Results 1 to 2 of 2

Thread: QUỐC HẬN 30 THÁNG 4 - Phần 10 - 11 : 16 TẤN VÀNG - NGÂN HÀNG QUỐC GIA - THẢM SÁT BA CHÚC (18 THÁNG 4 - 1978) Tỉnh An Giang

  1. #1
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    QUỐC HẬN 30 THÁNG 4 - Phần 10 - 11 : 16 TẤN VÀNG - NGÂN HÀNG QUỐC GIA - THẢM SÁT BA CHÚC (18 THÁNG 4 - 1978) Tỉnh An Giang

    Phần 10 : 16 TẤN VÀNG - NGÂN HÀNG QUỐC GIA



    Tháng Tư Đen có nhiều kỷ niệm đau thương uất hận để nhớ đời và để nhắc nhở đám hậu sinh.
    Riêng chúng tôi không có cao vọng ấy, chỉ xin cống hiến bạn đọc một hồ sơ cũ:
    Vụ 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam Cộng Ḥa mà cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu:
    Người đă từng bị vu khống,cáo buộc là đă cuỗm ra ngoại quốc khi gia đ́nh ông phải lưu vong lúc Tháng Tư 1975.


    Tối 21 Tháng Tư 1975, chiến trường Miền Nam Việt Nam sôi động. Do áp lực nặng nề cả về mặt quân sự lẫn chính trị, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đọc một bài diễn văn tố cáo Hoa Kỳ phản bội đồng minh, sau đó tuyên bố từ chức.

    Ngày 26/4/1975, ông Thiệu bỏ nước, di tản sang Đài Loan .Ông Thiệu vừa rời khỏi nước, trong nước rộn lên “những lời đồn đại từ ‘đài phát thanh Catinat’ quả quyết là "ông Thiệu đă mang theo 16 tấn hàng gồm cả một bộ sưu tập đá quư và đồ cổ đánh cắp ở Viện Bảo Tàng Quốc Gia và 4 tỉ vàng nén.”

    Báo chí thiên tả ở Sài G̣n lúc bấy giờ do bọn Cộng sản nằm vùng chiếm lĩnh đă không bỏ lỡ cơ hội khai thác làm nhục chí chiến đấu các chiến sĩ quốc gia và gây hoang mang trong quần chúng Miền Nam Việt Nam.

    Sau ngày 30 Tháng Tư 1975, CSVN tiếp tục kích động báo chí thổi phồng “huyền thoại” cựu Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ăn cướp 16 tấn vàng chẳng những gây thêm công phẫn lâu dài trong ḷng người dân đối với cá nhân ông Thiệu, mà c̣n nhân rộng ḷng oán thù đối với chính thể VNCH.

    Măi đến 31 năm sau (năm 2006), bức màn bí mật về 16 tấn vàng mới hé mở.


    Kẻ gian hùng giấu mặt và 16 tấn vàng

    Báo Tuổi Trẻ ngày ngày 26/4/2006 bắt đầu đăng một loạt phóng sự về vụ 16 tấn vàng mà người ta rêu rao là đă bị ông Nguyễn Văn Thiệu, cựu Tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa, cướp đoạt, mang ra nước ngoài.

    Loạt bài này làm sáng tỏ một vấn đề: Không hề có chuyện ông Nguyễn Văn Thiệu hay bất cứ viên chức nào của chính quyền VNCH chuyển 16 tấn vàng ra ngoại quốc!

    Tờ báo ghi nhận: “16 tấn vàng - đó là khoản tài sản dự trữ c̣n lại của chính quyền Sài G̣n vào tháng 4/1975, trị giá khoảng 120 triệu đô-la Mỹ vào lúc đó, tức khoảng 320 triệu đô-la Mỹ thời điểm hiện nay”.

    Tờ Tuổi Trẻ khẳng định: “Không có chuyện 16 tấn vàng đă được đóng thùng sẵn (chờ chở đi) và lại càng không có chuyện “số vàng ấy nằm ở sân bay khi quân của tướng Dũng [Văn Tiến Dũng] tràn vào Tân Sơn Nhất”. 16 tấn vàng vẫn nằm nguyên vẹn dưới tầng hầm [kho dự trữ vàng quốc gia] ở số 17 Bến Chương Dương, Sài G̣n”..

    Chiều 30-4-1975, sau khi tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, trụ sở Ngân Hàng Quốc Gia VNCH vẫn c̣n được bảo vệ nghiêm ngặt bởi các nhân viên ngân hàng và các cảnh sát viên, dưới sự chỉ huy của một thiếu tá. Họ đă không rời vị trí v́ nhiệm vụ của họ là bảo vệ an toàn kho tiền và vàng dự trữ, không để nó bị xâm nhập, cướp phá giống như nhiều ṭa nhà và trụ sở lân cận. Họ cố thủ trụ sở Ngân hàng cho đến khi bộ đội CS xuất hiện.

    * Nhân Chứng thứ nhất: người tiếp nhận (Hoàng Minh Duyệt)

    Người tường thuật chi tiết về vụ 16 tấn vàng là Hoàng Minh Duyệt, chỉ huy phó đơn vị Cộng sản tiếp quản Ngân hàng Quốc gia. Ông Duyệt nói: “Tôi chỉ biết được tầng hầm chứa vàng ở đây khi tham gia nhóm kiểm kê. Nhóm kiểm kê lúc đó có tôi, anh Lân và anh em trong đơn vị; về phía Ban kinh tài có anh Huỳnh Kỳ Thanh, cô Tiếp... Về phía Ngân Hàng Quốc Gia có hai anh viên chức cũ ở đây là anh Huỳnh Bửu Sơn và anh Lê Minh Kiêm”.

    Ông Duyệt mô tả: “Tầng hầm chứa vàng sáng choang, khá rộng, rộng đến mức có thể... đá bóng được. Tiền và vàng được cất giữ trong những tủ sắt đặt trong các hầm. Mỗi cửa hầm đều có ổ khóa riêng, sau lớp cửa đó là cửa hầm tự động với khóa bằng mă số. Lần đầu tiên tôi thấy vàng nhiều như thế, thấy được những thỏi vàng như thế. Tôi lại thấy nhiều loại đồng tiền vàng rất đẹp, rất lạ và nghe nói rất quí, cả những cúc áo bằng vàng thật độc đáo”.

    Ông Duyệt tâm sự: “Chúng tôi nh́n rất thích nhưng chẳng ai “xơ múi” dù chỉ một đồng tiền vàng. Mà thật ra không ai trong chúng tôi có ư nghĩ ǵ bậy bạ, bởi mọi người đều rất vô tư và trong sáng. Cả những anh em viên chức cũ của ngân hàng cũng vậy, như anh Huỳnh Bửu Sơn chẳng hạn”.

    Báo Tuổi Trẻ cho biết người giữ ch́a khóa kho vàng lúc đó là ông Huỳnh Bửu Sơn - lúc bấy giờ làm việc trong ban lănh đạo Nha Phát Hành Ngân Hàng Quốc Gia. (Vào năm 2006 khi Tuổi Trẻ đưa lên loạt bài phóng sự này th́ Huỳnh Bửu Sơn đang là giám đốc đối ngoại Pepsi Co. tại Việt Nam).

    * Nhân Chứng thứ hai: người bàn giao (Huỳnh Bửu Sơn)

    Huỳnh Bửu Sơn kể: “Vào đầu tháng 6-1975, tôi được lệnh của Ban Quân quản Ngân Hàng Quốc Gia tiến hành kiểm kê kho tiền và vàng của chế độ cũ, các kho tiền và vàng của Ngân Hàng Quốc Gia thuộc quyền quản lư của Nha Phát Hành, nơi tôi làm việc trong ban lănh đạo từ năm 1970 với tư cách là kiểm soát viên. Anh giám đốc Nha Phát Hành đă đi cải tạo tập trung, do đó trong số người c̣n ở lại chỉ có tôi là người giữ ch́a khóa và anh Lê Minh Kiêm - chánh sự vụ - là người giữ mă số của các hầm bạc.

    “Đại diện Ban Quân quản là một cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt quá tŕnh kiểm kê là một anh bộ đội c̣n rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất thân thiện. Sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt - chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân Hàng Quốc Gia”.

    Bài báo ghi tiếp: “Theo ông Sơn, số vàng đúc lưu giữ tại kho của Ngân Hàng Quốc Gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất.

    “Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép.

    Ông Huỳnh Bửu Sơn c̣n xác nhận: “Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau... Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này c̣n được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó.

    “Cuộc kiểm kê kết thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách từng chi tiết nhỏ”.

    * Nhân chứng quan trọng thứ ba: Lữ Minh Châu

    Trên đây chỉ mới là chứng từ của hai viên chức cấp nhỏ và lời nhận định của một luật sư. Báo Thanh Niên phát hành ngày 03/10/2006 trong bài “Trở lại câu chuyện 16 tấn vàng ngày 30/4/1975”, có nêu ra nhân chứng thứ ba là Lữ Minh Châu, bí danh Ba Châu. Ông Châu là người, “ngày 30/4/1975, với tư cách Trưởng ban Quân quản các Ngân hàng Sài G̣n - Gia Định, đă tổ chức tiếp quản toàn bộ tiền, vàng của chế độ Sài G̣n cũ”.

    Năm 1986, ông làm Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước (nay là Thống đốc), chức vụ tương đương với chức Bộ trưởng.

    Hoàng Hải Vân, phóng viên báo Thanh Niên, đă thực hiện một cuộc phỏng vấn với ông Lữ Minh Châu.

    Trước khi nêu câu hỏi, nhà báo đặt vấn đề: “Chuyện Tổng thống chính quyền Sài G̣n cũ Nguyễn Văn Thiệu mang theo 16 tấn vàng hồi đó được báo chí loan tin, sau này người nói có người nói không. Gần đây BBC lại đề cập đến thông tin này. Mới đây nhất, báo Tuổi Trẻ có một loạt bài dẫn lời các nhân chứng nói rằng không có chuyện đó. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có thông tin chính thức từ phía Nhà nước về vấn đề này.

    Anh Phóng viên hỏi ông Châu có chuyện đó không. Ông Châu đáp: “Hoàn toàn không có. 16 tấn vàng vẫn c̣n nguyên vẹn trong kho của ngân hàng.”

    PV lại hỏi: “Nguyễn Văn Thiệu không lấy vàng đi, tại sao lâu nay Nhà nước ḿnh không nói lại cho rơ?”

    Ông Châu đáp: “Ḿnh biết rất rơ là số vàng đó vẫn c̣n, đă được kiểm kê cẩn thận và đưa vào tài sản quốc gia, nhưng không đính chính v́ đó là tin đồn đăng trên báo chí, có ai đặt câu hỏi chính thức với Nhà nước đâu”.

    Rơ ràng là ngụy biện! Đâu phải đợi có người “đặt câu hỏi chính thức” mới đính chính! 16 tấn vàng! Một khối tài sản khổng lồ của đất nước, một chiến lợi phẩm cực kỳ to lớn!

    Im lặng để mặc “tin đồn đăng trên báo chí” hẳn phải có hậu ư! Hậu ư ǵ th́ không rơ, nhưng khi thiên hạ đinh ninh rằng thằng chạy là thằng ăn cắp, th́ cái thằng nắm quyền chủ kho kế tiếp tất tự tung tự tác, ngốn hết miếng ngon, món bở… Có ai bắt tội th́ cứ thằng ăn cắp trốn chạy kia mà truy, nào liên can ǵ tới cái thằng mới tiếp nhận ch́a khóa kho này!!!

    * Một luật sư ở VN nhận định

    Phản hồi loạt bài phóng sự của Tuổi Trẻ, Luật sư Lê Công Định tŕnh bày nhận định của ông qua bài viết “Liệu có vụ tham nhũng kinh khủng nào theo kiểu PMU 18 đối với 16 tấn vàng hay không?”

    Ông luật sư đặt vấn đề:

    “Câu chuyện thêu dệt, bất kể v́ dụng ư ǵ, về việc cựu Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu “đánh cắp” 16 tấn vàng, đă kết thúc. Người trong cuộc đă được giải oan, ít nhất ở khía cạnh tham nhũng và ăn cắp của công.”

    Vâng! Người trong cuộc, cựu Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, kẻ bị gán tội cướp đoạt tài sản quốc gia, nay được giải oan.

    Cũng giống như luật sư Lê Công Định, người dân không c̣n thắc mắc về ông Thiệu, nhưng vẫn phân vân về số phận của 16 tấn vàng: “Sau 1975 toàn bộ 16 tấn vàng đó đă được sử dụng như thế nào? Lẽ nào số trữ kim to lớn ấy không giúp ích ǵ cho quốc gia để đến nỗi 10 năm sau 1975 nền kinh tế đất nước phải rơi vào khủng hoảng liên tục và đồng tiền mất giá không ḱm hăm được?”

    Từ đó, chắc chắn nhiều người dân đồng ư với nhận định của Luật sư Định rằng 16 tấn vàng ấy đă rơi vào túi kẻ tham nhũng sau 30/4/1975. Người ta cũng tán thành lời Ls Định cảnh báo: “Kẻ tham nhũng tất nhiên có thể đă xa chạy cao bay để tránh né sự trừng phạt của luật pháp, song như một định mệnh ở khắp nơi, nhân dân và lịch sử rồi cũng sẽ lôi tuột họ trở lại để đ̣i hỏi công lư dù sau 10, 20 hay 30 năm chăng nữa! Đời cha không trả th́ đời con phải trả. Lưới trời lồng lộng”.

