Những dấu lạ kinh hoàng tại Việt Nam !
Khái lược về lịch sử dân tộc Việt Nam qua 65 năm (1945 – 2010)
Tác giả/Nhân vật: Phạm Thành |17-10-2010| 35 lần xem | |
Tính từ năm 1945 đến nay, ĐCS Việt Nam đă giữ trọn quyền lănh đạo nhân dân Việt Nam suốt 65 năm và cũng trải qua 10 lần đại hội để kiểm điểm và hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, từ Dân chủ cộng ḥa đến Xă hội chủ nghĩa. Tất nhiên, để khẳng định công, tội (thành tích và khuyết điểm) như thế nào, sẽ có những sử gia ghi chép và công bố, như ta đă thấy. Riêng tôi, một công dân, năm nay cũng đă gần 60 tuổi, chưa từng rời Việt Nam một giờ, chưa từng xa Việt Nam nửa bước, cũng có một cách ghi chép sử dân tộc của riêng ḿnh. Nhân Đảng CS Việt Nam kêu gọi người dân đóng góp ư kiến cho văn kiện Đại hội Đảng CS Việt Nam lần thứ XI, tôi xin có một tổng kết dâng lên Đảng CS Việt Nam về lịch sử “tiến lên” của dân tộc Việt Nam qua 65 năm dưới sự lănh đạo toàn diện và triệt để của Đảng CS Việt Nam. Rất mong được những người chuẩn bị văn kiện cho Đại hội Đảng CS Việt Nam lần thứ XI xem xét, tiếp nhận, nhằm bổ khuyết vào đường lối cách mạng không ngừng của Đảng CSVN.
+ +
+
Sở dĩ dân ta theo Đảng CS Việt Nam trong 65 năm qua, tựu trung lại, là v́ dân ta tin:
- Đảng CS Việt Nam sẽ đem về độc lập và toàn vẹn lănh thổ cho dân tộc Việt Nam. Nghĩa là, nước Việt Nam phải là của người Việt Nam, người Việt Nam tự quyết định cho người Việt Nam làm ǵ, làm như thế nào, không phụ thuộc vào ngoại bang, hay một thế lực nào đó.
- Đảng CS Việt Nam sẽ đem lại cho nhân dân Việt Nam một cuộc sống về cơm ăn, áo mặc, về học hành, về tự do, về dân chủ “triệu lần hơn” chế độ tư bản.
Những nội dung này đă được Đảng CS Việt Nam tuyên truyền qua sách báo, qua hệ thống giáo dục đào tạo, qua hệ thông thông tin đại chúng, qua các văn bản nghị quyết, qua các diễn văn mừng các ngày kỷ niệm, qua các báo cáo chính trị công khai và đă ngấm sâu vào tim óc của hầu hết nhân dân Việt Nam. Chính từ đó mà nhân dân Việt Nam sống và làm việc ở bất kỳ đâu cũng “nghe theo Đảng, Bác; làm theo Đảng, Bác” để mong sớm có ngày được hưởng những thành quả trên. Có thể nói, đó là những ước mơ chính đáng, mang tính thời đại của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam và được Đảng CS Việt Nam ‘Việt Nam hoá’ bằng cái tên: Thời đại Hồ Chí Minh. Có thể khái quát nội dung chính của những giấc mơ Việt Nam mang tên Thời đại Hồ Chí Minh như sau:
1. Mơ về một ngày độc lập dân tộc và toàn vẹn lănh thổ.
2. Mơ về một ngày người cày có ruộng.
3. Mơ về một ngày xă hội không c̣n người bóc lột người; ai cũng có cơm ăn, áo mặc; ai cũng được học hành.
4. Mơ về một ngày dân giàu, nước mạnh, làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.
5. Mơ về một ngày tự do, dân chủ, chính quyền của dân, do dân, v́ dân, không bịt mồm dân.
Trong những giấc mơ mang tên Việt Nam này, có ǵ đạt được và chưa đạt được?
- Con đường xă hội Xă hội chủ nghĩa Đảng CSVN đă chọn cho dân tộc Việt Nam tiến lên, liệu nó đă bén rễ, xanh cây hay đang bật gốc, trốc rễ?
- Con đường “kinh tế thị trường, định hướng xă hội chủ nghĩa”, Đảng CS Việt Nam đă chọn cho dân tộc Việt Nam tiến lên hôm nay, có là con đường đúng đắn hay là nguyên nhân của sáu mầm mống tiêu cực, tham nhũng và rối loạn xă hội?
