Phần 2: Lao động xuất khẩu
1. Có bao nhiêu người lao động xuất khẩu
Chính sách xuất khẩu lao động được áp dụng từ năm 1980 khi cộng sản VN muốn giải tỏa nạn thất nghiệp trầm trọng trong nước đồng thời dùng người lao động xuất khẩu để trả nợ cho các quốc gia anh em khối cộng sản đă giúp VN trong thời chiến tranh và các quốc gia thân hữu như Irak, Arabie Séoudite, Koweit, Qatar…
Trong thời gian từ 1980-1990, có khoảng nửa triệu người trong đó có khoảng 70,000 sinh viên, nghiên cứu sinh, và khoảng 300,000 người lao động được chính phủ gởi di Liên Sô, Đông Đức, Tiệp khắc, Bulgarie và khoảng 100,000 người đến các nước Trung Quốc, Cuba, Mông Cổ, Bắc Hàn để học tập và làm việc. Tiền lương của nhân công được chia làm ba: một đóng cho nước chủ, một gởi về cho gia đ́nh và một phát cho công nhân. Các công việc phần lớn là công việc người địa phương từ chối: đổ rác, thợ mỏ, phu khuân vác, làm cầu đường, ống dẩn dầu ở Sibérie. Các phụ nữ thường làm nghề may, giúp việc nhà (oshin). Nhưng không bao lâu sau đó, các chế độ cộng sản đă lần lượt sụp đổ, các quốc gia chủ hủy bỏ hợp đồng và cho hồi hương công nhân VN, nhưng đa số công nhân trốn ở lại. Thảm cảnh của công nhân bắt đầu từ đó với cảnh đối xử bất công của dân chúng và chánh quyền địa phương. Thất nghiệp đă đưa đến phạm pháp, tạo thêm ác cảm cho người bản xứ.
Khi bức tường Bá Linh sụp đổ tháng 11/1989, tại Đông Đức có 59,000 lao động xuất khẩu và du sinh VN tập trung tại các thành phố như Karl-Marx-Satadt, Đông Berlin và Leipzig. Sau khi nước Đức được thống nhứt, chính phủ Đức t́m cách giảm bớt số lao động xuất khẩu nầy bằng cách cấp cho mỗi người 3,000 mark để hồi hương. Khoảng phân nửa số người chịu về VN, nhưng những người lao động xuất khẩu ở những nước Đông Âu và Liên Sô lại kéo sang Đức để xin tị nạn hay cư trú bất hợp pháp. Trong suốt thập niên 90, chính phủ Đức dùng nhiều biện pháp đưa những người nhập cư bất hợp pháp nầy về VN, nhưng họ không đi mà chánh phủ VN cũng không nhận. Năm 2004, có đến 40,000 người VN cư trú bất hợp pháp trên nước Đức. Họ sống ngoài ṿng pháp luật, lập băng đảng, buôn bán thuốc lá lậu và cần sa là những trọng tội đối với nước Đức. Không nói được tiếng Đức, không hội nhập, đa số sống phạm pháp, lại có quan điểm chính trị cộng sản nên số người dân Việt nầy hoàn toàn đối nghịch với cộng đồng người Việt di tản.
Kể từ năm 1990, khi tham nhũng trở thành phổ quát, chính sách xuất khẩu lao động thay đổi theo lối ăn chia với các tổ chức tuyển dụng người xuất khẩu mà các người đứng đầu không ai khác hơn là bè đảng các lănh đạo thế lực. Chánh phủ phụ trách t́m kiếm các hợp đồng với các quốc gia cần nhân công rồi giao cho các công ty tư vấn tuyển dụng nhân công. Đó là chính sách tham nhũng vừa hàng dọc vừa hàng ngang, các công ty tuyển dụng tung hoành bóc lột, lường gạt người dân nghèo phải bán nhà bán ruộng để đóng tiền lệ phí cắt cổ cho các công ty để đi lao động nước ngoài hi vọng thoát được cảnh nghèo đói, nhưng chính sách đem con bỏ chợ của các công ty tư vấn thực chất là các tổ chức buôn bán người, làm giàu trên xương máu của người nghèo trước sự bao che của nhà nước.
Theo số liệu của Cục Quản lư lao động ngoài nước (Bộ Lao Động-Thương Binh và Xă hội), từ năm 2001 đến 2011, VN đă gởi 739,710 lao động VN làm việc tại hơn 40 quốc gia trên thế giới, tính trung b́nh mỗi năm có khoảng 70,000 người. Thu nhập của người lao động xuất khẩu thường từ 6 đến 10 lần cao hơn so với những người cùng làm một công việc trong nước và mỗi năm họ gởi về nước khoảng 1,7 đến 2 tỷ mỹ kim. (Nguyễn Cảnh Toàn. Bước đầu nghiên cứu cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tạp chí Khoa Học Xă hội VN số 1(44) 2011).
2. Diện mạo của người lao động xuất khẩu
Người lao động xuất khẩu ra nước ngoài có hai dạng: ra đi hợp pháp dưới sự quản lư của các công ty tuyển dụng, ra đi bất hợp pháp hay ở lại bất hợp pháp sau khi khế ước làm việc chấm dứt. Ngoài ra, những phụ nữ ra đi lấy chồng Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, thực chất cũng là một h́nh thức xuất khẩu lao động.
- Người lao động xuất khẩu theo hợp đồng
Từ năm 1990, chánh sách tham nhũng và vô trách nhiệm của nhà nước cộng sản đă làm nở rộ các loại công ty môi giới lao động nước ngoài, phát triển từ thành phố đến nông thôn. Đó là một sách lược tham nhũng toàn bộ, chia phần từ trung ương đến địa phương. Những người muốn đi lao động không phải là những người tứ cố vô thân mà phải có chút ít tài sản. Họ hay thân nhân họ phải bán nhà, bán đất hay thế chấp tài sản cho ngân hàng (danh từ sổ đỏ dùng để chỉ tiền nợ ngân hàng với tài sản thế chấp) để đóng tiền lệ phí cho cơ quan tuyển dụng. Theo những văn kiện của chính phủ, tiền lệ phí nầy không được hơn một tháng tiền lương, nhưng thực tế, những công ty môi giới khuynh đảo thị trường bởi người dân nghèo quá đông, mật ít ruồi nhiều, nên họ bày ra đủ thứ lệ phí, thường từ 5,000 đến 15,000 mỹ kim tùy theo nơi đến làm việc và thời gian của hợp đồng. Thử tưởng tượng tiền lương của một giáo chức, sau khi khấu trừ mọi thứ đóng góp cho nhà nước chỉ c̣n lại độ 30 mỹ kim mỗi tháng th́ số tiền lệ phí như trên quả là một tài sản khổng lồ. Với những hợp đồng bảo đảm tiền lương tại nước ngoài trên 1,000 mỹ kim hàng tháng, điều kiện làm việc thuận lợi, nhiều gia đ́nh nghèo tranh nhau đi t́m số đỏ với sổ đỏ. Người lao động xuất khẩu đong đưa với vận may nếu hợp đồng được tôn trọng, hi vọng trả được hết nợ và có chút vốn khi trở về nước. Nhưng thế giới cộng sản là thế giới của lừa đăo, những công ty tư vấn lường gạt dân nghèo với những viễn cảnh tốt đẹp để vơ vét lệ phí đủ loại, đưa người ra nước ngoài rồi phủi tay, hành xử theo lối đem con bỏ chợ. Những người đi lao động ở Nga, ở Trung Đông bị áp bức, làm việc trong những điều kiện tồi tệ, không được trả lương theo như hợp đồng, hay bị hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn, bơ vơ nơi xứ người không biết liên lạc với ai. Một lời thán oán trong muôn một của một người lao động xuất khẩu tại nước Nga: «Ba tháng không có lương, đấu tranh th́ bị chủ dọa đuổi, gọi điện thoại về hỏi công ty xuất khẩu th́ được bảo: chờ hết suy thoái chủ sẽ trả lương, muốn bỏ về th́ tự túc mua vé mà về… »
Viện Nghiên Cứu Phát Triển Xă Hội Việt Nam hợp tác với trường đại học Western Ontario (Canada) đă thực hiện một cuộc khảo sát về người lao động xuất khẩu VN tại 4 quốc gia ở Châu Á (Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Mă Lai) trong giai đoạn 2000-2009 đă công bố kết quả ngày 15 tháng 3 năm 2010 như sau: «… chỉ có 33% người XKLĐ trả hết nợ trước khi về nước, trung b́nh muốn trả hết nợ vay mượn phải làm việc 18 tháng, 36% người bị tổn thương sức khỏe và tâm lư v́ môi trường và điều kiện làm việc, 26% người không được trả lương như mong đợi và 8% bị hành hạ về mặt thể chất. Nhiều người bị hủy giao kèo hay không chịu nổi sự bốc lột phải trở về nước, gánh thêm nợ nần. Một tỷ lệ quan trọng không thấy có sự cải thiện về mặt kinh tế sau khi đi XKLĐ, thậm chí t́nh trạng c̣n tồi tệ hơn: 40,1% hài ḷng v́ số thu nhập tăng lên, 51,1% không thấy có sự thay đổi tích cực nào, 8,8% bị mắc nợ nhiều hơn….» (Đi xuất khẩu lao động để mưu sinh. baomoi.com, ngày 15/5/2010).
Chánh sách xuất khẩu lao động của chánh phủ cộng sản phơi bày bản chất vô nhân đạo và vô trách nhiệm. Những công ty môi giới là những công ty quốc doanh hay phe nhóm của cấp lănh đạo đă lợi dụng sự nghèo đói của người dân, nhẩn tâm bốc lột người nghèo rồi vô trách nhiệm đưa đám người nầy ra nước ngoài phải tự phấn đấu với bao nhiêu cam go không chuẩn bị. Chánh sách tham nhũng bất lương nầy không giải quyết trọn vẹn được nạn thất nghiệp và nghèo đói triền miên trong nước mà c̣n lại tạo nên một hiểm họa ở ngoài nước bằng cách xuất cảng một khối người Việt sống bất hợp pháp và phạm pháp tại nhiều quốc gia trên thế giới.
- Người xuất khẩu lao động bất hợp pháp
Đa số người XKLĐ là nông dân, công nhân ít học, v́ nghèo đói phải đi lao động nước ngoài hi vọng sẽ thoát khỏi cảnh nghèo đói. Không am tường ngôn ngữ xứ người, không thích nghi với điều kiện sống và làm việc, không biết thông tin khi gặp bất công, bất trắc, người XKLĐ quả thực làm cuộc phiêu lưu lớn khi đặt niềm tin vào các công ty môi giới mà đa số chỉ là nhóm người bất lương được nhà nước bao che. Ngoài ra, nếu đa số người XKLĐ là nạn nhân của các công ty từ trong nước đến ngoài nước, nhưng trong nhiều trường hợp, chính họ cũng lại là tác nhân của những khốn khổ của họ. Chỉ đan kể một số trường hợp phổ quát: không tuân hành luật lệ xứ người, không tuân hành hợp đồng, tác phong bất xứng (gây gổ, trộm cắp). Tại Hàn Quốc, theo tin tức của chính Bộ Lao Động, 32% người XKLĐ Việt Nam đ̣i đổi nghề khi đến Đại Hàn, 8,750 người ở lại bất hợp pháp sau khi hết hợp đồng (trên 60,000 XKLĐ), có người bỏ trốn ngay khi vừa đến phi trường, đến nổi Hàn Quốc phải ngưng không nhận XKLĐ Việt Nam. (các bản tin tháng 8, 2011).
Tại Mă Lai, chính phủ phải ân xá cho 13,000 người Việt XKLĐ ở lậu, tại Arabie Séoudite, tài xế XKLĐ đ́nh công viện lẽ thời tiết quá nóng đến 45 độ mà xe vận tải không có máy điều ḥa không khí (trước khi đi, họ đă biết sẽ làm việc trong vùng khí hậu sa mạc và xe vận tải ở VN có chiếc nào có máy điều ḥa không khí?).
Tại Moscou, cảnh sát Nga dẹp các xưởng may «chui», bắt giữ 500 người Việt XKLĐ ở lại bất hợp pháp th́ họ quay lại tố cáo chủ nhân bắt họ làm việc như người nô lệ. Th́ ra, người XKLĐ Việt Nam cũng mưu chước không kém ǵ những công ty môi giới và công ty mướn người lao động. Một thống kê của Bộ Lao Động, Thương-Binh Xă hội ước lượng có khoảng 50,000 người XKLĐ bất hợp pháp trên thế giới, nhiều nhất tại Á Châu và các quốc gia Đông Âu.
Ngoài những người XKLĐ ở lại bất hợp pháp, nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối diện với t́nh trạng người Việt định cư bất hợp pháp, do nhập cư lậu và người đi với visa du lịch rồi ở lại sau khi hết hạn, tổ chức các hoạt động phạm pháp như trồng cần sa, măi dâm, tập hợp thành băng đảng chém giết nhau, gây rối loạn trật tự công cộng.
Số người di cư nầy được các tổ chức mafia VN đưa bằng đường bộ đến Nga, phần lớn qua ngả Trung Quốc. Một số ở lại Nga sống bằng nghề buôn bán lẻ ở các chợ trời, may quần áo hay các nghề lao động linh tinh.
Tháng 6/2009, chính phủ Nga đóng cửa chợ Ṿm (Cherkizovsky), nơi có 6,000 thương buôn người Việt tập trung các hàng lậu thuế từ Trung Quốc.
Ngoài nước Nga, tại Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức (cũ), mỗi nơi hàng có chục ngàn người Việt sống ngoài ṿng pháp luật, gồm những người XKLĐ không về nước và những người nhập cảnh lậu. Dariusz Loranty, cảnh sát trưởng ở Warsaw đă nói với Ulricht Adrian, kư giả của đài truyền h́nh Đức ARD như sau: «… Dân VN không bao giờ chết, chưa hề thấy đám tang người Việt. Một ngày kia, chúng tôi thấy một xác người Việt bị mafia thủ tiêu quăng trong ven rừng ở Warsaw. Một người Việt nào đó mới đến bất hợp pháp sẽ mang tên người chết mà không ai kiểm soát được. Với chúng tôi, người Việt Nam nào cũng giống nhau không phân biệt được. Bọn mafia c̣n giết người đồng hương thiếu nợ lấy các bộ phận đem bán… » (Ulricht Adrian. Wo Warschau vietnamesisch ist- DCV online dịch).
Món nợ mà ông cảnh sát trưởng Warsaw nói là món nợ từ 10,000 đến 15,000 mỹ kim mà người di cư lậu phải mượn của bọn mafia VN trước khi lên đường, một món nợ quá lớn phải trả suốt đời. Cách trả nợ nhanh nhứt là tham gia vào các tổ chức trồng cần sa, buôn ma túy.
Ba Lan hiện nay là trung tâm sản xuất cần sa lớn nhất ở Đông Âu mà các người cầm đầu đường dây đa số là người Việt.
Để tránh sự cạnh tranh, một số di dân lậu được tổ chức đưa qua Đức, Pháp và điểm đến sau cùng là Vương Quốc Anh, bởi tại đó luật pháp liên quan đến ma túy có phần nhẹ hơn các nơi khác. Muốn đến Anh, những người nầy tập trung ở miền Bắc nước Pháp, trốn trong rừng Téteghem, Grande Synthe, từ đó họ chờ đến đêm để «nhảy băi» qua cảng Pas de Calais để sang Anh. Có khi họ phải chờ hàng tuần, hàng tháng trong những khu rừng lạnh lẽo nầy. Họ vứt bỏ tất cả giấy tờ, h́nh ảnh để khi cảnh sát bắt họ không biết lư lịch, xuất xứ của họ, do đó người Anh gọi họ là «người rơm». Những người rơm nầy đang hoành hành Vương Quốc Anh. Nick Thorpe, phóng viên đài BBC trong bài EU’s biggest crackdown on Vietnamese illegal migrants ngày 26/6/2010 đă viết : «… người Việt định cư hợp pháp ở Anh khoảng 30,000, nhưng số người bất hợp pháp lên đến 35,000».
Ông Lâm Hoàng Mạnh, một người Việt ở Anh đă viết một bài dài về người rơm đăng trong Talawas blog ngày 3/10/2010 có những đoạn như sau: «… Ngày 18/8/2010, tờ Metro London đăng tin theo báo cáo, năm 2009 cảnh sát đă bắt được 6,866 vụ trồng cần sa, tăng 30% so với năm 2008 là 4,951 vụ. Như vậy, chỉ trong 2 năm 2008-2009, số trại trồng cỏ bị phát hiện 12,000 vụ do người Việt điều khiển, có nghĩa trung b́nh mỗi tuần cảnh sát bắt gần 140 vụ, mỗi ngày 20 vụ trồng cần sa. Chưa kể những trang trại chưa bị phát hiện, con số trang trại cần sa của người Việt tại Anh phải hàng vạn… Hầu như báo chí tuần nào cũng đăng tin người Việt bị bắt v́ trồng cần sa và nhập cảnh bất hợp pháp. Lang thang khu Hackney, Woolwich, Southward, Lewisham, Brixton… gặp rất nhiều người Việt rơm, họ nhởn nhơ ngoài ṿng pháp luật, công khai nói chuyện trồng cỏ bằng tiếng (Việt) lóng…
Hàng năm, số tiền thu được do việc trồng cần sa của các băng đảng người Việt ở Anh lên tới hàng triệu bảng Anh đă được rửa bằng c̣n đường chánh ngạch cũng như tiểu ngạch để đầu tư vào bất động sản và khu công nghiệp ở VN. Những đồng tiền kiều hối nầy đă giúp chính phủ VN tăng trưởng GDP hàng năm. Thập niên 1990, từ vài trăm triệu, đến năm 2008, kiều hối đă tăng lên 8 tỷ. Kiều hối gửi về ngoài đồng tiền sạch (xuất khẩu lao động, trợ giúp thân nhân) c̣n có rất nhiều tiền bẩn do người rơm rửa tiền. Chúng ta thử làm phép tính cộng trừ nhân chia sẽ rơ: 8 tỷ mỹ kim do chính phủ VN công bố chia đều cho 3 triệu người VN hải ngoại, từ trẻ sơ sinh đến người già gần đất xa trời, b́nh quân mỗi người Việt gửi về VN gần 3,000 mỹ kim. Tiền ở đâu ra mà Việt kiều gửi về cho thân nhân tiêu xài mỗi năm 3,000 mỹ kim tức 60 triệu đồng VN nếu trong đó không có tiền bẩn khổng lồ của những kẻ tội phạm… »
Người rơm không phải chỉ có ở Anh mà tràn lan khắp nơi có cộng đồng người Việt. Tại Ba Lan, tên lóng là người xù, tại Đức là người đầu đen, tại Canada, Úc là người trồng cỏ. Michael L. Gray, kư giả người Canadien, cư ngụ ở Ottawa, có viết một bài khảo sát khá chi tiết về kỹ nghệ trồng cỏ ở Anh và Canada tựa là The Canadian connection: Why do Vietnamese grow so much dope? (
www.michaelgray.ca).
Sau đây là phỏng dịch vài đoạn chính yếu: «… Có khoảng 75% ngưởi trồng cần sa ở Anh là người VN, và hầu hết họ là những người nhập cư gần đây. Rất nhiều công nhân chăm sóc cây nầy là thiếu niên do những băng nhóm buôn thuốc phiện đưa đến từ VN. Thiếu niên là đối tượng dễ dàng quản lư v́ tiên công rẻ mạt, thêm vào đó chúng không bị xét xử với các tội h́nh sự theo luật khi bị bắt, ít lâu sau chúng tiếp tục làm trở lại và chúng không thể bị trục xuất về VN, v́ theo đạo luật năm 2004 cấm trục xuất thiếu niên. Lợi nhuận thật khủng khiếp. Một ngôi nhà trồng cây nầy có thể kiếm được nửa triệu mỹ kim một năm. Lư do của sự phát triển trồng cần sa v́ sự thay đổi đạo luật năm 2004, đưa cần sa từ hạng B xuống hạng C, có nghĩa là người phạm pháp sẽ không bị tội h́nh sự nếu trồng một số lượng nhỏ. Đó là lư do khiến các ngôi nhà VN biến thành nông trại cần sa.
Bây giờ, tôi tiếp tục đi đến thành phố tươi đẹp Vancouver ở bờ biển phía Tây của đất nước tôi. Từ giữa thập niên 1990, người VN hầu như làm bá chủ kỹ nghệ trồng cần sa ở Vancouver và các vùng lân cận ở tỉnh British Columbia. Đây không phải là một thành tích nhỏ, bởi việc sản xuất marijuana đại qui mô trước đó được thống lănh bởi nhóm Hells Angels Motocycle Club, khét tiếng với việc sử dụng bạo lực để chống lại đối thủ. Tại sao các băng đảng VN lại thống trị nhanh như vậy? Để trả lời câu hỏi nầy, tôi nghĩ cần xét qua lịch sử lập cư của người Việt ở Canada. Trong những năm sau 1975, Canada cũng như nhiều quốc gia Tây Phương khác tiếp nhận hàng chục ngàn người Việt đến từ miền Nam, phần lớn là giới có học, có nghề tốt. Họ cư trú tại các đô thị lớn như Montréal, Toronto, Ottawa hay những đô thị nhỏ hơn như Edmonton, Vancouver. Nói chung, thế hệ những người nhập cư đầu tiên nầy sống rất tốt ở Canada … Vancouver là cái đích của những người tị nạn từ trại Hồng Kông, ra đi từ miền Bắc VN. Trại tị nạn Hồng Kông là một nơi khủng khiếp, cai quản bởi các băng nhóm bạo lực và khi đến Vancouver, những người nhập cư mới nầy không nghề, không học thức phải làm việc cho các băng đảng. Sống trong nền kinh tế tập trung những năm 1980 ở VN, nơi mà mọi người đều vi phạm luật pháp để sinh tồn, và những điều kiện sống khắc nghiệt ở trại tị nạn Hồng Kong đă khiến những người Việt mới nhập cư nầy có tính liều lĩnh, gan dạ, quyết tâm thành công với mọi giá. Chỉ trong vài năm, những băng nhóm VN đă đuổi nhóm Hells Angels ra khỏi Vancouver, khiến cảnh sát Vancouver phải gọi các băng đảng VN là những tội phạm gan lỳ nhất từ trước đến nay ở Canada (the most tenacious, extraordinarily focused criminals ever introduced in Canada).
Một báo cáo của cơ quan chống ma túy Mỹ năm 2000 cho biết năm 1998 có 2,351 vụ trồng cần sa bị khám phá ở British Columbia, một năm sau tăng lên đến 30%, tức 3,279 vụ và năm 1998 có 2,600 kg cần sa nhập vào Mỹ qua ngả British Columbia bị bắt. Marijuana biến chế ở British Columbia có phẩm chất cao, «BC Bud» là loại cần sa hảo hạng mà người Mỹ ưa thích nhất. Các «hạt giống làm vườn», sách dạy trồng cần sa cho cả nước cũng phát xuất từ đây. Và việc trồng cần sa lần lần phát triển khắp Canada. Những đánh giá gần đây cho biết trị giá thương mại của cần sa ở British Columbia khoảng 6,5 tỷ mỹ kim, đứng hạng nh́ sau dầu khí… »
Người Việt trồng cần sa và buôn ma túy hiện nay ở khắp nơi trên thế giới. Ngoài Ba Lan-Hung gia Lợi ở Đông Âu, Anh ở Tây Âu, Canada ở Bắc Mỹ cỏn phải kể thêm hệ thống ở Úc – Tân Tây Lan.
Ngày 23 tháng 11 năm 2010, một cuộc bố ráp chưa từng có trong lịch sử ở tiểu bang Victoria (Úc), huy động 630 nhân viên công lực gồm cảnh sát, nhân viên quan thuế, di trú, để lục soát 68 căn nhà của người Việt rải rác trên toàn tiểu bang Victoria, đặc biệt chung quanh thành phố Melbourne để khám phá được 8,000 cây cần sa đang chờ thu hoạch, một số lượng lớn bạch phiến và 22 triệu Úc kim tiền mặt. Theo các cơ quan truyền thông và cảnh sát Úc, đây là những tổ chức tội phạm có liên hệ chặt chẻ với VN. Số tiền buôn lậu cần sa, bạch phiến chuyển về VN mỗi năm khoảng 400 triệu Úc kim. Chẳng những họ hoạt động ở Úc mà c̣n ở Tân Tây Lan. Đa số những tội phạm đến Úc bất hợp pháp đến từ Hải Pḥng bằng các visas giả do nhà nước VN cung cấp dưới dạng du học hay du lịch.
3. Phụ nữ kết hôn với chồng «ngoại»
Chuyện hôn nhân dị chủng trên thế giới hôm nay là chuyện b́nh thường, do đó khi nói đến hiện tượng lấy chồng «ngoại» trong bối cảnh Việt Nam phải hiểu là chuyện mua bán phụ nữ Việt Nam để làm vợ người Trung Quốc và Hàn Quốc. Theo thống kê của Bộ Tư Pháp, từ năm 1995 đến năm 2010, VN có hơn 250,000 nguời VN kết hôn với người nước ngoài trong đó có khoảng 100,000 người kết hôn với người Đài Loan, 30,000 với người Trung Quốc và 40,000 với người Hàn Quốc.
Phụ nữ kết hôn với nguời «ngoại» phần lớn là những người nghèo, tŕnh độ văn hóa thấp, 79% cư ngụ ở TP Hồ chí Minh và 13 tỉnh miền đồng bằng sông Cửu Long. Hăy nh́n những cô gái trẻ thơ, cởi hết quần áo đứng thành hàng dài để người Đài Loan, người Hàn Quốc chọn lựa. Tờ Trung hoa Thời Báo ở Đài Loan công khai đăng quảng cáo như thời buôn bán nô lệ: Cô dâu VN, giá bán 18 vạn Đài tệ. Bảo đảm là gái trinh, nếu không trả tiền lại. Tại Hàn Quốc, các công ty môi giới rao hàng: Người chưa vợ, góa vợ hoặc khuyết tật đều có thể t́m cô dâu Việt. Tại Singapore, 3 cô gái VN được trưng bày trong trung tâm thương mại Golden Mile Complex làm cho Hội Phụ Nữ Singapore xúc động và bất b́nh. Đó là vài bản tin trong hàng trăm bản tin khi mở đọc trên Internet. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ trưởng bộ Lao Động – Thương Binh và Xă hội đă xác nhận: «Phong trào phụ nữ VN lấy chồng nước ngoài v́ mục đích kinh tế, nhất là những cuộc hôn nhân qua môi giới bất hợp pháp thường dẫn đến đổ vỡ, có tác động rất lớn đến xă hội. Nhiều người nước ngoài cấu kết với một số c̣ mồi, môi giới VN h́nh thành những đường dây buôn bán người xuyên quốc gia. Nhiều cô gái đă vở mộng v́ lấy phải người chồng nghèo khó hoặc bị môi giới lừa đảo, bị bốc lột sức lao động, bị lạm dụng t́nh dục, bị hành hạ đánh đập, thậm chí dẩn đến cái chết ở xứ người… »
Báo Tuổi Trẻ online ngày 22/2/2010 đưới nhan đề: Nhiều phụ nữ bị bán sang Trung Quốc, kể rơ cả số thông kê của chính phủ: «Trong nước có 255 địa bàn trọng điểm, 89 tuyến trọng điểm về buôn bán phụ nữ và trẻ em. T́nh trạng buôn bán phụ nữ diễn ra trên đường bộ, đường thủy và đường hàng không, trong đó buôn bán phụ nữ sang Trung Quốc chiếm khoảng 65%. Các nạn nhân thường bị bán với mục đích làm gái măi dâm, lấy chồng hoặc bốc lột lao động… »
Trong bản Báo cáo Tệ nạn buôn người năm 2010 ở Việt Nam (Trafficking in persons Report 2010-Vietnam) do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thực hiện trong khuôn khổ của Cao Ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc đă có những nhận định và chỉ trích nghiêm khắc đối với chính phủ VN về việc bảo vệ người lao động xuất khẩu và phụ nữ.
Sau đây là một trong những đoạn chính yếu: «VN là một quốc gia có nhiều người đi làm việc ở nước ngoài do các công ty tuyển dụng trực thuộc nhà nước và tư nhân để gởi người đi làm việc ở Mă Lai, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhựt Bổn, Thái Lan, Indonésia, Anh, Serbie, Nga và Trung Đông. Các công ty xuất khẩu lao động đ̣i hỏi những lệ phí vượt quá qui định, nhiều khi dến 10,000 mỹ kim khiến công nhân mắc nợ cao nhất trong số các người Á châu đi lao động nước ngoài. Các công ty luờng gạt công nhân xuất khẩu bằng cách chỉ cho công nhân xem hợp đồng trước khi lên phi cơ hoặc cho công nhân kư tên trên các hợp đồng viết bằng ngoại ngữ mà công nhân không hiểu. Khi đến các quốc gia tuyển dụng, công nhân bị cưỡng bức làm việc với các điều kiện và lương bỗng không như hợp đồng, bị đánh đập hành hạ. Các phụ nữ đi lao động hay đi lấy chồng được đưa tới Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Macao bị cưỡng bức lao động, hay măi dâm hay cả hai. Các trẻ em bị bán cho các nhả thổ qua ngă biên giới Cambốt, Lào, Trung Quốc … Mặc dù chính phủ thúc đẩy gia tăng xuất khẩu lao động để giải quyết nạn thất nghiệp, giảm nghèo, thu ngoại tệ, nhưng chính phủ không có biện pháp tích cực nào để trừng phạt những công ty xuất khẩu lao động và bảo vệ quyền lợi của người XKLĐ. Chánh phủ cũng công nhận có tệ nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em nhưng không có biện pháp h́nh sự nghiêm khắc nào đối với các người phạm pháp các đường dây buôn người. Trong những nhận định trên, VN được xếp vào danh sách Theo dơi loại 2 (Watch 2).
Chú thích: loại 1: tôn trọng các luật lệ; loại 2: luật lệ lỏng lẻo, loại 3: tuyệt đối không tôn trọng. (dịch từ: Trafficking in persons report 2010 – Vietnam / US States Deparment ( www.unhcr.org).
Thay lời kết
Những tệ trạng xấu xa của VN trong nước và ngoài nước không sao nói hết. Trang giấy có hạn, chúng tôi phải dừng lại để nhờ đến lời nói của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt thay cho lời kết. Trong một buổi nói chuyện với Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hà Nội ngày 20 tháng 9 năm 2008, Đức Tổng Giám Mục đă phát biểu: «Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhă khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm, chúng tôi muốn đất nước ḿnh mạnh lên. Làm sao như người Nhật cầm cái hộ chiếu là đi qua mọi nơi, không ai xem xét ǵ, người Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Chúng tôi mong đất nước ḿnh được thực sự tốt đẹp để đi đâu chúng ta cũng được nể trọng… ». Ước vọng của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt cũng là ước vọng của 90 triệu người Việt trong nước và 3 triệu người Việt tị nạn, mong sao cho cái chế độ mafia đă đưa đất nước đến chỗ tụt hậu, nghèo khổ, xă hội vô đạo, vô cảm sớm cáo chung.
Lâm Văn Bé
Nguồn
Bookmarks