo


    Mâu thuẫn nội bộ

    Trước hết những mâu thuẫn nội bộ giữa các đế quốc Tây phương lúc nào cũng có. Chính những mâu thuẫn này, trong những giai đoạn khủng hoảng, đă gây ra hai cuộc thế giới chiến tranh vừa qua.
    Thuyết Các-mác Lê-nin lúc nào cũng nhắc đến các mâu thuẫn này và xem đó là đặc tính của xă hội tư bản. Và theo thuyết ấy, chính các mâu thuẫn đó sẽ đưa xă hội tư bản đến chỗ chết. Nếu chúng ta đồng ư với thuyết trên, về sự có mặt của các mâu thuẫn nội bộ nói đây trong xă hội tư bản, th́, chúng ta lại nên thêm rằng, những mâu thuẫn nội bộ tương tự sẽ có, không cứ ǵ trong xă hội tư bản, mà, bất cứ trong xă hội nào gồm nhiều phần tử mà quyền lợi bất đồng. Ngày nay, chúng ta đang mục kích nhiều mâu thuẫn nội bộ trong khối Cộng Sản. Nhưng lư do, phát sinh những mâu thuẫn này, cũng tương tự và đương nhiên, như những lư do, phát sinh những mâu thuẫn, đang nói trên kia, trong xă hội Tây phương. Tuy nhiên, sự kiện, các mâu thuẫn này, có phải hay không phải là đặc tính của xă hội tư bản, không quan hệ.
    Điều quan hệ là sự có mặt của các mâu thuẫn ấy.

    Nội tuyến

    Điều kiện thứ hai là trong thời kỳ, cuối thế kỷ 18 sang đầu thế kỷ 19, xă hội Tây phương trải qua một cuộc khủng hoảng vô cùng trầm trọng, do chính các phát minh khoa học và kỹ nghệ gây ra. Các phát minh khoa học và kỹ nghệ là những lực lượng sản xuất mới, đă được đưa vào và áp dụng, một cách quá đột ngột, trong một xă hội chưa sẵn sàng để đón nó, v́ các cơ cấu vẫn c̣n giữ một lối tổ chức, theo nề nếp cũ, của một xă hội thủ công nghiệp. Bất cứ xă hội nào, trong hoàn cảnh đó, cũng bị một cuộc khủng hoảng như vậy.
    Sự kiện này đă mang đến sự ly khai giữa các quần chúng và các nhà lănh đạo trong xă hội Tây phương, v́ những hậu quả mà chúng ta không cần biết chi tiết ở đây, của các phát minh nói trên. Cuộc khủng hoảng trầm trọng đến nỗi, tất cả tầng lớp xă hội đều bị ảnh hưởng của cuộc chấn động. Và nhiều nhà triết học đă phải nghĩ đến một cuộc cải cách xă hội toàn diện, để cho các cơ cấu ăn khớp với những lực lượng sản xuất mới. Trong số đó, Engels, và Karl Marx là danh tiếng hơn cả. Như vậy, chúng ta thấy rơ rằng, lư thuyết Các-Mác, trước tiên là một phương thuốc do một số người Tây phương đề nghị, để chữa bệnh cho xă hội Tây phương, trong một cơn khủng hoảng.
    V́ lư do nào mà thuyết ấy trở thành căn bản tư tưởng chiến đấu của Nga Sô, một quốc gia đang dấn thân vào một cuộc chiến đấu sống chết với Tây phương?
    Trước hết các nhà lănh đạo Cộng Sản nhận thức rằng t́nh trạng của xă hội Tây phương, lúc bấy giờ, sẽ là t́nh trạng, có lẽ, dưới một h́nh thức c̣n trầm trọng hơn, của xă hội họ, một khi, trong khuôn khổ công cuộc Tây phương hóa mà họ đang chủ trương, họ sẽ đưa vào xă hội Nga Sô các lực lượng sản xuất mới, vừa nói trên kia. Như thế th́, thái độ hợp lư không phải là thâu nhận ngay, và trước cả Tây phương, những tư tưởng và phương pháp xây dựng một xă hội thích hợp với các lực lượng sản xuất mới do khoa học phát minh sao? Bởi v́, như thế, th́ Nga sẽ chắc chắn đi trước và thắng Tây phương.
    Trên đây là một lư do xây dựng cho xă hội Nga Sô.
    Nhưng c̣n một lư do khác, thuộc lănh vực chiến thuật, trong cuộc chiến đấu với Tây phương. Lư do nào đă nặng hơn?
    Điều đó khó mà biết được. Chỉ biết rằng cả hai lư do đều có, nếu chúng ta nhận xét ở các diễn biến, tiếp theo sau, của cuộc chiến đấu.
    Đang lúc xă hội Tây phương có sự rạn nứt giữa cấp lănh đạo và quần chúng, tạo ra một t́nh trạng thuận lợi để cho cách mạng bùng nổ, th́ bất cứ người nào chủ trương một lư thuyết, mang nhiều hứa hẹn tương lai cho đời sống của quần chúng Tây phương, chắc chắn sẽ được quần chúng Tây phương hưởng ứng. Nếu người chủ trương là Nga Sô th́, quần chúng Tây phương, một khi đă hưởng ứng, sẽ biến thành một khối đồng minh vô giá, của Nga Sô ở ngay trong ḷng kẻ địch của họ. Thật là một mưu tính thâm và cao.
    Do hai lư do vừa kể trên, thuyết Cộng Sản, một sản phẩm của Tây phương, đă đương nhiên biến thành một lợi khí, trong tay của Nga Sô, để đánh lại Tây phương trên hai mặt, trong và ngoài.
    Thuyết Cộng Sản có thích nghi cho một xă hội kỹ nghệ hóa hay không? Chúng ta khó trả lời câu hỏi này mà khỏi lọt vào một cuộc luận chiến trường kỳ vô tận, cũng như mỗi khi chúng ta đặt cuộc tranh luận vào lĩnh vực triết lư. Nhưng một điều mà chúng ta có thể làm được, với những thực tế của lịch sử làm căn bản là xem xă hội Tây phương đă vượt qua những giai đoạn nào, sau khi đă từ chối thuyết Cộng Sản.
    Dầu sao, tính toán chiến thuật của các nhà lănh đạo Nga Sô, như trên đây đă tŕnh bày, thật sự, đă mang đến cho họ, những kết quả ngoài sự mong mỏi. Sau khi Nga Sô đă tuyên bố tự nhận ḿnh là thành tŕ của thuyết Các-mác, là quốc gia lănh đạo cuộc cách mạng xây dựng xă hội Cộng Sản, tất cả các đảng Cộng Sản, ở các quốc gia Tây phương, đương nhiên, biến thành những đồng minh chiến đấu của Nga Sô.
    Hơn thế nữa, quần chúng Tây phương, đang chống đối với các thiểu số lănh đạo của ḿnh, cũng hướng về Nga Sô như hướng về một người giải phóng. Do đó, nước Nga, với những vũ khí vật chất và trong thời kỳ cực thịnh của họ về kỹ thuật, chưa bao giờ đă gây được trong xă hội Tây phương những chấn động kinh khủng, như lúc bấy giờ, với một vũ khí tinh thần và trong một thời kỳ kém hẳn Tây phương về kỹ thuật và khoa học.
    Tuy nhiên, các nhà lănh đạo Tây phương đă đủ già tay ấn để dẫn dắt xă hội Tây phương vượt qua được các cơn sóng gió. Sự phát triển, vẫn hùng mạnh, trong xă hội Tây phương hiện nay, chứng minh rằng xă hội này, đă vượt qua cơn khủng hoảng và đă xây dựng được những cơ cấu xă hội thích nghi với các lực lượng sản xuất mới, mà không cần phải áp dụng phương thuốc Cộng Sản. Như vậy, chúng ta không cần phải thảo luận về tính cách, thích nghi hay không, của một xă hội Cộng Sản đối với các lực lượng sản xuất kỹ nghệ và đối với một khoa học kỹ thuật tiến bộ. Chúng ta chỉ cần nhận xét rằng, trong thực tế, đă có một h́nh thức xă hội khác thích nghi, một cách hữu hiệu, với các lực lượng đó.
    Và chính từ lúc Tây phương đă t́m được các phương thuốc xă hội, khác hơn những phương thuốc Cộng Sản, để chữa cơn khủng hoảng nội bộ của ḿnh, th́, từ lúc đó, thuyết Cộng Sản đă thấy hấp lực của ḿnh, ngày càng suy giảm đối với quần chúng Tây phương. Đấy là nguyên do chính của sự khủng hoảng nội bộ của các đảng Cộng Sản Tây phương hiện nay. Thuyết Cộng Sản không c̣n lư do tồn tại nữa, trong một xă hội đă được lành mạnh hóa, và đă được cải tạo theo một chiều hướng thích nghi với các lực lượng sản xuất đă gây ra cuộc khủng hoảng. Và ngày nay, điều này rất đỗi quan hệ cho chúng ta, sự bang giao giữa Nga Sô và các cường quốc Tây phương không c̣n đặt trên lĩnh vực lư thuyết nữa, như trước đây ba mươi năm. Sự bang giao này chỉ là một sự bang giao thông thường đặt trên những mâu thuẫn của các cường quốc với nhau.

    Hợp tung.

