Results 1 to 3 of 3

Thread: Sống và viết như những người lưu vong

  1. #1
    Member
    Join Date
    15-08-2010
    Posts
    1,129

    Sống và viết như những người lưu vong

    Sống và viết như những người lưu vong -- của ông tiến sỹ Việt ngữ học Úc Đại Lợi Nguyễn Hưng Quốc. Nhận được qua email, đọc thấy hay hay buồn buồn cười cười. Ông tiến sỹ ví Viết văn trở thành một cách hành lạc đau đớn của những người bị bất lực.

    -- Thật t́nh th́ trên phương diện chữ nghĩa, ông tiến sỹ Việt ngữ học Úc Đại Lợi Nguyễn Hưng Quốc cũng có những nhận xét rất dí dỏm và sâu sắc về chữ Việt. Nhưng cũng có lúc đúng như ông viết, liệt dương mà cứ tọng viagra để hành lạc, nên khi đọc ta cảm được cái sự đau đớn tột cùng của ông!

    Có lẽ nhắc đến cái luận chữ của ông, tôi nhớ nhất là chuyện ông kể cô nữ sinh gốc Việt hỏi ông tái tê với tái nạm khác nhau sao?


    *
    * *

    Nguyễn Hưng Quốc -- 28/10/2009

    Lưu vong thường được mở đầu bằng một bi kịch chính trị hoặc một bi kịch kinh tế và kết thúc bằng một bi kịch văn hoá.

    Càng ngày tôi càng thấm thía một điều: sống và viết ở hải ngoại không phải chỉ là sống và viết ở hải ngoại.

    Khi một nhà văn rời quê hương ra định cư và sáng tác ở nước ngoài, hắn không phải chỉ thay đổi một chỗ ở và một bàn viết mà c̣n thay đổi hẳn một thế giới với những mối quan hệ chằng chịt, phức tạp, để rồi, một cách tự giác hay không, dần dần thay đổi cách nghĩ, cách cảm, từ đó, cách viết và cuối cùng, không chóng th́ chầy, thay đổi cả căn cước (identity) của chính hắn với tư cách là một nhà văn nữa.

    Thoát ra khỏi ngục tù ở quê hương, tuyệt đại đa số người lưu vong, đặc biệt là giới cầm bút, thường rớt ngay vào nhà tù của trí nhớ. Ngoái về quá khứ, các cây bút lưu vong ít khi đóng được vai tṛ tiên phong.

    Nếu ví nền văn học hay văn nghệ hải ngoại nói chung với một trận bóng đá, th́ đó là một trận bóng thường chỉ có các hậu vệ và thật nhiều thủ môn, ở đó chiến thắng được tính bằng những lần bắt bóng chứ không phải bằng những lần làm bàn. Một trận đấu ḱ dị. Quái gở. Và tuyệt vọng.

    Mối quan hệ với quê gốc như thế làm cho quan hệ giữa những người lưu vong với miền đất mới định cư trở thành vô cùng gian truân: chúng ta bị phân thân giữa quê cũ và vùng đất mới, giữa t́nh cảm và lư trí, giữa quá khứ và hiện tại, giữa hoài niệm và hoài băo.

    Hậu quả của sự phân thân ấy là những người lưu vong bị biến thành những người đứng bên lề. Với sinh hoạt văn học trong nước, chúng ta là những người đứng bên lề. Dù tài hoa đến mấy, vẫn là những người bên lề. Với sinh hoạt văn học ở quốc gia chúng ta đang sống, chúng ta cũng lại là những người đứng bên lề, một thứ nhà văn sắc tộc khiêm tốn và buồn thảm, đứng bên lề những sinh hoạt chính mạch của thiên hạ.

    Do đó, có thể nói, không có ai cô đơn cho bằng nhà văn lưu vong. Cách đây mấy năm, một số người cầm bút ở hải ngoại hô hào phá bỏ những ghetto trong sinh hoạt văn học. Ừ, th́ phá bỏ. Nhưng chưa ai đặt câu hỏi: phá bỏ những ghetto-việt-nam ở hải ngoại rồi th́ giới cầm bút sẽ đi đâu, sẽ nhập vào đâu?

    Nhập vào văn học thế giới ư? Ai mà chả muốn. Nhưng đó là một con đường hết sức cheo leo. Một là, để sử dụng một ngoại ngữ như một ngôn ngữ văn học (chứ không phải một ngôn ngữ giao tiếp) không phải là một điều dễ. Hai là, sau hàng rào ngôn ngữ là hàng rào văn hoá. Bất cứ cộng đồng ngôn ngữ nào cũng hà tiện khả năng đồng cảm và bộ nhớ của nó đối với những người ngoại tộc, bởi vậy, ở đó, kiếm được độc giả đă khó, kiếm được những độc giả tri âm lại càng cực khó.

    Đi vào một sinh hoạt văn học không phải của dân tộc ḿnh, người ta, nếu không phải là một đỉnh cao th́ rất dễ có khả năng sẽ không là ǵ cả ngoài cái việc được đăng tải và được xuất bản.

    Mà đỉnh cao bao giờ cũng là những ngoại lệ. Số lượng những nhà văn sử dụng song ngữ thành công trên thế giới chỉ là hoạ hoằn, dù con số thử nghiệm có thể lên đến hàng chục ngàn, thậm chí, hàng trăm ngàn.

    C̣n lại, tuyệt đại đa số, dù muốn hay không, cũng làm tù nhân chung thân của tiếng mẹ đẻ của ḿnh, cũng chỉ quanh quẩn trong sân chơi nho nhỏ của cộng đồng ḿnh, và đứng bên lề những hội hè, đ́nh đám văn nghệ quốc tế.