Có thể chi tiết từng “mục” trên bằng cách chép sử khái lược như sau: 1. MƠ VỀ MỘT NGÀY ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ TOÀN VẸN LĂNH THỔ.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, những người CS Việt Nam đưa ra đường lối: Đánh đổ thực dân, phong kiến, giành độc lập và toàn vẹn lănh thổ cho Việt Nam. Đó là đường lối đă đánh trúng con tim mang truyền thống nồng nàn yêu nước, mong muốn độc lập dân tộc và toàn vẹn lănh thổ của cả 20 triệu người Việt Nam, bất chấp họ ở tôn giáo, đảng phái nào, và v́ vậy, chỉ chờ cơ hội là người Việt Nam vùng lên lật đổ chế độ thực dân, phong kiến.
Năm 1945, khi Phát xít Đức-Ư-Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân cơ hội này, các lực lượng yêu nước đă tập hợp nhân dân vùng lên lật đổ chế độ thực dân phong kiến, và h́nh thành một nhà nước công-nông đầu tiên ở Đông Nam Á với một chính quyền có nhiều đảng phái tham gia.
Lănh tụ của ĐCS Việt Nam, Hồ Chí Minh, thay mặt quốc dân đồng bào đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam mới. Trong tuyên ngôn, Hồ Chủ tịch khẳng định: Nước Việt Nam đă là một nước độc lập. Nhưng, chỉ ít tháng sau, người Pháp lại gây hấn và rắp tâm một lần nữa đặt ách đô hộ thực dân lên 20 triệu người Việt Nam. Người CS Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh, đă quyết lấy chủ nghĩa Mác-Lenin làm kim chỉ nam cho việc kháng chiến, kiến quốc, nên các lực lượng không cộng sản, hoặc là bỏ chạy, hoặc là bị thủ tiêu, Quốc hội đa nguyên tan ră, chỉ c̣n lại những người Cộng sản và thân Cộng sản nắm giữ chính quyền.
Kể từ đó, nước ta đă là một nước độc lập và là một thành viên trong hệ thống các nước Xă hội chủ nghĩa. Do điều kiện lịch sử, chúng ta đă tự nguyện trở thành người lính xung kích trên tuyến đầu chống Pháp xâm lược trở lại (mất 9 năm) và chống lại cả một hệ thống các nước đế quốc, đứng đầu là Mỹ (mất 20 năm). Sau đánh Mỹ, chúng ta lại chống Tàu xâm lược và tiêu diệt chế độ diệt chủng Khmer đỏ ở nước Campuchia.
Bao nhiêu của cải và xương máu của mấy triệu người Việt Nam chúng ta đă đổ xuống, những tưởng giành được độc lập hoàn toàn. Nhưng đến nay, liệu dân tộc Việt Nam đă có độc lập dân tộc và toàn vẹn lănh thổ? Theo tôi là chưa. V́ biển Đông của Việt Nam c̣n bị Tàu xâm chiếm toàn bộ Hoàng Sa và một phần Trường Sa. Dân ta đi đánh cá mưu sinh trên biển của ta mà vẫn bị người nước ngoài bắt giữ. Đảng ta họp hành, bàn bạc nhân sự lănh đạo, y như rằng, anh bạn 16 chữ vàng lại ṃ sang chỉ đạo, cứ như Việt Nam là một tỉnh, một huyện của Tàu vậy. Hơn nữa, trước đây, khi ta c̣n đang đánh Pháp, đánh Mỹ muôn vàn khó khăn mà ta vẫn mạnh mẽ vạch trần mưu mô xâm lấn lănh thổ, mưu mô tội ác của bất kỳ thế lực nào, nay dân ta bị bắt, bị giết mà ta chỉ “khẽ khàng” tuyên bố vài câu cho có lệ, không nêu được hồn cốt của việc dân ḿnh bị giết, lănh thổ bị xâm chiếm để tỏ rơ chí khí “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” (Hồ Chí Minh) của dân tộc ta. Một chính quyền đại diện cho dân, đối với việc trọng của đất nước mà chỉ có “vài lời” về chủ quyền qua những tuyên bố “nhẹ như lông hồng” như vậy, lấy đâu ra độc lập? Hơn nữa, “kẻ thù truyền kiếp” ngày ngày vu cáo và sỉ nhục dân tộc ta những câu: “Việt Nam là một quốc gia ḷng lang dạ sói”, là “đất nước tiểu nhân, bỉ ổi, không biết xấu hổ”, “phải giết bọn xâm lược Việt Nam để làm vật tế cờ trong trận chiến thu hồi Nam Sa (sát Việt khẩu vị Nam Sa chi chiến tế kỳ). Thế mà, tất cả người Việt từ trên xuống dưới, từ trên 60 cơ quan truyền thông phát thanh – truyền h́nh, hơn 700 tờ báo đều cứ như bồ thóc. Cứ như láng giềng có quyền được lăng nhục dân tộc ḿnh, c̣n ḿnh chỉ được quyển chịu lăng nhục, chỉ được “quyền” ca ngợi “anh em tốt, láng giềng hữu nghị, hợp tác lâu dài, hướng tới tương lai”. Không những thế, có đồng chí lănh đạo nước ta – Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng – c̣n sang tận nước có chính quyền bắt, giết dân ta để họp báo (ngày 10.4.2007 tại Bắc Kinh) và tuyên bố: “Quan hệ Trung-Việt chưa lúc nào tốt đẹp như lúc này”. Và c̣n có nhiều đồng chí lănh đạo cao cấp khác, hễ cứ đợi khi dân ta bị Tàu đánh, cướp tài sản, giam giữ th́ lại lên gân khẳng định “quan hệ Trung-Việt là quan hệ láng giềng hữu nghị; là anh em tốt đồng chí tốt”. Khen và nịnh kẻ giết đồng bào ḿnh là kẻ tốt nhất, độc lập dân tộc nên hiểu thế nào đây, nếu không nói là chưa có?
Như vậy, lịch sử dân tộc Việt Nam qua 65 năm chép:
Qua 65 năm Đảng CS Việt Nam lănh đạo toàn diện và triệt để dân tộc Việt Nam, từ năm 1945 đến năm 2010, nước Việt Nam vẫn chưa thực sự có độc lập và toàn vẹn lănh thổ.
2. MƠ VỀ MỘT NGÀY NGƯỜI CÀY CÓ RUỘNG
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Đảng CS Việt Nam cũng đưa ra đường lối: “Người cày có ruộng, cơm áo về cho nông dân”, bên cạnh đường lối Độc lập và toàn vẹn lănh thổ cho dân tộc.
Đường lối này cũng đă đánh trúng niềm mơ ước ngàn đời của hầu hết người Việt Nam, và họ đă vùng lên lật đổ chế độ thực dân, phong kiến năm 1945 dưới sự lănh đạo của Đảng CS Việt Nam và các lực lượng yêu nước khác.
Nhân dân Việt Nam mà hầu hết là nông dân hiểu rằng, đường lối “người cày có ruộng” mà Đảng CS Việt Nam đưa ra, bản chất là người cày được cày trên đất đai thuộc sở hữu của ḿnh, chứ không phải cày thuê, cuốc mướn cho người khác, như cày thuê cho địa chủ, tư sản thời thực dân, phong kiến.
Đảng CS Việt Nam đă thực hiện được điều này. Ngay khi c̣n đánh Pháp và tiếp sau đánh Pháp, ĐCS Việt Nam đă thực hiện Cải cách ruộng đất, lấy đất của địa chủ, phong kiến, đế quốc chia cho dân cày. Người nông dân từ chỗ đi cày thuê cuốc mướn đă thực sự trở thành những chủ nhân của đất đai, ruộng vườn. Việc tước đoạt tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng này, ĐCS Việt Nam đă làm rất kiên quyết, dù máu có đổ, dù có oan sai, nhưng nó nhất định là việc phải làm, đă đem lại niềm tin cho hầu hết nhân dân, đặc biệt là những người lao động cần lao.
Nay, sau 65 năm Đảng CS Việt Nam lănh đạo toàn diện và triệt để dân tộc và đất nước Việt Nam, đường lối “người cày có ruộng” có trở thành hiện thực? Tất nhiên là nó đă trở thành hiện thực, nhưng chỉ hiện thực từ năm 1953 cho đến hết năm 1960, khi miền Bắc hoàn thành việc xây dựng hợp tác xă sản xuất nông nghiệp. Kể từ đó, đất đai – niềm mơ ước muôn đời của nông dân – trở thành tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lư. Thực chất là nằm gọn trong tay ông Nhà nước. Trong đó, quyền của nông dân chỉ được đi cày trên đất đó như một người làm thuê, cuốc mướn, gần giống như đi cày thuê cuốc mướn cho địa chủ, tư sản thời thực dân, phong kiến trước đây. Người sở hữu đích thực thuộc về ông Nhà nước. Chỉ có ông Nhà nước mới là ông chủ đích thực, có toàn quyền định đoạt, dùng làm ǵ, bao nhiêu, giá cả thế nào… Nó là quyền độc tôn của “ông Nhà nước”, không phụ thuộc vào quyền của người cày. Người CS Việt Nam, dù đă có bao nhiêu văn bản, chỉ thị hoặc là có Luật Đất đai, qua bao lần sửa đổi, bổ sung, cái bản chất này cho đến đại hội lần thứ X Đảng CS Việt Nam vẫn không thay đổi. Có thể lấy hàng trăm, hàng ngàn ví dụ về sự thật này trên báo chí “lề phải” đă xuất bản của Đảng CS Việt Nam.
Như vậy, lịch sử dân tộc Việt Nam qua 65 năm chép:
Đường lối “Người cày có ruộng”, tức quyền sở hữu ruộng đất của người cày mà người CS Việt Nam đưa ra và trở thành động lực làm nên thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, đă không c̣n. Quyền đó đă bị những người Cộng sản Việt Nam tước đoạt trở lại từ năm 1960 dưới cái vỏ bọc là hợp tác xă sản xuất nông nghiệp.
3. MƠ VỀ MỘT NGÀY XĂ HỘI KHÔNG C̉N NGƯỜI BÓC LỘT NGƯỜI; AI CŨNG CÓ CƠM ĂN, ÁO MẶC; AI CŨNG ĐƯỢC HỌC HÀNH.
Cùng với giấc mơ độc lập dân tộc và toàn vẹn lănh thổ, Đảng CS Việt Nam cũng đưa ra đường lối xây dựng một xă hội công bằng, không c̣n người bóc lột người; ai cũng có cơm ăn, áo mặc; ai cũng được học hành.
Dưới chế độ Pháp – Nguyễn, ai là người bóc lột? Đương nhiên, đó là tư sản, địa chủ, quan lại. Vậy th́, để có một xă hội không c̣n người bóc lột người, trước hết, những kẻ bóc lột phải bị cải tạo hoặc là bị tiêu diệt. Công việc này được bắt đầu từ năm 1953 ở miền Bắc và năm 1975 ở miền Nam. Với lợi thế về lực lượng, những người CS Việt Nam đă nhanh chóng tổ chức thực hiện việc “xoá sổ” lực lượng bóc lột này. Ở Nông thôn, ruộng đất bị tịch thu để phân chia lại. Ở thành thị, nhà máy, công xưởng, tài sản bị trưng thu, tịch thu, để quốc hữu hóa. Trong cuộc cách mạng vĩ đại này, có máu chảy, có oan sai, nhưng đấy là việc phải làm, nó đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, rằng kẻ bóc lột phải bị tước đoạt lại, bị trừng trị, tiêu diệt, quyền làm ăn sinh sống, sung sướng là quyền b́nh đẳng của mỗi con người trong chế độ mới mang tên Thời đại Hồ Chí Minh.
Kể từ Đảng CS Việt Nam thực hiện Cải cách ruộng đất ở nông thôn và Cải tạo tư sản ở thành thị thuộc miền Bắc (1953 – 1960) và thực hiện ở miền Nam từ năm 1975 đến nay, ít nhất cũng đă qua 35 năm, liệu trong xă hội ta c̣n có người bóc lột người? Thưa rằng, nhiều vô thiên lủng. Lớp cường hào, tư sản mới (tư bản đỏ) xuất hiện trở lại ở nước ta từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, ngày càng nhiều, ngày càng vơ vét khốc liệt và tàn bạo. Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rộng ra. Xă hội bây giờ nhan nhản “người ăn không hết, người lần không ra”.
Những người giàu là ai, những người nghèo khó là ai? Nhắm mắt lại cũng nhận ra, người nghèo khó là nhân dân lao động. Người giàu có là những người có chức có quyền, và “đau ḷng” nhất, trong số người giàu này, phần nhiều là những người CS thuộc loại 5C: con cháu các cụ cả. Đó là những người mà cha anh họ đă luôn hô hào, vạch ra đường lối tiêu diệt tư sản, địa chủ để xây dựng một xă hội không c̣n người bóc lột người. Thực tế họ đă phạm sai lầm quá tả khi thực hiện chủ trương này và Chủ tịch Hồ Chí Minh đă phải bổ cứu bằng chính sách sửa sai. Thế mà hiện nay, mỗi năm nước ta lại xuất hiện thêm hàng chục, hàng trăm tỷ phú nhà giàu, cũng tỷ lệ thuận với việc tăng thêm hàng ngàn, hàng vạn người nghèo. Trên báo chí “lề phải” năm nào cũng thống kê “đội ngũ” này và bên cạnh sự giàu lên đó, cũng xuất hiện hàng trăm, hàng ngàn cuộc đ́nh công đ̣i tăng lương, đ̣i thu nhập, đ̣i quyền sống của hàng ngàn, hàng vạn người lao động.
Họ làm ǵ mà giàu lớn và nhanh thế, nếu không phải là từ cướp đoạt tài nguyên của đất nước, cướp đoạt ruộng đất của nông dân (cưỡng chế với giá rẻ mạt rồi xây dựng công tŕnh, nhà nghỉ, sân golf… hoặc phân lô bán lại với giá cắt cổ; đây là một cách đầu cơ trắng trợn nhất và gây đổ vỡ lớn nhất trong tâm lư xă hội, trong khối đoàn kết dân tộc) và bóc lột không thương tiếc sức của người lao động?
Như vậy, lịch sử đân tộc Việt Nam qua 65 năm chép:
Nhân dân Việt Nam mơ về một xă hội không c̣n người bóc lột người, ai cũng có cơm ăn, áo mặc; ai cũng được học hành. Giấc mơ đó của những năm làm cách mạng trước đây, nay đang ngày một xa vời, và chắc chắc rằng đă trật gốc.
4. MƠ VỀ MỘT NGÀY DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, LÀM THEO NĂNG LỰC, HƯỞNG THEO NHU CẦU.
Nó không chỉ là giấc mơ của những người cần lao mà là giấc mơ vĩ đại không tiền khoáng hậu của những lư thuyết gia Cộng sản. Ở nước ta, lư thuyết này không những được phổ cập trong các trường học, từ tiểu học cho đến đại học mà các phương tiện truyền thông đại chúng của những người Cộng sản Việt Nam c̣n suốt ngày tuyên truyền rôm rả. Nói không ngoa, phàm là người dân, biết chữ hay không biết chữ, già hay trẻ, gái hay trai, miền núi hay miền biển đều biết đến đường lối xây dựng xă hội xă hội chủ nghĩa này. Và, để thực hiện nó, ở nông thôn, ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác tập trung vào hợp tác xă nông nghiệp để làm chung, hưởng chung. Hợp tác xă nông nghiệp trở thành “ngôi nhà chung”, nông dân biến thành xă viên và là “ông chủ” của cái “nhà” đó. Ở thành thị, nhà máy, công xưởng bị quốc hữu hóa. Nhà máy, xí nghiệp, công xưởng cũng trở thành “nhà” của công nhân và ông chủ của nó cũng là những công nhân.
Tuy nhiên, nhiệm vụ của những “ông chủ mới” này được phân công là làm, c̣n làm như thế nào, làm ra cái ǵ, phân chia sản phẩm ra sao thuộc quyền của bộ tham mưu lănh đạo là những người Cộng sản.
Để cho tinh thần làm chủ phát huy hết năng lực, ông Lê Duẩn, một lănh tụ của Cộng sản Việt Nam (sau ông Hồ Chí Minh), đă đưa ra học thuyết “Làm chủ tập thể”. Học thuyết này, như là một khẳng định khoa học của việc nghiên cứu và tổng kết về con người, c̣n có tham vọng bổ sung vào học thuyết Mác- Lênin về thiên đường của Chủ nghĩa Cộng sản.
Những nhà lănh đạo và tham mưu Cộng sản thiết kế mô h́nh này, tin rằng đất đai có nhiều “ông chủ” và với tinh thần làm chủ tập thể cao nhất, để “nhà nhà thi đua; người người thi đua/ Thi đua là yêu nước, yêu nước th́ phải thi đua” (Hồ Chí Minh) sẽ làm ra được nhiều lúa, ngô, khoai sắn… trên đồng ruộng và sản phẩm hàng hóa công nghiệp nơi nhà máy, xí nghiệp. Từ tinh thần làm chủ ấy mà của cải làm ra như nước, không những đáp ứng nhu cầu ai ai cũng có cơm ăn, áo mặc, mà c̣n hứa hẹn: ai có năng lực đến đâu th́ làm đến đó, c̣n hưởng thụ th́, người bụng to, người bụng nhỏ thỏa sức mà dùng – hưởng theo nhu cầu.
Nhưng, thực tế lại không như đường lối và biện pháp đề ra của những người CS Việt Nam. Nông dân trong hợp tác xă nông nghiệp, công nhân trong nhà máy, xí nghiệp đă trở thành những chủ nhân ông mà tinh thần và ư thức trách nhiệm với công việc của họ như là nhà có “cha chung không ai khóc”. Do vậy, ở nông thôn, đất đai bị nghèo kiệt dần, bị bỏ hoang hóa dần, năng suất lao động giảm dần, của cải làm ra ít dần; ở nhà máy, xí nghiệp lấy lăn công làm trọng, sản phẩm làm ra, được chăng hay chớ, số lượng giảm mà chất lượng th́ c̣n kém hơn cả hàng giả. Từ đó mà đời sống nông dân, công nhân ngày càng khó khăn, eo hẹp. Đến cuối những năm 80, nếu ĐCS Việt Nam không có nghị quyết về khoán quản sản phẩm cho nhà máy, xí nghiệp và “khoán 10” cho nông thôn th́ hàng triệu nông dân, hàng ngh́n công nhân đă đi theo Bác Hồ và các vị tiền bối cách mạng rồi. Rơ ràng, kể từ khi khoán ruộng đất cho nông dân, khoán sản phẩm cho công nhân, tức là theo cách “làm đấu, ăn khoán, phát canh thu tô” của bọn tư sản và địa chủ trước đây, đời sống nông dân, công nhân mới vượt qua được cửa ải mà ở đó thần chết luôn lè cái lưỡi xanh ra ŕnh rập.
Vậy, hôm nay th́ sao? Đướng lối phát triển kinh tế – xă hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là kinh tế thị trường, định hướng xă hội chủ nghĩa. Đó được xem là bước đổi mới quan trọng của Đảng CS Việt Nam. Sau hơn 20 năm đi theo con đường này, quả t́nh, có một bộ phận người, phần nhiều là có chức có quyền và là cộng sản đích thực, không những đă có “cơm ăn, áo mặc, được học hành ” mà một bộ phận không nhỏ đă thực hiện được mục tiêu “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Lực lượng này, không những có lắm nhà lầu, xe hơi, tiền nhiều như quân Nguyên mà c̣n thể hiện một bản lĩnh ăn chơi trác táng không hổ với cái mục tiêu “hưởng theo nhu cầu” mà các lư thuyết gia Cộng sản hằng mơ ước. Tuy nhiên, so với trên 80 triệu dân Việt Nam, số này là số ít, nhưng thu nhập lại nhiều; phần c̣n lại là công nhân, nông dân, người th́ đông nhưng thu nhập lại ít, chỉ “tay làm, hàm nhai” may mắn mới đủ ăn, và một bộ phận nông dân và công nhân khác luôn ở cảnh: có làm nhưng đói nghèo vẫn thường trực, quanh năm lần hồi rau cháo qua ngày.
Cái quy luật “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” cũng đă bị quên lăng, nó không c̣n trong đường lối và tuyên truyền ngày ngày của những người CS nữa. Nó đă trở thành kỷ niệm về một thời. Nhớ đến nó là nhớ đến một cái bánh chưa có thực mà người CS giàu tưởng tượng đă phác ra h́nh ảnh và đưa lên để làm mục tiêu cho ḿnh và thu hút quần chúng, đặc biệt là những người cần lao. Nó vĩnh viễn không bao giờ là hiện thực cho số đông. Dân Việt Nam, dù muốn hay không, cũng đă gặm cay đắng và cũng đă quên cái giấc mơ này từ nhiều năm nay rồi.
Như vậy, lịch sử dân tộc Việt Nam qua 65 năm chép:
Ước mơ về một ngày “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” là ước mơ đẹp của những người cộng sản và của nhân dân Việt Nam. Sau hơn nửa thế kỷ tâm huyết gây dựng, nó trở thành hiện thực cho một nhóm nhỏ người, không bao giờ là hiện thực cho số đông. Số đông dân Việt Nam hiện đang đánh vật với mơ ước: “ai cũng có cơm ăn, áo mặc; ai cũng được học hành”, y chang niềm mơ ước của lănh tụ Hồ Chi Minh nói trong những năm nước ta vừa thoát ách nô lệ của Pháp, Nhật và triều Nguyễn.
Bookmarks