Ṿng kim cô
Từ năm 1991, sau khi hệ thống cộng sản tại Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Hà Nội đă buộc phải b́nh thường hoá quan hệ toàn diện với Bắc Kinh, xem Trung Quốc là chỗ dựa vững chắc để duy tŕ ư thức hệ cộng sản. Trong mối bang giao này Hà Nội nằm ở vị thế yếu kém, không những với thân phận của một nước nhỏ, đàn em "môi hở răng lạnh" chịu nhiều ân nghĩa một thời, mà c̣n là thân phận của kẻ sắp chết đuối vớ được cọc, cần được giúp đỡ để tồn tại và bảo đảm độc quyền cai trị.
Chính v́ thế, đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng tỏ ra nhu nhược trước Trung Quốc mà bắt đầu cho sự xói ṃn chủ quyền và bị lệ thuộc bi kịch trước mưu đồ bành trướng của Bắc Kinh - là Hiệp định biên giới kư kết giữa hai nước năm 1999, trong đó phía Việt Nam đă cắt cho Trung Quốc hàng trăm cây số vuông đất liền dọc biên giới và hàng ngàn cây số vuông biển.
Mặc dù Tổng bí thư ĐCSVN Lê Khả Phiêu lúc bấy giờ bị chỉ trích dữ dội về sự nhượng bộ thái quá với Trung Quốc và đă phải nhường chỗ cho Nông Đức Mạnh, nhưng mối t́nh "già nhân ngăi, non vợ chồng" giữa ĐCSVN và Trung Quốc không những không phai nhạt, mà ngày một lộ liễu hơn, đôi khi bất chấp dư luận. Từ năm 2006, khi ông Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức Thủ tướng th́ Việt Nam dường như lọt hẳn vào trận đồ ma quái của một cuộc xâm lược mềm của Đại Hán, chưa biết bao giờ mới có thể thoát ra.
Vị trí chính trị cộng với đồng tiền chảy vào túi riêng từ các công tŕnh hợp tác khổng lồ của hai bên đă đẩy tập đoàn lănh đạo Việt Nam vào thế bị Bắc Kinh khống chế, ṿng kim cô có thể xiết bất kỳ lúc nào khi cần.
Không dưới một lần tôi đă nói tới những chất liệu tạo nên ṿng kim cô ác nghiệt: Người Trung Quốc đang nắm trong tay gần 300 ngàn hécta rừng đầu nguồn của Việt Nam, theo cái gọi là thuê 50 năm, tha hồ thao túng; đă và đang thực hiện hơn 90% tổng thầu EPC các đề án đầu tư công quan trọng nhất của Việt Nam, buộc Việt Nam lệ thuộc lâu dài vào công nghệ lạc hậu và phụ tùng thay thế trong vài thập niên tới, trong đó có khai thác bauxite Tây Nguyên với nhiều rủi ro về môi sinh và an ninh trên vùng chiến lược; đang có trong tay một thị trường xuất khẩu gần 20 tỷ USD, tiêu thụ dễ dăi đủ mọi chủng loại hàng hoá phẩm chất kém, độc hại, ăn cắp bản quyền, chưa kể hàng lậu; đang có hàng chục ngàn công nhân tự do lao động khắp ba miền...
Nhưng, đây cũng là sai lầm lớn nhất của ĐCSVN kể từ hai thập niên gần đây và v́ nó mà niềm tin của xă hội đối với họ bị tuột dốc nghiêm trọng.
Mặc dù phải trả giá đắt cho nợ nước ngoài tăng vọt, môi trường ô nhiễm, mâu thuẫn xă hội bùng nổ, tham nhũng thành quốc nạn, nền tảng đạo đức bị huỷ hoại... nhưng những thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế đă làm hài ḷng một bộ phận lớn dân chúng vốn trải qua quá nhiều thiếu thốn, gian khổ trong thời kỳ chiến tranh và thời bao cấp.
Tâm lư mặc nhiên chấp nhận “sống chung với lũ” trở thành mảnh đất màu mỡ sinh sôi chủ nghĩa cơ hội và chạy theo đồng tiền. Người ta bàng quan với các vấn đề chính trị diễn ra trên đất nước, tinh thần phản kháng trước cái ác bị triệt tiêu dần.
Thế nhưng, truyền thống yêu nước và tinh thần bất khuất chống ngoại xâm là thiêng liêng, gắn bó hữu cơ máu thịt với mỗi người Việt. Lănh đạo ĐCSVN quá cao ngạo, coi thường dân chúng nên không tiên liệu hết. Họ tưởng rằng, cả dân tộc đă bị thuần hoá trong văn hoá sợ hăi và nô lệ của hệ thống công an trị. Nhưng họ đă lầm!
C̣n tiếp...
Bookmarks