    Bây giờ chúng ta đến điều kiện thứ ba đă giúp cho Nga Sô thành công trong việc quan niệm và áp dụng một chiến lược thế giới để đương đầu với khối Tây phương đang ngự trị hoàn cầu.
    Chính v́ Tây phương đă chiếm gần hết thế giới, nên khắp thế giới, chỗ nào Tây phương cũng có kẻ thù. V́ thế cho nên, hợp tung tất cả kẻ thù của Tây phương vào trong một mặt trận, bao phủ địa cầu sẽ tăng cường hiệu quả của chiến lược của các nhà lănh đạo Nga Sô. Một mặt khác, các lănh tụ các quốc gia bị xâm chiếm, sau nhiều năm chiến đấu vô hiệu quả, và nhiều phen thất bại đau đớn, cũng đă lần lần nhận thấy rằng muốn chiến thắng một kẻ thù, mà nanh vuốt bao trùm khắp thế giới, th́ một cuộc chiến đấu, giới hạn trong khuôn khổ một quốc gia, không làm sao đưa đến kết quả được V́ lư do này, mà lời kêu gọi Đồng Minh của Nga Sô để chống kẻ thù chung, là Tây phương, được rất nhiều nhà lănh đạo quốc gia hưởng ứng, một cách thành thật và nồng nhiệt. Hầu hết các nhà lănh đạo các quốc gia bị Tây phương xâm chiếm đều qui tụ dưới lá cờ Cộng Sản của Nga Sô. Chỉ có một số nhà lănh đạo sáng suốt, đă soi thấu thâm ư chiến lược của Nga Sô, mới từ chối lời kêu gọi đồng minh của Nga. Trong sô này, có Gandhi và Nehru của Ấn Độ.
    Chúng ta vừa thấy, do đường ngơ nào, mà lư tưởng tranh đấu Cộng Sản đă chuyển từ Nga Sô sang các quốc gia đă bị thuộc địa hóa, nhất là các thuộc địa ở Á châu. Bởi v́ trong số các thuộc địa, các quốc gia này là những quốc gia đă có một nền văn minh cổ truyền, một cơ cấu xă hội vững chăi, khả dĩ huy động một sức đề kháng đáng kế, đối với Tây phương. V́ vậy mà Cộng Sản quốc tế đặc biệt chú trọng đến Á Châu. Chúng ta cũng vừa thấy cơ thức, theo đó, lư tưởng tranh đấu Cộng Sản, mà mục đích nguyên thủy là một cuộc cách mạng xă hội tại Tây phương, để xây dựng một trật tự mới thích hợp với các lực lượng sản xuất do những phát minh khoa học tạo ra, sang Nga, đă biến thành một lợi khí vừa để lũng đoạn nội bộ Tây phương vừa để phát triển dân tộc, và sang Á Đông, biến thành một lợi khí tranh đấu để giải phóng các dân tộc bị đế quốc thống trị. Khác với các tác phẩm của Các-mác, các tác phẩm của Lê-nin đề cập nhiều đến các thuộc địa của đế quốc, nhất là các thuộc địa Á châu, v́ những lư do trên đây.
    Sự đồng minh giữa các nhà lănh đạo Nga Sô và các nhà lănh đạo Á Đông, không v́ sự khác biệt giữa hai mục đích, mỗi bên đang riêng theo đuổi, mà kém chặt chẽ và kém hiệu quả. Bởi v́ lư do phát sinh và tồn tại của sự liên kết là chống Tây phương, kẻ thù chung.
    Các nhà lănh đạo Á Đông c̣n bị lôi cuốn vào cuộc đồng minh bởi một lư do thứ hai. Lư thuyết Các-mác đem đến cho các nhà lănh đạo này một kiểu mẫu xă hội tiền chế mệnh danh là một xă hội thích nghi với lực lượng sản xuất mới do khoa học đẻ ra. Chính v́ lư do này, một phần mà các nhà lănh đạo Nga Sô đă thâu nhận một lư thuyết Tây phương làm một lư thuyết tranh đấu cho dân tộc Nga.
    Trên kia chúng ta đă nêu câu hỏi: kiếu mẫu xă hội tiền chế đó có thật thích nghi với các lực lượng mới không? Và chúng ta đă từ chối không trả lời, chỉ nhận xét rằng, trong thực tế, đă có một h́nh thức xă hội khác thích nghi, một cách hiệu quả, với các lực lượng đó. H́nh thức nào thích nghi hơn? C̣n lâu lắm các sử gia mới trả lời được. Chỉ biết rằng h́nh thức xă hội Cộng Sản không thể giữ độc quyền tổ chức nhân loại. Và chỉ biết rằng h́nh thức xă hội Cộng Sản chưa hoàn thành và c̣n trong thời kỳ ṃ mẫm xây dựng. Trái lại, h́nh thức xă hội Tây phương cải tạo, đă thành h́nh và đang phát triển hùng mạnh.
    Cũng trong phạm vi này, một nhận xét khác rất quan hệ cho chúng ta v́ nó làm cho vấn đề thêm sáng tỏ. Các quốc gia, đă và đang, t́m phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa, trong đó có cả Nga Sô, và Trung Cộng, đều, đă và đang nỗ lực thâu thập kỹ thuật Tây phương. Như thế th́, trong lĩnh vực kỹ thuật tổ chức xă hội, cũng như trong tất cả mọi lĩnh vực kỹ thuật, nếu cần phải học hỏi, th́ đương nhiên là nên học hỏi trực tiếp với Tây phương, hơn là học hỏi với những người, đă và đang, học hỏi với Tây phương. Như thế, ngoài sự từ chối không làm học tṛ hạng nh́, chắc chắn chúng ta c̣n tránh được nhiều lỗi lầm của người học tṛ hạng nhất, ví dụ như “cái nhảy vượt bậc” và “phong trào nhân dân công xă” của các nhà lănh đạo Trung Cộng.
    Với thời gian qua, và nhờ ánh sáng của những sự kiện lịch sử đă xảy ra, từ lúc mới chớm nở cuộc Đồng Minh, giữa Nga Sô và các quốc gia bị thuộc địa hóa, đến ngày nay, chúng ta có thể có hai nhận xét căn bản, có ảnh hưởng nhiều đến đường lối của dân tộc sau này.

    Hai nhận xét

    Trước hết, mục đích giải phóng dân tộc, và hoàn cảnh bi đát của các phong trào kháng chiến quốc gia lúc bấy giờ, có thể để thuyết minh cho sự liên kết với Nga Sô của các. lănh tụ Á Đông. Mạnh hơn nữa, chúng ta có thể quả quyết rằng con đường liên kết với các lănh tụ Nga Sô, lúc bấy giờ, là con đường có nhiều bảo đảm trong giai đoạn tranh giành độc lập cho dân tộc. Nhưng, chúng ta cũng không nên quên rằng, có nhiều nhà lănh đạo, nh́n thấu thâm ư chiến lược của Nga Sô, như Gandhi và Nehru, đă từ chối sự liên kết trên, nhưng vẫn đạt đến kết quả giải phóng dân tộc của họ. Và, một chủ trương đă đúng trong một giai đoạn, không phải v́ đó, mà sẽ đúng trong tất cả các giai đoạn. Nghĩa là, sau khi độc lập đă khôi phục, dân tộc chuyển sang giai đoạn phát triển, bằng cách Tây phương hóa toàn diện, chính sách Cộng Sản, nghĩa là đường lối và phương pháp Cộng Sản có c̣n thích hợp không?
    Nếu có những nước, như Nga Sô, đă thực hiện được công cuộc phát triển bằng đường lối Cộng Sản, th́ cũng có những nước, như Nhật Bản, thực hiện được công cuộc phát triển, với một tŕnh độ không kém, bằng một đường lối không Cộng Sản. Chúng ta, sau này, sẽ bàn đến sự thích nghi hay không của đường lối Cộng Sản trong giai đoạn phát triển dân tộc của chúng ta. Nay chỉ cần ghi nhớ một điểm là, ít ra cũng có một đường lối khác để phát triển dân tộc, không kém hiệu quả hơn đường lối Cộng Sản.
    Có thể có người nói rằng, nếu Việt Nam không theo đường lối Cộng Sản th́ Trung Cộng đă không giúp cho phương tiện để chiến thắng ở Điện Biên Phủ. Về sự viện trợ của ngoại quốc, chúng ta sẽ đề cập đến một cách chi tiết dưới đây Nay, giải đáp thắc mắc trên đây chúng ta có thể nói rằng thời kỳ Điện Biên Phủ vẫn c̣n nằm trong giai đoạn tranh giành độc lập. Vả lại Trung Cộng giúp khí giới, kỹ thuật và phương tiện cho Việt Nam chiến thắng v́ Trung Cộng thân Việt Nam hơn là bài Mỹ hay là bài Mỹ hơn thân Việt Nam? Và khi viện trợ như vậy, Trung Cộng xem Việt Nam là một đồng chí Cộng Sản hay là một phần đất cũ xưa kia, và nay sắp sửa được gồm thâu vào lănh thổ của họ?
    Nhận xét căn bản thứ hai là như sau đây.
    Trong cuộc đồng minh giữa Nga Sô và các quốc gia Á Đông bị Tây phương thống trị, Nga Sô theo đuổi trước hết và trên hết mục đích phát triển dân tộc của ḿnh. Trong khi đó các quốc gia Á Đông lại theo đuổi trước hết và trên hết mục đích giải phóng dân tộc thoái khỏi ách để quốc thực dân.
    Sự khác biệt mục đích này đă đưa đến hai hậu quả đương nhiên. Khi nào có những biến cố xảy ra cho các đảng Cộng Sản bạn, làm cho những đảng này cần sự giúp đỡ sẽ không đến. Trường hợp này đă xảy ra rất nhiều lần, và thái độ của Staline đối với đảng Cộng Sản Trung Hoa trong thời kỳ bỉ cực là rơ rệt hơn cả. Bởi thế cho nên, mặc dầu có một cuộc liên minh, quốc tế và trên lư tưởng, v́ kẻ thù chung, nhưng quyền lợi của dân tộc là trên hết. Điều này chúng ta nên khắc sâu vào tâm năo.
    Hậu quả thứ hai là, khi nào một bên đă đạt được mục đích rồi, thời sự đồng minh không c̣n lư do tồn tại nữa, trừ ra nếu có những lư do chính trị do hoàn cảnh đương thời tạo nên. Ngày nay, Nga đă đạt được mục đích phát triển dân tộc, th́ lư do của cuộc đồng minh, đối với Nga, đă giảm giá đi rất nhiều. Nếu Nga c̣n thấy cần đồng minh nữa, th́ cũng chỉ v́ cuộc chiến đấu cổ truyền với Tây phương vẫn tiếp tục, chớ không phải v́ một lư tưởng. Ngày nào cuộc tranh đấu này đi vào một thời kỳ êm dịu, như chúng ta sẽ thấy dưới đây, th́ lư do đồng minh, đối với Nga, sẽ không c̣n nữa.
    Những sự kiện trên đây giải thích một phần rất lớn, vừa những mâu thuẫn xảy ra giữa Nga và các đảng Cộng Sản Á châu, vừa những sự xung đột giữa Nga và Trung Cộng.
    Như vậy là chúng ta đă xét qua ba điều kiện đă giúp cho Nga Sô chuyển cuộc tranh đấu cổ truyền với Tây phương trong phạm vi quốc gia, thành một cuộc tranh đấu vĩ đại, trong đó Nga Sô đă huy động được, vừa lớp người bất măn, trong nội bộ của Tây phương, vừa kẻ thù, khắp thế giới, của Tây phương để nỗ lực đánh bại Tây phương.
    Và Tây phương suưt bị đánh bại thật.
    Nếu trong trận đại chiến thử hai vừa qua, mà Nga Sô, v́ một lẽ ǵ, đứng 'được ngoài cuộc chiến tranh, th́, ngày nay cuộc diện thế giới đă chuyển theo một chiều khác vô cùng thắng lợi cho Nga Sô. Đại chiến thứ hai cũng như đại chiến thứ nhất, trước tiên, là cuộc chiến tranh, giữa các cường quốc Tây phương, để thanh toán những mâu thuẫn nội bộ với nhau.
    Lúc đầu của cuộc đại chiến, Nga Sô đă vận dụng nỗ lực để đứng ngoài chiến trận. Đó là một thái độ khôn ngoan nhất, v́, nếu đê hai phe, đồng minh và trục, tiêu diệt lực lượng lẫn nhau đến kiệt quệ, th́ sau đó, với lực lượng nguyên vẹn của ḿnh, Nga Sô sẽ nắm bá quyền Âu châu và ngày nay Tây phương sẽ yếu thế hơn nhiều.
    V́ vậy mà, đứng về quan điểm Tây phương, theo đó, Nga là một kẻ thù cổ truyền, sự tấn công, vào đất Nga của Đức Quốc Xă, là một hành động hợp lư. Và phe đồng minh liên kết với Nga là một hành động phản lịch sử, chỉ do những nhu cầu nhất thời về chính trị quyết định. Và chắc chắn là, sau này trong lịch sử tranh đấu giữa Nga và Tây phương, hành động của Đức Quốc Xă sẽ được ghi nhớ là một công trạng đối với Tây phương. Bởi v́ chính là nhờ ở sự tấn công Nga, làm cho Nga phải tiêu hao lực lượng nên sau khi chiến tranh chấm dứt, sự quân b́nh giữa Tây phương và Nga mới c̣n được như ngày nay.
    Đi sâu vào hơn một chút nữa, mặc dù Nga đă tiêu hao lực lượng rất nhiều, áp lực của Nga có thể, đối với Tây phương, sau khi chiến tranh chấm dút, c̣n mạnh mẽ hơn nhiều, nếu Tây phương chưa phát minh và chế ngự được nguyên tử năng. Sự phát minh này đă đưa kỹ thuật của Tây phương lên một tŕnh độ vượt hẳn kỹ thuật của Nga Sô. Và chính v́ sự chênh lệch đó mà Nga Sô đă phải giảm hạ áp lực thật sự của ḿnh đi rất nhiều. Chỉ sau đó nhiều năm, khi, nhờ sự đóng góp kỹ thuật của Đức, Nga bắt kịp Tây phương về nguyên tử năng, th́, lúc bấy giờ, áp lực của Nga mới trở thành mạnh mẽ và đi đến thế quân b́nh ngày nay. Và nhờ khoảng thời gian mấy năm đó, mà các cường quốc Tây Âu mới băng bó các vết thương chiến tranh, hưng vượng lại được và phát triển theo một đà mới, như chúng ta đă thấy ngày nay.


    Còn tiếp

  7. #17
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo


    Cơ hội



    Đồi với các quốc gia bị Tây phương thống trị, các biến cố xảy ra đă tạo nên một cơ hội hiếm có không ngờ. Giả sử mà mâu thuẫn nội bộ giữa các quốc gia Tây phương không gay cấn đến nỗi xảy ra chiến tranh, th́ Nga Sô sẽ không lợi dụng cơ hội mà tăng cường ảnh hưởng của ḿnh được. Đă như thế th́ các thuộc địa sẽ chưa được giải thoát. Giả sử mà chiến tranh có xảy ra thật, nhưng các cường quốc Tây phương đều nhận thức, theo như Đức, rằng chính Nga mới là kẻ thù chính tông và kịp thời, thỏa hiệp Đức, để quay tất cả lực lượng về đánh Nga, như nhiều lần Đức đă đề nghị, th́ kết quả cũng sẽ tương tự như trường hợp trên.
    Giả sử mà sau đại chiến thứ hai, các cường quốc Tây phương chưa phát minh được nguyên tử năng, th́ áp lực và ảnh hưởng của Nga đă lan tràn khắp Tây âu. Thế lực của Nga trên thế giới lấn át thế lực của Tây phương. Tây phương sẽ thâu hẹp ṿng kiểm soát. của họ lại nơi khu vực Bắc Mỹ và một vài nơi khác trên thế giới, như Úc châu và Nam Phi, th́ các thuộc địa sẽ rơi từ ṿng thống trị của Tây phương sang ṿng thống trị của Nga Sô. Công cuộc giải thoát dân tộc chưa chắc đă thực hiện dược, công cuộc phát triển th́ quả quyết là xa vời hơn nữa.
    Đằng này, các biến cố đă thật sự xảy ra đều không nằm vào một trong ba trường hợp trên. Nga không bị dồn vào một thế yêu quá, mà cũng không lấn áp được địch thủ. Tây phương không chế ngự được địch thủ, nhưng cũng không bị địch thủ chế ngự. Chính sự thể hai bên đồng sức và ḱnh chống nhau đó đă tạo ra cho chúng ta, nghĩa là cho các quốc gia bị thống trị, hoặc các quốc gia đang t́m phát triển, cơ hội duy nhất từ một thế kỷ, để phục hồi độc lập và phát triển dân tộc.
    V́ cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương dừng vào một giai đoạn quyết liệt, bên nào cũng nỗ lực t́m đồng minh, cho nên một mặt Tây phương lần hồi trả độc lập lại cho các nước bị tŕ, giúp đỡ phương tiện phát triển bằng Liên Hiệp Quốc, bằng kế hoạch Colombo, bằng viện trợ trực tiếp, v.v… Một mặt khác cũng với mục đích t́m đồng minh, Nga đă giúp đỡ các cuộc chiến tranh giải phóng và cũng giúp đỡ phương tiện phát triển cho nhiều quốc gia.
    Từ hai mươi năm nay, từ ngày đại chiến thứ hai chấm dút, chính trị thế giới giữa hai khối, tự do và Cộng Sản, đều do các sự kiện trên đây quyết định. Sự viện trợ cho các cường quốc Tây âu theo kê hoạch Marshall sự phục hưng Tây Đức và Nhật Bản, sự viện trợ cho các quốc gia vừa độc lập, tất cả đều nằm trong một kế hoạch hoàn cầu của Tây phương để liên kết các đồng minh, trong một chiến lược vĩ đại bao vây Nga Sô. Đối lại, sự giúp đỡ cho Trung Hoa phát triển, sự viện trợ cho các quốc gia chống Mỹ như Cuba, tất cả đều nằm trong một chiến lược hoàn cầu của Nga Sô để phá ṿng vây. Cho đến các phát minh về không gian cũng được dùng vào việc liên kết đồng minh trong cuộc chiến đấu vĩ đại giữa Tây phương và Nga Sô.
    Đối Với Các quốc gia, trước kia đă bị bán thuộc địa hóa, hay bị thuộc địa hóa, các sự kiện trên thật không phải là một cơ hội hiếm có, vô cùng quí báu hay sao? Tự nhiên độc lập được phục hồi và tự nhiên được viện trợ để phát triển.
    Cho đến ngày nay, bao nhiêu quốc gia đă nắm được cơ hội để phát triển? Chúng ta chỉ thấy có Trung Hoa.
    Việt Nam nắm được cơ hội chưa?
    Việt Nam chúng ta trong hai mươi năm nay, chẳng những chưa lợi dụng được mâu thuẫn nói trên đây, giữa Tây phương và Nga Sô, để phát triển dân tộc, lại c̣n bị lọt vào cái ṿng mâu thuẫn đó. Do đó, chẳng những chúng ta không phát triển được, lại c̣n bị tiêu hao nhân lực và tài lực đến một mức độ rất đáng lo ngại.
    Nếu lần này, các nhà lănh đạo dân tộc lại làm sẩy cơ hội thứ hai này nữa, th́, dựa theo kinh nghiệm thất bại lần trước, chúng ta cũng có thể đoán được hoàn cảnh nào đang chờ đợi dân tộc chúng ta. Và trách nhiệm thất bại, mà thế hệ chúng ta phải mang, đối với các thế hệ sau này, sẽ vô bờ bến.
    Một cơ hội hiếm có như vậy, lại đă kéo dài trong hai mươi năm, mà chúng ta chưa nắm được. Các nhà lănh đạo dân tộc hiện nay, xem thế cũng phải lấy làm khiếp đảm và tự khiển trách đến cực độ. Nếu chúng ta lại c̣n lỡ cơ hội nữa, th́ các nhà lănh đạo hiện nay sẽ mang nặng, đối với dân tộc, một lỗi lầm không có ǵ tha thứ được.
    Các nhà lănh đạo, phía Nam và phía Bắc, của chúng ta đă nhận thức t́nh trạng, vô cùng nguy ngập và khẩn cấp cho chúng ta, như trên đây đă tŕnh bày chưa? Nếu chúng ta, căn cứ trên các biển cố xảy ra từ hai mươi năm nay, và nhất là từ mười năm nay, chúng ta phải thú nhận rằng chưa có một triệu chứng ǵ bảo đảm cho chúng ta rằng, nguy cơ đang đe dọa dân tộc đă được các nhà lănh đạo, phía Nam và phía Bắc, ư thức.
    Chúng ta sống ở phía Nam, nên trong hai mươi năm vừa qua, có mấy dịp nhận thấy rằng các nhà lănh đạo, liên tục kế tiếp nhau thọ lănh trách nhiệm về vận mạng của quốc gia, chưa có lúc nào tỏ ra nh́n thấy vấn đề căn bản mà dân tộc cần phải giải quyết trong giai đoạn này. Đă không nh́n thấy vấn đề căn bản, th́ cố nhiên là không nh́n thấy t́nh trạng vô cùng nguy ngập đang đe dọa dân tộc.
    Đối với các nhà lănh đạo phía Bắc, nghiên cứu các sáng tác về chính trị cũng như các hành động chính trị của họ, chúng ta công nhận rằng, nhờ sự nghiệp nghiên cứu các thực tế lịch sử của Cộng Sản quốc tế, vấn đề căn bản của dân tộc có thể đă được họ nh́n thấy rơ hơn. Tuy nhiên, các nhà lănh đạo Nga Sô đă sử dụng thuyết Cộng Sản như là một lợi khí để chiến đấu với Tây phương, như chúng ta đă nhận thức trong các trang trên đây và chính Mao Trạch Đông đă viết câu sau đây về thuyết Cộng Sản.

    “Sở dĩ chúng ta nghiên cứu thuyết Các-mác không phải v́ luận điệu tốt đẹp của nó, cũng không phải v́ nó đựng một phép thần diệu để trừ ma quỉ. Nó không đẹp, nó cũng không thần diệu. Nó chỉ ích lợi. Có nhiều người cho nó là thần dược trừ bá chứng. Chính những người này đă xem thuyết Các-mác là một giáo lư. Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo lư của họ không có ích lợi bằng phân bón. Phân bón c̣n làm giàu ruộng đất, giáo lư không làm được việc đó.”