    Trở lại cuộc phỏng vấn của báo Thanh Niên với ông Lữ Minh Châu. Phóng viên hỏi ông Châu:

    - Khi tiếp quản, liệu tiền, vàng có bị thất thoát không?

    Ông Châu trả lời:

    - Theo tôi th́ không thể. Ngân hàng của chính quyền cũ quản lư rất chặt, ta cũng chặt.

    Hỏi:

    - Số vàng đó sau này đi về đâu?

    Đáp:

    - Nó trở thành tài sản quốc gia, được quản lư theo luật pháp của chính quyền cách mạng, sau đó là của Nhà nước Việt Nam thống nhất.

    Quản lư theo luật pháp của chính quyền cách mạng ư? Chính quyền cách mạng sau 30/4/1975 tại Miền Nam Việt Nam làm ǵ có luật pháp!

    Mặt khác, cái chính quyền ấy không những chỉ lấy được vàng và tiền trong Ngân Hàng Quốc Gia VNCH, mà c̣n thu hồi “hơn 100 triệu USD, tiền gửi của ngân hàng cũ ở nước ngoài” như ông Lữ Minh Châu tiết lộ.
    Số tiền này, dân cả nước sau 30/4/1975 chẳng hề nghe biết, mải sau hơn 3 thập niên mới nghe ông Lữ Minh Châu đề cập đến, nghĩa là làm sao?

    Vả lại, khi bảo rằng “chính quyền cũ quản lư rất chặt, ta cũng chặt,” phải chăng ông Lữ Minh Châu muốn chơi chữ?

    Chúng ta thử đọc kỹ lại câu: “Chính quyền cũ quản lư rất chặt, ta cũng chặt.”

    Thâm thúy lắm! Ông Lữ Minh Châu đâu dám nói “ta cũng QUẢN LƯ RẤT chặt, chặt như chính quyền cũ.” Phải chăng ông Châu biết rơ chuyện “hậu trường” nhưng không dám bộc bạch? Để mặc ai muốn hiểu sao hiểu! Hay là ông có ngụ ư nói: Vàng và tiền ấy là chiến lợi phẩm! Phe TA CHẶT rồi! Chôm rồi! Chỉa hết rồi! Chia chác cả rồi! Đừng ai thắc mắc về cái chuyện 16 tấn vàng và hơn 100 triệu đô-la của thời 30/4/1975 nữa! Lịch sử đă sang trang !!!???

    Lê Thiên

    Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă chuyển 16 tấn vàng sang Mỹ ?



    http://tuoitre.vn/The-gioi/Ho-so/134622/Ky-1-Ong-Thieu-da-chuyen-16-tan-vang-sang-My.html



    http://tuoitre.vn/The-gioi/Ho-so/134801/Ky-2-Chuyen-ra-di-bi-mat.html



    http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/135236/Ky-5-Vang-doi-chu.html

    Người giữ ch́a khóa kho vàng lúc đó là ông Huỳnh Bửu Sơn ,làm việc trong ban lănh đạo Nha Phát hành Ngân hàng Quốc gia (VNCH).
    Dưới đây là hồi ức của ông về cuộc kiểm kê kho vàng lần cuối cùng trước khi bàn giao cho chính quyền cách mạng.

    Người giữ ch́a khóa kho vàng



    http://tuoitre.vn/The-gioi/Ho-so/135370/Ky-cuoi-Nguoi-giu-chia-khoa-kho-vang.html


    Sáng 1-5, theo phân công, đơn vị chúng tôi đến trụ sở Ngân hàng Quốc gia số 17 Bến Chương Dương. Trước cửa trụ sở lúc đó ngổn ngang súng ống, quần áo, đồ đạc nhà binh. Chúng tôi tiến vào bên trong ngân hàng. Các nhân viên bảo vệ ngân hàng vẫn c̣n đó, kể cả viên thiếu tá cảnh sát.

    Chúng tôi cho họ về nhà và triển khai đội h́nh bảo vệ ṭa nhà. Lúc ấy, thú thật là chúng tôi không hề biết trong đó có 16 tấn vàng, chỉ biết đây là mục tiêu cần bảo vệ nghiêm ngặt trong những ngày đầu giải phóng. Tôi cũng không biết ông Nguyễn Văn Hảo là ai, nhưng chúng tôi được lệnh của cấp trên là phải cử hai chiến sĩ đi bảo vệ ông Hảo. Vào thời gian ấy, tôi thấy ông Hảo thỉnh thoảng có đến ngân hàng làm việc ǵ đó.