    Sống và viết lách bên lề, những cây bút lưu vong t́m vui trong cái cộng đồng nhỏ bé, càng ngày càng nhỏ bé của ḿnh. Đă nhỏ bé, lại c̣n lạnh lẽo nữa. Ở hải ngoại, đăng một bài viết trên báo hay in một cuốn sách, nhiều lúc ngỡ chừng như nói vào ống điện thoại chưa nối đường dây. Lặng ngắt. Không nghe ǵ cả, kể cả một lời chê, một tiếng chửi, cũng không có. Hoàn toàn lặng ngắt.

    Viết văn, ngày xưa, là một danh phận; sau này, vừa là một danh phận vừa là một nghề nghiệp. Ở hải ngoại, viết văn không thể là một nghề nghiệp mà trên thực tế, cũng không c̣n là một danh phận.

    Viết văn trở thành một cách hành lạc đau đớn của những người bị bất lực.

    Nguyễn Hưng Quốc -- 28/10/2009

  2. #2
    Member
    Join Date
    15-08-2010
    Posts
    1,129

    Nhận định về bài "Sống và viết như những người lưu vong" của Nguyễn Hưng Quốc

    Suy nghĩ của Nguyễn Hữu Anh Kangaroo về bài viết Sống và viết như những người lưu vong.


    *
    * *

    Nguyễn Hữu Anh Kangaroo -- Cựu hoc sinh Phan Bội Châu - Phan Thiết



    Kính gởi quư ACE & quư văn nghệ sĩ Hải Ngoại

    Đă nhiều ngày qua Hữu Anh mong đợi đón nhận ư kiến của quư vị về bài viết " Sống và viết như những người lưu vong " của Nguyễn Hưng Quốc nhưng vẫn chưa thấy có triệu chứng phấn khởi nào cả. Hữu Anh cũng biết những nhận định và những lập luận NHQ đưa ra để hổ trợ cho những nhận định của ḿnh trong bài viết này, đọc lên nghe qua, thật có hấp lực. Nếu tựa bài viết là " Sống Và Viết Như Những Nhà Văn Lưu Vong " thi` chắc HA không dám đụng tới đâu, v́ HA không thuộc giới cầm bút thứ thiệt trong làng văn kể cả trên hai phương diện danh phận và nghề nghiệp. Bây giờ th́ H.A lấy tư cách một người lưu vong " sống như những người lưu vong " để có đôi lời bộc bạch.

    Đọc qua bài viết H.A cảm nhận được một hơi hám tiêu cực khởi đầu từ câu dẫn nhập cho đến câu kết .Tiêu cực đến ngộp thở không có lối thoát. H.A tự hỏi, ḿnh cũng là một người lưu vong, sống ở hải ngoại gần 20 năm nay, mà sao, nếu không muốn nói ngược lại, thật sự không có một cảm giác bi quan nào để có thể cùng chia sẻ với người viết. H.A cũng có gia đ́nh, cũng trăi qua những khó khăn về ngôn ngữ, về đồng cảm, về công ăn việc làm, giáo dục con cái, nhưng những khó khăn đó, nếu so với những khổ nạn đă khiến cho những người Việt phải quyết định bỏ xứ ra đi thì chỉ là con số " 0 ". Nếu chỉ v́ " bị phân thân giữa quê cũ và vùng đất mới, giữa t́nh cảm và lư trí , giữa quá khứ và hiện tại, giữa hoài niệm và hoài bảo , mà hậu quả của sự phân thân ấy là những người lưu vong bị biến thành những người đứng bên lề " th́ H.A nhận thấy cái kết luận này thật quá phiến diện và sự thật hoàn toàn trái ngược. Tuy nhiên, với một lối viết nhập nhằng mà suông sẻ, một lối sử dụng ngôn từ như minh bạch mà không rỏ ràng, người viết thực sự đă sử dụng kỷ thuật " viết lách " một cách tinh xảo không ngoài mục đích bôi bác những người Việt lưu vong nói chung và những nhà văn lưu vong nói riêng ..

    Đây là một bài viết đầy hàm ư được tŕnh bày với những viện dẫn , lập luận sống động với một ngôn từ có tính cách thuyết phục . Nguyễn Hưng Quốc quả thật đă thành công trong việc khiến cho một số độc giả đă để cho ḍng tư tưởng của ḿnh bị lôi cuốn theo những ḍng chữ phân biện rập ràng , những mỹ từ trau chuốt, nên đă quên lưu ư đến lối viết lấp lửng của tác giả để rồi không khéo tự ḿnh cũng có cái cảm giác đồng hội đồng thuyền và cảm thấy xót xa cho thân phận những nhà văn lưu vong. H.A xin trích dẫn một đoạn văn như sau : " Thoát ra khỏi ngục tù ở quê hương , tuyệt đại đa số người lưu vong , đặc biệt là giới cầm bút , thường rơi ngay vào nhà tù của trí nhớ .
    Ngoái về quá khứ , các cây bút lưu vong ít khi đóng được vai tṛ tiên phong ".

    Như vậy , không phải chỉ riêng những nhà văn lưu vong mà hầu như trọn goí nhũng người lưu vong, và điều đó đă được thể hiện một cách kín đáo trong cái cụm từ " tuyệt đại đa số người lưu vong ". Nói một cách dễ hiểu là tất cả chúng ta, những người lưu vong, cuối cùng rồi cũng rơi ngay vào nhà tù của trí nhớ sau khi thoát khỏi ngục tù của quê hương. Người cầm bút th́ viết, người không cầm bút th́ nói, ai viết cứ viết, ai nói cứ nói. Nhưng hoặc viết hoặc nói ǵ đi nữa th́ cũng nhai đi nhai lại những chuyện cũ rích chớ chẳng có ǵ mới mẽ cả. Tóm lại là giống hệt như một cái đĩa hát " cà lăm " và đó là tác phong sống và viết của những người lưu vong nói chung. Quanh đi quẩn lại cũng chỉ là những tên tù và chỉ khác ở một danh xưng mà thôi.