    Nghĩa là các lănh tụ tối cao của khối Cộng Sản đều xem thuyết Cộng Sản là một phương tiện. Họ chế ngự phương tiện tinh thần đó – do Tây phương phát minh ra – cũng như những phương tiện vật chất khác của Tây phương. Ngược lại, các sáng tác chính trị của các nhà lănh đạo phía Bắc, lại chứng tỏ rằng, những người lănh đạo này c̣n đang say mê thuyết Cộng Sản và đương nhiên tôn nó lên hàng một chân lư. Đưa một phương tiện chiến đấu của người, lên làm một chân lư của ḿnh, là mặc nhiên hạ ḿnh xuống thấp hơn một bậc đối với các lănh tụ Cộng Sản quốc tế và tự biến ḿnh thành một thứ nô lệ trí thức để cho người sử dụng. V́ vậy cho nên, trong nhiều hành động chính trị của các nhà lănh đạo phía Bắc, lư thuyết Cộng Sản được để lên trên quyền lợi của dân tộc, điều ấy chứng tỏ rằng, trong lĩnh vực ngoại giao giữa các quốc gia, họ tin rằng một sự đồng minh về lư thuyết có thể đặt trên quyền lợi của dân tộc.
    Do các lư lẽ trên đây chúng ta có thể quả quyết rằng các nhà lănh đạo phía Bắc vẫn chưa nhận thức nguy cơ đang đe dọa dân tộc và những ngày đen tối của chúng ta vẫn c̣n tiếp tục.

    Cơ hội thứ hai đă mất chưa?

    Ngày nay chúng ta đă lỡ cơ hội thứ hai để phát triển dân tộc chưa?
    Như ta đă thấy cơ hội nói trên được tạo ra do những mâu thuẫn phát sinh từ một cuộc tranh đấu giữa Tây phương và Nga Sô. Vậy cơ hội sẽ mất trong hai trường hợp:
    1.- Mâu thuẫn vẫn c̣n, nhưng chiến lược hai bên đều thay đổi, cho nên sự liên kết đồng minh không cần thiết nữa.
    2.- Mâu thuẫn không c̣n.
    Trong cuộc tranh đấu hiện nay giữa Tây phương và Nga Sô, Tây phương do Mỹ lănh đạo về quân sự và Anh, Mỹ lănh đạo về đường lối.
    Trên phương diện quân sự, chiến lược của Mỹ không phải là một chiến lược tấn công, nhưng là một chiến lược phản công kịp thời bằng vơ khí nguyên tử, ngay vào các trung tâm chiến lược của Nga Sô. Do đó, và bởi v́ lúc đầu của giai đoạn hiện tại của cuộc tranh đấu, tầm hoạt động của phi cơ, phi đạn đều có giới hạn cho nên Mỹ cần một số căn cứ chiến lược bao quanh Nga Sô từ Âu sang Á. Đó cũng là nguyên nhân của công cuộc Mỹ viện trợ các nước không phải là Tây phương. Nơi nào Mỹ đóng căn cứ là nơi đó Mỹ viện trợ. Sau đó khi bộ máy viện trợ đă thành và chạy đều, nhiều sự kiện chính trị hay kinh tế chiến lược khác cũng thành những lư do viện trợ.
    Để phá ṿng vây của Mỹ, Nga cũng viện trợ cho các quốc gia đó, để cho sự cần thiết đối với Mỹ kém đi th́ các quốc gia liên hệ có thể từ chối không cho Mỹ đặt căn cứ trên lănh thổ ḿnh. Đồng thời Nga Sô nỗ lực chế các loại phi đạn có tầm hoạt động xa để bắn tới các trung tâm chiến lược của Mỹ.
    Các quốc gia tốt số đó, được hai bên ưu đăi và nếu ư thức được vấn đề căn bản của ḿnh, th́ dùng viện trợ đó để phát triển dân tộc.
    V́ Mỹ có căn cứ ở gần Nga Sô, mà Nga Sô không có căn cứ ở gần Mỹ cho nên Nga Sô mới dồn hết nỗ lực kỹ thuật và kỹ nghệ của ḿnh vào việc sáng chế các phi đạn trường xạ tŕnh liên lục địa và đă tiến bộ hơn Mỹ về điểm này. Và, đương nhiên, tiến bộ hơn Mỹ về không gian phi hành, bởi v́ ngành này phải dùng loại phi đạn trường xạ tŕnh. Mỹ ỷ lại vào các căn cứ đă có gần Nga Sô, nên không chú trọng đến các phi đạn trường xạ tŕnh.
    Tuy nhiên bởi v́ sự tuyên truyền của Nga Sô, nên các căn cứ quân sự của Mỹ, ở các nơi trên thế giới, gây ra nhiều thất bại về chính trị, ví dụ, như ở Nhật, khi Tổng Thống Eisenhower sắp sửa sang viếng Đông Kinh năm 1960. Cân nhắc kỹ, cái lợi quân sự không bù cái hại về chính trị, cho nên Mỹ lại xoay sang chiến lược thay thế các căn cứ cố định trên đất liền, bằng những căn cứ phóng hỏa tiễn trung xạ tŕnh, lưu động: Các tiềm thủy đĩnh nguyên tử.
    Trên phương diện quân sự, sự thay đổi chiến lược này, có nghĩa như là Mỹ đă tăng gia được tầm hoạt động của các phi đạn và không cần các căn cứ quân sự chung quanh Nga nữa.
    Căn cứ không cần đặt, th́ viện trợ sẽ rút. Khi nào số tiềm thủy đĩnh nguyên tử của Mỹ lên đến số lượng đủ dùng để thay thế các căn cứ trên lục địa, th́ viện trợ Mỹ sẽ chấm dứt
    Và cơ hội phát triển của các nước nghèo sẽ bớt đi nhiều.
    Công cuộc rút này đă bắt đầu thi hành ở nhiều nơi. Tuy nhiên, nếu trường hợp này xảy ra, mâu thuẫn Nga Sô - Tây phương vẫn c̣n, và các nước nhỏ mặc dầu phát triển có khó khăn, nhưng vẫn c̣n có hy vọng phát triển và độc lập không đến nỗi bị đe dọa.
    Đường lối của Tây phương, trong công cuộc chiến đấu với Nga Sô, do Anh, Mỹ lănh đạo. Căn bản chính yếu của đường lối này, càng ngày càng bộc lộ rơ rệt. Các nhà lănh đạo Tây phương nhận thức hai điều.
    Trước hết lư do chính, v́ đó mà Nga Sô đă dốc hết nhân lực và lài lực của ḿnh vào công cuộc chiến đấu vĩ đại với Tây phương, là ư chí của Nga Sô để thực hiện công cuộc phát triển dân tộc.
    Điều thứ hai là Nga Sô đă thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc và nay trở thành một cường quốc mà sức mạnh và năng lực đáng được kính nể.

    Đường lối của Tây phương.

    Tất cả đường lối của Tây phương trong cuộc chiến đấu với Nga Sô đă được xây dựng từ trên hai nhận xét căn bản.
    Như chúng ta đă thấy, trong một giai đoạn trên đây bàn về nước Nga, nước Nga và Tây phương có một di sản tinh thần chung: Đạo Gia Tô. Nhưng Tây phương theo Gia Tô Tây phái, Giáo chủ ở tại La Mă; Nga Sô theo Gia Tô Đông phái, Giáo chủ lúc đầu ở Hy Lạp. Và hai nền văn minh Tây phương và Nga do đó có nhiều điểm giống nhau. Nhưng v́ một sự kiện lịch sử, mà chúng ta đă biết, di sản tinh thần chung, có thời kỳ, có hiệu lực là một yếu tố liên hợp giữa hai bên, lại, có thời kỳ, có hiệu lực là một mầm chia rẽ.
    Mặc dù phải vơ trang đến cực độ và thủ thế với nhau từng hành động và từng lời nói, đường lối của Tây phương hiện nay đối với Nga Sô là, kêu gọi đến tính cách liên hiệp của di sản tinh thần chung, mục đích đưa Nga trở về với xă hội Tây phương và khối người cùng một nền văn minh.
    Tất cả nỗ lực ngoại giao của Tây phương đều hướng về mục đích trên, từ những hành động nhỏ nhặt, của từng cá nhân, đến những trao đổi văn hóa và những hiệp ước thương mại hay quân sự, giữa Nga Sô và các quốc gia Tây phương.
    Ví dụ, không phải t́nh cờ mà người Anh đặt tên cho vệ tinh đầu tiên sắp bắn lên quĩ đạo là “Britnik”. Nhưng mà là cố ư tỏ ḷng thán phục những vệ tinh “Spoutnik' của Nga. “Brit” là British (của người Anh), “nik” để nhắc rằng những vệ tinh của loài người bắn lên không gian trước hết là của Nga Sô. Ngụ ư của sự lựa chọn trên, là để thỏa măn ḷng tự ái của Nga Sô lâu nay vẫn bị Tây phương xem là thấp kém, và nhắc nhở Nga Sô rằng Nga Sô và Tây phương đều cùng chung một nền văn minh.
    Không phải t́nh cờ mà ông Paul Reynaud cựu Thủ tướng Pháp, trong cuộc thăm viếng nước Nga đă long trọng tuyên bố với Thủ tướng Krutchev: “Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu châu.”
    Những sự hoan nghinh và tiếp rước nồng hậu các phi hành gia Nga, ở các kinh đô Tây phương, cũng hàm cùng một ư nghĩa. Những sự trao đổi về văn hóa và khoa học, trong hội nghị quốc tế, hay những cuộc viếng thăm của những phái đoàn văn nghệ của hai bên đều là những hành động có tính toán, chuẩn bị dư luận của hai bên, để dẫn dắt lần lần quần chúng của hai bên đến chỗ thông cảm với nhau.
    Báo chí Tây phương không ngớt ca ngợi những thành tích khoa học và xă hội của Nga Sô và luôn luôn nhắc nhở đến những thời kỳ mà sự liên lạc giữa các nước Nga và Tây phương rất là thân hữu. Tất cả các hành động trên, trong tất cả các lĩnh vực, đều dọn đường để cho Nga Sô trở về với xă hội Tây phương.
    Cuối cùng và quan hệ hơn hết, là những nỗ lực để phát huy di sản tinh thần chung. Sau khi đă ly khai với nhau trong nhiều thế kỷ, giáo chủ Gia Tô Tây phái ở Roma là Giáo Hoàng Gioan XXIII đă mời và tiếp kiến các vị giáo chủ Tin Lành và các vị giáo chủ Gia Tô Đông phái. Các báo chí Tây phương đều hết sức hoan nghinh những cuộc tiếp xúc trên, để chuẩn bị cho công cuộc thống nhất Gia Tô giáo.
    Sự tổ chức Công Đồng Vatican I tiếp tục chính sách trên và thích hợp với một đường lối chính trị của Tây phương. V́ vậy cho nên, sau khi Gioan XXIII đă từ trần, th́ dĩ nhiên Phao Lô VI sẽ tiếp tục chính sách trên và tổ chức Công Đồng Vatican II, trong đó, các giáo chủ các phái Gia Tô, ngoài Tây phái, đều được mời tham dự với tư cách là quan sát viên.
    Xem thế, chúng ta nhận thấy một cách rơ rệt, xuyên qua không khí phức tạp và rối rắm, của sự bang giao giữa hai khối, những nét chính yếu của đường lối Tây phương đối với Nga Sô.


