Page 20 of 23 FirstFirst ... 101617181920212223 LastLast
Results 191 to 200 of 229

Thread: Mật Thư Tội Ác của Chủ Nghĩa Cộng-Sản _Tác giả: Stéphane Courtois et al.

  1. #191
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Nhóm quân nhân , mệnh danh là nhóm Vlassovtsy là những quân nhân đă theo Tướng Andrei Vlassov chỉ huy quân đoàn II, đă bị quân Đức bắt làm tu binh vào tháng 7 năm 1942. Chính nhóm này có ư chống lại Staline và đă chấp nhận hợp tác với Đức để giải phóng Liên Bang Xô Viết. Tướng Vlassov đă thành lập Ủy Ban Quốc Gia Nga và kêu gọi một số quân nhân thành lập hai sư đoàn quân giải phóng Nga. Sau khi chiến tranh kết thúc, các nước Đồng Minh đă giao trả Tướng Vlassov và các sĩ quan cho Hồng Quân. Tất cả đều bị hành quyết. Quân lính của ông th́ được hưởng luật ân xá được ban hành tháng 11 năm 1945. Họ bị đưa đi lưu đày trong 6 năm về các trại lao động ở vùng Siberi, vùng Kazakhstan và các vùng cực Bắc.

    Vào đầu năm 1946 đă có danh sách 148.079 người thuộc nhóm Vlassovtsy được Nha Quản Lư chuyển qua nơi khác để đi khẩn hoang, trực thuộc Bộ Nội Vụ. Cả ngàn hạ sĩ quan bị ghép vào tội phản quốc b́ đày vào các trại lao động cưỡng bách chung thân.

    Trong năm chiến thắng này, tổng số các trại di dân đặc biệt, các trung tâm lao động cưỡng bách khổ sai , các trung tâm khẩn hoang đặc biệt, các trại kiểm soát và thanh lọc, các khám đường trên lănh thổ Liên Bang Xô Viết đă đạt đến con số kỷ lục. Con số tù lên đến 5 triệu người. Thành tích con số tù vĩ đại này đă bị che mờ bởi các cuộc liên hoan mừng chiến thắng được nhà nước Cộng Sản tổ chức liên tục trên toàn lănh thổ Xô Viết. Chính vào lúc này, hơn lúc nào hết, Liên Xô đă mê hoặc hàng triệu dân nước khác.

    Liên Bang Xô Viết đă trả một giá quá cao về con số người chết cho cuộc chiến thắng quân Đức Quốc Xă. Sự kiện này đă che giấu tính chất độc tài của Staline.
    Ở vào thời điểm đó, chiến thắng đă giúp cho chế độ vượt qua những nghi ngờ .
    Và ngày nay, các vụ án ở Mạc Tư Khoa và hiệp ước của Đức Quốc Xă kư kết với Liên Bang Xô Viết hồi tháng 8 năm 1938 đă trở thành dĩ văng.

  2. #192
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767

    Phần 1. Chương 13: CAO ĐIỂM CỦA CÁC KHỦNG HOẢNG TRONG CÁC HỢP TÁC XĂ NÔNG NGHIỆP--

    .
    Vào những năm cuối cùng của Staline, ở Nga không c̣n xảy ra các vụ án do ṭa án nhân dân xử công khai có quần chúng tham dự. Các vụ khủng bố cũng không c̣n. Tuy nhiên, không khí kinh hoàng của những năm trước vẫn c̣n đè nặng và bao trùm người dân vào những năm sau khi thế chiến thứ hai kết thúc.

    Các vụ phạm pháp và tệ nạn xă hội đă diễn ra với mức độ cao nhất của nó. Những ước mơ cho một cuộc sống b́nh thường trong xă hội đă tan biến theo chiến tranh. Sự chờ đợi để hưởng một chút hơi thở tự do chỉ là những giấc mơ không bao giờ hiện thực.