    Tuy nhiên, H.A nhận thấy , suốt cả một bài viết ,NHQ chỉ nhấn mạnh đến " viết như những người lưu vong " mà không có những nhận định ǵ rỏ rệt về " sống như những người lưu vong " . Cái hay của tác giả là chỉ lướt thoáng qua " sống như " mà đặt hết chủ lực va`o " viết như " , nhưng đây đó trong bài viết, tác giả đă tận dụng kỷ năng " viết lách " nhập nhằng dễ khiến cho độc giả rơi vào mặt trận hỏa mù và dễ dàng chấp nhận những ǵ được phơi bày như là một sự thật hiển nhiên, để rồi những người " không cầm bút " cũng như những " người cầm bút " đều trở thành những nạn nhân dưới ng̣i bút của tác giả.

    H.A xin mời quư vị đọc lại những đoạn trích dẫn sau đây :

    " Mối quan hệ với quê gốc như thế làm cho quan hệ giữa những người lưu vong với miền đất mới định cư trở thành gian truân : chúng ta bị phân thân giữa quê cũ và vùng đất mới, giữa t́nh cảm và lư trí, giữa quá khứ và hiện tại, giữa hoài niệm và hoài bảo . Hậu quả của sự phân thân ấy là những người lưu vong bị biến thành những người đứng bên lề. "

    Đọc đoạn trên quư vị thấy rơ tác giả đă rõ rệt đưa ra sự nhận định về mối " quan hệ giữa những người lưu vong với miền đất hứa " và " hậu quả..những người lưu vong bị biến thành những người đứng bên lề ".

    Bên lề ǵ đây ? chắc chắn không phải là bên lề văn học rồi, v́ tuyệt đại đa số những người lưu vong không phải là những người cầm bút cả trên hai phương diện danh phận và nghề nghiệp. Như vậy th́ những người lưu vong, nói theo luận điệu của NHQ chỉ là những người đứng bên lề, nhưng tác giả lại ngừng ở đây mà không triển khai thêm. Sau đó tác giả lại chuyển tiếp qua nói về những người cầm bút ..Cũng v́ vậy mà khi đọc bài viết này H.A cảm thấy có cái ǵ đó bất ổn, nhưng lại không xác định được cái bất ổn này từ đâu mà có, nên phải đọc đi đọc lại nhiều lần, để lần ṃ những khúc mắc hầu giải toả cái cảm giác bất ổn này. Cũng như những nhà văn lưu vong, tuyệt đại đa số những ngươi lưu vong thuộc mọi ngành nghề khác nhau cũng là nạn nhân của ngục tù trí nhớ, mà sao NHQ không đem ra mổ xẻ, có phải NHQ chỉ muốn nhắm vào những điểm tiêu cực để cho tương xứng với thân phận lưu vong, hợp với chủ đê` : " sống và viết như những người lưu vong ". Người Việt sống lưu vong có phải cũng giống như những người cầm bút lưu vong. Có nghĩa sống với thân phận thảm thương, đứng bên lề sinh hoạt xă hội của bản xứ. NHQ chỉ nói bâng quơ nhưng nếu tinh ý, chúng ta có thể thấy được những điều mà NHQ muốn nói đến là những sinh hoạt cá thể, những tổ chức, những hội đoàn, vì đó là tập hợp của những cá thể thoát ra khỏi ngục tù quê hương và rơi ngay vào ngục tù của trí nhớ..

    NHQ không phải là người trên thân xác ḿnh c̣n ghi lại những vết đ̣n thù trong nhà tù, trong những trại lao động tập trung, NHQ cũng không từng chứng kiến cảnh thân nhân của ḿnh, vợ con của ḿnh, đã bị hăm hiếp sát hại, chết đói, chết khát, bỏ ḿnh trên biển cả... Muốn viết một bài phê bình, muốn đưa ra một nhận định, người viết không thể chỉ tập trung một cách phiến diện vào những sự việc đang phơi bày trước mắt mà phải nắm vững nguyên nhân, hậu quả để có thể đưa ra những lời phán đoán trung thực, chứ đừng thao túng vốn liếng ngôn ngữ mẹ đẻ của ḿnh để lọc lừa vun xới lại thành một dạng ngôn từ hoa dạng nhằm " viết lách " để tránh khơi động những điều ḿnh muốn tránh và nhằm đánh đổ sự tôn nghiêm của những người đấu tranh v́ lư tưởng trong ḷng người dân Việt ở hải ngoại và quốc nội . Nói cho cùng trong nhà tù trí nhớ này, tội nhân và cai ngục cũng vẫn chỉ là một, muốn đi hay ở cũng do tự bản thân ḿnh định đoạt. C̣n những văn nghệ sĩ quốc nội th́ sao? Đă bao nhiêu năm nay và vẫn c̣n dài dài nữa, tuyệt đại đa số đã,đang và sẽ vẫn c̣n bị giam hăm trong nhà tù kiên cố của chủ thuyết. Bản thân người cầm bút, không làm chủ được những điều ḿnh muốn viềt, muốn nói mà phải triệt để tuân theo đường lối chủ trương của nhà nước áp đặt. Như vậy mà có thể gọi là nhà văn hay sao? Những sản phẩm do những bồi bút , văn nô viết ra mà có thể gọi là những tác phẩm văn học được sao? Một quốc gia hơn 80 triệu dân với nhiều " đỉnh cao của trí tuệ " nhưng hãy nh́n lại xem có một tác phẩm nào có thể gọi là tác phẩm có giá trị văn học được thế giới biết đến hay không? Hãy về VN, hãy lần lại những trang sách báo để t́m đọc th́ sẽ thấy được sự khác biệt giữa " nhà tù của trí nhớ " và " nhà tù của chủ thuyết " . Sách truyện viết từ trí nhớ có tính cách đa dạng với những mẩu chuyện linh động được kết tinh qua những trãi nghiệm đầy máu và nước mắt. Những trãi nghiệm này đã để lại những vết hằn mà thời gian chỉ có thể làm cho nạn nhân dịu dần với vết đau, chứ không thể xoá mờ hẳn trong tâm trí. Tính chất trung thực của những tác phẩm này sẽ giúp cho những thế hệ sau, khi đọc lại có thể thấy được sự thật những ǵ tiền nhân và đất nước đă trãi qua trong một giai đoạn của quá trình lịch sử .Vả lại những ǵ dưới ng̣i bút của những cây bút hải ngoại không nhất thiết là hoàn toàn thuộc về quá khứ ,mà thật sự vẫn c̣n những liên hệ chằng chịt với những sự cố đă và đang diển ra tại cố quốc. Nào những vụ đàn áp tôn giáo, nào những vụ cưỡng chiếm đất đai của lương dân, nào ải Nam Quan, nào Bản Giốc, nào Trường Sa, Hoàng Sa, nào dựng lại cột móc cắt đất hiến dâng cho ngoại bang, nào khai thác Beauxite ở Tây Nguyên .. v.v. Chuyện mới lại nhắc đến chuyện cũ, người Viêt có ai không nhớ nằm ḷng câu : Nước VN h́nh cong như chữ S, chạy dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau.." Bây giờ th́ sao? NHQ chắc muốn người Việt lưu vong hãy dẹp bỏ những việc đó qua một bên, hãy để cho những hy sinh anh dũng của những chiến sĩ HQ / VNCH trong trận chiến bảo vệ Hoàng Sa rơi vào quên lăng và hãy nổ lực thực thi câu châm ngôn " yêu nước là yêu đảng " với nhà nước CSVN hay sao?

    Ngay như chữ " Lưu Vong " bây giờ cũng không c̣n mang những sắc thái của ngày xưa. Lưu vong không c̣n đi đôi với cô đơn chiếc bóng, với bơ vơ ngỡ ngàng nơi xứ lạ quê nguời, với những cam go bất tận trong đời sống mới và nhất là cơ hội đặt chân trở về cố hương thật là mong manh. " Bộ tự điển Hán Việt của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Trung Tâm Ngôn ngữ và Văn Hoá Việt Nam do nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin ấn hành 1999 đă định nghĩa "Lưu Vong" như là " Sống ở nước ngoài do bị phế truất hoặc bỏ trốn " .

    Chữ Lưu Vong vẩn c̣n tồn tại và được sử dụng trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại cũng chỉ nhầm nói lên cái ư chí bất khuất trước cường quyền, bạo lực, đồng thời để nhắc nhở người Việt hải ngoại đừng bao giờ quên cái động cơ nào đă thúc đẩy họ ra đi t́m sự sống trong cái chết và đừng quên đồng bào ruột thịt đang c̣n sống trong những điều kiện sống thật là nghiệt ngă tại quê nhà ..

    NHQ phải thấy rỏ một điều là kể từ lúc nhà nước CSVN đă tha thiết kêu gọi và mở rộng cửa tiếp đón " Khúc ruột ngàn dậm " th́ vị thế những người Lưu Vong trong mắt của nhà nước CSVN không c̣n là thân phận nữa mà lại trở thành một vị thế quan trọng và được ưu đăi.

    Lưu Vong theo tự điển Tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Trẻ ấn hành vào năm 2000 tại TPHCM,đươc định nghĩa như là " Mất chổ ở nhất đinh, nạy nơi này mai nơi khác ". Lưu Vong theo định nghĩa này th́ không c̣n thích hợp để áp dụng cho những ngươ`i Việt đă định cư và mang quốc tịch của một quốc gia khác.

    Nếu muốn c̣n sử dụng cụm từ " Thân phận Lưu Vong " th́ chỉ nên để dành sử dụng cho những người, những nhà văn đang c̣n sinh sống tại quê nhà. Những người đă tự chọn đứng bên lề sinh hoạt chính trị và văn học chính mạch của nhà nước CSVN để có thể tiếp tục sống, nói và viết trung thực với những tư duy của ḿnh và chấp nhận một cuộc sống " Lưu vong " ngay trong đất nước của ḿnh.

    Hãy lật lại trang sử Việt sẽ thấy, tháng 4/1975 đă đánh dấu một bước ngoặc bi thương nhất cho dân tộc. Hàng triệu người đă bỏ xứ ra đi không phải chạy giặc ngoại xâm từ phương Bắc mà chỉ v́ không chấp nhận một chế độ từ phương Bắc. Thông thường nói đến lưu vong là nói đến con số một vài cá nhân, môt vài gia đinh, một vài nhóm chứ không ai nghĩ đến con số hằng triệu người.

    NHQ đă từng ở Pháp và hiện sinh nhai ở Úc, thí chắc chắn không c̣n hoài nghi ǵ nữa về lối " Sống như những người lưu vong " của người Việt hải ngoại. H.A thật không biết NHQ muốn nói đến thời điểm nào của gần 35 năm sau ngày lưu vong? Nếu là những năm đầu tạm dung trong những trại tị nạn th́ H.A không có ǵ phải bàn đến, nhưng chắc là không phải rồi. H.A và NHQ đều là dân đang sống tại xứ Kangaroo, nên chỉ xin hỏi NHQ nhận định thế nào về đời sống của người Việt tại Úc. NHQ có biết cộng đồng người Việt tại Úc tuy sinh sau đẻ muộn so với cộng đồng của các sắc tộc khác đă định cư sau đệ nhị thế chiến, nhưng lại là một cộng đồng sớm thành công nhất trong mọi lãnh vực. Hãy chịu khó quan sát những sinh hoạt của người Việt tại các khu đông dân cư ở Springvale, Richmond, Footscray, St Albans, thuộc thành phố Melbourne. Hãy mở " White page " t́m lấy tên của bất cứ người Việt nào, rồi lái xe chạy đến bất cứ một địa chỉ tùy thích, NHQ sẽ thấy cuộc sống của một gia đ́nh người Việt b́nh thường như thế nào. Người Việt thế hệ trước bằng đôi tay và khối óc đă củng cố nền móng vững chắc cho thế hệ sau. Viết đến đây HA chợt nhớ đến một câu khá phổ biến trong nhân gian sau năm 75, nên muốn hỏi xem NHQ có c̣n nhớ hay không? Đó là câu " hy sinh đời Bố cũng cố đời con "

    Ư niệm th́ giống nhau chỉ khổ nổi đối tượng và đường lối thực hành lại hoàn toàn khác nhau. H.A chắc NHQ không lạ lẫm ǵ về những thành tựu của giới trẻ VN tại Úc. Hầu như trong mỗi gia đ́nh đều có con em tốt nghiệp đại học và giới trẻ Việt Nam góp mặt trong hầu hết mọi lãnh vực sinh hoạt : Từ khoa hoc, y khoa, pháp luật đến giáo duc .v.v..

    HA cũng xin NHQ hãy chịu khó bỏ thời giờ để đọc " Vẻ Vang Dân Việt " của Trọng Minh, là những quyển sách viết vê` những thành tựu của người Việt tại hải ngoại. Còn biết bao những tài danh khác như Việt nữ lưu vong Dương Nguyệt Ánh một nữ khoa học gia nổi tiếng bên Mỹ, một Ánh Quang Cao dân biểu liên bang, tại Đức có một Philipp Rosesler bộ trưởng y tế và thêm những thân phận lưu vong khác nữa là Trung tá Lê Bá Hùng, hạm trưởng khu trục hạm USS LASSEN thuộc lực lượng hải quân Hoa Kỳ, Đại ta' Lương Xuân Việt lữ đoàn trưởng nhảy dù Hoa Kỳ. Gần đây nhất lại thêm một Viêt nữ khoa Học gia Nguyễn Thị Phương Thảo, vừa được giải thưởng tổng thống Mỹ, tất cả những người này đều là người Việt bỏ xứ ra đi vào lứa tuổi c̣n thơ. Như thế này mà gọi là đứng bên lề được sao???.

    Ai đă được nh́n thấy h́nh ảnh của những nhân vật này, hoặc đă nghe được những lời họ tuyên bố, đều thấy rõ, mặc dù được tiếp thụ một nền văn hóa tại hải ngoai, những nhân vật thuộc thế hệ thứ hai này vẫn c̣n giữ được những nét truyền thống đặc thù của ḿnh và không quên cội nguồn của ḿnh. Như vậy th́ làm thế nào những cây bút lưu vong dưới ng̣i bút của NHQ v́ : " ... thay đổi hẳn một thế giới mới với những quan hệ chằng chịt, phực tap, để rồi, một cách tự giác hay không, dần dần thay đổi cách nghĩ, cách cảm, từ đó cách viết và cuối cùng không chóng th́ cha`y,thay đổi cả căn cước " Identity " của chính hắn với tư cách là một nhà văn nữa ". Thế nào là thay đổi căn cước của chính hắn với một tư cách là một nhà văn.Thật là một lối viết buông thả, thiếu định cứ. Đúng ra, nếu muốn, NHQ phải nói la` : "...Thay đổi cả căn cước của chính hắn với tư cách là một nhà văn lưu vong nữa ".Thật ra đối với một nhà văn, tiếp thu những cái hay cái lạ, không có nghĩa là bắt chước rập khuôn, mà phải biết gạn lọc, bỏ cái tạp, giữ cái tinh, để làm phong phú thêm chất liệu cho những tác phẩm của mình. Đó quả thật là điều khả cầu mà khó được. Nếu những nhà văn lưu vong còn vùng vẩy trong " ngục tù của trí nhớ " thì không chừng NHQ đang tự giam mình trong " ngục tu` của trí tuệ " rồi đó.

    Còn một điểm nữa H.A xin được đưa lên đây là trên một phương diện nào đó, chữ " Hắn " dùng ở đây không sai, nhưng lại không chỉnh. Nhà văn có lớn có nhỏ, người đọc có thể sẽ nghĩ NHQ là người không biết lớn nhỏ. Người Việt từ Nha Trang trở vô đều hiểu " Hắn " là " Nó ". Nếu thay vào đó chữ " Anh ta " hay Chữ " Mình " thi` có lẽ nhẹ nhàng lễ độ hơn và sẽ đưọc sự chấp nhận của cả ba miền.

    Bây giờ H.A xin trở lại câu dẫn nhập của bài viết " Lưu vong thường được mở đầu bằng một bi kịch chính trị hoặc một bi kịch kinh tế và kết thúc bằng một bi kịch văn hoá ". Câu dẫn nhập này nếu được dùng trong một bài viết về " Lưu vong " có tính chất chung chung thì nhìn từ bất cứ một góc độ nào cũng không thấy có gì sai trật. Khổ nỗi đây là một trường họp đặc thù vì tác giả chỉ dùng nó như là một câu nói mào đầu cho những người Việt lưu vong

    Hai chữ " BI KỊCH " Thật khéo sử dụng như là nguyên nhân dẫn dắt đến sự lưu vong của hàng triệu người đă khiến cho mức độ nghiêm trọng của sự việc trở nên nhẹ nhàng, không đánh động mạnh vào tâm thức của người đọc. Để cho dễ hiễu H.A xin đua ra một ví dụ cụ thể. Một ngươi mang tội " Đă thương nhân thương trí mạng " nhưng khi hỏi đến thì thân nhân của hung thủ lại bảo anh ta phạm tội " hành hung ". Một cái tát tai cũng là hành hung. Hai chữ hành hung không co' gì sai trật nhưng làm sao có thể diễn tả được sự nguy kịch mà nạn nhân đă trãi qua.

    Đương nhiên NHQ đă thấy với cách nói " Bi kịch chính trị, Bi kịch kinh tế " Chữ bi kịch này không nói lên được ǵ cả. Đă thế chính trị lại đi kèm với kinh tế có thể hiểu nôm na là " miếng ăn ". Như vậy trong số người ra đi không nhất thiết tất cả đều v́ lư do chính trị mà c̣n là v́ miếng ăn.

    Nhân đây HA xin đưa ra nhận định của ḿnh về ngôn từ và hậu ư của NHQ trong những câu dẫn nhập của bài viết " Sống và viết như những người lưu vong ". Người Việt ở hải ngoại chắc không mấy ai thắc mắc về cụm từ " người lưu vong ". Lưu vong v́ bất măn chính trị tại cố quốc hay đi t́m đời sống kinh tế thoải mái hơn, th́ rốt ráo cũng là lưu vong, cũng khởi xuất từ những " Bi Kịch " . Mà hai chữ " Bi Kịch " tự nó không phê phán, không phân định được sự chính tà, phải trái, tự nó không nói lên sự đàn áp, không cho thấy những thảm trạng trong lao tù, không phát họa được những cảnh tượng hải hùng trên biển cả, trong rừng sâu núi thẵm mà những người đi t́m tự do đă phải trãi qua. Có thể nào chỉ v́ một loại bi kịch nào đó mà hàng trăm ngh́n người thuộc mọi thành phân v́ muốn thoát khỏi nó mà phải trả gia' bă`ng sinh mạng ḿnh. Điều này cho thấy rỏ hai chữ " Bi Kịch " mà người viết, viết ra một cách hời hợt c̣n đáng sợ hơn cả cái chết. Hơn nữa lưu vong v́ " bi kịch chính trị " tự nó không nhất thiết co' lư do chính đáng để biện minh cho lưu vong. Những người lưu vong chưa nhất thiết là những người có chính nghĩa. Không thiếu những người phải sống một đời sống lưu vong v́ đă thất bại trong những cuộc tranh dành quyền lực. Những nhà độc tài v́ đảo chánh cũng mang thân xứ nguời,sô'ng cuộc sống lưu vong.

    ( C̣n tiếp )

  3. #3
    Member
    Join Date
    15-08-2010
    Posts
    1,129
    Cũng đừng quên là sau 30/04/75 tại đất nước Việt Nam không còn sự tranh dành quyền lực hoặc phe phái đấu tranh chính trị vì hai miền Nam Bắc đă thống nhất . Dân Quân Cán Chính miền Nam đă nhẹ tin vào sự tuyên truyền chính sách hoà giải dân tộc của chính quyền cộng sản, để rồi hàng triệu người phải chịụ cảnh tù đầy, hàng chục ngàn người phải bỏ mình trong ngục tối, trong những trại tập trung cải tạo lao động vì bị tra tấn, hành hạ thân xác, đói khát, bệnh tật. Vợ con thì bị xua đuổi đi kinh tế mới, bữa đói bữa no, nhà cửa tài sản thì bị chiếm đoạt. Như thế này mà chỉ là vì một " Bi kịch chi'nh trị " thôi ư ??

    Lưu vong " v́ bi kịch kinh tế " th́ lại càng được đánh giá thấp hơn. Nó chỉ nói lên một cách chung chung về những khó khăn trong vấn đề mưu sinh hoặc dài hạn hoặc ngắn hạn . Chúng ta thấy cho đến hiện nay vẩn c̣n một số người từ những quốc gia chậm tiến bỏ xứ ra đi v́ nghèo đói, hoặc do t́nh trạng địa lư hoặc do sự bất lực của giới cầm quyền. Tuy nhiên, cụm từ " Bi Kịch Kinh tế " nếu áp dụng vào trường họp lưu vong của người Việt th́ lại hầu như rỗng tuếch v́ nó chẳng phát hoạ được những h́nh ảnh tang thương mà người dân đă phải trãi qua trong những năm đầu mất nước. Ai đă không từng chứng kiến cảnh những gia đ́nh bồng bế nhau, già trẻ lớn bé, co ro ngủ bên vĩa hè, bên những hàng hiên hoặc trên những sạp hàng bỏ trống trong các phố chợ về đêm. Hàng trăm ngàn gia đ́nh bị dồn đuổi lên vùng kinh tế mới là những nơi khô cằn sỏi đá hoặc những vùng đất đang chờ đợi khai quang, để tự sinh tự diệt. Toàn bộ nhà cửa, tài sản bị nhà nước CSVN tước đoạt để tưởng thưởng công lao cho những đảng viên đă lập nhiều công sức trong việc cưỡng chiếm miền Nam. Ruộng đất trồng trọt của nhà nông, ghe tàu đánh cá của ngư dân và mọi tài vật thuộc các ngành nghề khác đều bị tịch thu cho vào quốc doanh, tổ hợp và mọi thu hoạch đều đặt dưới sự quản lư của nhà nước CS . Ngượi dân chỉ có mỗi một quyền là đổ sức lao động đổi lấy miếng ăn. Mọi chống đối dưới mọi h́nh thức, đều được xem như là phản cách mạng và sẽ bị tù đày mà không cần xét xử.

    Động cơ thúc đẩy để có một quyết định giữa đi và ở, giữa chết và sống há chỉ là v́ một " Bi Kịch kinh Tế " hay sao?. " Bi Kịch Kinh Tế " chẳng qua chỉ là một lối chơi chữ nhầm gián tiếp bao che cho một chế độ, còn nạn nhân của chế độ th́ chỉ có miệng ăn mà không có miệng nói . Mới nghe tưởng chừng như vô thưởng vô phat, mà thật ra nếu không công khai bôi bẩn tư cách tị nạn chính trị của người Việt hải ngoại , th́ cũng mang một tác dụng đánh lận con đen, vàng thau lẩn lộn, hầu xoá mờ đi những tuyên ngôn và lư tưởng đấu tranh của những người đi t́m tự do.

    Sau cùng là " bi kịch văn hoá " . Bi kịch văn hoá dưới cái nh́n của NHQ là một sự thất bại của những cây viết hải ngoại trong sự hoà nhập với các sinh hoạt văn học chính mạch tại cố quốc cũng như tại bản xứ .Tại bản xứ th́ ngôn ngữ và đồng cảm là hai hàng rào cản chính. Theo HA thấy, đối với bản xứ th́ đây chỉ là một trong những trở ngại thông thường vào những năm đầu trong cuộc sống lưu vong nói chung và cũng không nhất thiết là một trong những nguyên nhân đưa đến bi kịch văn hoá. Hơn nữa một tác phẫm có giá trị văn học không nhất thiết phải được viết bằng ngoại ngữ và cần có sự đồng cảm của người không cùng văn hoá. Văn học chỉ là sự diển đạt văn hóa qua ngôn ngữ mà văn hóa th́ bao gồm nhiều lãnh vực ..Sự thiệt tḥi của những nhà văn sống và viết trong hoàn cảnh lưu vong là một điều không ai có thể phủ nhận , nhưng không phải v́ thế mà NHQ có thể tự ḿnh phán quyết " Viết văn trở thành một cách hành lạc đau đớn của những người bất lực " . HA không nằm trong diện này nên thực sự không dám mạnh dạn nhân danh những người trong cuộc để lên tiếng, nhưng theo sự hiểu biết giới hạn của HA th́ một nhà văn chân chính khi muốn viết ra những ǵ ḿnh muốn viết để phổ biến đến tay người đọc th́ cũng đă cảm thấy thỏa mãn và tự hài ḷng với chính bản thân ḿnh. Số lượng tiêu thụ sách trong cộng đồng người Việt lưu vong tuy không mang lại số doanh thu tương xứng với công sức người viết đă bỏ ra, nhưng chắc chắn đó không phải là một điều kiện tiên quyết đối với nhà văn hải ngoại. Xin hãy nhớ , viết văn ở hải ngoại chỉ là một thú vui do nghiệp dĩ, hoặc chỉ là một phương tiện để dàn trãi những tư duy chứ không mấy ai xem đó như một nghề nghiệp mưu sinh chi'nh, nên dầu ít dầu nhiều, nó cũng không tạo nên một áp lực trong cuộc sống đời thường của tác giả . Chữ bất lực thật ra chỉ nên dành cho những cây bút ở quốc nội, đă không thể hoặc không dám viết lên những điều ḿnh muốn viết , mà phải viết theo chỉ thị hoặc sao cho hợp với ư muốn của nhà cầm quyền.

    Theo NHQ th́ trong hai trường hợp, với một nhà văn chân chính, trường hợp nào mới thật sự nói lên hết được nổi đau đớn và bất lực của một nhà văn.

    Khi đọc đến cụm từ " Bi kịch văn hoá " HA nghĩ ngay đến những xung đột hoặc những bất đồng trong lối nghĩ, lỗi cảm, lối sống và những quan niệm về những giá trị tinh thần truyền thống giữa những người lưu vong và những người bản xứ và dần dần, nền văn hoá đặc thù của thiểu số sẽ bị biến dạng. Tuy nhiên điều đó chỉ có khả năng xảy ra trong những trường họp sống lưu vong có tính cách đơn lẻ. Riêng với trường họp người Việt hải ngoai, với một lối sống tập trung hằng chục ngàn đến hằng trăm ngàn người trong một khu vực, những sinh hoạt đời thường trong mọi lãnh vực đă là một yếu tố chính giúp duy tŕ và bảo tồn văn hoá Việt Nam.

    Đọc bài viết của NHQ, HA thấy được một điều là cái nh́n của NHQ là một cái nh́n có chọn lựa. NHQ chỉ muốn thấy những ǵ ḿnh cần thấy mà nhắm mắt trước ǵ ḿnh muốn tránh. Những người thật sự quan tâm đến vấn đề bảo tồn văn hoá phải ưu tư trước những sự kiện sờ sờ trước mắt như : thay đổi về quan niệm trong nếp sống truyền thống đại gia đi`nh, thay đổi trong vai tṛ của những thành viên trong gia đinh, sự áp dụng kỷ luật trong vấn đề giáo dục con em, tỷ lệ cha mẹ độc thân nuôi con, con cái đối xử với cha mẹ, duy tŕ và phát huy ngôn ngữ mẹ đẻ đến thế hệ sạu .v..v. Làm thế nào để tiếp thu cái hay của người, loại bỏ những cái dỡ của ḿnh mà vẫn giữ được những nét đặt thù của văn hoá Việt Nam. Có thể nói cho đến thời điểm nay, sau 35 năm viễn xứ và trong một tương lai trước mắt , vẩn chưa có một triệu chứng ǵ trầm trọng để tương xứng với cụm từ " Bi kịch văn hoá " mà NHQ đă sử dụng trong bài viết . NHQ chỉ nh́n và góp nhặt một số sự kiện để rồi từ đó đi đến một kết luận. Đọc bài viết của NHQ , HA thấy có sự khập khiểng mất thăng bằng. Một bài viết với thiên kiến có mục đích nhầm triệt hạ uy tín những nhà văn nghệ sĩ hải ngoại nói riêng và người Việt hải ngoại nói chung.

    Muốn viết một bài phê b́nh, nhận định có tính cách khách quan, trung thực, người viết phải có một cái nh́n toàn diện,nhất quán chứ không thể nào hời hợt, lọc lừa, phiến diện.

    Nói đến " Bi kịch văn hoá " là nói đến sự suy đồi và có thể đưa đến sự biến dạng. Một dẫn chứng cụ thể để giúp thấy rỏ thế nào là " Bi kịch văn hoá " H.A xin mời quư vị mở " http://vietbaovnxa-hoipe-de-khoa-tha...á20878084/157/ " để xem những hình ảnh " Ladyboy " ăn mặc hở hang, nhảy múa ngay tại đầu ngỏ những khu phố văn hoá, phục vụ trong các đám tang..v..v . Hoặc hãy đọc những biển quảng cáo " Business ", những thực đơn, những bản hướng dẫn đầy dẫy trên những đường phố tại Việt Nam. Quý vị sẽ có một khái niệm về hướng đi của văn hóa VN dưới chế độ xă hội chủ nghĩa. Văn hóa đi đôi với dân trí và điều này đă mang đến sự khắc khoải, ưu tư cho những người hằng quan tâm đến văn hóa Việt Nam tại Quô'c nội.

    NHQ cũng đă ví von " nếu ví văn học hay văn nghệ nói chung với một trận bóng đá th́ đó là một trận bóng thường chỉ có hậu vệ và thật nhiều thủ môn, ở đó chiến thắng được tính bằng những lần bắt bóng chứ không phải bằng những lần làm bàn. Một trận đấu kỳ di, quái gở và tuyệt vọng ".

    Đọc phần " Bi kịch văn hoá " này, HA như hiểu mà không hiểu. Một trận bóng đá th́ phải có đối thủ chứ. Đấu với ai đây tại sao không chỉ danh mà lại tránh né ? và tại sao lại đấu với nhau? công cái ǵ và thủ cái ǵ ? Có thể nào bóng đá tượng trưng cho tư tuởng, cho quan điểm hay cho ư thức hệ. v..v.

    Càng đoc, càng ngẫm nghĩ, HA lại càng thấy ḿnh lạc lõng. Gì mà ghê quá vậy? Hãy nói đến sinh hoạt văn học tại cố quốc. Một nền văn học không lấy văn hoá đặc thù của dân tộc làm nền tảng để phục vụ dân sinh, mà chỉ dựa vào chủ thuyết ngoại lai để phục vụ cho một chế độ. Nếu muốn hoà ḿnh theo ḍng chảy của văn học cố quốc th́ đã không có những nhà văn Việt lưu vong hiện nay. Tại sao NHQ chỉ nói thoáng qua mà không đi sâu vào chi tiết để đọc giả tỏ tường nguyên nhân nào mà những nhà văn lưu vong đứng bên lề sinh hoạt văn học của cố quốc ? Có phải là gặp phải hàng rào cản của mạng lưới kiểm duyệt truyền thông, báo chí của nhà nước CSVN hay không?

    Theo NHQ th́ những nhà văn lưu vong nếu muốn đóng được vai tṛ tiên phong th́ đừng có ngoái nh́n lại quá khứ. Điều này có nghĩa là hãy bỏ hết lại sau lưng những nguyên nhân đă đưa đến lưu vong, những bất mãn và chống đối chế độ, để cùng nhau góp sức với những cây bút quốc nội trong đường hướng đoàn kết để cùng xây dựng một quốc gia VN giàu mạnh? Có như vậy tác phẩm và tác giả ở hải ngoại sẽ được tiếp nhận và không c̣n đứng bên lề sinh hoạt văn học VN và bi kịch văn hoá sẽ không c̣n tồn tại nữa.?Riêng với những người không cầm bút , theo chiều hướng này thì có lẽ cũng nên có những hành động tiên phong, xoá bỏ hận thù , chung lưng đấu cật để cùng lo việc nước. Có lẽ nào con đường tiên phong đó lại là con đường nối gót bộ ba " Tướng Sỉ Tượng " đáo hồi cố quốc với một tham vọng ảo,để rồi tự ôm lấy sự sỉ nhục, ô danh xú tiết.

    Trong một bài viết ngắn, tác giả đă sử dụng ba lần chữ " Bi kịch " để diển đạt ba lãnh vực khác biệt. Một sự khác biệt thấy rơ ở đây là tác giả chỉ đề cập đến " bi kịch chính trị " và " bi kịch kinh tế " một cách hời hợt, trong khi đó là hai lãnh vực đặc biệt nghiêm trọng đă dẫn đến sự lưu vong của hằng triệu nguời. Ta'c giả đă nhắm mắt trước sự thành tựu lớn lao của người Việt hải ngoại, mà chỉ nhắm vào những trở ngại bình thường trong tiê'n tri`nh hội nhập va`o một xă hội mơ'i và hy vọng dựa vào đó để có thể đánh đổ uy tín và uy thế của những nhà văn Việt lưu vong.

    Cụm từ " bi kịch văn hoa' " đă được tác giả sử dụng một cách gượng ép, vì cho đến thời điểm của bài viết này " văn hóa Việt Nam " tại hải ngoại hầu như vẩ n còn giữ được nguyên vẹn những nét đặc thù truyền thống. Giả dụ như những nhận định của NHQ về những người cầm bút ở hải ngoại có đúng chăng nữa thì cũng không thể kết luận một cách khẳng định rằng đó la` một " bi kịch văn hóa' ".

    Đọc tựa bài rồi đến câu dẫn nhập, H.A cứ ngỡ là tác giả sẽ đưa ra những nhận định có tính cách toàn diện, bao trùm hết mọi lãnh vực, sắc thái nổi bật trong đời sống ở hải ngoại của người Việt lưu vong, nhưng rốt ráo tác giả chỉ tập trung vào một vài điểm mà nhà văn lưu vong đã, đang va` sẽ còn đương đầu tại hải ngoại cũng như tại quốc nội, để rồi đi đến một kết luận thật nhỏ hẹp, thật ngắn gọn, thật tức tưởi. Và tất cả đều dựa trên những dữ kiện thật phiến diện.

    Nguyễn Hữu Anh Kangaroo
    Cựu hs Phan Bội Châu - Phan Thiết

    ____________________

    Chú thích của daiviet_nguyen: thành thật cáo lỗi v́ tôi đă không sửa những lỗi chánh tả ( v́ do software viết tiếng Việt malfunctioned. ) Tôi xuống ḍng dựa theo đoạn văn, bài gửi qua email, liền một đoạn, không có xuống ḍng rơ ràng.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 4
    Last Post: 02-12-2012, 02:20 PM
  2. Xe khách rơi xuống sông, 34 người tử vong
    By Trungthuc5 in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 18-05-2012, 11:30 AM
  3. Thương Nữ Bất Tri Vong Quốc Hận,
    By Vinh Phan in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 3
    Last Post: 27-08-2011, 12:53 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 09-02-2011, 07:45 AM
  5. Replies: 1
    Last Post: 16-11-2010, 04:08 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •