CHÍNH SÁCH GIAN TRÁ VÀ ĐƯỜNG LỐI BẠO LỰC CỦA CỘNG SẢN
TRONG VIỆC ĐÀN ÁP CÁC ĐẢNG QUỐC GIA.
Nguyễn Đức Cung
Trong cuốn hồi kư nổi tiếng có tên Một cơn gió bụi, sử gia Trần Trọng Kim đă viết như sau về chính sách của Việt Minh đối với các chính đảng quốc gia:
“Cái thủ đoạn của Việt Minh là dùng mọi cách bạo ngược, tàn nhẫn, giả dối, lừa đảo để cho được việc trong một lúc. Ngay như họ đối với Việt nam Quốc dân đảng nay nói là đoàn kết, mai nói đoàn kết, nhưng họ vẫn đánh úp, vẫn bao vây cho tuyệt lương thực. Khi họ đánh được , th́ giết phá, đánh không được th́ lại đoàn kết, rồi cách ngày lại đánh phá. Dân t́nh thấy thế thật là ngao ngán chán nản, nhưng chỉ ngấm ngầm trong bụng mà không dám nói ra. Nên dân gian người ta thường có câu “nói như Vẹm”. Vẹm là do hai chữ Việt Minh viết tắt V.M., đọc nhanh mà thành ra.” 1
Ng̣i bút của sử gia họ Trần viết ra cách đây trên nửa thế kỷ nhận định về thủ đoạn của Cộng Sản Việt Nam thật chính xác với bản chất và chân tướng của Hồ Chí Minh cùng bọn đàn em cầm quyền dưới chế độ CS. Thật vậy, từ năm 1945 cho đến ngày nay, chính quyền Cộng Sản vẫn sử dụng chính sách gian trá và đường lối bạo lực đối với những ai bất đồng chính kiến với họ với mục đích duy nhất là nắm chắc được quyền hành trong tay không chia chác cho bất cứ một ai. Bản chất gian trá và hành động bạo lực của họ thể hiện qua việc ngụy tạo hai biến cố phố Ôn Như Hầu tại Hà Nội và vụ cầu Chiêm Sơn tại Quảng Nam năm 1946 mà mục đích lừa bịp dư luận, bôi đen đối thủ chính trị nhằm loại đối phương ra ngoài đấu trường chính trị, tiêu diệt các chính đảng quốc gia trong Mặt Trận Quốc Dân Đảng hay Quốc Dân Đảng Việt Nam, một kết hợp giữa ba chính đảng gồm Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh, Đại Việt Dân Chính Đảng của Nguyễn Tường Tam, và Việt Nam Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh rồi tiến đến tiêu diệt các bộ phận của tổ chức chính trị mới này khắp nơi trên toàn quốc. Từ đó đến nay, nhiều tài liệu của Cộng Sản đă cố t́nh xuyên tạc sự thật về hai biến cố nói trên. Bài viết của chúng tôi đưa ra một cái nh́n tổng hợp qua một số tư liệu khả tín nhằm phản biện lại luận điệu vu cáo bẩn thỉu của chế độ Cộng Sản mong trả sự thật về cho chân lư lịch sử. Nhưng trước khi đi sâu vào việc tŕnh bày sự thật về hai biến cố đó, thiết tưởng cần có một cái nh́n quán xuyến về quá tŕnh tranh chấp chính trị liên hệ tới Việt Nam trước khi thế chiến II kết thúc cùng sự h́nh thành Mặt Trận Quốc Dân Đảng thể hiện sức đấu tranh của các chính đảng quốc gia yêu nước giữa một t́nh thế vô cùng khó khăn và phức tạp trong giai đoạn lịch sử 1945-46.
1.- Vụ án mở đầu cho các tranh chấp chính trị Quốc-Cộng trước Thế chiến II.
Cuối năm 1924, nhận nhiệm vụ của Đảng Cộng Sản Liên Xô trong mục tiêu bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản qua Châu Á, Hồ Chí Minh được gửi sang Trung Hoa làm việc cho hăng thông tấn Xô-Viết Rosta dưới sự điều động của Mikhail Borodin, trưởng đoàn cố vấn Comintern lúc bấy giờ đang cộng tác với Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tôn Dật Tiên. Nhiều tư liệu nói về sự có mặt của Nguyễn Ái Quốc tại Trung Hoa dưới bí danh Lư Thụy, nhưng các nhiệm vụ bên ngoài của ông th́ khác nhau. Mục tiêu của Lư Thụy là chiếm đoạt các tổ chức của các nhà cách mạng Việt Nam đă sang Tầu trước đây để làm vốn liếng chính trị, loại trừ ảnh hưởng của các đối thủ quốc gia mà h́nh ảnh trước mắt Thụy là cụ Phan Bội Châu để giải tỏa các trở lực trong việc bành trướng chủ nghĩa cộng sản quốc tế trên vùng đất mới. Vả chăng mặc dù cụ Phan là bạn của thân phụ ḿnh là Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, nhưng Thụy cũng không cần lưu tâm đến vấn đề đó.
Trong cuốn Ba nhà chí sĩ họ Phan, tác giả Đào Văn Hội cho biết nội dung việc Lư Thụy và Lâm Đức Thụ (tức Nguyễn Công Viễn) bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp như sau:
“Sau khi cụ Phan đi Hàng-châu rồi, Lâm-đức-Thụ và Lư-Thụy triệu tập một kỳ hội nghị có hết thảy các anh em cách-mạng có mặt ở Quảng-châu, trừ ra cụ Nguyễn-hải-Thần, để trưng cầu ư kiến, về nhiều vấn đề quan trọng, nhứt là vấn-đề tài-chánh.
Không ai giải-quyết được vấn-dề nầy, Lâm-đức-Thụ bèn đưa ra một đề-nghị là “phải hy-sinh một người trong anh em, hoặc về danh-tiếng hay tánh-mạng, miễn là đạt được mục-đích có lợi cho công-cuộc cách-mạng”.
Hội-nghị tán-thành nguyên-tắc ấy rồi, Lâm nói tiếp:
“Xét ra người mà ta có thể đem ra làm vật hy-sinh ấy là cụ Phan-bội-Châu. Tại sao tôi lại chọn cụ Phan mà không chọn cụ Mai-Sơn hoặc cụ Hải-Thần? Là v́ tôi đă từng phen ướm hỏi cụ Phan nếu gặp trường-hợp phải hy-sinh cụ để làm lợi cho cách-mạng th́ cụ có chịu không? Cụ đă khẳng-khái trả lời tôi thế nầy: “Tôi bôn-ba hải-ngoại, khi Hương-cảng, lúc Hoành-tân, chốc đă ngoài 20 năm rồi mà rốt cuộc chỉ vấp phải thất bại hoài, thêm phần tuổi đă cao, gối đă ṃn, nếu có dịp được hy-sinh cho tổ-quốc th́ dẫu chết tôi cũng vui ḷng!”
“Hai nữa, cụ là tượng-trưng của cách-mạng tiếng-tăm đă lừng-lẫy trong nước cũng như trên trường quốc-tế, thực dân e-dè và ước muốn cụ lắm. Họ cho ràng Cụ là linh-hồn của đám Đông-du, nếu bắt được cụ, tức là phong-trào tan-ră.
“Vả lại, cụ đă gần đất xa trời, ngoài việc viết báo kiếm ăn, năng-lực bất quá cũng chẳng giúp ích ǵ cho công-cuộc vận-dộng cách-mạng cho bọn ta được mấy.
“Vậy tôi mạnh bạo đề nghị với anh em là bắt cụ nộp cho lănh-sự Pháp, tất-nhiên họ phải hậu-tạ ta một món tiền lớn. Tiền ấy ta sẽ dùng vào công việc vận-động cho đoàn-thể ở nước nhà.
“Đem cụ Phan nộp cho Pháp, ta sẽ thâu được hai cái lợi:
“Một là sau khi giải cụ về Hà-nội, tất nhiên thực-dân lập Hội-đồng đề-h́nh xét xử, cụ sẽ trổ hết tài hùng-biện mà biện hộ cho ḿnh. Các báo trong nước sẽ viết những bài tường-thuật và tinh-thần cách-mạng nhờ đó mà lan- tràn và phổ-cập trong hết các từng lớp dân chúng xă-hội V.N.
“Hai nữa là sẵn món tiền thưởng trên kia, ta sẽ phái anh em về nước mà tổ-chức các chi-bộ rồi đưa thanh-niên ra huấn-luyện cho nhiều th́ cộng-việc của ta mau có kết quả.”
Hội nghị bàn luận sôi-nổi, sau cùng, mấy lư-lẽ của Lâm làm xiêu ḷng cử-tọa và Lâm được hội nghị ủy cho toàn quyền hành động.” 2
Mấy hôm sau, người ta theo dơi và thấy Lâm Đức Thụ liên lạc với Phan Vị, một nhân viên cao cấp trong ṭa lănh sự Pháp ở Hương-Cảng một cách rất thân mật.
Trong cuốn Tự Phán, tập hồi kư cách mạng của ḿnh, cụ Phan Bội Châu kể rơ chuyện cụ bị mật thám Pháp bắt như sau:
“Ngày 11 tháng 5 năm Ất Sửu (1925) tôi gấp lên Thượng Hải, tính làm xong việc gửi bạc đi Béc-lanh th́ tức khắc xuống thuyền đi Quảng Đông. Bởi v́ thuyền Thượng Hải đến Quảng Đông, chỉ 5 ngày. Khi tôi ở Hàng Châu xuất phát, có mang theo bạc Tàu 400$ tức là số bạc gửi cho ông Trần. Ai dè lúc tôi ra đi mà thời giờ hành động của tôi đă có kẻ nhất nhất mật báo với người Pháp.