    Thi hào lừng danh Ilia Ehrenbourg đă viết trong tập hồi kư của ông , đề ngày 9 tháng 5 như sau:
    '' Nhân dân đă quá đau khổ. Không thể để tái diễn những ǵ đă xảy ra trong quá khứ.''

    Ông ta là một người biết rất rơ bản chất của chế độ và guồng máy cai trị của nó. Ông vẫn thường lo âu cái ǵ sẽ xảy ra. Và nó đă xảy ra đúng như ông ta đă nghĩ.

    Trong tháng 9 và tháng 10 năm 1945, Bộ Chính Trị Trung Ương đă gởi nhiều phái đoàn thanh tra về địa phương để khảo sát t́nh h́nh. Các bản báo cáo gởi về Trung Ương cho thấy nhân dân đang sống trong thất vọng. Họ đang sống trong khó khăn và họ hy vọng sẽ có cái ǵ đó để thay đổi cuộc sống. Theo các bản phúc tŕnh th́ đất nước đang lâm vào thời kỳ hỗn loạn.

    Trong thời kỳ chiến tranh, các nhà máy phải dời về phía Đông để tránh rơi vào tay quân Đức Quốc Xă. Sự kiện này đă kéo theo hàng triệu nhân công phục vụ trong các nhà máy. Chính t́nh trạng này đă tạo một khoảng trống khó phục hồi lại mức sản xuất. Các cuộc đ́nh công hàng loạt đă xảy ra tại các nhà máy luyện kim ở Oural. Sự kiện này chưa hề xảy ra trước đây. Trong nước đă có 25 triệu người dân không gia cư. Những người lao động nặng, hằng ngày nhận khẩu phần bánh ḿ không quá một cân Anh.

  3. #193
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Cuối tháng 10 năm 1945, các Ủy Viên của các Ban Chấp Hành địa phương vùng Novossibirsk đă đề nghị hủy bỏ các cuộc diễn hành và lễ kỷ niệm cuộc cách mạng tháng 10 v́ dân chúng không có quần áo và giày để đi diễn hành. Trong cuộc sống khốn khổ đó, nhiều tin đồn đưa ra là sẽ giải tán các hợp tác xă nông nghiệp v́ các tổ chức này không đủ tiền và lương thực để trả cho các thành viên và nông dân cho dù họ chỉ trả một vài kư lúa ḿ cho mỗi nông dân trong một vụ mùa lao động.

    Giới nông nghiệp bị thảm bại nặng nề. Chiến tranh tàn phá ruộng vườn ở nông thôn. Thêm vào đó, nạn hạn hán, thiếu phương tiện cơ giới, thiếu nhân công, đă làm cho vụ mùa tháng 10 thất thu trầm trọng. Nhà nước phải kéo dài t́nh trạng phân phối lương thực hạn chế, trái với lời hứa của Staline là sẽ chấp dứt t́nh trang hạn chế lương thực này.

    Tháng 2 năm 1946, Staline đọc một bài diễn văn với những hứa hẹn lạc quan. Nhưng những ǵ ông nói đều trái ngược với những ǵ đă diễn ra trong thực tế. Ông cho rằng nông dân chỉ thấy mối lợi trên mảnh đất nhỏ mà họ tự canh tác, không qua sự kiểm soát của chính quyền. Chính những người này đă không thi hành nghĩa vụ sản xuất tập thể theo chính sách của nhà nước. Do vậy, nhà nước phải ra tay thanh trừng những ai vi phạm vào quy chế của các hợp tác xă nông nghiệp. Nhà nước sẽ truy tố những ai đă phung phí tài sản, ăn cắp tài vật , phá hoại máy móc và ngăn chận các vụ thu mua nông phẩm.

