Hồ Chí Minh : Con Người Trăm Mặt
Trong bốn người liên quan tới việc xuất dương, chỉ có Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh ra đi năm 1911, là tự nhận ḿnh t́m đường cứu nước. Trước đó, qua bộ máy tuyên truyền của đảng và chính Hồ viết sách để ca tụng và huyền thoại cuộc đời ḿnh, làm cho nhiều người nhẹ dạ không muốn tin cũng phải gật đầu chấp nhận, v́ biết đâu mà ṃ. Nhưng vào tháng 2-1983, hai sử gia VN, tiến
sĩ Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu, đă công bố khắp thế giới, một tài liệu vô cùng quan trọng, t́m thấy tại văn khố Pháp duy nhất nói tới giai đoạn 1911 của Nguyễn Tất Thành.
Đó là hai lá thư xin nhập học Trường Thuộc Địa (Ecole Coloniale) viết ngày 15-9-1911 và một lá viết tại New York ngày 15-12-1912 gởi Khâm sứ Trung Kỳ. Điều này chứng tỏ rằng Nguyễn Tất Thành, bỏ nước ra đi chỉ với mục đích t́m đường làm quan để giải quyết chuyện cơm ăn áo mặc của riêng ḿnh, chứ không hề có ư định cứu nước giúp dân như Trần Dân Tiên từng viết sách ca tụng.
Ngoài ra những bí mật đă được bật mí, theo đó mới biết được gần suốt cuộc đời của Hồ, hầu như sống bằng nghề t́nh báo KGB, phục vụ cho quyền lợi của đệ tam quốc tế mà thôi. Nên người ngoài cũng không lấy làm lạ trước những sự kiện của đảng Cọng Sản Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, địa vị của Hồ Chí Minh từ năm 1930 cho tới cuối năm 1944 trong đảng rất mù mịt, không chiếm được một ưu thế nào, v́ Hồ thật sự đâu có làm ǵ. Cũng theo sử liệu, lănh đạo đảng lúc đó là những tên tuổi Đặng Xuân Khu, Nguyễn văn Cừ, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng cho nên măi tới hội nghị đảng lần thứ VIII, họ Hồ vẫn chưa có một danh vị đảng. Theo Lê Quảng Ba viết trong Hồi kư Đầu Nguồn, tiếng nói của nhóm cán bộ lưu vong tại hang Pắc Pó trong thời gian 1941-1944, Hồ Chí Minh từ Nậm Quang chính thức dời về đóng trụ ở biên giới Hoa-Việt, để dạy lớp cán bộ. Lớp học kết thúc ngày 26-1-1941 nhưng đă bế tắc v́ Hồ không đủ uy tín để tổ chức được một chiến khu nào tại miền xuôi. Bởi vậy mới thấy tới ngày 22-12-1944, Vơ Nguyên Giáp mới lập được Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, tại rừng Trần Hưng Đạo, Huyện Nguyên B́nh, tỉnh Cao Bằng, chỉ được 34 người, hầu hết la dânợ Nùng, Thổ bản địa.
Nhưng Hồ là người may mắn, từ thuở nhỏ đă được các quí nhân tại Phan Thiết như Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang làm vang danh tại trường Dục Thanh. Sau đó qua Pháp, được Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền góp chữ và uy tín, đưa Bồi Ba, tức Nguyễn Tất Thành bước vào con đường chính trị, báo chí thế giới qua danh xưng của nhóm là Nguyễn Ái Quốc mà Hồ nhận riêng là của ḿnh.
Rồi từ hang Pắc Pó trở lại Tàu, may mắn bị quân Trung Hoa Quốc Gia bắt. Từ đó qua bảo đăm của Nguyễn Hải Thần cùng Vũ Hồng Khanh trong Việt Nam Quốc Dân Đảng, với chủ tướng Trương Phát Khuê, họ Hồ chính thức sắm thêm vai gián điệp t́nh báo cho quân đội Đồng Minh tại Đệ Tứ Chiến Khu Hoa Nam, sau khi được trả tự do ngày 16-3-1945, theo như tài liệu của Michael Maclear viết trong ‘The Ten Thousand Day War Việt Nam (1945-1975), xuất bản tại New York năm 1981.
Cũng từ đó, qua vai tṛ điệp viên t́nh báo quốc tế thuộc các cơ quan KGB, Trung Cộng, Trung Hoa Dân Quốc, rồi do Charles Fenn giới thiệu, lại trở thành điệp viên chính thức của OSS tức là Office of Strategic Services, tiền thân của cơ quan Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ ( CIA), làm việc dưới quyền Thiếu Tá Mỹ Archimedes Patti, đặc trách chiến trường Đông Dương. Nhờ đó, Hồ bước qua hết các xác chết cản đường trong đảng, để mùa thu tháng chín 1945, nghênh ngang vơng lọng về Hà Nội nhận chức và đọc diễn văn. Đó là tất cả quá tŕnh xuất dương cứu nước của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành, một huyền thoại (?)mà bao chục năm qua, thiên hạ vẫn không ngớt viết, nói về cuộc đời của một tên quốc tặc ‘ trước sau, nhỏ lớn ‘ đă và đang cùng với đồng bọn ‘ rước voi Nga-Tàu ‘ về dầy xéo cướp chiếm công khai non nước Việt, mà hiện nay cả thế giới, ai cũng đều thấy rơ.
Từ câu chuyện nhục nhă trên, nhiều người đă thở dài khi nghĩ rằng, phải chi Nguyễn Tất Thành lúc đó, được thực dân Pháp nhận vào trường Thuộc Địa, th́ với bản chất bất lương như vậy, cùng lắm Hồ chỉ là một tham quan Việt gian làm tay sai cho Pháp mà thôi. Nhờ đó đất nước và dân tộc Việt Nam ngày nay có thể đă thoát được nổi trường hận cùng khốn tận tuyệt dưới bàn tay tàn độc cũa một Hồ Chí Minh làm tay sai cho các thế lực quốc tế, từ Liên Xô, Trung Cộng, Pháp, Tàu Trắng và Hoa Kỳ. Năm 1932 danh xưng Nguyễn Ái Quốc được khai tử trong nhà tù Hồng Kông, để thay thế vào cái tên Hồ Chí Minh (với công luận : đó là một người Tàu được nhập vai HCN thật đă chết) . Chuyện thật giả, đúng sai cho tới giờ này chỉ có trời mới biết, chứ mặt thật th́ ai cũng chỉ dựa vào sách báo để ghi lại mà thôi.
1- NGUYỄN TẤT THÀNH, CON NGƯỜI TRĂM MẶT ::
Nhiều năm sau ngày ‘bác’ lên ngai Chủ Tịch nhà nước, người ta mới biết được cái tên Hồ Chí Minh, chỉ là một trong hằng trăm tên của Nguyễn Sinh Cung hay anh thanh niên thầy giáo Nguyễn Tất Thành, đă có một thời gian dạy học tại trường Dục Thanh, Phan Thiết, trước khi rời Bến Nhà Rồng ở Sài G̣n, qua Pháp t́m đường cứu nước. Theo các sử gia cũng như các nhà biên khảo nghiên cứu trong và ngoài nước, th́ cho tới nay vẫn chưa ai biết hết tất cả các bí danh của Nguyễn Tất Thành. Trước đó, căn cứ vào tài liệu của Liên Xô, th́ ‘bác’ có chừng 19 tên. Năm 1982, nhà biên khảo Huỳnh kim Khánh nói ‘người’ có 32 bí danh. Một tác giả Việt Nam khác kiểm kê được 76 tên của Hồ. Nói chung, không riêng ǵ tên họ, mà cả ngày sinh và tên cúng cơm cũng vô cùng bí mật, không biết đâu mà ṃ. Quả thật đây là một con người có nhiều tên nhất trên trái đất, từ cổ tới kim, đông sang tây. Do không biết chính xác tên khai sinh khi lọt ḷng mẹ là Côn, Cuông hay Cung, v́ vậy ta thấy sách vở đă chọn cái tên Nguyễn Tất Thành như là một điểm tựa, nhất là sau năm 1983, ba cái đơn của ‘bác’ bị phát giác.
Trong số 100 tên, có lẽ cái tên ‘Nguyễn Ái Quốc’ xuất hiện lần đầu tiên tại Paris là sôi động và đă gây ra không biết bao nhiêu tranh căi, từ ấy cho đến bây giờ, vẫn chưa chấm dứt. Ai cũng biết, nói láo và bịa chuyện là bệnh nan y của người cọng sản, nhất là trong rừng sử sách của đảng, nhằm thần thánh hóa lănh tụ ‘Hồ Chí Minh’. Gạt bỏ những huyền thoại của đảng viết về Bồi Ba, theo các nhà viết sử cho biết tới nay, họ vẫn c̣n rất mù mờ về giai đoạn của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1919, ngoài ba chi tiết công khai: đó là Thành làm công trên tàu Latouche-Tréville của hăng Đầu Ngựa, sống tại nước Anh thời đệ nhất thế chiến (1914-1918) và có mặt tại Pháp qua cái tên Nguyễn Ái Quốc trên . Người đă vậy, tên cũng vậy, do đó các nhà viết sử cận đại, cũng đành vậy, nghĩa là cứ cho rằng ngày 19-5 là ngày sinh của Nguyễn Tất Thành. Có như vậy, hằng năm thiên hạ mới có dịp ‘ đào mồ cuốc mă tên đại phản quốc ‘ để rửa hận cho quốc dân VN, nhất là trong giai đoạn ‘ quốc phá gia vong ‘ hiện tại, ngụy quyền cộng sản Hà Nội qua Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng .. đă công khai bán dân tộc và đất nước Việt cho Tàu đỏ.
+ Nguyễn Ái Quốc và nhóm Trinh-Trường-Truyền :
Trước khi Nguyễn Tất Thành xuất dương, th́ Phan Chu Trinh và con là Phan Chu Dật mới 8 tuổi, đă tới Pháp ngày 1-4-1911 với trợ cấp của Chính Phủ Đông Dương. Từ năm 1912, Phan Chu Trinh kết thân với Phan văn Trường đang theo học Tiến Sĩ Luật tại Paris, nên dọn về ngôi biệt thự của Trường tại số 6 đường Villa des Gobellins. Từ năm 1912, Hồ đă bắt được liên lạc với Phan Chu Trinh tại Pháp qua thư từ, v́ hai người đă quen biết nhau từ ngày c̣n ở Việt Nam, nên Thành vẫn gọi Trinh là ‘Hy Mă Nghị Bá Đại Nhân’.
Trong lúc đó tại Việt Nam từ năm 1911-1919, có nhiều biến cố thật quan trọng đă xảy ra. Trước hết là Đề Thám, lănh tụ cuối cùng trong phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi xướng xuất năm 1885, đă bị Lương Tam Kỳ giết chết ngày 10-2-1913. Cũng năm này, vào ngày 17-1 tại Huế, tên Khâm Sứ Trung Kỳ là Georger Mahé đă khai quật lăng vua Tự Đức để cướp vàng bạc châu báu. Sự việc được báo chí như tờ Le Courrier d’ Haiphong và dư luận cả nước chống đối và nguyền rủa dữ dội bọn thực dân và đám quan lại Việt Nam bất lương vô liêm sĩ. Ngày 12-4, tại Thái B́nh, các đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu và Cường Để, đă ám sát tên Tuần Phủ chó săn Nguyễn Duy Hàn.
Những biến cố bi thảm trên, đă khiến cho Phan Chu Trinh bên Pháp cũng lên tiếng chỉ trích thực dân, kể luôn Toàn Quyền Đông Dương là Sarraut , người đang cưu mang giúp đở cha con ông. Tại Trung Hoa, v́ nhận tiền của Pháp nên Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Long Tế Quang đă bắt giam Phan Bội Châu và Mai Lăo Bạng từ năm 1914 tới năm 1917 mới thả. V́ những biến cố đă xảy ra, ngay khi Đức tuyên chiến với Pháp ngày 3-8-1914, nhà cầm quyền Ba Lê vin vào đó để bắt giữ và phân tán những yếu nhân trong Hội Ái Quốc Đông Dương, do Trinh và Trường thành lập. Ngày 15-9-1914, Pháp bắt giam Phan Chu Trinh và Phan văn Trường tại ngục Santé măi tới tháng 2-1916 mới phóng thích. Từ đó người Pháp cũng cắt đứt trợ cấp cho cha con ông, khiến lâm vào cảnh nghèo đói, nên cả hai mắc phải bệnh lao phổi nặng. Tháng 3-1921, Dật chết tại Bắc Kỳ.
Từ đầu năm 1919, đại chiến lần thứ 1 đă kết thúc trong sự bại trận của phe trục Đức, Áo, Hung, Thổ và Bảo Gia Lợi. Kinh đô Paris của Pháp trở thành nơi tụ hội của các thế lực quốc tế. Tổng Thống Hoa Kỳ là Woodrow Wilson đưa ra chủ thuyết ‘Tự Tri’ và đề xuất việc thành lập Hội Quốc Liên, rất được các nước nhược tiểu ủng hộ.
Tại Nga, do Nga Hoàng Nicholas II (1894-1917), đứng về phe Đồng Minh chống Đức, nên nước này đă tích cực yểm trợ Nikolai V.I. Lenin (1870-1924) lật đổ vương triều. Ngày 7-11-1917, Lenin và Leon Trotsky đứng chung thành lập chế độ Bolshevik, hay c̣n gọi là cuộc Cách Mạng tháng mười, mở màn cho cảnh núi sông xương máu trong ḍng lịch sử nhân loại, có cả Việt Nam, từ đó cho tới nay vẫn chưa chấm dứt. Tháng 3-1919 Lenin lập Đệ Tam Quốc Tế Cọng Sản để xuất cảng chủ nghĩa vô thần, vô sản khắp năm châu.
Đây là miếng mồi béo bở mà Lenin, trùm đỏ vừa mới nổi lên, dẫn dụ các dân tộc bị trị khắp Á Châu từ Trung Đông, Ấn Độ, Trung Á, tới Trung Hoa và Đông Dương, lũ lượt kéo về thánh địa Viện Thợ Thuyền Đông Dương tại Mạc Tư Khoa, để học tập con đường cách mạng vô sản chuyên chính, đánh gục tư bản, tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đàng xă hội chủ nghĩa. Trong nước, nhiều cuộc bạo động chống Pháp kháp nước, quan trọng nhất là vụ khởi nghĩa của vua Duy Tân cùng các chí sĩ Thái Phiên, Trần Cao Vân tại Huế ngày 3/5/1916. Sau đó là cuộc biểu t́nh của Phan Xích Long tại Sài G̣n tháng 11-1916 và đặc biệt nhất là sự chiếm đóng tỉnh Thái Nguyên của Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến, Trần Trung Lập vào năm 1917 dù thất bại, nhưng vẫn mang nhiều khích lệ tới tuyệt đại dân chúng Việt Nam đang sống lầm than khổ ải dưới ách nô lệ của giặc Pháp.
Trong giai đoạn trăm hoa đua nở, Nguyễn Tất Thành bỗng nổi lên như cồn trong giới cách mạng vô sản Pháp, qua bản ‘thỉnh nguyện thư đ̣i nhân quyền’ năm 1919, kư tên Nguyễn Ái Quốc, mà công án tới nay đă quy cho Hồ là cướp công của ba nhân vật đă sáng tạo: Phan Chu Trinh, Phan văn Trường và Nguyễn Thế Truyền. Nội dung bản thỉnh nguyện gồm 8 điểm, do một nhóm người An Nam yêu nước chung viết, được tờ báo L’Humanité của đảng Xă Hội Pháp, đăng ngày 18-6-1919 với dụng ư chính trị, dù thực chất chẳng có ǵ đặc biệt, nếu đem so sánh với sự đ̣i hỏi người Pháp phải trao trả độc lập hay ít nhất để Việt Nam tự trị của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để sống lưu vong và Vua Duy Tân đang bị cầm giam ngoài hải đảo.
Dù ǵ chăng nữa th́ đây cũng là một cơ hội vàng ṛng với Hồ, v́ ít nhiều tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc, đại diện cho nhóm người An Nam yêu nước trên đất Pháp, cũng được nhóm người Việt qua Tây đánh Đức, hồi hương mang về phổ biến trong dư luận lúc đó. Mặt khác, qua chiến thắng của đảng Bolchevik Nga, khiến đảng xă hội Pháp hầu như nghiêng về Đệ Tam Quốc Tế, vô t́nh giúp anh thanh niên Nguyễn Tất Thành lúc đó, đang thất nghiệp phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của Phan Chu Trinh, bỗng được các chính khách tả phái Pháp chú ư v́ tính chất vô sản chuyên chính, nên đă giúp Hồ thoát cảnh chết đói, bằng cách cử ‘bác’ tới học ở Viện Thợ Thuyền Đông Phương năm 1923. Từ đó Hồ qua bí danh Nguyễn Ái Quốc chính thức là một đảng viên của đệ tam quốc tế cộng sản.
+ Vụ Án Nguyễn Ái Quốc :
Về vụ án lịch sử Nguyễn Tất Thành biếm xưng tên gọi của nhóm Nguyễn Ái Quốc, khi Hồ sống tại Pháp từ 1911-1923, cũng đă được tranh căi sôi nổi giữa cơ quan tuyên truyền của đảng và nguồn dư luận trong cũng như ngoài nưóc. Đọc ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh-tiểu sử và sự nghiệp’ do đảng ấn hành, tuyên bố là tất cả những bài viết và tranh vẽ trên báo Le Paria số 1, đều của Nguyễn Ái Quốc sáng tạo.
Ta biết tờ Le Paria hay ‘Người Cùng Khổ’ do Hội Liên Hiệp Thuộc Địa chủ trương, từ số 1 đến số 12 đều do J.B Meyrat làm quản lư. Các số khác từ số 13 về sau do G.Sarotte và Léopol Mesnard chịu trách nhiệm, đặc biệt số 1 ra ngày 1-4-1922 không có một bài nào của Nguyễn Ái Quốc. Vậy mà Ban Nghiên Cứu Lịch Sử của Trung Ương Đảng VC, dám tuyên bố ‘bác’, tức là đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm quản lư tờ báo này. Ngoài ra cũng trên tờ Le Paria, có nhiều bài viết hay tranh vẽ kư tên Nguyễn Le Patriote, là biệt danh của Nguyễn Thế Truyền và các sinh viên trong Hội Ái Quốc An Nam, thế nhưng Đảng vẫn tỉnh bơ nhận bừa đó là sản phẩm của Nguyễn Ái Quốc.
Riềng bài viết ‘Lên Án Chủ Nghĩa Thực Dân’ được đánh giá là một tài liệu tranh đấu trác tuyệt về nội dung cũng như h́nh thức. Theo nhận xét, th́ lúc đó các nhân vật đấu tranh sống ở Paris, chỉ có Luật Sư Tiến Sĩ Phan văn Trường và Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền mới có đủ khả năng Pháp ngữ cũng như tư tưởng nhận thức để viết được một bài văn tranh đấu nẩy lửa hùng biện như vậy. C̣n Nguyễn Tất Thành mặc dù có sống giang hồ khắp nơi từ 1911-1922 nhưng dù sao tŕnh độ học vấn cũng giới hạn, chỉ viết ba lá đơn xin nhập học mà c̣n phạm nhiều lỗi chánh tả và văn phạm, th́ không thể nào là tác giả của kiệt tác trên. Phương chi, phóng đại vốn là nghề của đảng, tâng bốc để bác vang danh với đời lại càng thêm thần thông quảng đại hơn.
Bởi vậy ngày nay, trước những khám phá về việc hoàn toàn bịa đặt một Nguyễn Tất Thành, đại thiên tài, từ một anh thanh niên giáo viên quèn tại một trường làng mang tên Dục Thanh tói nổi nhiều người sinh đẽ tại chỗ cũng không biết đó là cái quỹ quái ǵ, một bồi Ba trên tàu viễn dương, đùng một cái nhảy phóc lên làm ông quản lư một tờ báo nổi tiếng, phát hành 5000 số một kỳ, lại c̣n kiêm thêm họa sĩ và nhà văn... cho tới khi ‘bác’ sang Nga và Tàu từ năm 1923, vậy mà vẫn cứ làm quản lư và viết bài cho báo này tại Pháp cho tới khi báo đ́nh bản.
Tất cả đều do Trần Dân Tiên dựng đứng câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc, để thần thánh hóa Hồ Chí Minh, mà cả ba tên đều là Nguyễn Tất Thành. Sự thật ngày nay cho biết, Nguyễn Ái Quốc là tên gọi chung của nhóm người viết trên tờ Người Cùng Khổ (Le Paria), gồm có Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và trong suốt 38 số báo ấn hành, không có một bài nào hay tranh vẽ của Nguyễn Tất Thành nhưng chàng đă láu cá nhận vơ cái tên chung của nhóm là Nguyễn Ái Quốc. Sau đó được cơ quan tuyên truyền của đảng CS hợp thức hoá ‘sáng lập và linh hồn hay quản lư báo’.
Chưa hết, căn cứ theo sử liệu ta biết từ năm 1923-1946, Hồ đă rời Paris đi Mạc Tư Khoa, Tàu. TRong thời gian đó, vào tháng 1/1926 tại Paris đă xuất hiện tờ Việt Nam Hồn bằng chữ quốc ngữ, thỉnh thoảng có các bài bằng Hán và Pháp Ngữ. Từ tháng 9-1929 lại đổi tên là Phục Quốc, do cơ quan ngôn luận của dảng Việt Nam Độc Lập tại Pháp ấn hành. Trong một vài số báo, có bài viết kư tên Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện lịch sử minh bạch như vậy mà đảng vẫn thản nhiên viết là năm 1923, ‘bác’ tại Pháp trong khi thành lập tờ ‘Người Cùng khổ’ đă kiêm nhiệm thêm tờ ‘Việt Nam Hồn’. Những sự thật th́ không ai có thể thêm bớt, bóp méo hay xuyên tạc được. Cho nên những lố lăng về huyền thoại Hồ Chí Minh, ngày nay rốt cục đă trở thành những trận cười trong dân gian, dù nó tồn tại hay bị sóng đời vùi dập.
+ Nguyễn Ái Quốc, điệp viên ngoại hạng của cọng sản quốc tế :
Ngày 15-10-1923, Nguyễn Ái Quốc đại diện cho đảng CS Pháp, tham dự Đại Hội Nông Dân Quốc Tế, tổ chức tại Mạc Tư Khoa. Cũng kể từ đó, Hồ thoát xác thành một con người cọng sản quốc tế, chỉ biết phục vụ cho nền vô sản chuyên chính mà thôi. Để thưởng công, ngoài sự cho báo đảng đánh bóng tên tuổi, chính phủ Liên Xô c̣n cho Quốc ở lại phục vụ trong thánh địa Đông Phương, một tổ chức mặt nổi là của Quốc tế Cọng Sản nhưng bên trong được Cơ Quan T́nh Báo Nga (Intercenter Mainburo) bảo trợ. Theo tổ chức, Ban Phương Đông lúc đó gồm ba khu vực: Miền Tây Trung Hoa, trụ sở tại Chita thuộc Mông Cổ. Miền Viễn Đông có trụ sở tại Hải Sâm Uy, phụ trách các nước Măn Châu, Cao Ly, Nhật Bản và Khu Đông Nam trụ sở tại Thượng Hải, gồm miền Hoa Nam và các nước Đông Nam Á đang là thuộc địa. Ngày 22-1-1924, Lénin chết, Nguyễn Ái Quốc đă làm thơ đăng trên tờ Pravda, khóc thương nức nở và thề trước linh cửu cha già quốc tế, là sẽ biến đau thương thành hành động. Hăy đọc bài thơ của Tố Hửu khóc cha non Staline, để biết được nổi bi thương cùng tận của ‘ bác ‘ lúc đó đối với cha già LêNin :
Bookmarks