12 g chính trưa ngày 11 tháng 5 âm lịch, xe lửa Hàng Châu đi đến Bắc trạm tôi v́ nóng gửi bạc cho ông Trần, nên gởi đồ hành lư ở nhà chứa đồ, chỉ nách một cái ca-bâng (va li nhỏ) đi ra cửa ga th́ thấy có một cỗ xe khá lịch sự, đứng xung quanh có bốn người Tây phương, tôi không nhận ra được là người Pháp. Bởi v́ xứ Thượng Hải người Tây phương nước nào cũng có, khách sang trọng biết chừng nào mà kể; đem xe hơi rước khách cũng là thông lệ các lữ quán to. Tôi có biết đâu xe hơi này là do đồ của kẻ cướp bắt cóc người đâu? Tôi mới ra khỏi cửa ga vài bước, th́ thấy có một người Tây hung dữ lại trước mặt tôi, dùng tiếng quan thoại mà nói với tôi rằng: “Trưa cơ xế hấn hào, xêng xiên sân sang xê”, tôi đương cự rằng: “Úộ bú giảu”. Th́nh ĺnh ba người tây nữa ở sau xe, hết sức đẩy tôi lên xe, máy xe tức khắc vặn th́ tôi đă vào tô giới nước Pháp! Xe chạy đến bờ bể binh thuyền nước Pháp đă chực sẵn ở đó rồi! Tôi thành ra người tù ở trong tàu binh.” 3
Khoảng tháng 7 năm 1925, một chiến hạm Pháp từ Thượng Hải chở cụ Phan đến Hương cảng rồi chuyển sang tàu Angkor của hăng Nhà Rồng đưa về Hải Pḥng.
Nhà nghiên cứu sử học Trung hoa, Tưởng Vĩnh Kính, trong tác phẩm Hồ Chí Minh tại Trung Quốc cũng đă để nhiều công sức nghiên cứu về những tranh chấp chính trị của Lư Thụy trong thời gian sống tại Trung Hoa, đă có những ghi nhận một số kết quả về tài chánh qua việc cụ Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải như sau:
“Sự việc xong, hai người chia đôi số tiền một trăm ngàn đồng đó. Ông Hồ đă dùng phần tiền của ông để tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội; c̣n Thụ th́ dùng tiền đó để tiêu phí trong các hộp đêm tại Hương-cảng. Và từ đó, Hồ, Thụ, hai người c̣n tiếp tục hợp tác trong nhiều năm nữa để bán các đồng chí của cụ Phan. Nguyên v́ lúc bấy giờ, các thanh niên Việt Nam trốn sang Quảng-châu để xin vào học trường vơ bị Hoàng Phố rất đông. Những ai chịu theo Hồ gia nhập Đồng Chí Hội, th́ sau khi học xong, sẽ được bảo đảm bí mật trở về nước an toàn; c̣n những ai vẫn trung thành với tổ chức của cụ Phan, khi về đến biên giới Hoa-Việt, tức th́ bị mật thám Pháp bắt ngay. Những người này sở dĩ bị bắt, v́ trước đó Hồ đă báo cho Thụ ở Hương-cảng biết, Thụ đem ảnh của họ nộp cho lănh sự Pháp ở Hương-cảng. Sau khi họ bị bắt, Hồ và Thụ lại được chia nhau tiền thưởng.” 4
Trong mối liên quan tới việc bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp có ba người được nêu đích danh đó là Hồ Chí Minh, Lâm Đức Thụ và Nguyễn Thượng Huyền, cháu gọi cụ Nguyễn Thượng Hiền bằng chú ruột. Sử gia William J. Duiker trong tác phẩm Ho Chi Minh, a life viết rằng chính Phan Bội Châu cho biết kẻ chỉ điểm cho Pháp bắt ḿnh là Nguyễn Thượng Huyền, nhưng theo sự phân tích của Minh Vơ qua những ḍng trong Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu chỉ cho biết được nghe nói như thế và tin theo chứ không hề xác định với bằng chứng nào.5 Cũng theo Minh Vơ, sử gia Phạm Văn Sơn đă đề cập đến việc này và cho rằng Phan Bội Châu đă nghi oan cho Nguyễn Thượng Huyền. Chính Nguyễn Thượng Huyền đă lên tiếng khi biết nội vụ vào dịp về Việt Nam – “khoảng năm 1965, cụ Nguyễn Thượng Huyền có về Việt Nam và đăng một bài cải chính nói rơ vụ việc trên tờ “Bách Khoa”số 73”. 6 C̣n Lâm Đức Thụ, theo ghi nhận của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, đă khoe đó là thành tích do chính ḿnh đạt được. 7
V́ thế, theo Minh Vơ, “việc bán Phan Bội Châu cho mật thám Pháp có thể coi là sự việc khơi gợi cho một phương pháp hành xử của Hồ Chí Minh và cũng có thể coi là hành vi mở đầu cho một phương pháp đă được trù tính trước.” 8
David Halberstam trong cuốn Ho, xác nhận việc Hồ Chí Minh báo cho mật thám Pháp bắt cụ Phan Bội Châu để lănh 150.000 bạc Đông Dương. 9
Sau khi cụ Phan Bội Châu bị bắt, Lư Thụy nắm lấy tổ chức Tâm Tâm Xă (cũng c̣n gọi là Tân Việt Thanh Niên Đoàn) 10 của cụ Phan biến nó thành Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội với các thành phần từng theo cụ Phan gồm 6 người như Lâm Đức Thụ tức Trương Béo (tức Nguyễn Công Viễn), Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Giản Khanh và Đặng Xuân Hồng.
Trong sách Việt Nam 1945-1995, Chiến tranh, Tị nạn, bài học lịch sử, Tập I, giáo sư Lê Xuân Khoa cho biết trong thời gian chuẩn bị cuộc khởi nghĩa Yên Báy, VNQDĐ có mời một số đảng viên cộng sản tham gia nhưng Trần Văn Cung không đồng ư v́ cho rằng cuộc khởi nghĩa thiếu chuẩn bị và chưa có được thời cơ. Sách này cũng cho biết Nguyễn Ái Quốc về sau cũng t́m cách ngăn cản cuộc khởi nghĩa này nhưng không thể liên lạc được với VNQDĐ. 11
Tuy nhiên theo Hoàng Văn Đào trong Việt Nam Quốc Dân Đảng, “Trong những giờ phút nghiêm trọng ấy, cán bộ ĐDCSĐ (Đông Dương Cộng Sản Đảng) rải truyền đơn khắp nơi, tố cáo VNQDĐ sắp tấn công Bắc Kỳ. Cô Giang cầm tờ truyền đơn trao cho Nguyễn Thái Học xem, Nguyễn Thái Học đập bàn thét to: - “Tôi không tin! V́ có thể nào anh em cộng sản lại có thể hành động như thế được!”. 12
Trên đây là những mầm mống xung đột trong quá tŕnh tranh chấp quyền lực giữa phe cộng sản với người quốc gia mà đỉnh cao là những cuộc đụng độ trong giai đoạn 1945-46. William J. Duiker, trong Ho Chi Minh, đă ghi lại quan điểm của Nguyễn Ái Quốc “thường nhận định rằng những cuộc liên kết như vậy với các đảng phái quốc gia có thể hữu ích nhưng chỉ cho mục tiêu chiến thuật mà thôi.” 13
Đối với những người theo Đệ Tứ Quốc Tế, nhóm Đệ Tam Quốc Tế khi th́ chống đối, lúc lại hợp tác, thí dụ cuộc bầu cử Hội Đồng Thành Phố Sài G̣n, năm 1937, cả hai hệ phái cùng đưa người ra tranh cử, một người là Tạ Thu Thâu thuộc phe Trốt-Kít, hai người kia là ông Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai thuộc hệ phái Stalin. Nhưng liền sau đó hai hệ phái lại tuyên bố tách rời 14. Hồ Chí Minh luôn khẳng định trong các báo cáo của ông gửi cho Quốc Tế Cộng Sản: “Đối với phe Trotsky, không thể liên minh, cũng không khoan nhượng. Hăy tận dụng mọi biện pháp vạch trần bộ mặt thật tôi mọi của các tên phát-xít; hăy diệt sạch bọn chúng trên địa bàn chính trị.” 15
Ở một dịp khác, Hồ Chí Minh tỏ ra hằn hộc quyết liệt hơn khi nói rằng: “Chúng ta không thể nhượng bộ điều ǵ cho nhóm Tờ-Rốt-Kít. Chúng ta phải làm tất cả mọi việc có thể được để lột mặt nạ của chúng là những con chó của Phát Xít và tiêu diệt chúng về chính trị.”16
Một sự kiện lịch sử cần nhắc lại ở đây để thấy rằng nhất cử nhất động của Hồ Chí Minh, tức Nguyễn Ái Quốc, tức Lư Thụy đều tuân hành theo chỉ thị của Liên Xô. Ngày 3-2-1930, Hồ Chí Minh tổ chức cuộc họp thống nhất ba đảng Cộng Sản VN nhân xem một trận đấu bóng tṛn tại một sân lộ thiên ở Hương Cảng, với cái tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam mà ư chỉ của Hồ là thành lập đảng “cách mạng xă hội chủ nghĩa dân tộc” 17. Nhưng trong kỳ đại hội đại biểu kỳ 1 tổ chức tháng 10 năm 1930, tên đảng lại được đổi thành Đảng Cộng Sản Đông Dương, với Trần Phú (bí danh Lí Quí) từng được huấn luyện ở Liên Xô, làm tổng bí thư. Liên Xô muốn Việt Nam thực hiện chương tŕnh cách mạng vô sản quốc tế hơn là “cách mạng dân tộc” nên đă ra lệnh đổi chữ Việt Nam thành Đông-Dương trong đảng danh. Bởi vậy, việc Hồ Chí Minh bán cụ Phan cho Pháp, cán bộ CS tố cáo cuộc khởi nghĩa Yên Báy của VNQDĐ, chống đối, thủ tiêu các nhóm người thuộc Đệ Tứ Quốc Tế và sau này tàn sát các lực lượng chính đảng quốc gia, các tôn giáo chống đối chủ nghĩa vô thần cũng nằm trong sách lược chung của Cộng Sản Quốc Tế.
Trong cuộc họp báo ngày 8-12-2008 do nhà xuất bản Sabine Wespieser và Le Livre de Poche tổ chức tại Centre National du Livre ở Paris, ra mắt tiểu thuyết Au Zénith (Đỉnh cao chói lọi), bản dịch Việt ngữ do ông Đặng Trần Phương, 53 tuổi, Việt kiều tại Paris dịch, Dương Thu Hương tác giả cuốn sách đó, đă đưa ra chứng cớ bác bỏ thuyết cho rằng ông Hồ Chí Minh đă “bán đứng nhà chí sĩ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp” là không có cơ sở. V́ cuốn sách mới của Dương Thu Hương chưa phổ biến đến bạn đọc nên chúng ta sẽ chờ xem bà Dương Thu Hương đă viết những ǵ trong đó.18 Dĩ nhiên sử học không phải là văn chương hư cấu nhưng đ̣i hỏi phải có sử liệu nghĩa là nói có sách mách có chứng.
2.- Quốc Dân Đảng Việt Nam, hay Mặt Trận Quốc Dân Đảng, một kết hợp chính trị
của các chính đảng quốc gia yêu nước, khắc tinh của chế độ Việt Minh.
Mặt Trận Quốc Dân Đảng hay Quốc Dân Đảng Việt Nam là một kết hợp chính trị giữa ba chính đảng quốc gia năm 1945 là Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh, Đại Việt Dân Chính Đảng của Nguyễn Tường Tam, và Việt Nam Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh nhằm chống lại chế độ bạo tàn của Việt Minh Cộng Sản giai đoạn 1945-46 mà sáng kiến tiên khởi là do Trương Tử Anh đề ra.
Trương Tử Anh tên thật Trương Khán, bí danh Phương thường gọi là Cả Phương hay Cả Khán, sinh năm giáp-dần 1914 tại làng Mỹ-Thạnh, xă Ḥa-Phong, quận Tuy-Ḥa, tỉnh Phú-Yên, con cụ ông Trương Bội Hoàng và cụ bà Nguyễn Thị Miên. Tổ tiên Trương Tử Anh cũng theo đ̣i khoa bảng với nội tổ là cụ Trương Chính Đường có chức Đề-đốc v́ ứng nghĩa Cần Vương năm 1885. Cụ có công trong việc lập nên Hội Văn-phổ Phú-Yên, dựng Văn-chỉ ở núi Nhạn Tháp, xây Văn-Miếu ở núi Cẩm Sơn, xă Ḥa Quang, Tuy Ḥa. Ông nội của Trương Tử Anh là cụ Trương Dụng Triều cũng là một nhà nho có ít nhiều công lao xây dựng, kiến thiết xóm làng. Thân sinh của Trương Tử Anh là cụ Trương Bội Hoàng, là một nhà nho có tân học, kết giao với các nhà cách mạng Việt Nam.
Thuở nhỏ Trương Tử Anh học Tiểu học ở Trường Phủ tại Thị xă Tuy Ḥa, học Trung học tại Quy Nhơn và Huế, đến năm 1934 theo học Luật khoa tại Trường Đại Học Đông Dương, Hà Nội. Năm 1936, nghiên cứu các triết thuyết và thảo luận quan điểm đấu tranh với các bạn bè, ông đưa ra một chủ nghĩa mới gọi là chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn mà “lập luận căn bản dựa trên tinh thần dân tộc” 19 với bản thảo viết bằng tiếng Pháp. Trong những trang bút tích c̣n để lại, Trương Tử Anh đă nhận xét rằng: “Mỗi nước trên thế giới đều có một hay nhiều dân tộc khác nhau. Một chủ nghĩa chính trị muốn được thành công tất phải căn cứ vào những yếu tố kể trên mới mong được dân chúng ủng hộ và có thể đem ra áp dụng được...” và ông khẳng định: “... Các chủ nghĩa đă xuất hiện trên thế giới đều không thích hợp với dân tộc ta.” 20 Các chủ nghĩa mà Trương Tử Anh nêu ra đó là chủ thuyết Cộng Sản và chủ nghĩa Quốc xă là những lư thuyết rất thịnh hành lúc bấy giờ.
Ngày 10-12-1938, ông công bố chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn và năm sau, 1939 đưa ra bản Tuyên cáo Quốc dân thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng. Trong bản Tuyên Cáo đó, Trương Tử Anh giải thích rằng: “Hai tiếng Đại Việt nêu cao ư chí tự cường, tự lập và cái hùng tâm muốn cho quốc gia mạnh mẽ lên và bành trướng măi ra. Ba chữ Quốc Dân Đảng tỏ rằng Đảng này không phải của riêng giới nào, mà là của toàn thể dân tộc.” 21
Được thành lập do nghị định số 1514a của Toàn quyền Paul Beau (1902-1908) kư ngày 16.5.1906, trường Đại học Đông dương ra đời quy tụ hầu hết sinh viên ba kỳ kể cả Cao-Miên và Lào nhằm lôi kéo thành phần trí thức trẻ vào các môi trường giáo dục của người Pháp. Về sau Toàn quyền Klobukowsky kư lệnh băi bỏ rồi lại được Toàn Quyền Albert Sarraut cho phép mở lại vào năm 1918. Đây là môi trường văn hóa đồng thời cũng là môi trường chính trị thuận lợi cho các tổ chức đấu tranh, và Trương Tử Anh đă tận dụng thời điểm để tuyên truyền, vận động cho tổ chức của ḿnh.
Cơ cấu Trung Ương đầu tiên gồm các ông: Nguyễn Tiến Hỷ, Nguyễn Sĩ Dinh, Phạm Cảnh Hoàn, Trương Bá Hoành, Đặng Vũ Trứ, Nguyễn Sơn Hải, Tạ Thành Châm, Phan Bá Trọng, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Định Quốc, Vơ Văn Hải, Nguyễn Văn Viễn, Đặng Xuân Tiếp, Giáo Lai, BS San.
Đảng kỳ là nền đỏ giữa có ṿng tṛn xanh nằm trong là ngôi sao trắng. Đây là đảng kỳ do chính Trương Tử Anh vẽ ra, được treo tại trụ sở Tỉnh bộ ĐVQDĐ Phú Yên (được coi như Tổ đ́nh của Đại Việt) và sử dụng cho toàn đảng Đại Việt từ năm 1939 đến về sau. Đảng ca là bài Cờ sao trắng.
Một cuốn sách nhỏ thứ hai dành riêng cho đảng viên chỉ dẫn về cách tổ chức và phương pháp sinh hoạt của Đảng với đơn vị căn bản là Chi bộ rồi lên đến Khu bộ và cao hơn hết là Trung ương Đảng. Phép tổ chức là của một đảng cách mạng bí mật, nguyên tắc phân cách các đơn vị được ghi chú cẩn thận. Chức vụ lănh đạo cơ sở hạ tầng được luân phiên trao cho các đảng viên để mọi người trở nên thành thạo với đảng vụ. Kỷ luật đảng trong thời đó rất cứng rắn, chấp nhận cả h́nh phạt tối đa là tử h́nh đối với những phần tử phản quốc và phản đảng.
Chẳng bao lâu, cơ sở của Đại Việt Quốc Dân Đảng bành trướng nhiều nơi trong nước nhờ vào thành phần trí thức, sinh viên theo học ở Hà Nội gồm trên ba miền bắc, trung, nam kể cả Lào và Căm-pu-chia với các tổ chức trại hè, lửa trại, diễn thuyết, tổ chức các cuộc lễ mang tính lịch sử như Lễ giổ tổ Hùng Vương, kỷ niệm Lễ Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Quang Trung v.v... mục đích nhằm chống lại phong trào thể thao Ducouroy do thực dân Pháp tài trợ và khuyến khích để lôi cuốn thanh niên.
Một chứng nhân lịch sử, Đặng Văn Sung (1916? -1998) nhà báo, cựu nghị sĩ VNCH, hoạt động cùng thời với Trương Tử Anh tại Hà Nội năm 1943 cho biết: “Lư thuyết Đảng hồi đó tôi được đọc qua một tập nhỏ lớn cỡ quyển lịch gập đôi lại, dày đâu mươi trang. Cái quan trọng nhất là không Mác-xít. Tôi tuyên thệ với Trương Tử Anh và chỉ biết thêm một đảng viên khác là ông Hướng, người giới thiệu tôi. Tôi chưa dự một sinh hoạt đảng nào theo kiểu họp hành có bí thư chi bộ, tỉnh bộ, có báo cáo kiểm điểm công tác...” 22
Nói về phong thái bề ngoài của Trương Tử Anh, Đặng Văn Sung cho biết như sau: “Đó là một người tầm thước, chắc chắn, nước da ngăm đen, biết ḿnh nói ǵ và quan trọng hơn cả là biết nghe, nhất là những lời phê b́nh hợp lư.”23
Trong hồi ức Việt nam, một thế kỷ qua, Bác sĩ Nguyễn Tường Bách là em út của nhà văn Nguyễn Tường Tam vốn là những người từng hoạt động với Trương Tử Anh đă ghi lại h́nh ảnh về Đảng trưởng Đại Việt như sau: “Anh Trương Tử Anh là người có vóc dáng trung b́nh, khuôn mặt vuông, rắn chắc, đôi mắt đầy vẻ nghị lực và tự tin. Anh nói không nhiều nhưng mỗi câu đều chắc nịch, có sức thuyết phục... Phát triển nhiều trong trường đại học. Tại trường thuốc có anh Nguyễn Sĩ Dinh cùng lớp với tôi, và mấy anh dưới một lớp như Nguyễn Tiến Hỷ tự Phan Trâm, Nguyễn Tôn Hoàn, Đặng Văn Sung... Ngoài ra c̣n có anh Bùi Diễm...”24
Với cuốn hồi kư chính trị Gọng ḱm lịch sử, tác giả Bùi Diễm cho biết cuộc gặp gỡ lần đầu của ông với Đảng Trưởng Trương Tử Anh đă để lại dấu ấn khó phai nhạt trong kư ức của ḿnh: “Cuối năm 1944 và bước sang 1945, sau một thời gian hoạt động trong tiểu tổ của đảng Đại Việt, tôi bắt đầu cảm thấy là phạm vi hoạt động chật hẹp quá, ngoài ra tôi c̣n thấy nhiều người nói tới ông Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt, một người mà các đồng chí vẫn thường kính cẩn gọi là Anh Cả Phương. Từ đó một ư kiến nẩy ra trong đầu tôi là phải cố gắng gặp ông cho kỳ được. Lúc đầu tiên th́ thật là khó khăn. Hỏi ai th́ câu trả lời cũng là: “Không được đâu! Phải qua hệ thống chứ!” Một đôi khi v́ nôn nóng muốn được gặp ông, tôi bắt đầu tự hỏi rồi đây nếu không được gặp, th́ liệu có c̣n đủ tin tưởng tiếp tục hoạt động không? Nhưng rồi không bao lâu sau, do một sự t́nh cờ, ngẫu nhiên tôi được toại nguyện và từ đó có duyên may làm việc gần ông trong suốt thời gian trước khi ông bị mất tích cuối năm 1946.
Một hôm tôi đến chơi nhà một người bạn cũ cùng học trường Bưởi, ban Toán năm Tú Tài phần hai. Tên anh là Phúc, ở trường chúng tôi thường gọi anh là Phúc Toét. Tuy không biết chắc, tôi vẫn ngờ ngợ anh cũng là người trong đảng. Nên nhân dịp trên đường về nhà, tôi ghé qua thăm anh. Khi tới, th́ tôi không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, v́ thấy hai người bạn khác mà tôi biết đích là đảng viên, cùng ngồi họp ở pḥng bên trong với một người đă đứng tuổi, dong dỏng cao, trán hói, mắt sáng. Phúc chạy ra và bảo tôi lúc khác trở lại. Tôi hỏi ai đó, th́ Phúc một phần v́ biết tôi đă lâu và một phần khác có lẽ cũng buột miệng nên trả lời rằng: “Anh Cả Phương đấy chứ ai!” Thế là tôi khựng lại, nhất định không chịu đi nữa. Và Phúc cũng phải chịu, không đẩy tôi đi được. Trái với sự tưởng tượng trong đầu óc tôi, ông Trương Tử Anh trong buổi gặp mặt ban đầu không có dáng nghiêm nghị, lạnh lùng của một lănh tụ. Ông tỏ ra dễ dăi, cởi mở và thân mật. Ông mỉm cười và tôi nh́n thấy qua ánh mắt tinh anh của ông, có sức ǵ thu hút khiến tôi cảm thấy ông là người tôi có thể tin tưởng và theo được. Ông hỏi tôi là đă thấu hiểu được lư thuyết Dân Tộc Sinh Tồn của đảng chưa, và khuyên tôi nên hỏi Phúc nếu c̣n điều ǵ chưa hiểu. Lúc đó tôi c̣n trẻ, lại thêm tính hiếu thắng, nên ông chưa nói hết, tôi thưa lại ngay: “Phúc cùng học với tôi, về môn triết học hắn c̣n thua tôi th́ c̣n giúp ǵ được tôi!” Không hiểu ông Trương Tử Anh nghĩ ǵ về phản ứng bất ngờ và ngây ngô của tôi, nhưng ông ph́ cười rồi bảo tôi: “Thôi được rồi, tôi sẽ gặp anh sau”. Tôi ra về, mừng quá, rồi như qua một thứ trực giác nào đó, tôi nghĩ là đă t́m được người gửi gắm niềm tin tưởng của tuổi trẻ.”25
Ngày 4-10-1941 Trương Tử Anh bị Pháp bắt, đày lên Ḥa B́nh đến tháng 7 năm 1942 mới được thả ra nhưng bị chuyển về Phú Yên quản chế. Tại đây Trương Tử Anh đă trực tiếp lănh đạo 20.000 nông dân Phú Yên, cùng với Tỉnh bộ Đại Việt QDĐ chống lại tập đoàn tư bản Pháp – Ḥa Lan trong Công Ty Đường (Société Sucrière d’Annam) v́ họ sang đoạt đất đai của nông dân để trồng mía. Đầu năm 1943, ông trốn ra Bắc và hoạt động trở lại, bị Pháp bắt giam rất nghiêm ngặt nhưng cơ sở đảng đă tổ chức giải thoát cho ông và bị tra tấn đến thọ bệnh nên ông phải giả điên để được đưa tới chữa tại nhà thương Cống Vọng gần Hà nội (bệnh viện René Robin). Ngày 2-9-1944 ông trốn khỏi nhà thương này cho đến sau ngày Nhật đảo chánh Pháp ông mới xuất hiện trở lại.
Từ sau cuộc diện kiến bất ngờ nói trên, tác giả Bùi Diễm cho biết ông có dịp may làm việc với Đảng Trưởng trong nhiều công tác. Trương Tử Anh lúc bấy giờ lo tổ chức một số căn cứ như ở Bắc Giang và Thanh Hóa nên điều động ông Bùi Diễm vào Thanh Hóa để tăng cường cho cơ sở vùng này nhưng sau đó lại thay đổi ư kiến và đưa ông vào Huế liên lạc với cụ Trần Trọng Kim, về sau lại đưa ông Bùi làm liên lạc viên với Phan Kế Toại đang được cử làm Khâm sai tại miền Bắc. Tác giả Gọng ḱm lịch sử cho biết cảm tưởng của ḿnh đối với Trương Tử Anh: “Càng được dịp làm việc gần ông, tôi càng khâm phục ông là người có đảm lược. Về cá nhân ông, người ta chỉ biết ông sinh trưởng ở miền Trung và đă tham gia cách mạng từ lúc c̣n trẻ, tuy nhiên ai cũng cảm thấy ông là người có khí phách và bản lănh. Với một vẻ mặt trầm tĩnh và quắc thước, ông là một nhà lănh đạo thông minh, tự tin là có khả năng góp phần vào việc xây dựng lại đất nước.” 26
Ngày 22-2-1945, Trương Tử Anh cử hai đảng viên cao cấp là Nguyễn Sĩ Dinh và Phạm Cảnh Hoàn tức Phạm Hy Tống (hay Phạm Nguyên Cảnh) kết hợp với Nguyễn Tường Long (Đại Việt Dân Chính Đảng), Nguyễn Xuân Tiếu (Đại Việt Quốc Xă Đảng), Lư Đông A tức Nguyễn Hữu Thanh (Đại Việt Duy Dân Đảng), cùng nhóm Ngô Thúc Địch, Nhượng Tống, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Nghiệp thuộc Tân Việt Nam Quốc Dân Đảng để thành lập một mặt trận chính trị mới đặt tên là Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, cử Nguyễn Xuân Tiếu tức Nguyễn Lư Cao Kha, tức Tiếu Rùa làm Chủ Tịch liên minh này. Về sau Nguyễn Xuân Tiếu có ư đi với Nhật nên Đại Việt Quốc Dân Đảng rút ra khỏi mặt trận này v́ sợ mang tiếng là người của Nhật.
Sự h́nh thành một mặt trận chính trị chung giữa ba chính đảng Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính Đảng khởi đầu từ ngày 12-4-1945 khi Đảng Trưởng Trương Tử Anh gửi một phái đoàn sang Trùng Khánh (Trung Quốc) thương nghị với cấp lănh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính Đảng để thành lập một tổ chức chung lấy tên là Quốc Dân Đảng. Bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ trong cuộc gặp Nguyễn Tường Tam ở ga Khai Viễn, Vân Nam thẳng thắn duyệt lại quá tŕnh phát triển của Đại Việt Dân Chính tại quốc nội. Từ ngày Nguyễn Tường Tam phải lưu vong đến nay, Đại Việt Dân Chính tại quốc nội không phát triển được, chỉ quanh quẩn trong giới văn học và nghệ sĩ, trong hàng ngũ trí thức mà thôi. Nguyễn Tường Tam cũng công nhận một chính đảng như vậy là không có quần chúng, chỉ có bộ đầu năo lănh đạo. Phải có sự đoàn kết, hợp sức chung của nhiều lực lượng khác nhau nữa mới lănh đạo được quần chúng. Bác sĩ Nguyễn Tường Bách, trong cuốn Việt Nam, những ngày lịch sử, cho biết: “Ít lâu sau, anh Tam theo đường Lào-cai về đến Hà-nội. Đă gần 5 năm tôi mới gặp lại anh. Cả nhà đều vui mừng. Đương-nhiên mừng nhất là chị Tam và các con và bà mẹ. Chúng-tôi mừng có người anh về chỉ-dẫn hành-động. Trông anh gầy và đen nhưng rắn-giỏi, ít vẻ thư-sinh nho-nhă hơn trước. Anh đă dựa vào Đồng-minh và đưa tổ-chức cũ sáp-nhập vào Việt-nam Quốc-dân đảng. Nhưng tôi xem ra anh không thấy hứng-thú lắm với chủ-nghĩa tam-dân. Chủ-trương của anh giống anh Long, tán-thành chủ-nghĩa dân-chủ, xă-hội theo lối Tây-phương.” 27
Bookmarks