Đọc Hiền Như Bụt của Hạ Long Bụt Sĩ - Đào Văn B́nh
https://nhinrabonphuong.blogspot.com...but-si-ao.html
https://nuocnha.blogspot.com/2021/12...but-si-ao.html
Bài quà dài, phải cắt bớt nhiều chỗ. Xin coi từ 2 đường dẫn trên
Chủ Nhật, 7 tháng 11, 2021
Đọc Hiền Như Bụt của Hạ Long Bụt Sĩ - Đào Văn B́nh
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút kư pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quư trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lư Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đă xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học.
<!>
Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lư, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
Tổng Quát:
1) Hiền Như Bụt: Trong tiểu luận này tác giả nói lư do tại sao lại có chữ “Bụt”. Buddha người Việt Giao Chỉ gọi nôm na là Ông Bụt. Măi sau theo Tàu, thời Minh thuộc (1407-1428) mới gọi là Phật v́ người Tàu phiên âm Buddha là Phật Đà. Ông Bụt đi cạnh ông Tiên đi vào đời sống tâm linh của người dân từ những đầu thế kỷ Dương Lịch đă trở thành một triết lư, một tôn giáo dân tộc. Ông Trời hay Tạo Hóa hay Thượng Đế th́ cao xa quá c̣n Ông Bụt gần hơn, thân mật, hiền từ hơn. Triết gia Đức Schopenhauer khi được hỏi là các tôn giáo triết lư Tây Phương có thể thay thế được Đạo Phật ở Á Đông từ Thế Kỷ Thứ 19 đă trả lời, “Không có đạo nào có thể thay thế Đạo Phật ở Đông Phương được v́ làm như thế chẳng khác ǵ bắn một viên đạn lên vách núi cao.”
Arthur Schopenhauer was a German philosopher. He is best known for his 1818 work The World as Will and Representation, which characterizes the phenomenal world as the product of a blind noumenal will.
2) Văn Hóa Hữu Lễ và Mẫu Người Hiền Như Bụt: Qua cách xưng hô của người Việt Nam, Văn Hóa Hữu Lễ bao hàm nghĩa đồng bào. Lễ liền với nhạc là trật tự tiết tấu hài ḥa vũ trụ phổ vào trật tự xă hội. Dân chủ Tây Phương từ gốc duy lư đều coi nhẹ t́nh cảm gia tộc dẫn tới xă hội cá mè một lứa. Trong ngôn ngữ Việt, chữ “Hiền” được dùng nhiều nhất để chỉ định một người tốt như: Mẹ hiền, vợ hiền, cha hiền, anh hiền, chị hiền, vua hiền, tôi hiền (hiền thần), hiền như Bụt và ở hiền gặp lành.
3) Đạo Bụt Sáng Nghĩa: Trong Khóa Hư Lục, nhà vua hiền triết Trần Nhân Tông đă tóm lược con đường tu học như sau:
Trần Nhân Tông, personal name Trần Khâm, temple name Nhân Tông, was the third monarch of the Trần dynasty, reigning over Đại Việt from 1278 to 1293. After ceding the throne to his son Trần Anh Tông, Nhân Tông held the title Retired Emperor from 1294 to his death in 1308.
Lễ Phật giả, kính Phật chi đức.
Niệm Phật giả, cảm Phật chi ân.
Tŕ giới giả, hành Phật chi hạnh.
Khán kinh giả, minh Phật chi lư.
Tọa thiền giả, đạt Phật chi cảnh.
Tham thiền giả, hợp Phật chi tâm.
Thuyết pháp giả, măn Phật chi nguyện.
4) Chết đi về đâu? Tác giả tóm gọn vào một câu, “Dựa trên mức độ tu tập và nghiệp nặng, nghiệp nhẹ, mỗi người có thể đi vào các cơi: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, A Tu La, Người, Trời gọi là Lục Đạo.
