Bắc kỳ 9 nút, bắc kỳ 2 nút
Tôi và gia đ́nh tôi lăn lộn trong cuộc chiến với bọn bắc kỳ 2 nút này hơn 60 năm từ ngày di cư tháng 7-1954 đến maĩ bây giờ, tôi không bao giờ ngán bọn nó trong lúc giao chiến, trận nào đụng độ, đơn vị tôi cũng chiến thắng ngoại trừ trận chiến cuối cùng vào ngày 28 tháng 4 năm 1975 nhưng bây giờ tôi phải nói là tôi sợ bọn này, tôi sợ cái tính độc ác, lưu manh, xảo trá, ăn cắp, ăn trộm, chôm chỉa và nhất là sự vô gíao dục của bọn này, tôi cảm thấy vô cùng nhục nhă khi mang tên Việt Nam nên khi viết hoặc nói tôi luôn phân biệt rơ ràng "người Việt Quốc Gia hay là Người Việt Tự Do, đối đế lắm th́ tạm dùng chử Việt Kiều và chử VN tôi luôn luôn viết hoa, c̣n những chử Việt Nam hay tên bọn cộng sản việt nam và bọn cộng sản quốc tế th́ never ever tôi viết hoa că,xin thông báo đến qúy thân hưủ để tường.
Bùi Bổn CTSQ-CSVSQTVBQGVN-CTQLCVN.
BẮC KỲ 9 NÚT - BẮC KỲ 2 NÚT
TLC BÙI-TRỌNG-NGHĨA/K18-BBTĐ
“Anh hăy đi cho khuất mắt tôi, các anh đeo dai như con đỉa. Chúng tôi đă sợ các anh quá rồi! Hai mươi mốt năm trước, chúng tôi đă phải bỏ cả nhà cửa làng xóm để chạy xa các anh vào đây, vậy mà bây giờ các anh vẫn lại theo bám, không buông tha!”
Đó là lời người con gái ở Hố-Nai Biên-Ḥa (bắc kỳ 9 nút) nói với tên bộ đội (bắc kỳ 2 nút) khi hắn theo tán tỉnh cô sau 30-4-1975. Cô là thế hệ thứ hai của một gia đ́nh di cư vào Nam sau 20-7-1954. Tội nghiệp cô gái bắc kỳ! Chúng tôi, những người lính thời ấy, trách nhiệm thế nào với nỗi nghẹn ngào cay đắng này của cô?
Ván bài thắng ngược! Tại sao con số 9 nút (1954) lại thua con số 2 nút (1975)? Cái ǵ khiến cô gái bắc kỳ này lại sợ tên bộ đội bắc kỳ kia? Trải nghiệm thực tế, đơn thuần trong sinh hoạt xă hội của “bác” Hồ trước và sau những năm 1975 để giải mă những nguyên nhân căn bản khiến con số 9 nút phải thua con số 2 nút:
Ở năm thứ 5 của đời tù tội, lần đầu tiên mẹ tôi đi thăm tôi ở trại Ba-Sao Nam-Hà, quà cho tôi thật khiêm tốn, trong đó có hai hộp sữa đặc là đáng quư nhất. Tôi nói đường xá xa xôi, mẹ mang làm chi hai hộp sữa này cho nặng, th́ mẹ tôi cho biết bà mua ở Hà-Nội khi đi ngang qua. Chia tay, tôi ôm hai hộp sữa vào ḷng, nghĩ tới chiều nay có được cái “ngọt ngào của cuộc đờiˮ, cái ngọt ngào đă biến mất trong suốt hơn 5 năm trong đời tù đày, mà đôi chân tôi bước đi khấp khểnh, cao thấp như đang ở trên mây.
Thế nhưng, trời sập rồi! cái đinh vừa đâm lút vào hộp sữa th́ một ḍng bùn đen túa ra, tôi mềm người rũ gục như một tàu lá úa. Ngồi cạnh tôi, người bạn thân trong tù đang chờ được chia xẻ, đôi mắt trợn tṛn rồi rủ xuống như muốn khóc! Bóc nhăn hiệu ra, thấy cạnh hộp sữa có một vết hàn. Như thế là người Hà-Nội đă tinh vi sáng tạo: rút ruột sữa ra, bơm bùn đen vào rồi hàn lại. Quả thật (mẹ tôi), Bắc Kỳ 9 nút đă thua Bắc kỳ 2 nút!
“Phú quư bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Tôi đă học cái văn hóa đó ở nhà trường. Ở nhà, trong hoàn cảnh nghèo, mẹ tôi thường nhắc nhở anh em chúng tôi phải luôn giữ cái chất“bần tiện bất năng di” ấy. Đó là cái nhân cách căn bản được giáo huấn ở học đường miền Nam Việt-Nam, ở cái đất nước mà con người hiền ḥa, chân chất, đơn thuần, vô tư không ôm hận thù, không biết cướp bóc, lừa bịp, đểu cáng vv. Đó chính là cái đất nước ở phía sau vĩ tuyến 17 kia.
C̣n ở miền Bắc, cái đất nước trước vĩ tuyến 17 th́ sao? Người ta dạy nhau cái ǵ ở nhà trường và ngoài xă hội? Người ta dạy nhau rằng“bần cùng sinh đạo tặc”. Hậu quả là sau 30- 4-1975, người Bắc Kỳ, tay cầm dao, tay cầm súng, tràn vào miền Nam điên cuồng giết người cướp của, hành động của “kẻ dă man thắng người văn minh” mà nhà nữ văn sĩ C/S Hà-Nội Dương-thu- Hương đă nhận xét.
Sự thật đă chứng minh “con người ít nhiều là sản phẩm của xă hội”, vậy th́ xă hội man rợ tất nhiên sản xuất ra con người dă man. Từ cái bản chất dă man này, tự nó, sinh ra tệ trạng sinh hoạt đầy tính chất nguy hiểm, độc ác, gian manh, quỷ quyệt khó lường v.v. Đó là kết quả tất yếu không cần lư giải.
Chỉ có một mẩu cá khô lấy trộm trong khi vận chuyển lương thực, ông chiến hữu của tôi miệng phải ngậm miếng cá đó, cổ đeo cái bảng viết hai chữ “ăn cắp”, đứng trước cổng trại suốt ba ngày! Miếng ăn quư hơn mạng người! Ông ngục sĩ Nguyễn-chí-Thiện khi c̣n sống đă nói rằng: “miền bắc thắng miền nam là do chế độ lương thực tem phiếu”. Ông đúng hay sai? Đây là câu trả lời: “Em xin anh, chúng em mà nói trên đài th́ ở ngoài kia, cha mẹ và vợ con em sẽ bị cắt hộ khẩu, họ sẽ chết đói!”. Đó là lời của ba tên tù binh bị bắt trong trận đánh cuối cùng ở Long-Khánh.
Tôi c̣n nhớ, ngày 3/9/1978, ngày giỗ “bác” Hồ của nhân dân bắc kỳ (2 nút), tại trại giam ở Yên-Bái, địa danh có cái tên nghe rợn người: “Ma thiên lănh!”, tù nhân được nghỉ một ngày để chuẩn bị làm giỗ “bác”. Bàn thờ được trải khăn đỏ, sau bàn treo lá cờ to, trên bàn có h́nh “bác”, trước “bác” đặc biệt có một mâm hoa quả bằng h́nh vẽ mà trước đó, nguyên một ngày, ông tù nhân Lê-Thanh, họa sĩ kiêm điêu khắc gia có tiếng trong quân đội miền Nam “thua cuộc”, đă phải vẽ trên cả chục bản để ông cai tù trưởng trại lựa chọn.
Sau khi đă nhuần nhuyễn nói về tài thao lược và đạo đức của “bác”, trưởng trại để ư thấy tù nhân x́ xầm về bức họa trái cây kia, ông bèn rất là trân trọng và tự tin nói rằng: “bác thường dạy “trong đấu tranh gian khổ, tính chất khắc phục là quan trọng”, cho nên khả năng “biến không thành có, biến khó thành dễ” là thành tích luôn được biểu dương, khen thưởng”!
Giỗ “bác” hôm nay, “bác” được ăn hoa quả giấy. Quả nhiên gậy “bác” đập lưng “bác”! Phần tù nhân, nghe xong chỉ thấy họ lặng im. Tôi đoán họ đang nghĩ đến nhờ ngày giỗ “bác”, bữa ăn trưa nay được tăng thêm trọng lượng.
Ông chiến hữu (bắc kỳ 9 nút) nằm cạnh tôi kể chuyện anh: “Bọn công an (bắc kỳ 2nút) cùng người giúp việc nhà anh, là chị đă xin nghỉ việc vài ngày sau 30/4/1975, đạp cửa bước vào và lớn tiếng hỏi anh: “lương lính, quân hàm thiếu tá, một tháng anh lănh bao nhiêu? Anh trả lời chỉ vừa đủ sống cho hai vợ chồng và năm đứa con. Tên công an quát lớn: chỉ đủ sống th́ làm sao anh có cái nhà to thế này? Đây là anh đă lấy của nhân dân, vậy bây giờ anh phải trả lại cho nhân dân. Anh có ba ngày để dọn ra khỏi căn nhà này.”
Một hơi thở dài, rồi một cơn ngủ thiếp của một ngày “chém tre, chặt gỗ trên ngàn, hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai” của ông chiến hữu (bắc kỳ 9 nút) đă thay cho phần kết của chuyện kể mà tôi thiển nghĩ, những người dân miền Nam, cái đất nước ở sau con sông Bến-Hải kia đều đă biết cái số phận căn nhà đó ra sao.
Những ngày vừa qua, nhân lễ kỷ niệm 50 năm anh em Tổng Thống Ngô-đ́nh-Diệm bị sát hại, vài đài truyền h́nh có chiếu lại h́nh ảnh của gần một triệu người bắc kỳ (9 nút) bồng bế, gồng gánh, mang theo những chổi cùn, rế rách, luộm thuộm dắt díu nhau lên con tàu “há mồm” xuôi nam. Sau đó họ được định cư ở những vùng xa, vùng sâu, hoang vu hẻo lánh, lập nghiệp. Mơ ước cư ngụ ở giữa thành phố ồn ào, xôn xao, đối với họ chỉ là hoài băo.
Thế c̣n 30-4-1975, bắc kỳ (2 nút) xuôi nam th́ sao? Vai đeo súng, tay cầm dao, nghênh ngang tràn vào thành phố cướp của, lấy nhà, chiếm đoạt, chễm chệ ở trong những căn nhà lớn ngay giữa thị thành. Áp đẩy khổ chủ đến vùng xa, vùng sâu có tên gọi là “kinh tế mới”! Cái tư thế “chễm chệ” kể trên, mỗi ngày một phát triển lớn, tới độ, bây giờ 38 năm sau, gần như toàn thể những thành thị ở miền nam, trên những đường phố lớn, trong những căn nhà to, chủ nhân đều là bắc kỳ (2 nút). Như vậy, chẳng phải rơ ràng bắc kỳ (2 nút) không những chỉ thắng bắc kỳ (9 nút), mà c̣n thừa thắng xông lên, áp đảo luôn cả những nam kỳ chủ nhà, không nút nào hay sao?
Tên công an chính trị viên, phó trại giam, tốt nghiệp viện triết học Marx, trong đối thoại về chủ nghĩa Cộng-Sản, hỏi tôi rằng “chân lư có thay đổi không?” Tôi trả lời: “đă là chân lư th́ không thay đổi”. Hắn cười.
Hôm nay, hắn đúng, tôi sai. Chân lư của Marx quả đă thay đổi. Thế giới C/S của Marx đă xây dựng gần một thế kỷ, hoàn toàn sụp đổ. Học tṛ của Marx đă chia tay ư thức hệ với Marx, lũ lượt bỏ chạy qua vùng đất tư bản, thấy của cải vật chất phong phú thừa thăi mà chóng mặt, hoa mắt nên làm càn làm loạn”. “Hy sinh đời bố, củng cố đời con”, thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước, gia sức trấn lột, cướp bóc, lừa bịp, điên đảo, tham nhũng bừa băi, trơ tráo tới độ vô văn hóa, vô nhân tính.
Trở lại con số 9 nút (1954) và con số 2 nút (1975) mà người ta mệnh danh là bắc kỳ cũ và bắc kỳ mới, với những chuyện xảy ra ở trên một đất nước xa Hà-Nội tới ngàn dậm này: Đất nước Hoa-Kỳ.
“Này chị kia, ở nước Mỹ chợ nào cũng có chỗ cất shopping- car, sao chị lại bỏ bừa sau xe của tôi?ˮ “Cứ tự nhiên như ở Hà-Nội!ˮ, “Nhà tôi” (bắc kỳ 9 nút), bực ḿnh la lớn. Hai bà (bắc kỳ 2 nút) tỉnh bơ, nổ máy xe biến mất. C̣n lại là hai tôi, mỗi người đẩy một xe đưa vào chỗ cất.
Một lần khác, người bạn tôi kể rằng “Đi chợ, mua vội, tay chỉ cầm có hai gói cà-phê, đang xếp hàng chợt một chị bắc kỳ (2 nút) chen ngang vào đứng trước anh, anh phản đối th́ chỉ hỏi lại: “xe của ông đâu?” Anh giận quá la lớn: “Đây là ở nước Mỹ, mua nhiều hay ít đều phải xếp hàng chứ không phải ở Hà-Nội của chị”.
Tại một nhà hàng, cháu gái của tôi cầm tờ biên lai tính tiền do bạn trai là người Mỹ trả, tới nói với người thâu ngân rằng: “chúng tôi gọi hai tô bún thịt nướng chứ đâu phải chả cá thăng-long mà tính nhiều thế này?” th́ được thâu ngân viên buông gọn một chữ “nhầm”, rồi đếm tiền hoàn lại, không một lời xin lỗi. Tôi đoán chắc người Hà-Nội, chủ nhân (2 nút) tưởng Mỹ khờ khạo (đă bị bác và đảng đánh bại), nên mập mờ đánh lận con đen.
Trên đường về nhà, dọc hai bên đường, ở giữa ḷng cái thủ đô có tên Little Saigon này, lác đác những căn nhà to như dinh thự mà người Hà-nội đă bỏ tiền triệu để sở hữu một cách ngạo nghễ, khiến tôi chợt nhớ đến ông chiến hữu bại trận của tôi năm xưa đă phải “trả nhà cho nhân dân” (nhân dân Hà-Nội), mà xót xa!
Tôi miên man tự hỏi, chẳng lẽ từ niềm tự hào “đánh thắng hai đế quốc lớn” của người Hà-Nội đang được thể hiện một cách ngang ngược, lỗ măng, vô văn hóa ngay giữa cái thủ đô của người Việt tị nạn trên đất nước Hoa-Kỳ này đến vậy sao? Lư do ǵ họ có mặt nơi này? phần đất nơi cư ngụ cuối cùng, mà những người hoảng sợ đă phải bỏ nhà bỏ của để chạy xa họ? Tôi đang nghĩ đến người con gái bắc kỳ (9 nút) ở đất Hố-Nai Biên-Ḥa năm xưa. Tôi ước ao được gặp lại cô ở nơi này, nơi cư ngụ cuối cùng của những người kinh hoàng, hoảng hốt bỏ lại quê hương, chạy trốn những kẻ bạo tàn! Tôi muốn lại được nghe cô nói rằng “Các anh hăy đi cho khuất mắt tôi, tôi đă sợ các anh quá rồi, chạy xa các anh tới nửa ṿng trái đất mà các anh vẫn không buông tha!”
Ông nhà văn Hoàng-hải-Thủy của miền nam cũ, mới đây cay đắng than rằng “Nếu một ngày nào đó trên đất nước Hoa-Kỳ này, giữa nơi ở của những người Việt tị nạn có phất phới lá cờ đỏ sao vàng th́ xin cho tôi được chết trước!” Nghe mà xót xa cay đắng quá! Mong là con bài 2 nút sẽ không thắng ngược 9 nút thêm lần nữa!
Quận Cam 11/2013
Phiệt Mai chuyển
http://www.haingoaiphiemdam.com/News....aspx?Id=14781
Bookmarks