    Ngày 21 tháng 9, Staline ra lịnh thành lập một ủy ban chuyên lo các nghiệp vụ về các hợp tác xă nông nghiệp dưới quyền chỉ huy của một cán bộ cao cấp của đảng Cộng Sản là ông Andreiev. Ủy ban có nhiệm vụ thu hồi lại tất cả các phần đất nhỏ mà dân chúng đă chiếm đoạt bất hợp pháp làm của tư trong thời kỳ đang xảy ra chiến tranh. Chính các phần đất canh tác nhỏ này đă giúp cho nông dân rất nhiều bởi v́ khẩu phần do các hợp tác xă nông nghiệp phân phối không đủ nuôi sống họ để chờ đến vụ mùa tháng 10.

    Ngày 25 tháng 10 năm 1946, chính phủ ban hành một nghị quyết bảo vệ các nông sản. Bộ Tư Pháp sẽ mở cuộc điều tra trong 10 ngày về các vụ thất thoát lương thực. Nhà nước cũng cho thi hành một đạo luật đă lỗi thời được ban hành vào ngày 7 tháng 8 năm 1932.

  4. #194
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Chỉ trong ṿng hai tháng, tháng 11 và tháng 12 năm 1946, nhà nước kết án 53.300 thành viên của các hợp tác xă nông nghiệp về các tội ăn cắp lúa và bánh ḿ. Những người này bị đày đi lao động khổ sai tại các trại lao động cưỡng bách. Hàng ngàn chủ nhiệm các hợp tác xă cũng bị kết án là đă phá hoại chiến dịch thu mua lương thực. Nhờ đó mà việc thu mua trong hai tháng này đă tăng từ 36% lên đến 77%. Nhưng phải trả với cái giá nào? Chính quyền Cộng sàn lấy sự kiện chậm trễ việc thu mua để che giấu một thảm cảnh kinh hoàng đó là nạn chết v́ thiếu ăn.

    Nạn chết đói trong mùa Thu và mùa Đông 1946-1947 đặc biệt đă xảy ra v́ hạn hán trong các tỉnh Koursk, Tambov, Voroneij, Orel và Rostov. Có ít nhất là nửa triệu người chết. Cũng giống như các nạn chết đói vào năm 1932, lần này chính quyền cũng giữ êm lặng. Nhà nước vẫn giữ mức thu mua 250 kư lúa trên một mẫu canh tác kể cả các vùng hạn hán này. Cho nên dân chúng của trong vùng vốn không đủ lương thực v́ mất mùa lại càng thêm thiếu lương thực. Đó là lư do con số người chết đói gia tăng. Chỉ c̣n có một cách là phải ăn cắp nông sản của hợp tác xă để sống qua ngày. Con số nhân viên ăn cắp này lên đến 44% trong ṿng một năm.

    Ngày 5 tháng 6 năm 1947, báo chí đă đăng tải hai đạo luật do chính phủ ban hành vào ngày hôm trước. Đạo luật nhấn mạnh là mọi vi phạm tài sản của nhà nước, của hợp tác xă nông nghiệp, cá nhân hay tập thể, đều bị trừng phạt từ 5 năm cho đến 25 năm lao động cưỡng bách. Ai biết được người nào đó ăn cắp hay có ư đồ ăn cắp mà không truy tố cũng sẽ bị trừng phạt từ 2 đến 3 năm đi lao động cưỡng bách. Các văn thư riêng trong giới Tư Pháp cho biết các tội ăn cắp vặt tài sản của Tổ Hợp Nông Nghiệp cho đến nay chỉ bị phạt mất quyền tự do trong ṿng một năm, bây giờ được lịnh phạt theo sắc luật ban hành ngày 4 tháng 7 năm 1947.

    Vào cuối đệ nhị lục cá nguyệt của năm 1947, đă có 380.000 người bị kết án, trong đó có 21.000 thanh niên ở tuổi vị thành niên tức là dưới 16 tuổi. Chỉ cần ăn cắp vài kí lô khoai ḿ cũng đủ để bị kết án từ 8 đến 10 năm đi lao động cưỡng bách.