    Còn tiếp

  8. #18
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếptheo




    Chỉnh đốn nội bộ

    Đồng thời với sự thi hành đường lối nói trên với Nga Sô, và cũng để làm hậu thuẫn cho đường lối ấy, Tây phương đang vận dụng nỗ lực của ḿnh để chinh đốn lại nội bộ xă hội Tây phương.
    Các cường quốc Tây Âu ngày nay trải qua một giai đoạn, có nhiều điểm tương đồng với thời đại Chiến Quốc bên Tàu và thời kỳ các đô thị quốc gia của Cổ Hy Lạp hay là thời kỳ các đô thị quốc gia của Ư vào các thế kỷ X đến XIV.
    Đại khái, các đô thị quốc gia Cổ Hy Lạp ngày xưa cũng là nơi đă phát sinh một nền văn minh sáng lạng và cường thịnh. Người Hy Lạp cũng đă vượt sóng chinh phục các dân tộc ở khắp ven biển Địa Trung Hải. Hạt giống văn minh do họ gieo rắc, đă nảy mầm nhiều nơi, và ở những nơi này, nhiều quốc gia nhờ dân đông và đất rộng đă phát triển mạnh bạo, trở thành những lực lượng hùng hậu lấn áp cả uy thế của mẫu quốc.
    Và nhiều quốc gia mới đă trở lại chinh phục các đô thị quốc gia Hy Lạp. Lúc đó các đô thị quốc gia này đă phải sụp đổ v́ không thắng nổi những sự tranh chấp cổ truyền để thống nhất lực lượng, chống xâm lăng.
    Ngày nay, các cường quốc Tây Âu cũng vậy. Đó là nơi phát sinh nền văn minh Tây phương đă chinh phục thế giới.
    Hạt giống văn minh của họ đă nảy mầm khắp nơi trên địa cầu ở nhiều nơi này, nhờ dân đông và đất rộng, nhiều quốc gia đă phát triển mạnh bạo trở thành những lực lượng đe dọa cả các cường quốc Tây âu. Ví dụ Nga Sô hay Mỹ.
    Rút kinh nghiệm thất bại của các đô thị quốc gia Cổ Hy Lạp, các nhà lănh đạo Tây Âu đang huy động hết nỗ lực của ḿnh để thực hiện, sự thống nhất Âu châu. Những hiệp ước quan thuế sáu nước, hiệp ước quan thuế bảy nước, và, ngay đến Thị Trường Cộng Đồng Âu Châu đều là những thực hiện đầu tiên và cụ thể của những cố gắng nói trên.
    Sau khi, v́ mâu thuẫn nội bộ mà suưt bị đánh bại, và v́ mâu thuẫn với Nga Sô mà mất hết các thuộc địa, trước kia là nguồn cung cấp thiên sản cho họ, các cường quốc Tây Âu nhận thức rằng con đường sống duy nhất của họ là thanh toán các mâu thuẫn nói trên. Và chính đó là điều mà họ đang làm.
    Đối với chúng ta, các quốc gia đă bị đế quốc thống trị, các mâu thuẫn trên đă tạo cho chúng ta cơ hội ngày nay.
    Vậy th́, ngày nào, các cường quốc Tây Âu và Tây phương, thành công trong dự tính của họ, các mâu thuẫn trên không c̣n nữa, và cơ hội của chúng ta cũng sẽ mất. Vậy câu hỏi là: các cường quốc Tây phương đă thành công chưa?
    Trong công việc thanh toán mâu thuẫn nội bộ, có nhiều triệu chứng chỉ răng họ có thể thành công và đang thành công. Triệu chứng quan trọng nhất là ư thức, ngày càng rơ rệt, của quần chúng Âu châu đối với quan niệm “Âu châu quốc gia chung”. Trên phương diện này, những hành động, có đượm tính cách di hận cá nhân của tướng De Gaulle đối với các nhà lănh đạo Anh, Mỹ, thành ra một trở lực cho công cuộc thanh toán mâu thuẫn nội bộ âu châu. V́ vậy, mà chúng la có thể đoán rằng tướng De Gaulle c̣n sống, uy tín cá nhân của De Gaulle sẽ che chở cho chính sách của ḿnh, nhưng lần hồi nước Pháp sẽ bị cô lập. Tướng De Gaulle chết đi công cuộc thanh toán các mâu thuẫn nội bộ của Âu châu sẽ tiến hành dễ dàng hơn.
    Đối với chúng ta, những mâu thuẫn nội bộ, giữa các cường quốc Tây phương, ngày nay, không c̣n quan hệ như những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương nữa. Bất quá đó chỉ là những mâu thuẫn có thể dùng được trong công cuộc ngoại giao thông thường.
    Vậy, Tây phương đă thành công trong công việc thanh toán mâu thuẫn giữa Nga và Tây phương chưa? Cố gắng của Tây phương trong công việc thanh toán mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương, vừa nhằm mục đích tránh cho nhân loại một chiến tranh nguyên tử thảm khốc, vừa nhằm mục đích cứu thoát văn minh Tây phương khỏi một sự tiêu diệt chắc chắn, nếu một cuộc chiến tranh nguyên tử bùng nổ giữa Nga Sô và Tây phương.

    Thái độ của Nga Sô

    Nga Sô, ngày nay, đứng trước hai lời kêu gọi. Một bên, lời kêu gọi của Tây phương là lời kêu gọi của gia đ́nh những người cùng một văn minh và cùng một di sản tinh thần. Một bên, là lời kêu gọi của gia đ́nh những người cùng một lư tưởng Cộng Sản.
    Chính trị thượng từng của thế giới ngày nay, sẽ được qui định bởi thái độ của Nga Sô trước hai lời kêu gọi trên. Ở vào một tŕnh độ phát triển, như tŕnh độ của Nga Sô ngày nay, Nga Sô có thể đáp lời kêu gọi của Tây phương. Nhưng kư ức cuộc tranh đấu gay go với Tây phương, trong suốt mấy thế kỷ, cũng chưa có thể sớm chiều phai mờ trong trí các nhà lănh đạo Nga Sô.
    Nga Sô có thể đáp lại lời kêu gọi của gia đ́nh các đồng chí lư tưởng Cộng Sản. Nhưng các nhà lănh đạo Nga Sô, cũng thừa hiểu rằng lư tưởng Cộng Sản làm một phương tiện tranh đấu, đă giúp cho Nga Sô thực hiện cuộc phát triển dân tộc và chỉ c̣n giá trị khi c̣n một ích lợi nào cho cuộc tranh đấu giữa Nga Sô và Tây phương. Mà cuộc tranh đấu của Nga Sô đôi với Tây phương ngày nay không c̣n như xưa nữa. Lư tưởng Cộng Sản hết c̣n là một lợi khí sắc bén trong ḷng địch Tây phương nữa, bởi v́ Tây phương đă t́m được những phương thuốc có khả năng loại lư tưởng Cộng Sản ra ngoài xă hội của họ.
    Vậy Nga Sô sẽ ngả về bên nào? Khó mà biết được.
    Nhưng có lẽ thái độ chính trị thiết thực nhất, là Nga Sô sẽ tùy theo hoàn cảnh thực tế, mà có lúc ngả bên này và có lúc ngả bên kia. Có điều chắc chăn là lư tưởng Cộng Sản đối với Nga Sô đă giảm giá trị đi rất nhiều. V́ lư do này, và v́ lư do Nga Sô có lúc tỏ ra thiên về Tây phương, cho nên mới gây nhiều sự tranh luận lư thuyết với Trung Cộng.
    Nhưng trong giai đoạn này, Nga Sô đang ngả về đâu?
    Thuyết sống chung ḥa b́nh của Nga có thể là một kế hoạch ru ngủ đối với Tây phương, nhưng chắc hơn là Nga Sô cũng trông thấy sự tai hại của một cuộc chiến tranh nguyên tử đối với nhân loại, và nhất là đối với văn minh Tây phương. Và chủ trương sống chung ḥa b́nh, đương nhiên, đồng ư với Tây phương để cứu thoát văn minh Tây phương khỏi họa tiêu diệt. Và gần đây, thái độ của quần chúng Nga Sô, đối với các phái đoàn văn hóa Tây phương, tỏ ra nhiều cảm t́nh, đó là một triệu chứng Nga Sô thiên về Tây phương.
    Một triệu chứng khác về sự Nga Sô hiện nay có lẽ đang thiên về Tây phương là phản ứng vô cùng mạnh bạo của Trung Cộng đối với thái độ dung ḥa của Nga Sô. Trung Cộng đang ở vào một t́nh trạng, tương tự như của chúng ta, nghĩa là của một quốc gia vừa độc lập và đang t́m phát triển.
    Trung Cộng cũng đang cần có sự mâu thuẫn giữa Nga và Tây phương để phát triển. Chỉ khác với chúng ta một điều là khối người của Trung Cộng là một yếu tố vô cùng quan trọng, có thể dùng đó mà làm lệch cán cân chính trị thế giới.
    V́ vậy cho nên Trung Cộng ảnh hưởng được đến sự bang giao giữa Nga Sô và Tây phương. Nhưng cũng v́ số người to tát này mà công cuộc phát triển của Trung Cộng vô cùng khó khăn. Khi nh́n thấy Tây phương đang t́m cách thanh toán các mâu thuẫn giữa ḿnh và Nga Sô, và xem chiều Nga Sô muốn thiên về Tây phương, th́ Trung Cộng, lấy tư cách là một phần tử quan trọng trong gia đ́nh lư tưởng Cộng Sản, phản đối rất gay gắt. Chắc chắn rằng các nhà lănh đạo Trung Cộng hiện nay rất lo âu về việc mâu thuẫn giữa Nga và Tây phương có thể hết trong khi công cuộc phát triển của Trung Cộng chưa hoàn thành.
    Dầu sao, nếu chưa mất hết hẳn, th́ mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương đă giảm đi nhiều. Và đồng thời cũng giảm đi cơ hội phát triển cho chúng ta, nếu chúng ta không sớm tỉnh ngộ để nắm lấy dịp mà phát triển dân tộc. Kinh nghiệm thất bại lần trước đủ cho chúng ta thấy hoàn cảnh bi đát mà chúng ta sẽ lọt vào kỳ này, nhất là nếu kỳ này người láng giềng khổng lồ của chúng ta phát triển được dân tộc của họ.
    Tuy nhiên, trong một thế giới gồm nhiều cường quốc như thế giới hiện tại, nếu loại mâu thuẫn này chấm dứt, th́ thế nào giữa các cường quốc cũng nảy sinh ra những loại mâu thuẫn khác. Sự sinh tồn của các quốc gia nhỏ bé như quốc gia chúng ta căn cứ trên sự khai thác đúng mức các loại mâu thuẫn. V́ vậy cho nên, miễn là thiểu số lănh đạo xứng danh của chúng ta c̣n, là chúng ta c̣n cơ hội phát triển. Cơ hội phát triển của chúng ta khác với cơ hội phát triển của các khối lớn, như Trung Hoa hay Ấn Độ, là ở chỗ đó.
    Trong các đoạn trên đây chúng ta đă cố gắng t́m hiểu công cuộc mà dân tộc chúng ta cần phải thực hiện, trong giai đoạn này, để bảo vệ độc lập và mưu hạnh phúc cho toàn dân.
    Công việc đă nh́n thấy, hoàn cảnh bên ngoài có thuận tiện, vậy thực hiện được hay không c̣n phụ thuộc điều kiện nội bộ của chúng ta. Trong phần sau đây, chúng ta sẽ t́m hiểu những điều kiện nội bộ nói trên.


    Đón xem phần III

  9. #19
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo


    Phần III

    ĐIỀU KIỆN NỘI BỘ




    Thật ra th́, v́ sự minh bạch của vấn đề tŕnh bày, nên, trong các phần trước, có nhiều điều kiện nội bộ đă được đề cập đến. Dưới đây, chúng ta sẽ xem lại toàn thể các điều kiện nội bộ, và nếu cần sẽ nhắc lại các điều kiện đă bàn đến. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ gồm vào phần này những điều kiện phát sinh ra do sự liên lạc của Việt Nam với các phần tử khác trong xă hội Đông Á, và với các quốc gia đang t́m phát triển. Sự liên lạc, với các quốc gia trong xă hội Đông Á, có thể xem là điều kiện nội bộ của chúng ta, bởi v́ chúng ta là một phần tử trong xă hội đó. Sự liên lạc, giữa chúng ta và các nước đang t́m phát triển, có thể xem là điều kiện nội bộ, bởi v́ trong một thế giới do Tây phương và Nga Sô phân chia ảnh hưởng như ngày nay, chúng ta và các nước đang t́m phát triển, đều ở vào những hoàn cảnh có nhiều điểm tương đồng.

    Thật đúng ra th́, trong phần này chúng ta sẽ phân tích tất cả các điều kiện đă, hay có thể, gây cho chúng ta một cái vốn thuận hay một cái vốn nghịch, trong sự thực hiện công cuộc phát triển dân tộc của chúng ta.

    Liên lạc với Trung Hoa.

    Từ khi lập quốc, năm 939, đến khi bị sự tấn công của Tây phương và biến thành một thuộc địa của đế quốc Pháp, hai sự kiện hoàn toàn chi phối chín trăm năm lịch sử của dân tộc Việt Nam.

    Hai sự kiện đó là sự liên lạc với Trung Hoa và công cuộc Nam tiến.

    Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trưng Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lư đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đă nh́n nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đă mất một phần lănh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu gồm phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của ḿnh. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên.

    Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đă nh́n nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, v́ Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thuỷ và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.

    Quan niệm Trung Quốc.

    Ư cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa măn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, th́ các nhà lănh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, t́m cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt ḿnh vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.

    Trong 900 năm, từ năm 939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xă hội Đông Á làm cho những mâu thuẫn, nội bộ của xă hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đă bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lănh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đă như vậy th́, ngay bây giờ, ư định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, th́ ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ v́ lư do này mà, năm 1883, Lư Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đă, thay v́ gửi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và thay v́ cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lư ra phải có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia đôi Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho ḿnh các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 17 trở lên phía Bắc, cũng v́ lư do trên.

    Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên.

    Họa xâm lăng của Trung Hoa vừa tạm ngưng, v́ sự tấn công của Tây phương, là chúng ta lọt ngay vào sự thống trị của đế quốc Pháp.

    Ngày nay, ách thực dân vừa mới cởi được, nhưng cái họa xâm lăng đối với chúng ta không thể v́ thế mà thuyên giảm. Bởi v́ họa xâm lăng, do vị trí địa dư của chúng ta và t́nh trạng nội bộ của chúng ta mà ra, và bao giờ hai yếu tố đó chưa thay đổi được th́ họa xâm lăng vẫn c̣n.

    Tâm lư thuộc quốc.


    Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lănh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lư thuộc quốc.

    Hai lần Lư Thường Kiệt và Nguyễn Huệ t́m cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lănh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế.

    Tâm lư thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại c̣n lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, th́ đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lư đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đă đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công tŕnh mà dân tộc đă thực hiện được, Nhưng chúng ta c̣n thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn th́, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đă sớm phát ra nhiều ngơ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đă rộng răi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi đào và hữu hiệu hơn.

    Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lănh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cơi về phía Nam.

    Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lănh đạo triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng răi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là v́ các nhà lănh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nổi không khí tâm lư thuộc quốc đă đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đă biết Trung Hoa đă hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đă lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam.

    Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đ́nh, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đ́nh, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho ḿnh.

    V́ thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đă tŕnh bày, th́ cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đă mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, th́ có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều.

    Sự bành trướng của chúng ta đă thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lư ra phải là cái cửa sống cho chúng ta.

    Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, th́ ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lănh thổ.

    Lỗi lầm trước đă như vậy đó.

    Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đă bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lănh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm.

    Chống ngoại xâm.


    V́ vậy cho nên, chống ngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam. Chính trị cổ truyền, của các triều đại Việt Nam không được quan niệm rộng răi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa, th́ lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay v́ mở cho chúng ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đă đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lănh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ.

    Chính sách chống ngoại xâm.

    Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. V́ sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lănh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương?

    Trước hết, các biện pháp cổ truyền đă đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vẩn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam, th́ như thế là đương phải với mục đích đương nhiên, chúng ta đă thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoăn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. V́ thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đă không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.

    Lư do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nh́n nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, th́ nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn.

    Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.

    Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ư thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lănh đạo, để cho vấn đề lănh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

    Nếu ư thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm năo của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, th́ các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ư chí quật cường của cả một dân tộc.

    Nhưng ư chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lănh đạo th́ cũng không làm ǵ được đối với kẻ xâm lăng.

    V́ vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lănh đạo, và, điều này c̣n chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lănh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi v́, có như thế, những người lănh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lănh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng.

    Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lư luận đă dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.

    Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.

    Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ư thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lănh đạo, để cho vấn đề lănh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

    Sự thể đă như vậy, th́ đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi v́ bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm năo của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ư chí, dễ điều khiển, dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ.

    Bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lănh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.

    Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ư thức của mọi người, th́, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi v́, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lănh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm.

    Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mănh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay v́ lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đă nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ư thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân.

    Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Măn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lănh đạo đă khêu gợi được ư chí tự do và độc lập của toàn dân.

    Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đă nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam. V́ những lư do tŕnh bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lư thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lư, mà sẽ được qui định một cách rơ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với tŕnh độ phát triển của dân tộc.

    Nếu bây giờ chúng ta chưa có ư thức rơ rệt chính thể ấy phải như thế nào, th́ ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rơ rệt.


    Còn tiếp

  10. #20
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo


    Công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam

    Công cuộc Nam tiến và sự bang giao với Trung Hoa là trung tâm điểm của 900 năm lịch sử Việt Nam từ ngày lập quốc năm 939, đến lúc lâm vào sự thống trị của đế quốc Pháp.
    Thật ra, chính v́ áp lực, quá mạnh bạo của nước Trung Hoa to lớn, và, v́ sự sống c̣n của dân tộc, mà chúng ta bị dồn vào thế Nam tiến. Bị đặt vào những điều kiện lịch sử và địa dư, như những điều kiện mà chúng ta phải đương đầu, ngay lúc vừa lập quốc, một dân tộc quen sống về nông nghiệp như chúng ta, có thể đưa công cuộc bành trướng của chúng ta theo một hướng khác không?
    V́ sao mà trong 900 năm, chúng ta đi dọc theo bờ biển từ Bắc chí Nam, mà không lúc nào chúng ta bị sự quyến rũ của trùng dương, đến mức vượt biển t́m đất sống? Sự bành trướng duy nhất về phía Nam có phải là giải pháp duy nhất không?
    Nếu, thay v́ Nam tiến, chúng ta vượt dăy Trường Sơn và mang sinh lực của dân tộc lên chinh phục vùng Cao Nguyên, th́ vận mạng của dân tộc có trở thành hứa hẹn nhiều hơn ngày nay không, cả về phương diện trù phú cho toàn dân, về phương diện tính khí của con người và về sự tiến hóa của văn minh của chúng ta. Trả lời tất cả những câu hỏi trên đây là một điều vô cùng quan trọng, một mặt để t́m hiểu cái hay và cái dở của sự lănh đạo dân tộc trong dĩ văng, và một mặt khác, để nhận thức sự phát triển trong tương lai của dân tộc.
    Và, sớm muộn ǵ, các nhà lănh đạo của chúng ta, dưới sự thúc đẩy của thực tế, và sức bành trướng tự nhiên của dân tộc, cũng phải t́m câu trả lời thiết thực cho các câu hỏi trên.
    Trong các ḍng dưới đây, mặc dầu tính cách quan trọng của các vấn đề vừa mới nêu lên, chúng ta sẽ cố t́nh gạt bỏ một bên và không đề cập đến những vấn đề đó. Chúng ta chỉ t́m phân tích cuộc Nam tiến của chúng ta, từ dăy Hoành Sơn đến vịnh Thái Lan, trên phương diện hậu quả mà cuộc Nam tiến ấy đă để lại cho dân tộc, và thử đánh giá cái vốn thuận hay nghịch mà ngày nay chúng ta đang thừa hưởng.

    Lịch tŕnh Nam tiến.

    Cuộc Nam tiến của chúng ta bắt đầu thật sự năm 1069. Và chính Lư. Thường Kiệt – một trong hai nhân vật Việt Nam duy nhất đă t́m cách đập phá không khí thần phục nước Tàu lúc nào cũng bao trùm sự bang giao giữa chúng ta và Trung Hoa – đă mở màn cho cuộc Nam tiến. Sau khi bị Lư Thường Kiệt đánh bại, vua Chàm là Chế Củ bị bắt và cầm tù. Để chuộc mạng, Chế Củ cắt ba châu, Bố Chánh, Địa Lư và Ma Lĩnh nhượng cho vua Thánh Tông nhà Lư, hiện nay là tỉnh Quảng B́nh, và phía Bắc Quảng Trị. Công cuộc di dân bắt đầu, vào năm 1075 và dưới sự lănh đạo của chính Lư Thường Kiệt với tư cách Tổng trấn Thanh Hóa.
    Hơn hai trăm năm sau, năm 1301, vua Nhân Tôn nhà Trần, để củng cố sự giao hảo giữa hai nước, Chàm và chúng ta, đă hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chàm là Chế Mân. Năm 1306, để rước Huyền Trân về triều, Chế Mân cắt nhường cho vua Anh Tông nhà Trần hai châu Ô và Rí, nay là Nam Quảng Trị và Thừa Thiên. Dân tộc Việt đă xuống đến đèo Hải Vân.
    Một trăm bảy chục năm sau, năm 1471, vua Thánh Tông nhà Lê đánh bại vua Chàm Ban-ta-trà-toàn. Sau đó tất cả phần đất từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông, gồm các tỉnh hiện nay là Quảng Nam và Quảng Ngăi, Bắc B́nh Định được xáp nhập vào lănh thổ Việt Nam.
    Năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào trấn tại Thuận Hóa, th́ lănh thổ Việt Nam đă gồm tới đèo Cù Mông từ gần một trăm năm rồi, và nước Chàm đă được xem như là bị tiêu diệt.
    Do đó, sự thôn tính phần đất c̣n lại của Chàm do Nguyễn Hoàng và con cháu, không c̣n khó khăn như xưa nữa.
    Năm 1611, Nguyễn Hoàng, muốn tăng cường lực lượng của ḿnh để đương đầu với chúa Trịnh phía Bắc, chiếm thêm phần đất chạy từ đèo Cù Mông xuống đến Sông Cầu, Phú Yên ngày nay.
    Năm 1653, để trừng phạt vua Chàm là Bá Thâm, v́ tội muốn lợi dụng mậu thuẫn nội bộ của gia đ́nh họ Nguyễn, chúa Hiền lại chiếm cứ vùng đất chạy đến sông Phan Rang, hiện nay là tỉnh Khánh Ḥa.
    Năm 1693, Quốc Chúa, Nguyễn Phúc Chú thôn tính tất cả nước Chàm đến B́nh Thuận ngày nay, sau khi bắt giam vua Chàm là Bá Tranh.
    Trước khi nước Chàm bị hoàn toàn thôn tính, Việt Nam đă bắt đầu di dân sang các phần đất bỏ hoang của nước Cam-Bốt tại hai địa điểm Mô Xóa (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Ḥa). Từ thế kỷ XV, nước Cam-bốt, v́ nội loạn và sự tấn công không ngừng của Thái Lan đă bắt đầu suy sụp. Năm 1658, cuộc khủng hoảng nội bộ trầm trọng đến nỗi vua Cam-Bốt xin thần phục chúa Hiền, và cam kết triều cống và bảo vệ Việt kiều. Bắt đầu từ năm đó, làn sóng Nam tiến của chúng ta đă tràn sang Cam-bốt.
    Năm 1690, thừa cơ hội một cuộc nội chiến ở Cam-bốt, và v́ lư do vua Cam-bốt không giữ lời cam kết, Chúa Mại đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của Việt Nam, các vùng đất có Việt kiều ở. Và năm 1698, để chính thức hóa t́nh trạng trên, Chúa Mại thành lập hai tỉnh Tân Biên (Biên Ḥa) và Phiên Trấn (Gia Định) gồm các vùng có Việt kiều và người Tàu đă thần phục nhà Nguyễn, mà hiện nay là các tỉnh Miền Đông, Gia Định, Long An và một phần Định Trường.
    Năm 1732 các tỉnh Tiền Giang hiện nay, lại được đặt làm phủ huyện của Việt Nam, và năm 1757, các tỉnh Hậu Giang, trừ An Xuyên, Hà Tiên và một phần Kiên Giang. Tất cả các phần đất sau này, do Mạc Thiên Tứ chiếm cứ và mở mang, mặc dầu đă được đặt thuộc quyển nhà Nguyễn từ năm 1708, nhưng măi đến năm 1780, Việt Nam mới kể là hoàn toàn chiếm cứ.

    Hai giai đoạn Nam tiến.

    Cuộc Nam tiến tạo thành lănh thổ hiện nay của chúng ta có thể xem là đă kéo dài từ năm 1069 đến 1780, chia làm hai giai đoạn lớn. Giai đoạn từ 1069 đến 1693 đi từ dăy Hoành Sơn đến B́nh Thuận và chiếm cứ các đồng bằng nhỏ bé dọc theo Trường Sơn. Giai đoạn từ 1690 đến 1780, và chiếm cứ hết đồng bằng hạ lưu sông Cửu Long.
    Thời gian hơn 600 năm, để chiếm cứ những vùng đất nhỏ hẹp ở Trung Việt, và thời gian không đầy một trăm năm, để chiếm cứ các vùng đất minh mông của đồng bằng sông Cửu Long.
    Sự khác biệt giữa hai thời gian trên là nguyên nhân của những hậu quả vô cùng quan trọng mà chúng ta phân tích dưới đây.
    Ngoài ra, những sự kiện lịch sử, đă xảy ra trong hai khoảng thời gian đó, góp một phần rất nặng vào những hậu quả nói trên.
    Trong khoảng thời gian từ 1061 đến 1693, sự chiếm cứ tất cả các phần đất mới lấy được của Chàm, mặc dù chúng ta phải đối phó với những phản ứng đôi khi mănh liệt của dân tộc Chàm, không hề bị ảnh hưởng tai hại của các biến cố nội bộ. V́ đó mà việc di dân và tổ chức các đất mới, theo cơ cấu xă hội Việt Nam được thực hiện một cách có qui củ và liên tục từ ngày chiếm cứ.
    Trái lại sự chiếm cứ các đất ở phía Nam, lấy được của Cam-bốt vào khoảng cuối thế kỷ 17, chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc chiến tranh giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, gây điêu tàn cho cả dân tộc từ Bắc chí Nam. V́ vậy mà, các phần đất mới chiếm được, từ khoảng này về sau không được hưởng một sự di dân và một sự đặt cơ cấu mới, có qui củ và liên tục. So sánh những phần đất chiếm được ở Trung và ở Nam trong cuộc Nam tiến chúng ta nhận thấy các điều như sau:
    * Các phần đất ở Trung nhỏ hẹp.
    * Các phần đất ở Nam rộng lớn.
    Trong sáu trăm năm chúng ta mới chiếm được các phần đất ở Trung đi từ dăy Hoành Sơn đến B́nh Thuận.
    Trong không đầy một trăm năm chúng ta chiếm được cả đồng bằng hạ lưu sông Mê-kông.
    Các phần đất ở Trung phần sau khi chiếm được, chúng ta đều có một thời gian dài và yên ổn để di dân và tổ chức cơ cấu xă hội.
    Đối với các phần đất ở Nam phần, vừa sau khi chiếm được, chúng ta bị chiến tranh nội bộ tàn phá, cho nên cuộc di dân rất hỗn độn và sự tổ chức cơ cấu xă hội vô cùng thiếu sót.
    V́ những lư do trên cho nên sự chiếm cứ các vùng đồng bằng ở Trung phần tuy là chưa hoàn bị nhưng cũng có thể xem là tạm xong. Trái lại cuộc chiếm cứ đồng bằng hạ lưu sông Mê-kông hoàn toàn chưa xong.
    Sau khi thống nhất quốc gia năm 1802, Nguyễn Triều bắt tay ngay vào việc kiến thiết quốc gia, nhưng chỉ năm mươi năm sau, chúng ta bị Tây phương tấn công, và tiếp theo đó, bị đế quốc Pháp thống trị. Trong khoảng năm mươi năm, dầu nỗ lực đến đâu, nhưng với cái tốc độ của những biện pháp lúc bấy giờ, nhà Nguyễn cũng chỉ có thể củng cố địa vị, và nhiều lắm là tạm hàn gắn các vết thương của mấy thế kỷ nội chiến. Và năm chục năm, vừa hơn một thế hệ, chưa đủ để cho sự tổ chức cơ cấu xă hội, ở các vùng mới chiếm cứ, có thời giờ ăn rễ một cách đủ bảo đảm cho sự tồn tại của các truyền thống dân tộc. Đó là trong trường hợp mà các nhà đương quyền có thật sự nhận thức việc tổ chức cơ cấu xă hội là một công cuộc tối quan hệ, cần được xem là trọng tâm.
    Nhưng về điểm này, các sử gia của chúng ta sau này, cần sưu tầm xem việc tổ chức cơ cấu xă hội ở các vùng mới chiếm cứ trong Nam, có phải là mối lo âu của Nguyễn triều không. Tới nay, chưa có tài liệu nào xác nhận điều đó.

    Nhiều hậu quả.

    Một sự kiện có thể là một nguyên nhân khác, thuộc về loại nhân sinh, của sự chiếm cứ chưa rồi của chúng ta, đối với miền Nam. Trong tám trăm năm, dân số của chúng ta, sinh sống ở đồng bằng sông Hồng Hà và các đồng bằng con con ở Trung Việt, đă có một mức gia tăng trung b́nh. Mỗi khi nhân khẩu lên cao, áp lực thúc đẩy chúng ta chiếm thêm đất cày ruộng. Nếu căn cứ theo nhận xét rằng, trong sáu trăm năm áp lực nhân khẩu của chúng ta có thể thỏa măn được, bằng sự chiếm cứ thêm các vùng đồng bằng con con ở Trung Việt, th́ áp lực ấy không to lớn lắm, và do đó, tỷ lệ gia tăng của dân số có một mức nhất định. Đột nhiên, chúng ta mở được cửa của vùng đồng bằng Mê-kông. Nhu cầu di dân, để chiếm cứ các vùng đất mới, vượt quá sức sinh sản của chúng ta. Do đó, chúng ta không đủ dân số để chiếm cứ đồng bằng sông Cửu Long. Sự kiện trên đây cần được xác nhận bằng những con số về dân số của chúng ta từ những năm 1000 trở về sau, điều mà, trong t́nh trạng hiện nay, khó cho chúng ta có được.
    Đúng ra, sự chiếm cứ có thể thực hiện được bằng những cuộc di dân lớn lao và có tổ chức, để, đồng thời, tháo áp lực nhân khẩu miền Bắc và di dân vào Nam. Đằng này, chúng ta chỉ thấy sử sách chép lại tổ chức đinh điền và đồn điền của Nguyễn Tri Phương ở miền Nam, một biện pháp đă có thành quả khi chiếm cứ miền Trung, nhưng rơ ràng không xứng đáng với công cuộc chiếm cứ đang đợi ở miền Nam. Trong khi đó triều Nguyễn phải dồn nhiều nỗ lực mở mang miền Bắc để nuôi dân, như công cuộc khai khẩn của Nguyễn Công Trứ ở Thái B́nh và Ninh B́nh.
    Các sự kiện trên chứng tỏ quan niệm không thích nghi của nhà Nguyễn đối với các đại công tác trên lĩnh vực quốc gia lúc bấy giờ, vừa trên phương diện trọng tâm vừa trên phương diện vị trí địa dư. Những lư do chính trị, trong đó sự kiện ḷng dân chưa định là một, có thể ảnh hưởng đến các quyết định của Nguyễn triều đối với miền Bắc. Nhưng, chúng ta sẽ thấy dưới đây, hậu quả chính trị của các biện pháp trên của Nguyễn triều c̣n tai hại gấp mấy lần các hậu quả kinh tế và nhân sinh.
    Một phần đất mới chiếm cứ, trên đó dân cư thưa thớt, tổ chức xă hội chưa có, tập quán cổ truyền của dân tộc chưa cố định trong đời sống thường ngày của dân chúng, ư thức quê hương xứ sở chưa ăn rễ vào khung cảnh mới, là một nhược điểm trên thân thể quốc gia, về phương diện quốc pḥng. Đó là những nơi mà kẻ xâm lăng đánh vào trước hết, bởi v́ họ cũng ư thức rằng, sức kháng cự của một lớp dân chúng chưa mọc rễ vào địa phương chắc chắn sẽ không đáng kể. Và, đương nhiên, những nơi đó là những vùng mà họa xâm lăng, một đe dọa thường trực đối với các quốc gia nhỏ, như quốc gia chúng ta, có thể bắc cầu, một cách hiệu quả, để lan tràn khắp đất nước. V́ vậy mà, miền Nam dưới Triều Nguyễn, đă trở thành một vùng hiểm địa cho toàn lănh thổ.
    Lịch sử đă xác nhận các sự kiện trên. Người Pháp hai lần tấn công nước ta, đều đánh trước tiên vào miền Nam, lần đầu năm 1860 và các năm kế tiếp. Lúc bấy giờ như trên chúng ta đă thấy, sự chiếm cứ của chúng ta đối với miền Nam hoàn toàn c̣n đang dở dang. Tám mươi lăm năm dưới sự thống trị của Pháp, cố nhiên là, chẳng những các dinh điền của Nguyễn Tri Phương đều bị tan ră, mà lại sự chiếm cứ của chúng ta, nếu có tiếp tục v́ áp lực nhân khẩu đương nhiên, đă được thực hiện một cách hỗn độn, v́ thể theo quyền lợi của các tổ chức kinh tế thực dân Pháp, chớ không làm sao theo đường lối ấn định bởi quyền lợi của dân tộc. V́ thế cho nên, sau tám mươi lăm năm, sự chiếm cứ của chúng ta đối với miền Nam vẫn ở trong t́nh trạng dở dang như trước. Và v́ thế cho nên, lần thứ hai năm 1945, người Pháp, ngoài các lư do kinh tế và quân sự, lại đánh chiếm miền Nam trước, một lần nữa.

    Cơ sở hạ tầng vô tổ chức.

    T́nh trạng vô tổ chức, của hạ tầng cơ sở nông thôn của chúng ta, lúc quân Pháp đến, đă là một lợi khí cho họ. Đối với chúng ta, là một lỗi lầm quan trọng v́ nhiều lư do.
    Trước hết, khi Gia Long tức vị th́ người Y Pha Nho đă chiếm cứ Phi Luật Tân từ ba trăm năm. Người Anh và người Pháp đă đổ bộ lên ấn Độ từ một trăm năm chục năm. Người Ḥa Lan và người Anh giành nhau Nam Dương quần đảo từ một trăm năm. Cả người Ḥa Lan, người Anh và người Pháp tranh giành ảnh hưởng với nhau tại Thái Lan từ cuối thế kỷ 17. Người Anh đă đánh bạt người Ḥa Lan ra khỏi Mă Lai, và chiếm bán đảo này từ hơn năm chục năm. Nghĩa là sự tấn công của Tây phương vào các quốc gia Á châu đă có từ lâu và các vị trí của họ đă bao vây Việt Nam. Triều Nguyễn không thể không biết t́nh trạng đó, nhất là khi chính Gia Long đă liên lạc chặt chẽ với Tây phương và nhờ kỹ thuật của họ mà chiếm lại được chính quyền. Gia Long không thể không biết sức mạnh của kỹ thuật Tây phương và cũng không thể không biết ư chí xâm lăng của Tây phương khi t́nh trạng của các quốc gia chung quanh chúng ta như đă tŕnh bày trên đây.
    Như thế th́, v́ lư do ǵ mà chúng ta không cố t́m cách đoán trước cái họa xâm lăng đă đến gần một bên?
    Trong nội bộ, những biện pháp quốc pḥng không có, đối ngoại, trong khi những biến cố đang dồn dập xảy ra cho các quốc gia láng giềng như chúng ta vừa thấy, th́ quan niệm ngoại giao của chúng ta vẫn chật hẹp và đóng cửa như xưa.
    Măi đến năm 1839, khi người Anh can thiệp bằng vơ lực vào nội địa Trung Hoa trong cuộc chiến tranh Nha phiến, th́ lúc bấy giờ, Minh Mạng mới ư thức được t́nh trạng nguy ngập của quốc gia và vội vă và đột ngột gửi hai phái bộ sang Anh và Pháp. Nhưng t́nh thế đă muộn. Vả lại, một phái bộ ngoại giao gửi đi một cách đột ngột không chuẩn bị, không lót đường, không thương thuyết sơ khởi, làm sao mang đến kết quả ǵ?
    Và sau đó, các sự kiện đă dồn dập xảy ra như chúng ta đều biết, và hai mươi năm sau chúng ta lâm vào ách thống trị của đế quốc.
    Các sử gia thường cho rằng, nguyên nhân của trạng thái không dự bị của triều Nguyễn đối với họa xâm lăng, và lư do của những hành động kém sáng suốt trong giai đoạn quyết liệt ấy, là tâm lư của những người, đă trải qua nhiều đời, thấm nhuần nho học cho nên, ngoài văn minh Trung Hoa ra, không c̣n nh́n thấy có thể có những sự phát triển nào khác cho nhân loại. V́ vậy cho nên, họ nhất định nhắm mắt trước các sự kiện đang dồn dập xảy đến. Ngoài lư do trên, sự bị giam hăm trong một nền ngoại giao cổ truyền chật hẹp, căn cứ trên tâm lư thuộc quốc đối với Trung Hoa, là một trở lực to tát.
    Tâm lư này bộc lộ ra rơ rệt trong phản ứng của chúng ta lúc bấy giờ. Trước khi chính Trung Hoa bị tấn công, th́ phản ứng của chúng ta như là không có đối với sự tấn công của Tây phương vào các quốc gia Á châu láng giềng. Ngược lại sau khi Trung Hoa bị tấn công, th́ lúc bây giờ phản ứng của chúng ta là vội vă gửi hai phái bộ sang Pháp và Anh, mà không có một sự chuẩn bị ngoại giao nào cả. Lối gởi phái bộ như vậy là lối gởi sứ bộ sang Tàu xưa nay. Và sự gởi hai phái bộ sang Pháp và Anh, theo lối gởi sứ bộ sang Tàu xưa nay, lại càng làm cho chúng ta nhận thức, một cách rơ rệt hơn nữa, quan niệm về ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng “tâm lư thuộc quốc”, đến mức độ nào.
    Và ngay trong lúc này, chúng ta đang thừa hưởng cái hậu quả tai hại của t́nh trạng chiếm cứ dở dang của chúng ta đối với miền Nam. T́nh trạng vô tổ chức của làng mạc trong miền Nam, như trên chúng ta đă thấy, là một t́nh trạng thuận lợi cho kẻ xâm lăng, nghĩa là cho kẻ tấn công bao nhiêu, th́ bất lợi cho kẻ cố thủ bấy nhiêu. Trong thời gian kháng cự với Pháp, sự kiện này càng thể hiện rơ rệt. Quân Pháp tấn công rất dễ vào các làng do quân kháng chiến kiểm soát, cũng như quân kháng chiến tấn công rất dễ vào các làng do quân Pháp kiểm soát. Trong khi đó, ở miền Bắc và miền Trung, sự tấn công của một bên này, vào một làng do bên kia chiếm giữ là một hành động vô cùng khó khăn.
    Và ngay bây giờ, sở dĩ du kích quân của miền Bắc phá rối dễ dàng các vùng nông thôn của miền Nam, là v́ theo chiến lược du kích của Mao Trạch Đông, họ đóng vai tṛ tấn công vào các làng mạc vô tổ chức, mà chúng ta cố thủ.
    Trong trường hợp đó, và trước một thực tế hiển nhiên, liên quan đến sự thiếu tổ chức của chúng ta trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở nông thôn, chúng ta chỉ có thể chặn được du kích ở nông thôn, nếu, hoặc là, chúng ta không nhận vai tṛ cố thủ các làng, xoay chiến lược, để chính chúng ta sẽ tấn công vào các làng từ những cứ điểm có tổ chức và pḥng thủ được, hoặc là, chúng ta tổ chức các làng trước, rồi mới cố thủ sau.
    Sự chiếm cứ dở dang của chúng ta đối với miền Nam lại c̣n có nhiều ảnh hưởng nặng nề về nhân sinh, về xă hội và về kinh tế mà chúng ta sẽ nh́n thấy rơ khi xét về h́nh thức vật chất các làng của chúng ta từ Bắc chí Nam.


    Còn tiếp

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 26-03-2012, 10:19 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 02-04-2011, 07:57 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 29-01-2011, 12:24 PM
  4. Replies: 56
    Last Post: 03-10-2010, 06:05 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •