Tại sao CS Việt nam tiêu dịêt "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN"?
Tại sao CS Việt nam tiêu dịêt "Câu lạc bộ Kháng chiến "?
Lột Mặt Nạ Tổ Chức Bịp Bợm "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam"
(Sự thật về các trí thức miền Nam theo cộng sản)
Giáo sư Hứa Hoành
Các ông, các bà trí thức tư sản miền Nam trốn theo "Mặt Trận Giải Phóng" (gọi tắt của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam), ông nào ông nấy chức tước to tổ bố, cao đụng trần nhà, đọc lên kêu như sấm. Nào là:
- Trịnh Đ́nh Thảo, Chủ Tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa Binh Việt Nam, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn Chính Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam, Chủ tịch đoàn Ủy Ban Trưng Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
- Bác sĩ Phùng Văn Cung, Phó Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, kiêm Bộ Trưởng Nội Vụ...
Nhưng tại mật khu, hàng tuần, tất cả quí vị trí thức khoa bảng ấy phải họp lại để học "nghị quyết". Nắm giữ các chức vụ chóp bu, quí vị ấy không có quyền thảo ra nghị quyết, đường lối sao mà phải học tập?
Vậy th́ các ông bà trí thức ấy chỉ là những con hạc trong đ́nh, các chậu hoa trong pḥng khách, c̣n quyền hành thực sự do "bác và đảng" núp trong bóng tối chỉ huy. Khi tỉnh ngộ, bao nhiêu biệt thự, phố xá, đồn điền, gia sản, ruộng đất (Trịnh Đ́nh Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Lâm Văn Tết... ), cơ xưởng (hăng sơn của kỹ sư Nguyễn Hữu Khương), cửa hàng (nhà thuốc của dược sĩ Mă Thị Chu ở Cần Thơ, dược sĩ Hồ Thu) trở thành tài sản của nhà nước. Nhiều vị gia đ́nh tan nát như Trịnh Đ́nh Thảo, Phùng Văn Cung, Hồ Thu, nhà văn Thanh Nghị .
“Giải phóng” miền Nam rồi, quí vị ấy được “Bác và Đảng” đền bù công lao xứng đáng bằng phiếu mua lương thực: 13 kư gạo, nửa cân đuờng cát, 2 bao diêm quẹt, 2 cái lưỡi dao lam cạo râu, nửa cân thịt ba rọi ... mỗi tháng để ngồi chơi xơi nước, hoặc giữ các chức "hàm" (hữu danh vô thực). Mấy năm sau, họ chết trong âm thầm ghẻ lạnh của chính quyền mà họ đă cúc cung phụng sự, thiếu cả tiếng trống, tiếng kèn tiễn đưa đến phần mộ.
"Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam", sao y bản chánh "Mặt Trận Dân Tộc" của Trung Cộng:
Cái gọi là "Ban nghiên cứu lịch sử đảng", chỉ là một sự tập họp các bồi bút, được gọi là sử gia, nhận chỉ thị của Bộ Chính Trị thêu dệt, bịa đặt, rồi tô vẽ, minh họa để cá nhân ông Hồ trở thành một vĩ nhân, văn vơ toàn tài, một vị thánh sống. Sự thật lịch sử đă được phơi bày: tŕnh độ học vấn của ông Hồ chỉ dở dang lớp 7, ông Hồ chưa biết khái niệm phổ thông về các khoa học thường thức. Trong cuộc đời lưu lạc với tư cách một bồi tàu, một cán bộ làm lính đánh thuê cho cộng sản quốc tế nhiều năm, ông có đủ kinh nghiệm, nhiều mưu gian mẹo vặt để cóp tổ chức nầy, bắt trước tác phẩm kia, mượn danh ngôn của người khác, làm của riêng ḿnh, mà không bao giờ nêu xuất xứ. Đó là thái độ thiếu minh bạch, người tự trọng không ai làm.
Trong thời “kháng chiến chống Pháp” 1945-1954, ông Hồ luôn ngụy trang, đội lốt người quốc gia, lập các tổ chức dưới danh nghĩa dân tộc như Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941), rồi Mặt Trận Liên Việt để che giấu bộ mặt thật cộng sản của ḿnh. Trong cuộc chiến tranh Quốc Cộng với người quốc gia ở miền Nam, ông mập mờ lập lại tổ chức mà danh xưng na ná như tổ chức của người quốc gia. Rồi dùng lời ngon ngọt tuyên truyền lừa dối, phỉnh gạt các trí thứ miền Nam. Có khi giả mời đi họp, rồi cưỡng bách, bắt cóc đưa ra mật khu, gán cho họ những chức vụ hữu danh vô thực để làm b́nh phong và lừa dối quốc dân đồng bào cùng dư luận ngoại quốc.
Hơn 20 năm làm cán bộ cộng sản quốc tế, lănh lương, phụ cấp, cả giấy thông hành, ông Hồ qua các nước hoạt động để xuất khẩu chủ nghĩa cộng sản, chớ đâu phải để “giải phóng dân tộc Việt Nam”.
Với nhiệm vụ nầy, ông Hồ tới lui Trung Quốc trước sau tới 5 lần. Những năm ở mật khu Diên An (1938-1939), ông Hồ gia nhập đảng Cộng Sản Trung Hoa, làm lính đánh thuê cho Mao Trạch Đông. Nhờ đó, ông đă cóp nhặt được các tổ chức bịp bợm của Trung Cộng đem về áp dụng tại Việt Nam. Nhiều người không biết, tưởng đâu ông Hồ tài ba, c̣n đảng Cộng sản là "đỉnh cao trí tuệ".
Để quí độc giả thấy rơ bộ mặt của họ, chúng tôi kính mời quí vị đọc qua giáo điều của Cộng Sản quốc tế: “Muốn tiến hành cuộc cách mạng vô sản, phải chia thành hai giai đoạn: giai đoạn 1 dùng chủ nghĩa dân tộc làm chiếc áo che ngoài và thiết lập chính quyền giai cấp tư sản (tức là Chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam sau nầy); giai đoạn 2 thật sự đi vào cách mạng xă hội chủ nghĩa."
Trong đại hội Cộng Sản quốc tế kỳ 7 (1935), họ đă chỉ thị cho Trung Cộng: “Phải thay đổi đường lối làm sao khi Mao Trạch Đông chạy thoát được sự bao vây của Quốc Dân Đảng trong cuộc ''vạn lư trường chinh'' (1935) là phải lập Mặt Trận Dân Tộc, rồi dùng chiêu bài kháng Nhựt cứu nước". Ông Hồ đă bê nguyên xi các tổ chức của Trung Cộng từ các "hội cứu quốc, căn cứ địa, lực lượng vũ trang”, đến các khẩu hiệu lừa bịp quần chúng ... về áp dụng tại Việt Nam. Ông áp dụng y chang các tổ chức ấy như “sao y bản chánh” mà thôi. Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941) rồi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (1960), gọi tắt là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) cũng chỉ là một sự bắt chước các tổ chức của Trung Cộng trong thời kỳ tương tranh với chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng khi Nhựt đang xâm lăng lục địa.
Sách lược nầy, ngoài mặt th́ kêu gọi "đoàn kết rộng răi toàn dân, các đảng phái, tôn giáo, nhưng chủ ư của họ là phân hóa hàng ngũ người quốc gia, tiêu diệt chủ nghĩa dân tộc, dồn tất cả mọi lực lượng để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam (tức Việt Nam Cộng Ḥa).
Người ta c̣n nhớ, tại hội nghị thành lập Mặt trận Việt Minh năm 1941, ông Hồ có nhắc nhở cán bộ của ông ta: “Trước cục diện mới, vấn đề đoàn kết dân tộc càng quan trọng. Chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng để thành lập một mặt trận mà h́nh thức và tên gọi sao cho tuyệt đối phù hợp với cục diện đó” (”Hồ Chí Minh tại Trung Quốc”, Tưởng Vĩnh Kinh, Thượng Huyền dịch, trang 186).
Rơ ràng ông Hồ đă "sao y bản chánh" các tổ chức "mặt trận dân tộc" của Trung Cộng cùng các khẩu hiệu, tên gọi các tổ chức phụ (cứu quốc), các khẩu hiệu (chống Mỹ cứu nước) chỉ là sao chép lại "kháng Nhựt cứu nước" của Trung Cộng từ năm 1937.
Khi Mao Trạch Đông nhận chỉ thị của cộng sản quốc tế để thành lập Mặt Trận Dân Tộc và tung ra khẩu hiệu Kháng Nhựt Cứu Nước th́ mục đích thật sự của nó không phải là đánh Nhựt, mà nhắm tấn công chính phủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng. “Mặt Trận Dân Tộc Giải Pḥng Miền Nam” cũng không phải chống Mỹ như họ đề ra, thật sự chỉ là sự tập họp các phần tử bất măn với chính quyền miền Nam, tạo sức mạnh để cộng sản xâm lược miền Nam và tiến hành cách mạng vô sản mà thôi. MTGPMN chỉ là một sự a ṭng mập mờ theo tổ chức Mặt Trận Dân Tộc của Mao Trạch Đông do cộng sản quốc tế chỉ đạo, có mục đích phục vụ lợi ích cho Liên Xô. Lập MTGPMN, cộng sản có mục đích theo đuổi con đường cách mạng vô sản, làm tay sai cho Liên Xô, rồi Trung Quốc để xuất cảng chủ nghĩa cộng sản qua các lân quốc. Sau năm 1975, chúng ta đă thấy rơ việc làm của họ, và sự sụp đổ của nó theo mẫu quốc Liên Xô vào năm 1989.
Loạt bài nầy chia làm 4 phần:
- phần 1,và 2: Sự thật về các trí thức miền Nam theo cộng sản.
- phần 3: Những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản.
- phần 4: Văn tuồng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Phần 1.Lột mặt nạ tổ chức bịp bợm Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
* MTGPMN gởi Ba Trà, cán bộ trí vận xuống chùa Phước Hậu ở Trà Ôn để tuyên truyền rỉ tai Ḥa Thượng Thích Thiện Hoa (Viện trưởng Viện Hóa Đạo) về chủ trương, đường lối của Mặt Trận đối với Phật Giáo. Trước đó, họ cho người đến chùa Ấn Quang hẹn ngài về Trà Ôn.
* Luật sư Trịnh Đ́nh Thảo tâm sự với giáo sư Lê Văn Hảo tại nhà khách trung ương Đảng tại Hà Nội: "Bọn ḿnh chỉ là những h́nh nộm, người ta sai làm ǵ th́ làm nấy, chứ chẳng có chút quyền hành nào cả..."
* Trần Bạch Đằng, Thường vụ ủy viên Mặt Trận Saigon Gia Định, có nhà trọ ở đường Phan Kế Bính và mua một chiếc xe du lịch Simca 1000 do người nhà là Nguyễn Hải Thọ đứng tên kiêm tài xế. Nguyễn Hải Thọ là em vợ của người anh ruột bà Nguyễn Văn Thiệu, giáo sư Pháp Văn ở trường Trung Học Bến Tranh (Tân Hiệp, Định Tường). Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, Thọ làm giám đốc công ty cung ứng xuất khẩu...
Nhớ lại cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập, Việt Minh không bao giờ tự nhận ḿnh là cộng sản. Trong suốt đoạn đường chiến đấu 9 năm đó (1945-1954), Việt Minh tạo ra “chính nghĩa giai đoạn”, để tập họp mọi tầng lớp dân chúng ủng hộ và hy sinh cho quyền lợi của đảng họ. Sắp tới chiến thắng, họ trở mặt: gạt tất cả mọi thành phần trí thức, tiểu tư sản, địa chủ ra ngoài cuộc kháng chiến. Chiến thắng rồi, những thành phần ấy trở thành kẻ thù, chỉ trừ giai cấp vô sản.
Trước khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, không có một trí thức nào ở miền Nam ủng hộ cộng sản. Biết rơ như vậy, nên Việt Cộng phải ngụy tạo một chiêu bài mới: Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để lừa dối đồng bào, dư luận cả trong lẫn ngoài nước. Việt Cộng cưỡng ép một số thân hào nhân sĩ tiêu cực, đối lập, những trí thức bất măn với chính quyền quốc gia, trốn ra bưng, rồi gắn cho họ cái chức ủy viên trung ương MTGPMN để họ tiến hành cuộc chiến tranh du kích, phá hoại. Lúc đó, họ gọi là "chiến tranh giải phóng" và đảng cộng sản được gọi là “đảng cách mạng”, giấu kín tông tích để mọi người hiểu lầm rằng “MTGPMN là tổ chức không phải cộng sản". Cái gian hùng và lừa bịp của Việt Cộng khiến nhiều trí thức ngây thơ, cả tin, lầm lạc mà trót theo họ. Sự thật, cái nhăn của MTGPMN là cộng sản. Chiếm được miền Nam rồi, MT và cái chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam trở thành cộng sản một cách trơ trẽn.
Trong "chiến tranh chống Mỹ", MT nhiều lần phong chức cho người nầy người nọ, dù khéo léo đến đâu, cũng chỉ tạo ra một tấm b́nh phong che chắn những thủ đoạn bất chính, những hành động tàn bạo, phi nghĩa. Người CS luôn luôn có tâm địa lắt léo, miệng lưỡi tráo trở. Chỉ tội nghiệp các phần tử trí thức miền Nam v́ tin họ mà phải chịu làm bù nh́n, làm người tù bị giam lỏng ở mật khu để hưởng sự biệt đăi, mặc t́nh cho cán bộ CS tiếp tục dùng mưu gian mẹo vặt chiếm cho được miền Nam trù phú...
Trong cuộc chiến tranh quốc Cộng 1954-1975, các chính phủ VNCH phải luôn luôn vất vả đối phó với các phong trào phản chiến, đ̣i "ḥa b́nh" tại hậu phương. Họ chiến đấu như người vơ sĩ bị trói tay. Ngoài một thiểu số tu sĩ Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo bị VC tuyên truyền, liên miên làm áp lực, c̣n sinh viên, các trí thức thân Cộng, đối lập, bất măn, nhưng chưa hiểu MTGPMN là CS, tập họp thành một lực lượng chống đối, làm cho t́nh thế mỗi ngày trở nên nguy ngập, tiềm lực chiến đấu của quân đội suy yếu. Trong môi trường đó, người bạn đồng minh chiến đấu Mỹ lại can thiệp vào nội bộ chúng ta, cưỡng bách chính quyền quốc gia nhập cảng thứ tự do quá trớn của Mỹ, tạo ra sự sơ hở, kẻ thù lợi dụng xâm nhập, lũng đoạn hàng ngũ, tuyên truyền, phá hoại. Đất nước đang lâm chiến một mất một c̣n với CS, lẽ ra tất cả mọi người không phân biệt, tôn giáo, đảng phái... phải tập họp thành một sức mạnh chung để chiến thắng, th́ lại vô t́nh tiếp tay cho địch, làm đồng minh cho họ. Chính quyền quốc gia miền Nam sụp đổ do nhiều nguyên nhân, trong đó các phong trào phản chiến của các giới đă “đóng góp” công lao làm "ung thối" chế độ mà họ đang sống, đang hưởng những tiện nghi và phúc lợi. Lúc đó, báo chí miền Nam gọi những người nầy là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma CS” cũng không sai lắm. Chúng tôi không vơ đũa cả nắm, nhưng phải nh́n nhận những đoàn thể, tổ chức tôn giáo, sinh viên cũng có người tốt kẻ xấu. Chính v́ ngây thơ tưởng rằng MTGPMN không phải là CS, nên nhiều người đă ủng hộ họ, để rồi sau năm 1975, phải bỏ tất cả sản nghiệp bôn đào ra ngoại quốc một cách tức tưởi. Bài học ấy c̣n sờ sờ, nhưng người quốc gia hay quên và dễ tha thứ..
.
Trước khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, CS không có một người nào đủ uy tín để lôi kéo những phần tử trí thức, thân hào nhân sĩ miền Nam theo họ, CS “mượn đầu heo nấu cháo”, cưỡng bức một số trí thức tên tuổi ở miền Nam theo họ làm b́nh phong, rồi tuyên truyền lừa bịp, lợi dụng tên tuổi các trí thức ấy, lập mặt trận nầy, liên minh kia... thực chất chỉ là những tổ chức hữu danh vô thực, những con bù nh́n. Sách lược lừa bịp của VC trước sau như một, không bao giờ thay đổi. "Sông có thể cạn, núi có thể ṃn, nhưng VC không bao giờ hết lừa bịp".
Chiếm được miền Nam rồi, các trí thức trong MT, trong chính phủ lâm thời bị thay thế, giải thể, để những tên CS lưu manh, thất học thay thế. Lúc chưa chiếm được miền Nam, họ mời mọc, quyến rũ, ép uổng để trí thức tham gia. Các ông Trịnh Đ́nh Thảo, Lâm Văn Tết (nguyện Thượng Hội Đồng Quốc Gia), Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Kiết, các giáo sư Nguyễn Văn Ch́, bà Nguyễn Đ́nh Chi ... ra ŕa hoặc giữ những chức vụ hàm, trang điểm cho Mặt Trận Tổ Quốc.
Trong bài "Số phận trí thức trong hàng ngũ kháng chiến của Việt Minh" (1945-1954), chúng tôi quên, không nhắc đến một trí thức khác, cũng rất nổi tiếng, quê ở Bến Tre, du học bên Pháp về, tốt nghiệp ngành sinh vật học. Tuy khả năng chuyên môn của ông không liên quan ǵ tới kháng chiến chống Pháp như kỹ sư Vũ Quư Hân về Bắc, nhưng v́ ḷng yêu nước bồng bột, nên sau khi nghe ông Hồ và phái đoàn thuyết tŕnh về hiện t́nh "hiện nay nước nhà đă độc lập", ông sẵn sàng về "xây dựng quê hương”. Người đó là giáo sư Dương Hữu Thời. Tôi không rơ giáo sư Dương Hữu Thời có liên hệ ruột thịt họ hàng ǵ với giáo sư Dương Minh Thới, thân phụ của bác sĩ Dương Quỳnh Hoa hay không.
Mấy tháng cuối năm 1946, Dương Hữu Thời về tới Saigon. T́nh h́nh chiến sự mỗi ngày một gia tăng, c̣n kháng chiến quân liên tiếp thất bại, rút lui xa đô thành, làm cho giáo sư Dương Hữu Thời thất vọng. Tuy nhiên, giáo sư Thời là con người thầm lặng, ít lâu sau được “móc” ra bưng chiến đấu. Gặp các cấp chỉ huy kháng chiến, Dương Hữu Thời kể lại quá tŕnh được đào tạo chuyên môn về sinh vật học của ḿnh, nhưng mọi người hờ hững v́ không biết ứng dụng tài năng ấy vào việc ǵ trong lúc chiến tranh. Tuy nhiên, nhờ chịu khó, ông ṃ mẫm tự coi sách chế tạo vơ khí, đạn dược và trở thành một Trần Đại Nghĩa thứ hai ở khu 8, tuy không có một điều sáng tạo hay phát minh nào đáng kể. Từ đó, trong kháng chiến, giáo sư sinh vật học Dương Hữu Thời được gọi là kỹ sư Phương Thanh v́ ông có giúp sửa chữa súng, chế tạo đạn. Năm 1954, Dương Hữu Thời tập kết ra Bắc, được bổ vào làm giáo sư trường đại học tổng hợp Hà Nội. Ông âm thầm làm việc, tận tụy giảng dạy, tự học tiếng Nga để nghiên cứu thêm sách Nga, cập nhật hóa kiến thức chuyên môn. Có người từng học với giáo sư Dương Hữu Thời kể lại: "Tuy là một nhà khoa học tận tụy với sinh viên, đóng góp nhiều công sức cho đất nước nầy, nhưng sự đăi ngộ của nhà nước dành cho ông rất đạm bạc, muộn màng. Ông như đứa con ghẻ, con rơi của chế độ, đầy nghi kỵ và mặc cảm về hàng ngũ trí thúc do tư bản đào tạo. Trong cuộc sống gian khổ của một công chức hạng trung, lẽ ra phải được đăi ngộ xứng đáng v́ công lao to lớn, thế mà nhà nước lại bỏ rơi ông. Dù vậy, giáo sư luôn luôn làm việc cật lực, có lúc làm hiệu phó trường đại học, để đóng góp vào sự phát triển của đất nước lẽ ra phải có, nhưng đất nước càng ngày càng kiệt quệ, khánh tận, nghèo đói thêm. Nhiều lần ông kín đáo tâm sự với vài sinh viên thân tín. Cũng theo dư luận trong giới sinh viên, giáo sư Dương Hữu Thời là người rất xứng đáng phong danh hiệu "hàm giáo sư, phó tiến sĩ, nhà giáo nhân dân ..." tuy nhiên những chữ xa xỉ ấy không đến được với ông.
Giáo sư Dương Hữu Thời âm thầm, tận tụy đóng góp tài năng của ḿnh trong các lănh vực khoa học, nhưng đời ông là cả một sự gian khổ, bất hạnh và bị lăng quên.
Đó cũng là số phận chung của những người trí thức trót theo phụng sự cho chế độ CS, phải tuyệt đối phục tùng, tận tụy và được hưởng sự... bạc đăi của họ.
Nói về những động lực khiến một số trí thức miền Nam theo MTGP th́ có nhiều nguyên do khác nhau. Tuy nhiên, lư do chính và quan trọng hơn hết là tất cả đều tin rằng MTGPMN không phải là một tổ chức của CS. Theo họ, MTGPMN tập họp những thành phần quốc gia yêu nước, bất măn chế độ hiện tại, muốn dấn thân tranh đấu cho nước nhà độc lập ḥa b́nh, thoát khỏi sự lệ thuộc vào các cường quốc tư bản. Một lư do thầm kín khác là trong mỗi con người trí thức ấy, đều bộc lộ một tham vọng chính trị vô bờ "muốn làm lănh tụ". Với họ, việc nầy thường bộc lộ qua việc cả hai vợ chồng đều trốn ra mật khu. Mong muốn chồng làm lớn luôn luôn thôi thúc các bà xúi chồng cùng tham gia MTGPMN để t́m địa vị. Chẳng hạn như trường hợp vợ chồng giáo sư Trần Kim Bảng - Vân Trang, vợ chồng bác sĩ Phùng Văn Cung, vợ chồng luật sư Trịnh Đ́nh Thảo.
Sinh ra trong một gia đ́nh đại trí thức, giàu có, gia sản cá nhân và bên vợ ông Thảo là những gia đ́nh đại phú gia. Bà Thảo, nhũ danh Ngô Thị Phú, thuộc gia đ́nh danh giá lớn, giàu có ở Sóc Trăng, thuộc ḍng dơi hội đồng Ngô Phong Điều mà khắp miền Nam ai cũng nghe danh. Với thành phần giai cấp, gia sản như vậy, chắc chắn ông Thảo không bao giờ muốn theo VC. Lúc mới ra bưng, trong một lần họp mặt với các trí thức Saigon trốn ra, chính bà Thảo tuyên bố một câu giựt ḿnh. Quí vị có biết bà Thảo nói ǵ không? Trong một bữa ăn do bà Thảo đăi, có bơ, sữa, phó mát, nho và vài món nổi tiếng của Pháp do chính con bà, đang học ở Thụy Sĩ gởi qua tiếp tế bằng máy bay, qua ngă Phnom Penh. Giữa bữa ăn thịnh soạn, đông đủ các trí thức Saigon mới trốn ra mật khu, bà Thảo nói:
- Thôi đừng nói tới CS tôi nghe, tôi sợ quá! Hồi ở dưới xứ tôi (Sóc Trăng), ai nghe nhắc tới CS cũng kinh hồn, v́ hồi CS dậy (tức Nam Kỳ khởi nghĩa 1941), họ bắt người mổ bụng dồn trấu...
Nữ sĩ Vân Trang, vợ giáo sư Trần Kim Bảng nói:
- Gặp phản ứng của "bà cả" rồi!
Trong khi Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh Tấn Phát cũng mỉm cười cho vui ḷng bà Thảo. Ông Vơ Ngọc Thành, công chức cao cấp trong chính phủ VNCH mới trốn vô bưng cũng phụ họa thêm:
- Làm ǵ th́ làm, không bao giờ tôi theo VC. (Tiết lộ của một ủy viên trung ương MTGPMN).
Các trí thức miền Nam ngây thơ, tin vào sự tuyên truyền của CS mà bị họ lợi dụng. Khi đă trốn ra bưng, họ bị kèm kẹp, không bao giờ có dịp "hồi chánh". Chúng tôi muốn kể lại vài trường hợp điển h́nh.
Luật sư Trịnh Đ́nh Thảo (1901-1982), là một trí thức lớn của miền Nam, sinh trong một gia đ́nh danh giá, giàu có tại miền Bắc. Ông Thảo là người thứ ba trong số 4 anh chị em đều đỗ đạt.
- Anh cả Trịnh Đ́nh Huyến, tốt nghiệp ngành canh nông (trường Công Chánh Hà Nội), ông được bổ nhiệm làm đốc công thủy lợi nhiều nơi tại Nam kỳ, có lúc ông sống ở Giá Rai, Bạc Liêu. Chính tại nơi đây, nhà văn Nguyễn Hiến Lê đi công tác thủy lợi, được quen biết với ông và trở thành con rể ông Huyến.
- Con thứ hai cũng tốt nghiệp trường Công Chánh ra, làm công chức cho Pháp.
- Ông Trịnh Đ́nh Thảo, tốt nghiệp tiến sĩ luật khoa tại Pháp rất sớm, hồi hương về Nam kỳ năm 1929, hành nghề luật sư tại ṭa Thượng Thẩm Saigon đến năm 1945. Trong thời gian ấy, nhiều lần ông bênh vực cho các nhà ái quốc Việt Nam bị Pháp bắt, đưa ra xét xử. Năm 1945, ông Thảo tham gia chánh phủ độc lập đầu tiên do cụ Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Sau khi Việt Minh cướp chánh quyền, ông Thảo vẫn sống ở Saigon bằng nghề luật sư cho đến năm 1954, tên ông xuất hiện trong "phong trào ḥa b́nh" cùng với một nhóm các trí thức khác như các ông Lưu Văn Lang, Michel Văn Vĩ, dược sĩ Trần Kim Quan, Từ Bá Đước, Phạm Huy Thông, Nguyễn Thị Lựu...
Ông Thảo có một người em gái, được gả cho một luật sư ở Hà Nội.
Ngày 10/8/1954, phong trào ḥa b́nh chính thức ra tuyên ngôn: ngừng bắn vĩnh viễn; trao trả tù binh; thực hiện tự do dân chủ...
Ông bà Thảo có một ngôi nhà lớn như dinh tham biện tại Thông Tây Hội, G̣ Vấp. Năm 1963, VC cho người móc nối luật sư Trịnh Đ́nh Thảo (có lẽ là bà luật sư Ngô Bá Thành) cùng một số trí thức đối lập, bất măn với chính quyền quốc gia, chống chế độ Ngô Đ́nh Diệm về việc để Mỹ đổ quân ồ ạt vào Việt Nam, can thiệp vào nội bộ. Cán bộ trí vận MTGPMN luôn luôn t́m cách đưa chỉ thị, giao nhiệm vụ cho ông ta để lôi cuốn thêm các phần tử bất măn khác, lập thành một nhóm làm áp lực, tranh đấu công khai chống chính quyền. Đầu năm 1965, tại tư gia ở Thông Tây Hội, G̣ Vấp, luật sư Thảo tổ chức một buổi họp dưới h́nh thức ăn tiệc, đưa ra thăm ḍ ư kiến các trí thức đă được mời tới, nhưng chưa nói rơ công tác. Trong lần họp ấy, các trí thức đồng ư lập Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết theo chủ trương của MTGPMN đề ra. Sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân thất bại (1968), MTGPMN bây giờ hết ăn khách, VC lập thêm một tổ chức mới qui tụ các trí thức, nhân sĩ tên tuổi của miền Nam lấy tên Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh Việt Nam. Muốn vậy, họ phải t́m cách mời các trí thức tên tuổi ấy ra bưng: đi đêm có ngày gặp ma. Các trí thức bất măn, chống chế độ, thậm thụt giao thiệp với VC đă thấu tới tai chánh quyền quốc gia. Nhiều vị bị mời điều tra, hỏi cung, hoặc tạm giam, thẩm vấn. Với chứng cớ đầy đủ, dễ ǵ họ chối được. Các trí thức bị chính quyền quốc gia thẩm vấn hay tạm giam. gồm các ông kỹ sư Hồ Văn Bửu, luật sư Nguyễn Long, luật sư Ngô Bá Thành (tức Phạm Thị Thanh Vân, con gái bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến, nguyên Tổng Ủy Trưởng Di Cư..., luật sư Trịnh Đ́nh Thảo... VC cho người liên lạc, hối thúc các vị ấy "cứ ra bưng, vô vùng giải phóng để được bảo vệ”.
Trong thế “chẳng đặng đừng”, ông Thảo được du kích tới nhà, khiêng đi vào một đêm tối, sau khi đưa ông ra khỏi Sàig̣n an toàn.
Trường hợp này cũng giống như việc ḥa thượng Thích Đôn Hậu. Trong khi tấn công Huế (1968), Việt Cộng "mời" ông lên núi "họp". Ngài không đi, chúng cho bộ đội thay phiên vơng ngài lên núi. (lời giáo sư Lê Văn Hăo)
Khi chiến trường miền Nam sôi động, MTGPMN liền gởi các trí thức miền Nam ra Hà Nội, trọ tại nhà khách Trung Ương đảng. Trong lúc gặp nhau đủ mặt, luật sư Trịnh Đ́nh Thảo đă lên tâm sự với giáo sư Lê Văn Hảo rằng:
- Bọn ḿnh chỉ là những h́nh nộm. Người ta sai làm ǵ th́ làm nấy, chớ chẳng có chút quyền hành ǵ cả...Lần đó, luật sư Thảo gặp các bà Nguyễn Đ́nh Chi, giáo sư Lê Văn Giáp, ông Nguyễn Đóa, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ (một trong “3 ông ḥa b́nh"), Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Thúc Tuân (em ông Nguyễn Thúc Hào (?).. .
* Lâm Văn Tết (1896 - 1982):
Là một trí thức, nhân sĩ có uy tín lớn trong hàng trí thức miền Nam, Lâm Văn Tết xuất thân trong một gia đ́nh đại điền chủ tại Bạc Liêu, từng làm trong sở Công Chánh Pháp nhiều thập niên. Từ năm 1943, Lâm Văn Tết bắt đầu hoạt động chống Pháp có khuynh hướng thân Nhựt, rồi lại ủng hộ Việt Minh kháng chiến. Sau đó ông theo Việt Minh một thời gian ngắn, thấy rơ VM không thật tâm yêu nước, chỉ lợi dụng xương máu người dân để họ phục vụ cho quyền lợi của CS, th́ bỏ về thành. Dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, Lâm Văn Tết bất măn khi thấy người Mỹ càng ngày càng can thiệp vào nội t́nh VN. Sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, Lâm Văn Tết được mời làm hội viên Thượng Hội Đồng Quốc Gia (giống như Thượng Viện, nhưng không do dân bầu). Ông được cử làm Phó Chủ Tịch đủ biết uy tín của ông ra sao. Từ năm 1965, cán bộ trí vận móc nối, ông Tết bày tỏ tích cực thái độ chống đối và bất măn của ông trước việc Mỹ xua quân ồ ạt vào miền Nam. Chiến tranh mỗi ngày một leo thang, Mỹ đưa quân thêm vào, làm cho miền Nam mất chính nghĩa. Từ đó, VC tuyên truyền "đánh Mỹ cứu nước”. Sau Tết Mậu Thân (1968), cụ Lâm Văn Tết được móc nối trốn vô mật khu R, để được “bảo vệ”. Cũng như Trịnh Đ́nh Thảo, ông v́ già, sức yếu, đă 72 tuổi, nên được du kích khiêng bằng vơng vô khu. Sáu năm sống trong rừng, cụ Tết chỉ làm có mỗi một công việc "cho MTGPMN" "mượn cái tên" để tuyên truyền, phỉnh gạt mọi người. Hàng ngày cụ uống trà, đọc sách báo, học chính trị (mỗi tuần 2 buổi) về đường lối, chính sách và “thế tất thắng” của MTGP. Khi chính phủ lâm thời CHMNVN được thành lập, cụ được gởi ra nước ngoài để tuyên truyền, rồi được qua Đông Đức chữa bịnh ... Tại mật khu R, VC “gắn” cho cụ nhiều chức vụ rất kêu, nhưng hữu danh vô thực với mục đích lợi dụng tên tuổi cụ để lôi cuốn đồng bào và trí thức ngây thơ như: Phó Chủ tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh. Đến tháng 6 năm 1969, cụ được “gia phong” chức mới để ngồi chơi xơi nước là Ủy Viên Hội Đồng Cố Vấn Chính Phủ, do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Kể cả ông Nguyễn Hữu Thọ lẫn cụ và các ủy viên trong Hội Đồng cố vấn đều bị VC cố vấn, chớ các cụ cố vấn được ai. Nói cách khác, cụ bị cố vấn th́ đúng hơn.
"Liên Minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và ḥa b́nh", "Hội đồng cố vấn chính phủ", cũng như nhiều tổ chức khác do VC lập nên, chỉ là những tổ chức chính trị, lừa bịp thế gian, chớ không phải "tổ chức chính quyền", vậy các trí thức theo VC chỉ là những tấm b́nh phong che chắn cho những việc làm gian ác của họ.. Tuy vậy, nhiều người chưa rơ CS, cho rằng các trí thức miền Nam theo MTGP đều "làm lớn lắm".
Nói đến trường hợp các ông chồng trí thức theo VC, bị các bà vợ giựt dây, muốn cho chồng “được làm lớn", chúng tôi xin kể lại trường hợp bác sĩ Phùng Văn Cung và vợ chồng giáo sư Trần Kim Bảng - Vân Trang.
Bác sĩ Phùng Văn Cung cùng với vợ thoát ly theo VC từ ngày VC mới chuẩn bị thành lập MTGP. Xuất thân trong một gia đ́nh tiểu tư sản, chào đời tại Chợ Lớn và gia đ́nh bên vợ Lê Thoại Chi cũng thuộc hàng giàu lớn, trí thức, nhiều người học cao, đỗ đạt, vô “dân Tây”, bác sĩ Phùng Văn Cung không phải là mẫu người dấn thân, ham hoạt động chính trị. Một người em bà con của bà Phùng có bí danh là Ba Trà, người trực tiếp ra vô Sàig̣n Chợ Lớn như ăn cơm bữa. Chính Ba Trà là người móc nối nhiều trí thức bất măn, đối lập với chính quyền quốc gia từ năm 1957.
Theo lời ông Trương Như Tảng, Bộ Trưởng Tư Pháp trong chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam cho biết: "Nguồn tin của t́nh báo Mỹ hiểu lầm rằng bác sĩ Phùng Văn Cung là người chủ trương khủng bố."
Sự thật ông chỉ thuộc thành phần bất măn với chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Trước khi thoát ly, trốn ra mật khu vào đầu năm 1960, bác sĩ Cung phục vụ nhiều năm trong các bịnh viện lục tỉnh. Sau đó ông đổi về là giám đốc một bịnh viện ở Sàig̣n. Theo một vài người có quen biết với bác sĩ Phùng Văn Cung th́ bác sĩ Cung là người thích hưởng nhàn, tính t́nh hiền lành. Những ngày cuối tuần rỗi rảnh, ông thường đến nhà, hoặc mời các đồng nghiệp, bạn bè tới nhà đánh bài tứ sắc. Về quan điểm chính trị, bác sĩ Cung là người chủ trương ḥa giải hơn cứng rắn, ít thích nghi với cuộc sống kham khổ. Lúc sống trong mật khu, các bạn bè bác sĩ Cung cũng đều cho rằng những điều nhận xét trên là đúng. Nhiều thành viên của bác sĩ Cung như dược sĩ Hồ Thu, Trần Bửu Kiếm ... đều có cảm tưởng rằng bác sĩ Phùng Văn Cung không thể làm người cách mạng được. Trái lại vợ ông là một người đàn bà nhiều tham vọng, Lê Thoại Chi hoạt động tích cực, lấn lướt và chế ngự ông chồng hiền lành trước mặt bạn bè. Bà Phùng Văn Cung là người có ư chí mạnh mẽ. Tôi được nghe một ủy viên trung ương MTGP quen biết với vợ chồng bác sĩ Phùng Văn Cung xác nhận:
Chính bà Phùng Văn Cung đă thúc đẩy chồng tham gia hoạt động chính trị, trốn ra mật khu theo MTGP từ lúc chuẩn bị thành lập và họ không ngờ rằng MTGP chỉ là chiêu bài do CS miền Bắc dựng lên để có chính nghĩa xâm lăng, chiếm trọn miền Nam. Khi t́m các thành viên để lập chiêu bài MTGP, các cán bộ CS đă t́m hiểu, phân tích uy tín, thái độ chính trị của một số trí thức, nhân sĩ thân Cộng.
Vai tṛ chủ tịch MTGPMN chính VC đă thảo luận trước, không cần tiếp xúc hay hỏi ư kiến của đương sự, rồi “bắt cóc họ”, đưa ra mật khu phong chức hàm. Khi đă chọn xong, họ mời các vị ấy đi họp, rồi bắt cóc luôn vô rừng. Trong một bài trước, chúng tôi có nhắc đến việc VC bí mật lựa chọn người đóng vai chủ tịch MTGPMN giữa các trí thức, nhân sĩ được dân chúng nghe danh, biết tên như dược sĩ Trần Kim Quan, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, giám đốc nhà băng Michel Văn Vĩ ... sau cùng họ chọn luật sư Nguyễn Hữu Thọ, lúc đó đang bị chính quyền quốc gia giam lỏng tại Cũng Sơn, tỉnh Phú Yên.
Sau đó họ tổ chức bắt cóc Nguyễn Hữu Thọ, gọi là “giải thoát” Thọ, rồi đem giấu tại một nơi nằm trong rừng sâu, giữa biên giới Nam Kỳ, Miên, Lào, gọi là vùng "Trois frontiers", đợi ngày thành lập MTGPMN (20-12-60) bầu ông Thọ vào chức chủ tịch. Tuy nhiên, vào ngày đó, ông Thọ về căn cứ MTGP không kịp, nghĩa là không có mặt. Mặt trận đă không có quyền ǵ, th́ chức chủ tịch cũng chỉ là ... hàm mà thôi. Tất cả mọi thành viên trong mặt trận này cũng được lựa chọn từ trước, không hỏi qua ư kiến đương sự. Theo chỉ thị từ Hà Nội, VC dàn cảnh để tổ chức lập “MTGPMN”. Họ mời các trí thức, nhân sĩ “đi họp” rồi dẫn đi luôn vô rừng.
Trở lại việc bà Cung là người tích cực, lấn lướt quyền chồng ... Trong cái gọi là "Đại hội mừng công” dỏm, tổ chức tại mật khu năm 1964 có một chuyện lừa bịp do chính người được lănh mề đay, cờ lưu niệm và nhận miếng vải có thêu mấy chữ MTGP để lưu niệm. Người đó là anh Dương Đ́nh Lôi, người Tân An, tập kết ra Bắc, làm thiếu tá huấn luyện viên trường dạy pháo binh ở Sơn Tây, mới xâm nhập miền Nam, chẳng biết ất giáp ǵ cả.
Bookmarks