5) Nghiệp: Đó là hành động lành-dữ của chúng ta trong kiếp trước. Thế nhưng chúng ta có thể tu tập để chuyển nghiệp. Ta có tự do hành động, ta trồng cây nào th́ ăn quả đó.
6) Cái Ǵ Luân Hồi?: Tác giả đă dùng một thí dụ rất sống động để nói về luân hồi. “Như một ngọn đèn (hay ngọn nến) cháy từ canh này sang canh khác. Tuy khác nhau, biến dịch mỗi canh nhưng ánh sáng liên tục phát ra. Cũng vậy, không có một linh hồn bất biến trong con người mà chỉ có tâm thức diễn tiến liên tục. C̣n dục vọng th́ c̣n luân hồi kiếp này kiếp khác. C̣n cái để cháy để đốt th́ ngọn lửa c̣n cháy. C̣n luyến ái th́ vẫn c̣n mồi cho ngọn lửa cháy liên tục.
7) Chân Không khác Hư Vô: Vào Thế Kỷ IXX, các triết gia Tây Phương lúc đó chưa hiểu Phật pháp đều cho rằng Phật Giáo theo chủ nghĩa hư vô (nihility). Thế nhưng Hư Vô và Không của Phật Giáo khác hẳn nhau. Hư vô là không có ǵ hết. C̣n tánh không là thể tánh của muôn loài, do duyên khởi mà có h́nh tướng. Chính v́ thế mà trong Không đă Có và thể tánh của Có chính là Không.
8) Nhân Chủ và Thần Chủ: Theo tác giả, truyền thống Đông Phương không có đạo giáo nào đưa ra kinh sách bằng “thần khải” như các tôn giáo phát xuất từ thần quyền Trung Đông gồm Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo. Đạo giáo Đông Phương nghiêng về triết lư (từ trí tuệ mà đi lên)…từ đó không để một ông thần ngồi trên đầu ḿnh mà xây dựng một xă hội Nhân Chủ, con người tự làm chủ vận mệnh của ḿnh, tự do, nhân bản và khai phóng.
9) Quốc Độ Bồ Tát: Theo tác giả v́ Đức Phật nói về quốc độ của nhiều vị Phật như Cực Lạc của Phật A Di Đà, Đế Thích với 33 tầng trời…cho nên Phật Giáo là hữu thần nhưng không độc thần như Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo và Do Thái Giáo. Truyền thống văn hóa tôn giáo xứ nào cũng vậy. Nó là một tổng hợp sáng tạo cũ mới, xa gần, nội ngoại. Vấn đề là có tổng hợp (dung hợp) được không. Tổng hợp được th́ với thời gian ngàn năm sẽ thành truyền thống, không được sẽ thành ngoại lai. Ngoại lai th́ khó tồn tại bên cạnh tổng thể. Phật Giáo dung hợp được tập tục thờ cúng tổ tiên, Nho Giáo lẫn Đạo Giáo đă có sẳn trong ḷng người dân Việt Nam.
10) Tự Ḿnh Thắp Đuốc Lên Mà Đi: Đó là lời di giáo của Phật trước khi nhập niết bàn. Nh́n dung mạo khác phàm của Phật có người hỏi ngài là người hay thần linh? Đức Phật nói rằng ta không phải là người mà cũng không phải là thần linh mà ta là Bụt. Đạo pháp của bậc đại giác ngộ đó không dựa vào thần linh, không cần tới thế lực, xảo thuật, không cần tới vũ lực gươm giáo vẫn chinh phục được nhân thế kể cả chúng sinh cơi trời và thần linh cơi khác.
11) Chiều Kích Vũ Trụ: Có sự dung thông giữa Phật-Nho-Lăo ở khoảng dưới, khoảng giữa và khoảng cao. Nhưng tới mức độ tột cao th́ Đạo Phật vượt lên như một nỗ lực siêu việt.
12) Diệu Âm và Diệu Hương: Điểm đặc sắc của Đạo Phật là dùng nhiều phương tiện để giáo hóa, hoằng pháp trong đó có Diệu Âm và Diệu Hương. Điển h́nh về Diệu Âm có Quán Thế Âm Bồ Tát nghe tiếng kêu than mà tới cứu khổ. C̣n Hương Tích Phật - giáo chủ quốc độ Chúng Hương, dùng mùi thơm kỳ diệu để giáo hóa chúng sinh. Mùi thơm của sen cũng có tác dụng làm chúng ta thanh tịnh để đi vào “bầu trời cảnh Bụt”.
13) Tu Bao Lâu Th́ Đạt Đạo?: Tác giả đưa ra câu trả lời qua câu chuyện ngụ ngôn rất vui: Một tu sĩ trẻ trên đường đi tới Hy Mă Lạp Sơn, đi qua làng, dừng lại hỏi cụ bà bán nước bên đường, “Cụ cho tôi hỏi từ đây đi bao lâu nữa th́ tới chân núi?” Bà cụ không trả lời. Gạn hỏi thêm hai lần nữa bà cụ cũng làm ngơ. Vị tu sĩ nghĩ bà cụ tai điếc, đành tiếp tục lên đường. Mới đi được một quăng bỗng nghe tiếng bà cụ réo gọi, “Bẩy ngày th́ tới.” Vị tu sĩ ngạc nhiên quay qua hỏi, “Sao con hỏi cụ ba lần cụ không trả lời. Nay mới đi lại nghe cụ gọi?” Cụ bà trả lời, “Già này phải xem thầy đi nhanh hay đi chậm, có quyết tâm không th́ mới trả lời được.”
I. Phật Pháp Trị Liệu:
Trong 11 trang của chương này tác giả cho biết rất nhiều bác sĩ tâm thần của Tây Phương đă dùng Phật pháp như trị liệu pháp để chữa căn bệnh lan tràn ở Phương Tây đó là các bệnh; Thần kinh tâm trí (neurosis và psychosis) cả triệu người, lo âu (anxiety disorders) 12 triệu người ở nước Mỹ, bệnh điên (schizophrenia, phân ư) 3 triệu người điên khùng rồ dại. Cả thế giới có khoảng 1%-2% tức vài trăm triệu người điên! Tờ New York Times nói rằng chỉ cần chữa phân nửa số bệnh nhân tâm thần ở Mỹ thôi cũng phải tốn kém khoảng 75 tỷ Mỹ Kim. Carl Jung - một bác sĩ Thụy Sĩ nổi tiếng về trị liệu bệnh tâm thần đă nói rằng, “Nhiệm vụ của tôi là chữa bệnh khổ tâm năo v́ thế tôi phải làm quen với lối nh́n và phương pháp của bậc vạn thế sư biểu. Là một bác sĩ tôi xác nhận những giảng dạy của nhà Phật đă giúp tôi và kích thích tôi hết sức lớn lao. Nếu vậy th́ cũng chỉ là noi theo con đường đă vạch ra hơn hai ngàn năm trong ḍng tư tưởng của nhân loại.” V́ sống trong ḷng Âu Châu Thiên Chúa Giáo, BS Carl Jung đă phải biện minh, “Nếu ḷng tin Thiên Chúa không chữa được tâm bệnh th́ có lấy phương pháp trị liệu từ Phật pháp cũng không có ǵ là lạ.”
Bài quà dài, phải cắt bớt
Trong chương này tác giả c̣n nói thêm về Thiền Định, Thiền Quán là pháp môn tu tập chứ không phải chỉ tụng kinh, cầu nguyện. Rồi tác giả nói về lợi lạc của pháp môn Tịnh Khẩu qua lời Phật khuyên bảo ngài Mục Kiền Liên, “Thầy nên yên lặng như bậc Thánh, chớ sinh buông lung, nên tịnh tâm, không để bất cứ điều ǵ làm chượng ngại.”
II. Đạo Bụt và Khoa Học:
Trong chương này, tác giả tŕnh bày tỉ mỉ hai tiểu luận Vạn Pháp Dung Thông và Vật Lư Lượng Tử đi cùng với Diệu Lư Hoa Nghiêm của nhà Phật.
Trong thế giới của Hoa Nghiệm th́ “Tam thiên đại thiên thế giới thu trên đầu hạt cải” và “Tất cả chỉ là một và một là tất cả”.
Với Einstein, “Sự tương đối dạy ta tính dung thông giữa những h́nh sắc dị biệt của cùng một thực tướng.” C̣n Stephen Hawking muốn thống nhất quang lực quantrum với trọng lực trong Lư Thuyết Bao Gồm Tất Cả (A Theory of Everything). C̣n Max Plank, Niels Bohr và Heisenberg- cha đẻ của Cơ Học Lượng Tử, đầu Thế Kỷ XX nói rằng: Lượng tử vừa là hạt vừa là sóng (particle and wave) năng lượng như vậy không liên tục, bất định, không thể một lúc biết được vị trí và xung động của hạt (position and momentum of particle). Trong khi đó Duy Thức Học của Phật Giáo và trong Kinh A Di Đà, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm th́ “hằng mà chuyển” là quy luật của vạn pháp, vừa thường hằng, vừa biến hóa, vừa là hạt vừa là sóng. Vạn pháp thay đổi trong từng sát-na.
Thế mới hay Đức Phật do Thiên Nhăn và Tuệ Nhăn đă nh́n thấu rơ bản thể của vũ trụ mà hơn 20 thế kỷ sau các khoa học gia mới t́m ra.
III. Bóng Bụt Trong Thơ Văn Việt Nam và Quốc Tế:
1)Trong cổ thi vùng Trung Đông (Thế Kỷ XII-XVI)
Những thi hào Ba Tư như Omar Khayyam, Hafiz, Rumi…đều theo tông phái Sufi là tông phái cởi mở của Hồi Giáo và chất chứa nhiều tư tưởng dung hợp với Phật Giáo, nếu không muốn nói là thoát thai từ Phật Giáo. V́ khá nhiều cho nên tôi chỉ có thể trích dẫn được một bài:
Cần chi phải dạo vườn hoa.
Bản tâm cây lá trong ta mọc đầy.
Cánh sen an trụ tọa đài.
Vạn xuân tuyệt mỹ búp tay vẹn toàn.
2) Thơ Thiền Xứ Anh Đào:
Có quá nhiều như: Thiền Sư Ryokan, Basho, Shinkichi Takahashi, Dogen. Tôi chỉ xin trích dẫn một hai bài thơ:
Nói năng bàn chuyện ích ǵ?
Khi ḷng chỉ muốn quên đi sự đời.
Tôi mang b́nh bát xin ăn.
Trùng trùng cúc nở,
Mênh mang núi rừng.
Hạt sương đầu cỏ lạnh lùng.
Phải chăng nước mắt côn trùng đêm qua? (Ryokan1758-1831)
Thế gian ảo ảnh hơi sương.
Hơi sương ấy thế mà thường khổ đau. (Buson 1715-1783)
3) Bút pháp phá chấp của Bồ Tùng Linh Trong Liêu Trai Chí Dị:
Liêu Trai Chí Dị là “Chuyện thật lạ viết ở một căn buồng hiu hắt” của Bồ Tùng Linh (1640-1715) - một văn sĩ nghèo lận đận đời Nhà Thanh. Sách đă được 30 quốc gia dịch sang tiếng của họ, kể cả Nga, Tiệp Khắc. Tại Việt Nam, Liêu Trai Chí Dị được cụ Đào Trinh Nhất dịch sang Việt Ngữ năm 1900. Theo tác giả Lưu Văn Vịnh, “Đặc tính sáng tạo chính là tài năng mở rộng cơi thế gian tới vô biên, phá tung biên cương giữa các cơi, các quốc độ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, ma, trời, người, tiên, Bụt…giải thoát tâm tưởng khỏi màn vô minh hẹp ḥi biên kiến. Sức hấp dẫn của tuyệt bút Tây Du Kư và Liêu Trai Chí Dị là ở chỗ đó. Nó như ch́a khóa thần đưa độc giả vào thăm chùng chùng thế giới mới lạ dị kỳ, mở toang 8,4000 cánh cửa ngục tù. Càng vào sâu càng thấy cuộc sống dài ra, rộng ra, sâu thêm, cao thêm…”
4) Cung Đàn Bạc Mệnh Trong Thung Lũng Ma
Theo sử liệu th́ cuộc đời của Cụ Nguyễn Du là một ca khúc đoạn trường. “Năm 10 tuổi cha chết. Năm 13 tuổi mẹ chết. Năm 21 tuổi anh cả Nguyễn Khản chết. Năm 26 tuổi anh thứ là Nguyễn Quưnh bị quân Tây Sơn giết. Ngoài 30 tuổi vợ đầu chết.” Có lẽ chính nỗi bi thương này mà Nguyễn Du đă phổ cuộc đời ḿnh vào hai nhân vật Đạm Tiên và Thúy Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh và Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Theo tác giả, “Nhà đạo diễn Nguyễn Du đă đặt chính đời ông vào nhân vật Kiều “chữ tài liền với chữ tai một vần” là câu dành cho đời ông chứ không phải dành cho một kỹ nữ. Ông sống trong cơn lốc tam phân thiên hạ: Lê-Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Ông sống trong nghèo nàn, bốn vợ mười sáu con, trong bất măn, “Hàng thần lơ láo phận ḿnh ra sao”. Ông ra làm quan cho nhà Nguyễn với tâm sự của một nhân sĩ Bắc Hà từng pḥ Lê và phục Lê như Phạm Thái. “Thế nhưng cuối cùng Nguyễn Du đă “tâm thức hoàn lương an lạc, t́m ra Phật pháp vốn dĩ là một phương pháp tâm lư trị liệu (psychotherapy):
Khắp trong tứ hải quần chu.
Năo phiền trút sạch, oán thù rửa xong.
…Nhờ phép Phật uy linh dũng mănh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao. (Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh)
Và:
Ngă độc Kim Cương thiên biến linh.
…Tài chi vô tự thị chân kinh.
Kim Cương Kinh đọc ngàn lần.
Mới hay không chữ mới gần chân kinh.
Bài quà dài, phải cắt bớt
IV.Văn Hóa Tam Giáo:
Có bốn vị thánh bất tử trong ḷng dân tộc Việt Nam đó là: Thần Núi Tản Viên, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và Công Chúa Liễu Hạnh bắt nguồn từ thời Hùng Vương, đó là tín ngưỡng b́nh dân, là Thần Đạo thờ thần sông, thần núi, anh hùng và các nhân vật lạ kỳ. Theo tác giả, tuyển chọn nhân tài ra giúp nước là từ Đạo Nho. Ổn định nề nếp xă hội, gia đ́nh, làng nước cũng là Đạo Nho. Nhưng phong tục, cốt tủy ngh́n năm là Đạo Phật. Phật vượt lên trên Khổng-Lăo biến thành tâm linh và tâm thức Việt. Ba nền tảng đạo đức và tôn giáo đó kết hợp hài ḥa trong ḷng dân tộc qua cấu trúc của làng quê với Đ́nh Làng, Miếu Đền và Chùa. Tác giả đă dẫn chứng nguồn ca dao trong ḷng người dân như:
Lên chùa lạy Phật Thích Ca.
Lạy ông Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.
Bước ra kết nghĩa cùng nàng.
Túi anh có nhẫn cho nàng đeo tay.
Rồi:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ.
Xem Cầu Thê Húc xem Chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Bút Tháp chưa ṃn.
Hỏi ai xây dựng nên non nước này?
V. Phương Đông Trước Những Luồng Gió Tôn Giáo Mới:
Sau khi lược qua những tranh chấp tôn giáo, cải đạo ráo riết ở các nước có truyền thống Phật Giáo như Nam Hàn, Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam tác giả nhận định: “Tôn giáo là cốt tủy của văn hóa, là mạch máu của chủng tộc là năo bộ của quốc gia. Một nước thiếu thuần nhất về chủng tộc mà có chung tôn giáo th́ vẫn gắn bó keo sơn như các nước Hồi Giáo, Ấn Độ, các nước Âu Mỹ với Thiên Chúa Giáo, Nhật Bản với Thần Giáo và các Thiền Phái.” Và tác giả cũng có cái nh́n thực tế về một số tôn giáo: “Cho nên hoạt động tôn giáo trên thế gian phần nhiều là sinh hoạt thế tục, che phủ “h́nh nhi hạ” bằng hào quang “h́nh nhi thượng” thần thánh mà thôi.” (Tức nói thần nói thánh nhưng thực chất là quyền lực và quyền lợi kinh tế, chính trị.)
VI. Chuỗi Ngọc Kinh Bụt:
Trong chương cuối này tác giả trích một số lời dạy của Phật trong Kinh Pháp Cú, Viên Giác, Kim Cương, Kinh Trung Bộ, Tiểu Bộ Kinh, Kinh Lăng Già, Kinh Pháp Ấn, Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Kinh Pháp Hoa, Kinh Tứ Thập Nhị Chương và Kinh Trường A Hàm.
Tạm Kết Luận:
Trong Lời Bạt tác giả nói rằng, “Là người học Phật, sách này chỉ là ṿng ngoài của tri kiến Phật, là những bước đầu c̣n rất xa trí tuệ cao siêu của bậc đại trí, đại giác.”
Và trong chia xẻ riêng tư, tác giả nói rằng trong Đạo Nho có Nho Sĩ. Trong Đạo Lăo có Đạo Sĩ th́ trong Đạo Phật có Bụt Sĩ tức là người học Phật và làm theo Phật. Bụt Sĩ không phải là người xuất gia mà là các thiện tri thức sống đời thường nhưng am hiểu Phật, kính trọng Phật và nỗ lực làm theo những ǵ mà Phật dạy.
Trong 444 trang tác giả bàn luận về nhiều đề tài kể cả khoa học, y học, tâm lư học, sử Việt và thi ca. Trong nỗ lực tŕnh bày giáo lư vĩ đại và cao siêu của Phật, điều tác giả muốn gửi gấm là: Học Phật, theo Phật không phải để trở thành ông Thần, ông Thánh như Đạt Ma Tổ Sư nói với Lương Vũ Đế “Quách nhiên vô thánh” tức trống rỗng chẳng có thánh thần ǵ hết….mà để trở thành một người hiền. Là mẹ th́ phải là “mẹ hiền”. Là con th́ phải là “Dâu hiền rể thảo”. Là bạn th́ là “bạn hiền”. Là người th́ phải là “hiền nhân quân tử”. Nếu là trí thức th́ phải là “hiền triết”. Làm quan giúp nước phải là “hiền thần”. C̣n nếu tu hành đắc quả th́ “hiền như Bụt”. Nếu làm được như vậy th́ thế giới này trở thành Cực Lạc Tại Thế mà chẳng cần nhọc công t́m kiếm thiên đường ở đâu xa. Lục Tổ Huện Năng nói rằng “Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ”. Tâm Tịnh Độ là tâm hiền. Trong “hiền” có thanh tịnh, trong “dữ” có bợn nhơ.
Có thể nói sách “khế hợp” với mọi tŕnh độ, từ dân giả b́nh thường tới đại trí thức. Đó là điều khó nhưng cũng là sự thành công của tác giả. Xin chân thành giới thiệu.
Đào Văn B́nh
Đào Văn B́nh sinh năm 1942 tại Hải Pḥng.
Bài quà dài, phải cắt bớt
(California ngày7/11/2021)
Bookmarks