  5. #195
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Sau đây là bản án do ṭa án quận Souzdal thuộc tỉnh Vladimir tuyên án ngày 10 tháng 10 năm 1947:
    '' Hai tên N.A và B.S tuổi 15 và 16, được lịnh đi gát chuông ngựa tại một công tŕnh tổ hợp nông nghiệp, bị bắt quả tang ăn cắp 3 trái dưa chuột trong vườn rau của tổ hợp nông nghiệp. Nay tuyên án hai đương sự N.A và B.S 8 năm mất quyền tự do và đưa đi lao động theo chế độ thường ở các trại lao động tập trung.''

    Trong ṿng 6 năm đă có 1.300.000 người bị kết án. 75% trong số này phải đi lao động cưỡng bách trong 5 năm theo sắc luật ngày 4 tháng 6 năm 1947.

    Đến năm 1951, con số thường phạm chiếm 53%. Và tính trên toàn quốc, con số thường phạm ở tù lao động cưỡng bách với tỉ lệ 40%.
    Vào những năm cuối của thập niên 40, do áp dụng chặt chẽ sắc luật ngày 4 tháng 6 năm 1947, con số bản án kết tội trên 5 năm lao động cưỡng bách đă tăng từ 2% vào năm đầu cho đến 29% vào những năm cuối của thập niên 40.

    Ở vào thời điểm cai trị cao độ nhất của Staline, các cuộc khủng bố và đàn áp đă diễn ra hằng ngày. Ṭa án nhân dân một h́nh thức chuyển tiếp của cái Ṭa án siêu pháp lư của cơ quan An Ninh Nội Chính NKVD rất nổi tiếng trong những năm 1930-1940.

    Trong số những người bị kết án có rất nhiều quả phụ của các quân nhân đă bị tử thương trong cuộc chiến vừa qua. Những quả phụ này sống với đám con nhỏ mà chồng họ đă bỏ lại, không đủ sức nuôi con nên phải đi ăn cắp, đi ăn xin. Vào cuối năm 1948, nhà nước Cộng Sản bắt giam 500.000 phụ nữ, tức là hai lần nhiều hơn so với năm 1945. Con của các quả phụ này dưới 4 tuổi đều phải được chuyển vào nhà trẻ tập thể cũng nằm trong các trại giam. Đến năm 1953, con số trẻ em tăng lên 35.000 em.

  6. #196
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Để tránh cho các trung tâm lao động cưỡng bách trở thành các trung tâm giữ trẻ vĩ đại v́ con số phụ nữ bị bắt quá nhiều bởi chính sách đàn áp tàn bạo ban hành năm 1947, nhà nước Cộng Sản phải ban hành sắc luật kư hồi tháng 4 năm 1949, ân xá cho 84.200 phụ nữ trẻ có trẻ em nhỏ tuổi. Nhưng đồng thời nhà nước Cộng sản vẫn tiếp tục kết án con số phụ nữ khác v́ tội ăn cắp. Đến năm 1953, con số phụ nữ bị bắt giam trong các trại lao động cưỡng bách chiếm từ 25% đến 30% trên tổng số can phạm.

    Trong hai năm 1947-1948 nhà nước c̣n gia tăng các vụ đàn áp qua các Đạo Luật biểu tượng t́nh cảnh xă hội thời đó. Như đạo luật ban hành ngày 15 háng 2 năm 1947, cấm người Nga kết hôn với người ngoại quốc. Một đạo luật khác ban hành ngày 9 tháng 6 năm 1947 quy định trách nhiệm về việc loan tin hay làm thất thoát các vấn đề bí mật của nhà nước. Đạo luật ban hành ngày 21 tháng 2 năm 1948 kết án các thành phần thuộc nhóm Xă Hội thiên hữu, Mensevich, nhóm Xă hội có khuynh hướng Quốc Gia, nhóm Trotski, nhóm vô chính phủ, nhóm quân nhân Bạch Nga,..là các phần tử gián điệp chống lại nhà nước. Những người này sau khi măn tù hay sau khi hết thời gian lao động khổ sai sẽ bị đưa đi lưu đày ở các vùng Kolyma thuộc tỉnh Novossibirsk và vùng Krasnoiarsk hay các vùng hẻo lánh ở Kazakhstand.

    Để canh pḥngvà kềm chế những người nay, nhà nước Cộng Sản thường gia tăng thời gian tù thêm 10 năm mà không cần có một phiên ṭa nào phán xét. Những người tù bị bắt vào những năm 1937-1938, thường được đặt cho cái tên là những người tù 58. Có nghĩa là họ chỉ được phóng thích vào năm 1958, tức là phải ở tù 20 năm.

    Vào cùng ngày 21 tháng 2 năm 1948, Hội Đồng Xô Viết Tối Cao cho ban hành một sắc luật trục xuất ra khỏi lănh thổ Cộng Ḥa Ukraine, tất cả các phần tử nào không chịu lao động trong một thời gia tối thiểu trong các trung tâm lao động hợp tác xă cưỡng bách. Họ bị coi là những phần tử ăn bám xă hội. Qua đến ngày 2 tháng 6 th́ đạo luật này có giá trị trên toàn lănh thổ Liên Xô.

    T́nh trạng sinh sống ở các trại lao động cưỡng bách hợp tác xă nông nghiệp tập trung th́ hầu như không đủ trả tiền cho nhân công, kể cả phân chia sản phẩm. V́ thế, có rất nhiều công nhân không thực hiện đủ số ngày lao động do nhà nước ấn định. Như vậy đă có hàng triệu công nhân không đạt đúng tiêu chuẩn ngày lao động, trở thành phạm nhân. Chính quyền địa phương nhận rằng, nếu áp dụng đúng theo các điều luật của Trung Ương th́ sẽ gây ra xáo trộn. Cho nên họ áp dụng một cách lơ là, làm cho có làm. Tuy vậy cũng đă có 38.000 người bị bắt đi lưu đày trong năm 1948.

  7. #197
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Mặc dù án tử h́nh đă được băi bỏ theo như đạo luật kư ngày 26 tháng 5 năm 1947, nhưng các đạo luật đàn áp đẫm máu nêu trên đă làm lu mờ đạo luật băi bỏ án tử h́nh.
    Ngày 12 tháng giêng năm 1950, nhà nước Cộng Sản cho thi hành lại đạo luật tử h́nh, để xử các vụ án Leningrad.

    Trong những năm của thập niên 1930, việc cho hồi hương những phần tử bị đưa lưu đày đă không được thi hành thống nhất và không liên tục trong các cơ quan của nhà nước. Măi cho đến thập niên 40 th́ vấn đề này mới được gỉai quyết trắng đen. Theo đó, các tù nhân bị kết án trong những năm 1941-1945, th́ trở thành những tên tù vĩnh viễn. Con cái của họ sau này cũng trở thành những người dân khẩn hoang đặc biệt.

    Trong những năm 1948-1953 con số người đi khẩn hoang gia tăng không ngừng. Đầu năm 1946, con số dân khẩn hoang là 2.342.000 người. Qua tháng giêng năm 1953, lên đến 273.000 người. Tại Lituanie, dân chúng nổi lên chống chính sách lao động cưỡng bách đă bị cơ quan công an nội chính lùng bắt vào hai ngày 22 và 23 tháng 5 năm 1948. Công an mở chiến dịch hành quân mùa xuân, trong ṿng 48 tiếng đồng hồ, đă bắt 36.932 thanh niên và thiếu niên bỏ lên 32 đoàn xe chở đi lưu đày. Tất cả bị kết án là các phần tử ăn cướp, những người có tư tưởng quốc gia. Các đoàn xe chở họ đi trong suốt 4 hay 5 tuần lễ. Họ bị đưa về các vùng cực Đông của Siberie và đặt dưới quyền kiểm soát của các toán xung kích thuộc Bộ Công An Nội Chính. Họ phải làm việc cực nhọc và khổ sai tại các trung tâm khai thác lâm sản.

    Trong một bản phúc tŕnh của cơ quan an ninh nội chính vùng Krasnoiarsk cho biết các gia đ́nh người gốc Littuanie được phân phối đến lao động ở tổ hợp khai thác lâm sản Igara. Họ phải sống trong các căn nhà dột nát, cửa sổ không có kính để chận gío lạnh. Họ không có giường , nên phải nằmh ngủ trên nền đất với vài đống rơm. Không bàn, không ghế. V́ sống chen chúc nhau trong các gian nhà nhỏ và v́ không có tiêu chuẩn vệ sinh cho nên đă sinh ra các bịnh truyền nhiễm, kiết lỵ, rận chí,..Con số người chết mỗi lúc một gia tăng.

    Trong năm 1948 có trên 50.000 dân Lituanie lưu đày khẩn hoang đặc biệt. Con số khác 30.000 dân lưu đày trong các trung tâm khổ sai. Theo bộ nội vụ, có đến 21.259 người bị giết chết trong các cuộc hành quân b́nh định v́ nước Cộng Ḥa này cương quyết chống lại chính sách cưỡng bách lao động của nhà nước Liên Xô. Mặc dù bị nhà nước Cộng Sản áp bức, nhưng tính đến cuối năm 1948, chỉ có 4% đất đai của vùng Baltique là vào tập thể.

  8. #198
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    Đầu năm 1949, nhà nước Cộng Sản cương quyết tập thể hóa và sát nhập ba nước vùng Baltique bằng cách khai trừ các phần tử có tư tưởng quốc gia của các nước này.
    Ngày 12 tháng giêng năm 1949 Hội Đồng Bộ Trưởng Xô Viết ban hành đạo luật trục xuất ra khỏi lănh thổ ba nước Baltique, tất cả gia đ́nh của các phần tử điền chủ và các người có tư tưởng quốc gia đang sống bất hợp pháp và gia đ́nh của các người bị giết trong cuộc hành quân b́nh định mùa xuân trước đây. Các cuộc truy lùng diễn ra từ tháng 3 cho đến tháng 5 năm 1949 đă đưa 95.000 dân ba nước Baltique ra vùng Siberie.
    Trong bản phúc tŕnh của Krouglovgởi cho Staline đề ngày 19 tháng 5 năm 1949, báo cáo rằng trong số dân lưu đày đó có đến 27.084 trẻ em dưới 16 tuổi; 1785 trẻ thơ không có gia đ́nh; 146 người tàn phế và 2850 người ǵa gần đến ngày chết.

    Vào tháng 9 năm 1951 lại diễn ra các cuộc bố ráp. Cộng Sản bắt thêm 17.000 người đưa đi Siberie. Tính từ năm 1940 đến năm 1953, đă có trên 200.000 dân vùng Baltique bị bắt đi lưu đày ở vùng Tây Bá Lợi Á. Trong đó có 120.000 dân Lituanie, 50.000 dân Lettonie và 30.000 dân Estonie.
    Trong năm 1953, người ta cũng thấy có 75.000 dân ba vùng này bị giữ trong các trại tù chính trị khổ sai, chiếm 1/ 5 trên tổng số tù trong các trại này, và bằng 1/10 con số dân trưởng thành của ba nước này bị đưa đi lưu đày.

    Một trong các dân sắc tộc bị ép vào Liên Bang Xô Viết là dân xứ Moldave. Dân này rất bướng bĩnh, chống lại chính sách lao động tập thể của nhà nước Xô Viết.

    Cuối năm 1949, chính quyền quyết định thi hành lịnh bố ráp để bắt đi lưu đày các phần tử được coi là xa lạ với Chủ Nghĩa Xă Hội. Cuộc hành quân do Đệ Nhất Bí Thư đảng Cộng Sản Moldave chi huy. Đó là ông Leonid Ilitch Brejnev, sau này trở thành Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Xô Viết.
    Ngày 17 tháng 2 năm 1950, Kroulov gởi về Staline một bản phúc tŕnh cho biết có tắt cả 94.792 dân Moldave bị lưu đày như là dân khẩn hoang đặc biệt.

    Trong các cuộc lùng bắt khác trong năm 1949, đă có 57.680 dân Hy Lạp, Armenie, Thổ Nhỉ Kỳ và các người sinh sống quanh vùng Hắc Hải bi đưa đi lao động ở các vùng Kazakhstand, vùng Alta.

  9. #199
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Trong ṿng 5 năm sau thế chiến thứ hai, các du kích quân vỏ trang chống Xô Viết, mang tên là UPA và OUN đă bị bắt và bị đưa đi lưu đày biệt xứ. Từ tháng 7 năm 1941 đến tháng 12 năm 1949 nhà nước Cộng Sản đă 7 lần lên tiếng kêu gọi các quân du kích bỏ súng đầu hàng sẽ được ân xá. Nhưng các lời kêu gọi này không đạt được kết qủa.

    Quân du kích hoạt động ven ben giới của các nước Ba Lan và Tiệp Khắc. Quân du kích hành quân đánh phá liên tục và khá mạnh cho nên nhà nước Cộng Sản đă phải kư hiệp ước vào tháng 5 năm 1947 với hai nước Ba Lan và Tiệp Khắc để phối hợp với hai quốc gia này mở các cuộc hành quân thanh toán quân du kích gốc người Ukraine. Để có thể tiêu diệt các căn cứ du kích, chính quyền Ba Lan đă cho toàn thể dân Ukrane di chuyển về vùng Đông Bắc Ba Lan.

    Nạn đói xảy ra vào cuối năm 1947 và đầu năm 1948 đă buộc hàng chụ ngàn nông dân sống ở vùng phía Đông Ukraine chạy qua vùng Tây Ukraine. Vùng này tương đối có ăn. Chính do nhóm di dân v́ đói này, du kích quân đă tuyển thêm được một số quân.

    Ngày 30 tháng 12 năm 1949, trong bản đề nghị ân xá cuối cùng do Bộ Trưởng Nội Vụ kư cho các toán quân nổi loạn không thuộc thành phần du kích. Họ là nông dân, các người bỏ trốn các công xưởng, học sinh các trường công nghệ. Măi đến cuối năm 1950, các vùng phía Tây Ukraine mới được ổn định. Sau khi cho thi hành lịnh cưỡng bách lao động tập thể, đă có 300.000 dân Ukraine bi bắt giam và bị lưu đày. Theo bản thống kê của Bộ Nội Vụ, từ giửa năm 1944 đến năm 1952 có tất cả 172.000 quân kháng chiến UPA và OUN cùng với gia đ́nh của họ bị đưa đi lưu đày thuộc toán khẩn hoang đặc biệt ở các vùng Kazakhstand và Siberie.

    Theo các tin tưc từ Bộ Nội Vụ, các cuộc lưu đày dân vẫn diễn ra tiếp tục cho đến khi Staline qua đời. Từ năm 1951-1952, con số dân lưu đày định kỳ tương đối nhỏ. 11.685 người gốc Mingrélien, và 4707 dân Ba Lan gốc Iran đang sống trong vùng Georgie, 4356 giáo dân Jehovah, 4431 dân điền chủ sống trong vùng Tây Biélorussie, 1145 điền chủ sống trong vùng Tây Ukraine, 1415 điền chủ của vùng Pskov, 995 Tín đồ Chính Thống Giáo, 2795 gốc Basmatchi và 591 thuộc những người vô gia cư.

    Những người này được hưởng một quy chế khá đặc biệt. Họ không bị lưu đày vĩnh viễn mà chỉ ở tù trong ṿng 10 hay 20 năm.Các văn kiện vừa mới cho nhân dân tham khảo xác nhận rằng vào các năm đầu thập niên 50 là những năm có con số lưu đày cao nhất từ trước đến nay.

  10. #200
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Vào đầu năm 1953, các trại Goulag giam giữ 2.750.000 phạm nhân, và được sắp xếp thành ba loại:

    Độ chừng 500 khu trại lao động khẩn hoang được dựng lên rải rác trong các khu rừng. Mỗi khu chứa chừng 1000 đến 3000 phạm nhân. Họ thuộc vào nhóm tội nhân thường phạm. Một nửa phạm nhân này bị kết án dưới 5 năm.

    Độ chừng 60 khu lớn, tổng hợp các trại lao động, thiết lập ở vùng cực Bắc và ở về phía Đông của Liên Bang Xô Viết. Mỗi khu quy tụ chồng vài chục ngàn tù phạm, cùng với tù chính tri và thường bị kết án tồ 10 năm tù trở lên.

    15 trại có chế độ đặc biệt, được thiết lập theo chỉ thị mật của Bộ Nội Vụ duyệt kư vào ngày 7 tháng 2 năm 1948. Đây là trại giam những người tù chính trị đặc biệt. Con số tù chính trị ở các trung tâm này lên đến 200.000 người.

    Ngoài con số nhân nhân trên, c̣n có cả 2.750.000 dân bị đưa đi khẩn hoang, trực thuộc ban giám đốc các trung tâm Goulag.V́ con số tù nhân và dân lao động cưỡng bách quá lớn cho nên công việc quản lư và kiểm soát hiệu năng kinh tế vô cùng khó khăn.

    Năm 1951, Tướng Krouglov, đương kiêm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ đă bắt đầu lo âu v́ con số sản lượng xuống quá thấp. Các ban kiểm soát các trung tâm tù Goulag phát giác một số sự kiện quan trọng. Khởi đầu, quy chế của các trại thuộc quy chế đặc biệt dành cho các tù chính trị bị bắt vào năm 1945. Đó là các thành phần quốc gia thuộc dân Ukraine và dân vùng Baltique đă từng tham dự vào lực lượng du kích, cùng với các phần tử xa lạ với Xă Hội Chủ Nghĩa của một số quốc gia vừa mới bị cưỡng ép sát nhập vào Liên Bang Xô Viết, những người đă từng hợp tác với kẻ thù của nhân dân, các người thuộc diện phản quốc, phản động bị đày trong thập niên 30, những cán bộ đảng viên cũ,..

    Các tù phạm chính trị bị kết án trên 20 năm biết rằng họ không bao giờ được thả trước thời gian ấn định cho nên chẳng sợ mất mát ǵ nữa cả. Họ bị giam cô lập. Như nhà văn Alexandre Soljenitsyne của Nga đă phải ở tù 7 năm chỉ v́ ông đă cả gang chỉ trích đường lối lănh đạo độc tài của Staline. Ông cho rằng sự hiện diện các thường phạm bên cạnh các tù nhân chính trị đă là một trở ngại cho việc thành lập các phong trào thống nhất của Tù Nhân. Ở các trại đặc biệt không có thường phạm sống chung, thường xảy ra các ổ kháng cự chống lại chính quyền Cộng Sản. Các mạng lưới kháng cự được bí mật thành lập lúc c̣n chiến đău ở trong rừng của các người gốc Ukraine và người gốc Baltique. Các tổ kháng cự này đă tái hoạt động và rất là mạnh. Họ từ chối lao động, tuyệt thực, vượt ngục từng nhóm, chống đối bạo động và thường diễn ra đồng loạt. .

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •