37 Năm Sau Nh́n Lại: “Ai Thắng Ai,” Ai Giải Phóng Ai?
Thấm thoát đă 37 năm kể từ cái ngày định mệnh 30 tháng Tư năm 1975 khi xe tăng quân cộng sản Bắc Việt húc đổ cổng Dinh Độc Lập tại Saigon, chấm dứt cuộc chiến để chiếm đóng Nam Việt Nam, thiết lập chế độ cộng sản toàn trị trên toàn lănh thổ Việt Nam từ ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.
Những con số không chính thức trong cuộc chiến: về nhân mạng Việt Nam mất khoảng 4 triệu người trong đó Quân đội Nhân dân (VNDCCH) mất 1 triệu rưỡi, Quân đội Nam Việt Nam Cộng Hoà mất khoảng 250 ngàn, và quân đội Mỹ khoảng 58 ngàn người; c̣n lại là thường dân, phần lớn là tại Miền Nam v́ các cuộc tấn công, khủng bố, pháo kích của Việt cộng vào các khu dân cư; số người ở Miền Bắc chết và bị thương do các cuộc thả bom của Mỹ ít hơn nhiều so với số thường dân chết ở Nam Việt Nam. Những số liệu này chỉ là ước tính v́ nhà nước Cộng sản Việt Nam không bao giờ công khai bất cứ chi tiết nào không có lợi cho họ trong suốt 30 năm chiến tranh, trước là với Pháp, sau đó là với Mỹ trong cái họ gọi là “nhiệm vụ” quốc tế cộng sản nhưng được che đậy dưới ngọn cờ “giải phóng dân tộc” là bước đầu của chiến lược cướp chính quyền để quá độ (chuyển tiếp) lên “cách mạng xă hội chủ nghĩa” và sau cùng đạt đến chủ nghĩa cộng sản. Đó là chiến lược lâu dài để đạt mục đích tối hậu của chủ thuyết Mác-Lê Nin và được dùng làm kim chỉ nam cho mọi sách lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lời tuyên bố của Lê Duẩn, “Ta đánh Mỹ đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc” đă để lộ rơ mặt thật của tập đoàn cộng sản Hà nội khi phóng tay phát động cuộc xâm lăng Miền Nam v́ nghĩa vụ quốc tế vô sản và để chứng minh ḷng trung thành của Việt cộng với hai nước đàn anh lớn nhất. Trong thời gian chiến tranh Việt cộng vẫn chơi tṛ hai mặt để được Liên Xô viện trợ vũ khí súng đạn và Trung cộng cung cấp từng bánh lương khô, từng chiếc bi đông đựng nước để tiếp tục chiến tranh giết hại đồng bào Miền Nam cùng gịng máu. (Ở đây không đề cập đến cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” như các báo cáo chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng sau khi Liên Xô sụp đổ và khối Đông Âu giải thế v́ việc gán ghép những câu vè, những lời khuyên bảo dân giă thành một hệ tư tưởng chỉ là việc “không có chó bắt mèo ăn cứt” như dân quê Việt Nam thường nói.) Vả lại, ngay cả Hồ Chí Minh cũng đă nói ông ta không có tư tưởng ǵ, Stalin và Mao đă lập thuyết cả rồi và hai ông đó th́ không bao giờ sai!
37 năm là một quăng thời gian dài trong một đời người và có thể nói là giai đoạn sung măn nhất của một thế hệ Người Việt. Vậy th́ Việt Nam hiện nay đang ở đâu sau khi Việt cộng đă thực hiện được mục tiêu chiếm trọn Miền Nam bằng vũ lực để áp đặt chế độ cộng sản như họ đă có kế hoạch ngay từ khi hiệp định Geneva chưa ráo mực năm 1954. Trước hết xin tŕnh bày sơ lược các biến chuyển chính trị, xă hội trong 37 năm qua, sau đó sẽ tŕnh bày tổng quan t́nh trạng đất nước hiện nay.
Có thể nói Việt Nam đạt đến t́nh trạng hiện nay qua hai giai đoan:
Giai đoạn 1: Từ 1975-1990, có thể xem là giai đọan sắt máu sau chiến tranh, trong đó chính quyền cộng sản thực hiện những chính sách giáo khoa của các chế độ cộng sản, trước hết là những chính sách kiểm soát nghiệt ngă về xă hội, kinh tế, hiển nhiên là dựa trên mô thức chính trị độctài chuyên chính vô sản mà cộng sản Bắc Việt đă có kinh nghiệm toàn trị ở Miền Bắc trong 20 năm sau hiệp định Geneva, thường được ngụy biện là cần thiết trong khi tiến hành chiến tranh xâm lược Miền Nam nhưng núp dưới chiêu bài “chống Mỹ cứu nước.”
Phải nói rằng sự cuồng tín về ư thức hệ và cái kiêu căng tự phụ của người cộng sản đă làm họ say men chiến thắng sau 30/4/1975 để không c̣n nghĩ ǵ về hậu quả của những chính sách hà khắc đó dù rơ ràng những chính sách ấy đă mang lại bao tủi nhục, mất mát cho người dân Miền Nam. Những câu nói đăi bôi như của tướng Trần Văn Trà, “Giữa chúng ta không có kẻ thắng người thua, chỉ có nhân dân là người chiến thắng” chỉ là những lời tuyên truyền rẻ tiền cố hữu của cán bộ Việt cộng chỉ lừa dối được những kẻ ấu trĩ về cộng sản và ngây thơ về chính trị! Có người nói, sau 30/4/1975 “Cái Ác Đă Lên Ngôi” hay như thượng nghị sỹ Mỹ John McCain nói tại Saigon trong chuyến đi thăm Việt Nam năm 2000 rằng “The wrong side won the war” (Kẻ Ác Đă Thắng).
[Câu “The wrong side won the war” đă là tựa đề của bài viết ngày 9 tháng 6, 1977 của Jeffrey Hart trên tờ Kentucky New Era – DCVOnline. Nguồn: http://snipurl.com/23arx5j]
Nhưng do đâu Việt cộng không do dự, ngần ngừ làm điều ác? Chính là từ chủ thuyết, ư thức hệ cộng sản của họ. Trong những buổi họp tập chính trị cho sinh viên tại đại học Vạn Hạnh những ngày đầu sau 30/4/1975 có một bài học cơ bản là bài “Ai Thắng Ai” với nội dung chính là trong cuộc chiến Việt Nam, khối cộng sản đă thắng khối tư bản, trái ngược với những bài bản tuyên truyền với thế giới và dân Miền Nam trước đó là cuộc chiến chỉ v́ độc lập, thống nhất đất nước và những người cộng sản Bắc Việt đă chối bai bải rằng không có Quân đội Nhân dân ở Miền Nam! Một vài năm sau 1975, khi Ethiopia và Angola trở thành cộng sản, Việt cộng lại càng kiêu căng, phách lối, đến độ những cán bộ tuyên huấn ở Saigon c̣n dọa sẽ “đem cách mạng” sang Thái Lan trước rồi nếu cần sẽ mang cách mạng sang cả “đế quốc Mỹ.” Chỉ đến khi chiến tranh với Campuchia năm 1978 và với Trung cộng 1979 th́ Việt Nam đă rơi vào đồng lầy của nghèo nàn, khốn khổ! Nhưng ngoài miệng th́ cán bộ vẫn tiếp tục tuyên truyền về sự vô địch của khối cộng sản và cho rằng khối tư bản “vẫn đang dẫy chết!”
Khi học tập chính trị các giảng viên từ Thành Đoàn đều viết lên bảng câu khẩu hiệu “Yêu Nước là Yêu Chủ Nghĩa Xă Hội” nhưng khi được hỏi CNHX là ǵ th́ họ lại trả lời ḷng ṿng là “giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, khi đó làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, không có người bóc lột người, v.v.” Họ cũng rao giảng rằng “đạo đức phải là đạo đức xă hội chủ nghĩa, không được đạo đức chung chung kiểu tư sản; rằng những ǵ có lợi cho đảng, cho cách mạng là đạo đức.”
Được trang bị bằng hệ thống giáo điều cuồng tín đó nên những chính sách cầm tù dài hạn những quân nhân, viên chức của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà dưới chiêu bài “giáo dục cải tạo”; đuổi dân thành thị về vùng xa xôi, hiểm trở trong chính sách “kinh tế mới” mà chẳng có hổ trợ ǵ để dân tái định cư, rồi sau đó để cho dân miền Bắc vào chiếm những chổ ở cũ; hay chính sách tịch thu, nôm na là ăn cướp, tài sản những doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa của Miền Nam qua chính sách “cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh.” Nghe đâu cán bộ cầm đầu thực hiện chính sách tàn ác này là Đỗ Mười, người đă nổi danh qua chính sách tương tự ở Hà nội và Hải pḥng sau năm 1954 với hậu quả là nhiều người đă tiếc của mà tự tử chết. Nhưng đối với Việt cộng những việc đó có lợi cho Đảng, cách mạng nên họ không hề băn khoăn về hậu quả; vả lại người Cộng sản vốn là vô thần nên không có những băn khoăn về tâm linh và khi thấy rằng họ cũng tự nhiên đạt được nhiều lợi quyền sau khi cướp được chính quyền, đúng như phong trào cộng sản quốc tế hứa hẹn trong bài hát “International - Quốc Tế Ca: tất cả lợi quyền sẽ qua tay ḿnh,” th́ họ lại càng hăng hái hơn trong các chính sách “Vào, Vơ, Vét, Về.”
Trong thập niên 1976-1986 Việt Nam nằm trong sự toàn trị của Tổng Bí thư Lê Duẩn và tập đoàn Lê Đức Thọ. Lê Duẩn là một người cộng sản cuồng tín, thiển cận và độc ác. Với một vốn học vấn khiêm nhường của lớp năm tiểu học rồi làm công nhân đường xe lửa và chỉ được dạy dỗ những giáo điều cộng sản và cách sử dụng bạo lực cách mạng trong nhà tù nên Lê Duẩn rất sắt máu về chính trị. Chính Lê Duẩn là tác giả của “Đề Cương Cách Mạng Miền Nam” năm 1957 tức là kế hoạch xâm lăng và chiếm đóng Miền Nam, sau đó được Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện năm 1959 với việc thành lập đoàn 559 mở đường ṃn Trường Sơn để xâm nhập người và súng đạn vào tấn công Miền Nam. Cá tính gian dối của Lê Duẩn cũng được thể hiện qua hành động lừa đảo ấu trĩ là giả vờ xuống tàu ra Bắc tập kết rồi đêm đến lẻn lên bờ trở lại nằm vùng ở Miền Nam v́ thực ra lúc đó cũng chả ai quan tâm đến việc một người thay đổi thái độ đi hay ở! Và trong thời gian nằm vùng, tính gian dâm của Lê Duẩn đă thở thành huyền thoại ở Nam Bô, trong khi nhiều cán bộ cấp thấp hơn bị khiển trách, trừng phạt về tội hủ hóa tức gian dâm, ngoại t́nh!
Chính sách mang dấu ấn đậm nhất của Lê Duẩn sau 1975 là “Làm Chủ Tập Thể” với tất cả những cái ấu trĩ, ngu dốt của nó. Nếu ai đă học xong bậc tiểu học ở Việt Nam tất biết những câu châm ngôn như, “Nhiều thầy thối ma, nhiều người ta thối cứt,” hay “Cha chung không ai khóc” để chỉ việc chung thường bị người ta đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, chẳng ai lo! Kết quả là những tổ hợp, hợp tác xă nông nghiệp hay công nghiệp đều thất bại, không hiệu quả, đến độ là kinh tế Việt Nam đến bờ vực thẳm vào năm 1986 khi Lê Duẩn mất!
Trong thập niên 1980 kinh tế Việt Nam suy sụp thảm hại, một phần v́ chi phí quốc pḥng khi Cộng sản Việt Nam sa lầy tại Campuchia sau khi xâm lăng và chiếm đóng đất nước đó cuối năm 1978, dẫn đến cuộc chiến ở vùng biên giới phía Bắc với Trung cộng vào ngày 17 tháng 2 năm 1979. Đến nay chi tiết về các cuộc chiến này vẫn không được Việt cộng công bố; những bộ đội đă hy sinh cũng không được ghi công, tưởng niệm v́ phật ḷng Trung cộng, Thiên triều mà họ đă sang khấu đầu thần phục năm 1990 để được bảo đảm tiếp tục cầm quyền sau khi Liên Xô sụp đổ và khối Đông Âu giải thể cuối thập niên 1980.
Trong gần 15 năm sau chiến tranh, Việt Nam lún dần vào vai tṛ của một nước nghèo nàn và tụt hậu so với những quốc gia trong khu vuc Đông Nam Á. Nguyên nhân đơn giản là một chế độ độc tài toàn trị, với tham nhũng lan tràn v́ vô trách nhiệm và thiếu giám sát trong khi dân chúng bị áp bức, các quyền tự do cơ bản bị chà đạp trắng trợn, không thể nào đạt được tiến bộ xă hội để nâng cao mức sống của người dân. Trong khi đó, nhũng kẻ cầm quyền lại thường khoe khoang rằng “nền dân chủ xă hội chủ nghĩa hơn vạn lần dân chủ tư sản!” Phải chăng khả năng hổ thẹn đă mất đi trong người cộng sản v́ họ nói dối quá lâu đă thành quán tính?
Trước khi Saigon bị chiếm đóng, chỉ khoảng 140 ngàn người là những viên chức cao cấp trong chính phủ VNCH hay quân đội đă di tản cùng với vợ con, thân nhân họ, nhất là những người đă từng có kinh nghiệm với Việt cộng; c̣n rất nhiều thành phần trí thức, nhân viên trung cấp, sinh viên đều nghĩ rằng họ sẽ có cơ hội góp phần xây dựng lại đất nước sau một cuộc chiến tranh dài nên đă ở lại, không di tản, dù nhiều người có cơ hội. Không ai ngờ rằng chính quyền cộng sản lại có những chính sách trả thù, tàn ác, phân biệt như thê. Nhất là chính sách đối xử phân biệt qua lư lịch mà thực chất là thể hiện nguyên lư “đấu tranh giai cấp” của chủ thuyết cộng sản.
Khi người dân Miền Nam nhận ra bộ mặt thật của đám lănh đạo Việt cộng dốt nát, cuồng tín, gian ác th́ chỉ c̣n một cách là thoát ly khỏi cái địa ngục đỏ đó mà thôi. Kết quả là hiện tượng thuyền nhân từ cuối năm 1977! Lúc đó các lănh tụ Việt cộng đă nguyền rủa, nhục mạ những kẻ trốn chạy, rằng “đó là bọn đĩ điếm, mê bơ thừa sữa cặn của đế quốc”; nói chung là dùng ngôn từ của những kẻ vô học, côn đồ, không thích hợp với quan chức cấp cao của một quốc gia. Điều càng mỉa mai là sau một thời gian, những thuyền nhân này ổn định cuộc sống ở đất nước mới và bắt đầu gửi hàng, tiền về giúp thân nhân của họ vẫn c̣n ở Việt Nam th́ giọng điệu của nhà nước Việt cộng lại thay đổi, nào là “khúc ruột ngh́n dặm, là máu thịt của dân tộc” v.v. Nói chung thật là vô liêm sỉ.
Có thể nói hiện tượng “thuyền nhân” xảy ra từ giữ năm 1977 cho đến nửa thập niên 1990, khi các quốc gia ở Đông Nam Á từ chối không cho những người trốn chạy Việt cộng vào các trại tỵ nạn v́ đă quá đông. Có nguồn cho rằng trong thời gian đó, thủ tướng hiện nay, Nguyễn Tấn Dũng, là một trưởng công an ở tỉnh Kiên giang, chưa đầy 30 tuổi nhưng rất mưu mô, xảo quyệt, nên đă tổ chức các chuyến vượt biên bán chính thức, hay chính thức cho Hoa kiều hồi hương, để lấy vàng (trẻ em 6 lượng vàng mỗi em, người lớn từ 10 đến 12 lượng); ngoài ra c̣n có dịch vụ cho thuê tàu, bán băi đáp. Số vàng hàng chục ngh́n lượng ông Dũng thu được đă được chia hậu hĩnh cho các thành viên bộ chính trị lúc đó nên ông Dũng được đặc cách lên chức nhanh chóng. Và lúc này chính ông Dũng là thủ tướng của một đất nước với thể chế chính trị man rợ, kinh tế khủng hoảng, đạo đức xuống cấp, văn hóa đồi trụy, và giáo dục tụt hậu!
Một số trí thức phản chiến, khuynh tả thường t́m cách biện hộ, chạy tội cho Việt cộng với lập luận rằng v́ Mỹ cấm vận Việt Nam sau 1975 nên Việt cộng mới áp dụng những chính sách như thế! Họ quên rằng ngay sau khi trở thành tổng thống Mỹ năm 1976, tổng thống Jimmy Carter đă đề nghị b́nh thường hóa quan hệ Mỹ-Việt. Nhưng trong những cuộc đàm phán suốt năm 1977 tại Hà nội, Paris, và New York, tập đoàn cộng sản giáo điều ở Hà nội khăng khăng đ̣i 3 tỷ rưỡi đô la “tiền bồi thường chiến tranh” mà cựu tổng thống Richard Nixon hứa hen trong một bức thư riêng để Hà nội kư Ḥa ước Paris năm 1973! Người ta không thể hiểu cộng sản Hà nội có c̣n biết liêm sỉ hay không khi đă xé hiệp định Paris, tấn công và chiếm đóng Miền Nam bằng vũ lực chỉ hai năm sau đó, rồi đ̣i Mỹ thi hành một điều khoản không chính thức trong hiệp ước! Điểm thứ hai là họ không hiểu hệ thống chính quyền Hoa kỳ: Tất cả mọi chương tŕnh dự án ǵ của chính phủ cũng phải do phía lập pháp tức Quốc hội, chuẩn chi (cấp ngân khoản) mới thực hiện được. Việc một tổng thống hứa hẹn điều ǵ với ai không có nghĩa ǵ với Quốc hội! Có lẽ tập đoàn Hà nội lúc đó tưởng rằng ai cũng như họ muốn ǵ là làm, không ai giám sát, chuẩn chi! Đó chẳng qua la do ngu dốt nhưng không t́m hiểu, học hỏi v́ cái bệnh kiêu căng, hănh tiến cộng sản. (Xem quyển “Brother Enemy” (Anh em Thù địch) của nhà báo Ấn độ khuynh tả Nayan Chanda để biết những chi tiết khá khôi hài như đầu năm 1977 Hà nội chắc mẫm phen này sẽ có 3 tỷ rưỡi đô la và Lê Duẩn cùng tập đoàn cầm quyền đă dự định dùng số tiền đó để làm ǵ! Khi Richard Holbrooke là đối tác thương thuyết b́nh thường hóa quan hệ với Việt Nam được biết điều này, ông ta đă phải kêu lên, “They must be crazy!” (Chắc là họ điên!)
[Tổng tống Nguyễn Văn Thiệu cũng đă trông chờ Mỹ tiếp tục viện trợ chiến tranh Việt Nam v́ những lá thư riêng của Tổng thống Richard Nixon gời cho ông; thí dụ “ […] you have my assurance of continued assistance in the post-settlement period and that we will respond with full force should the settlement be violated by North Vietnam.” Thư TT Richrad Nixon gởi TT Nguyễn Văn Thiệu ngày 5/5/1973 do ông Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển của Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa, đưa ra trước báo giới Mỹ ngày 30/4/1975. Xem “Khi đồng minh tháo chạy” của Nguyễn Tiến Hưng – DCVOnline]
Sau khi Lê Duẩn mất, Trường Chinh tạm thay thế trong chức vụ tổng bí thư chờ đại hội đảng VI. Trái với quan điểm của nhiều người cho rằng Trường Chinh là thủ phạm chính của các tội ác trong Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Đất và bị chuyển sang làm chủ tịch quốc hội khi sửa sai, thực ra người phải chịu trách nhiệm lớn nhất và đầu tiên là Hồ Chí Minh, lúc đó là Chủ tịch Nước và Chủ tịch Đảng. Chính Hồ Chí Minh sang Nga năm 1950, cùng Mao Trạch Đông, và nhận lệnh của Stalin về tiến hành cải cách ruộng đất với sự cố vấn của cán bộ Trung cộng như Trần Canh, La Quí Ba, Vi Quốc Thanh, v.v.
[CCRD được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thực hiện vào những năm 1953–1956. Trần Canh đă trở về Trung Quốc cuối năm 1950. Tháng 9, 1951 nhận nhiệm vụ mới ở Chiến tranh Triều Tiên. Xem Trần Giao Thuỷ, Truyền Thông Số 32 & 33, Hạ-Thu 2009. - DCVOnline]
Trường Chinh lúc đó cũng là một con dê tế thần như Hoàng Quốc Việt, dù chỉ vài năm sau họ đều được phục chức và Hồ Chí Minh vẫn tuyên bố cải cách ruộng đất đại thành công! Nói như thế không phải chạy tội cho Trường Chinh v́ ông này tôn sùng Trung Cộng một cách mù quáng, đă giải thích cho cán bộ đảng viên về công hàm 14/9/1958 của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng là, “Trung quốc là nước xă hội chủ nghĩa anh em; họ chỉ giữ dùm ta, khi nào ta đ̣i lại là bạn trả ngay.” Chính sự cuồng tín giáo điều của Việt cộng đă gieo mầm cho việc nhượng đất, dâng biển, cho thuê rừng của các thế hệ Việt cộng sau này.
Trong những năm cuối thập niên 1980 Việt cộng lâm vào t́nh trạng khủng hoảng tư tưởng khi Liên Xô và khối Đông Âu bắt đầu tan vỡ. Tại đại hội đảng VI năm 1986 Nguyễn Văn Linh trở thành tổng bí thư và bắt chước một vài động thái cởi mở như “cởi trói văn nghệ sĩ” và giảm kiểm duyệt, cho phép xuất bản một số tác phẩm có nội dung phản kháng. Thế nhưng sau khi chế độ cộng sản ở Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung có vẻ sắp sụp đổ và với sự chống đối của phe bảo thủ, Nguyễn Văn Linh đă siết lại chính sách cai trị. Thế rồi khi thấy Trung cộng thẳng tay đàn áp sinh viên biểu t́nh chống tham nhũng, đ̣i hỏi dân chủ ở Thiên An Môn, Đảng Cộng sản Việt Nam đă quyết định thần phục, theo đường lối cứng rắn của Trung cộng để đảm bảo tiếp tục cầm quyền toàn trị ở Việt Nam. Cùng lúc với thanh trừng những nhân vật “chệch hướng, có lập trường lung lay” như tướng Trần Độ và ủy viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách, bộ ba Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, và Đỗ Mười đă sang Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, gặp Giang Trạch Dân và Lư Bằng xin b́nh thường hoá quan hệ với Trung cộng “để cùng tiếp tục” cứu văn phong trào xă hội chủ nghĩa. Thực ra Việt cộng không ngây thơ như cựu thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ tŕnh bày trong hồi kư “Hồi ức và Suy nghĩ,” nhưng “Ba Người Đó” đă chỉ thực hiện phương châm bất biến của cộng sản là “cứu cánh biện minh phương tiện” nghĩa là cầm quyền bằng mọi giá, kể cả nhượng đất, dâng biển. Nếu có ai hỏi th́ sẽ t́m cách bịt miệng hay dùng độc quyền truyền thông để hướng dẫn, chỉ đạo dư luận sau.
Hăy nhớ rằng chuyến đi thần phục Thiên triều Trung cộng năm 1990 xảy ra chỉ hai năm sau khi hải quân Trung cộng chiếm một số đảo của Việt Nam ở Trường Sa và giết chết 70 thủy thủ Việt Nam năm 1988. Hiện nay những hy sinh này bị chính quyền cố t́nh bỏ quên v́ nhà nước cấm đoán mọi sinh hoạt tưởng niệm những người đă hy sinh trong các cuộc chiến giữ ǵn sự toàn vẹn lănh thổ chống Trung cộng năm 1974, 1979 và 1988. Đó phải chăng là thái độ trung thành của Việt cộng đối với quan điểm duy vật trong thế giới đại đồng với những người đồng chí của họ c̣n sót lại trên thế giới này?
Và một giai đoạn thực dân nội địa của Việt Nam với mọi sự hiếp đạp, ép buộc từ phía Trung cộng bắt đầu. Đầu tiên là Đỗ Mười được chọn trở thành tổng bí thư thay thế Nguyễn Văn Linh chính v́ một vài động thái nới lỏng sự chuyên chế của đảng vào thời 1986-1988. Và một giai đoạn sắt máu trở lại ở Việt Nam v́ Đỗ Mười nổi tiếng tàn ác từ hồi c̣n ở Miền Bắc. Vốn thất học, ông này chỉ có tŕnh độ lớp Ba trường làng, sau đó làm cái nghề thất đức là đi “thiến heo” ở các làng quê ở Việt Nam rồi theo Việt cộng, rất hung hăng trong cải cách ruộng đất nên được giao nhiệm vụ đánh tư sản ở Hải pḥng, Hà nội sau năm 1954. Trong thời gian Đỗ Mười làm tổng bí thư vô số người bị thanh trừng, tù đày tùy tiện nhưng v́ kinh tế cho tự do tranh quyền đoạt lợi nên chẳng ai phản kháng, chống đối. Phải nói Đỗ Mười là hung thần của Việt cộng thời thập niên 1990 trong khi các doanh nghiệp ngoại quốc th́ chỉ lo t́m cách làm ăn buôn bán kiếm lời, không ai chú ư hay lên tiếng về t́nh trạng áp bức, vi phạm nhân quyền có hệ thống ở Việt Nam. Cũng có nguồncho rằng Đỗ Mười tham nhũng trắng trợn như khi đi thăm Hàn Quốc được một tập đoàn viễn thông tặng riêng 1 triệu đô la bỏ túi nhưng về Việt Nam không khai báo, chỉ khi ông ta bỏ ra mấy chục ngh́n đô tặng làm nhà trẻ ở vùng ông ở người ta hỏi th́ ông trả lời đó là món quà để ông làm việc từ thiện! Ngay tờ báo Nhân Dân cũng có bài đăng vụ này. Những người trẻ sẽ nghĩ ǵ khi thấy tấm gương tham nhũng của vị lănh đạo tối cao mà báo đài lề đảng luôn ca tụng là “đỉnh cao trí tuệ”?
(C̣n tiếp)
Bookmarks