Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đă bê nguyên cái mô h́nh “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xă hội để trở thành công dân của nước xă hội chủ nghĩa. Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đă giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo.”
Sau ngày 30-4-1975, lũ Việt gian Cộng Sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đă giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia trong 150 “trại cải tạo” của chúng trên toàn lănh thổ Việt Nam.
“Học Tập Cải Tạo” Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam
Để xây dựng xă hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đă tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi v́ chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đă có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xă hội Miền Bắc đă bị “cào bằng,” không c̣n giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đă bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đă chỉ thị cho cái quốc hội bù nh́n “ban hành” một nghị quyết về “học tập cải tạo.” Đây là một mẻ lưới “vĩ đại” cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xă hội chủ nghĩa của y. Các trại “cải tạo” của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại “lao cải” (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . . Theo lệnh của Hồ, quốc hội Cộng Sản đă “ban hành” một Nghị Quyết (Resolution) về “học tập cải tạo” mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đă “đẻ” ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây:
1. Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
2. Tất cả những nhân vật ṇng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.
3. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.
4. Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đă bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.
Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà Cộng Sản gọi là “những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng.” (obstinate counter-revolutionary elements). Thời gian “cải tạo” được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa “tiến bộ” th́ “cải tạo” thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào “học tập tốt, cải tạo tốt” th́ về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi “cải tạo” là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in reeducation camps …)
“Học Tập Cải Tạo” tại Miền Nam Việt Nam
Cộng Sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đă tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đ́nh có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền th́ phải đi “cải tạo” và những thành phần c̣n lại trong gia đ́nh th́ phải đi những “khu kinh tế mới;” cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch “tắm máu trắng” đă được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian Cộng Sản.
Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước Cộng Sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi “học tập cải tạo,” thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dă man, rừng rú này, Cộng Sản đă phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:
Tội ác thứ 1 -- Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế (Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)
Những người bị Cộng Sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị Cộng Sản trả thù v́ lư do chống cộng tức lư do chính trị. Cộng Sản không thể mang những người này – công dân của một một quốc gia độc lập đă bị Việt gian Cộng Sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (aggression) một cách phi pháp – ra toà án để kết tội. Cộng Sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra ṭa án xét xử th́ những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử h́nh; nhưng v́ chính sách “khoan hồng” và sự “chiếu cố” của đảng nên những người này được đưa đi “học tập cải tạo” thay v́ đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng Cộng Sản không có một chút ǵ gọi là công lư của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.
Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người.
Tội ác thứ 2 – Tội tra tấn, hành hạ (Torture)
Đối với Cộng Sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đă sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đ̣n thù tiêu biểu:
a. Hành hạ bằng cách bỏ đói -- Đây là một đ̣n thù thâm độc nhằm tiêu diệt ư chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không c̣n nghĩ đến chuyện ǵ khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là “quy ra gạo.” Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đă có rất nhiều tù nhân chết v́ đói, v́ suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù v́ “lao động” nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn ǵ về cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai ḿ luộc! Nghe vậy, có một anh tù, v́ thương bạn, đă mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai ḿ do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn th́ anh bạn đă chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa “thu hoạch” ngô và khoai ḿ do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai ḿ luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai ḿ th́ được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. C̣n thịt th́ chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật “Bác”của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo hay thịt trâu.
Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của Cộng Sản. Ngoài việc huỷ diệt ư chí của người tù, sự bỏ đói c̣n nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không c̣n sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đă có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất đau ḷng chỉ v́ đói, v́ suy dinh dưỡng, v́ thiếu thuốc men và không được chữa trị…
b. Hành hạ thể xác – Cộng Sản vẽ ra khẩu hiệu “lao động là vinh quang.” Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đă thiếu ăn, kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:
Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống c̣n 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết v́ sức nóng và chết v́ rét.
Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống c̣n 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ c̣n da bọc xương, đi không nổi phải ḅ.
Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.
Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm “butterfly style or contorted position” bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau.
Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.
Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng Sản c̣n nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…
c. Tra tấn tinh thần -- Mục đích của Cộng Sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây:
* Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) – Để mở đầu kế hoạch “cải tạo,” Cộng Sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là “thâu hoạch” để nộp cho chúng. Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai ṿi: một ṿi hút máu nhân dân Mỹ và một ṿi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh. Dưới sự lănh đạo của đảng quang vinh, ta đă đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài “lao động là vinh quang” để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.
Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đă bị Cộng Sản u mê hoá chứ không có tác dụng ǵ đối với những người đă sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đă làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đă có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đă bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đ̣n khủng bố tinh thần phủ đầu của Cộng Sản theo kiểu “sát nhất nhân, vạn nhân cụ.”
* Tự phê (Confession) – Tiếp theo phần “học tập chính trị” là phần “tự phê.” Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi c̣n nhỏ cho tới khi vào tù; phải kê khai thành phần giai cấp của ḍng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội ḿnh có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đă chuyển thư tín giúp cho bộ máy ḱm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uư trong quân đội bị kết tội là đă nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y th́ bị kết tội là đă chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng “trong ḷng dân tộc.” Trong suốt tḥi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê; phải moi óc t́m và “phịa” ra những “tội ác” để tự gán và kết tội ḿnh, và nếu bản viết lần sau thiếu vài “tội ác” so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn c̣n ngoan cố và thời gian học tập sẽ c̣n lâu dài.
“Tự phê” một đ̣n tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đă có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đă tự vẫn…
Bookmarks