    Tôi chỉ biết được tầng hầm chứa vàng ở đây khi tham gia nhóm kiểm kê. Nhóm kiểm kê lúc đó có tôi, anh Lân và anh em trong đơn vị; về phía Ban kinh tài có anh Huỳnh Kỳ Thanh, cô Tiếp... Về phía Ngân hàng Quốc gia có hai anh viên chức cũ ở đây là anh Huỳnh Bửu Sơn và anh Lê Minh Kiêm.

    Tầng hầm chứa vàng sáng choang, khá rộng, rộng đến mức có thể... đá bóng được. Tiền và vàng được cất giữ trong những tủ sắt đặt trong các hầm. Mỗi cửa hầm đều có ổ khóa riêng, sau lớp cửa đó là cửa hầm tự động với khóa bằng mă số. Lần đầu tiên tôi thấy vàng nhiều như thế, thấy được những thỏi vàng như thế.

    Tôi tḥ tay định cầm thử một thỏi lên, anh Huỳnh Bửu Sơn thấy vậy ph́ cười: “Không lấy thế th́ khó mà nhấc được”. Quả thật, một thỏi vàng coi nhỏ vậy mà nặng khoảng 13kg. Tôi lại thấy nhiều loại đồng tiền vàng rất đẹp, rất lạ và nghe nói rất quí, cả những cúc áo bằng vàng thật độc đáo.

    Chúng tôi nh́n rất thích nhưng chẳng ai “xơ múi” dù chỉ một đồng tiền vàng. Mà thật ra không ai trong chúng tôi có ư nghĩ ǵ bậy bạ, bởi mọi người đều rất vô tư và trong sáng. Cả những anh em viên chức cũ của ngân hàng cũng vậy, như anh Huỳnh Bửu Sơn chẳng hạn. Tôi và Sơn lúc ấy c̣n rất trẻ và cùng lứa tuổi với nhau.

    Chỉ cách đó vài hôm, chúng tôi là hai người thuộc hai chế độ khác nhau, c̣n bây giờ chúng tôi hay ngồi đánh cờ và tâm sự với nhau trong ḥa b́nh... Sơn nói: “Ḿnh sẽ không ra đi, ḿnh ở lại VN và góp chút sức ḿnh cho xứ sở...”.

    Chúng tôi lúc ấy ngồi trên một đống vàng, nhưng những khao khát xen lẫn suy tư về ngày mai c̣n nặng hơn số vàng 16 tấn kia”.

    Thay cho lời kết


  2. #2
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    QUỐC HẬN 30 THÁNG 4 - Phần 10 - 11 : 16 TẤN VÀNG - NGÂN HÀNG QUỐC GIA - THẢM SÁT BA CHÚC (18 THÁNG 4 - 1978) Tỉnh An Giang

    Phần 11 : THẢM SÁT BA CHÚC (18 THÁNG 4 - 1978) Tỉnh An Giang

    TỪ THẢM SÁT DÂN HUẾ 1968
    ĐẾN THẢM SÁT DÂN LÀNG BA CHÚC 1978


    Việt cộng Thảm sát 3157 đồng bào Làng BA CHÚC ,Tỉnh An Giang
    Đêm 18 Tháng 4 1978

    Nếu thật sự có quân Khmer Rouge tàn sát dân Việt từ ngày 18 tháng 04 cho đến ngày 29 tháng 04 năm 1978,th́ tại sao các đơn vị của sư đoàn 330 đang đảm nhiệm việc thành lập tuyến pḥng thủ và trấn đóng tại huyện Tri Tôn (làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn), lại không thể nghe hay phát hiện ra biến cố trong đêm 18 tháng 04 năm 1978.???

    Ai đă ra lệnh tập trung tất cả 3.157 thường dân vào trong các chùa và trường học.??? Để bắn giết tàn sát hàng loạt dân làng Ba chúc???

    Điều nầy khác hẳn với phương thức giết người theo kiểu “Cáp-Duồng” của người Miên, nghiă là tàn sát dân Việt Nam tại chổ, gặp đâu giết đó.

    Đă là có ít nhất 2.000 tiếng đạn phát nổ đă được bắn xả vào dân trong đêm tối ..!!



    Bản Đồ Ba Chúc và Doanh trại Sư Đoàn 330 (Xem tỉ lệ khoảng cách)



    Vết máu của các nạn nhân văng tung tóe trên tường

    Tiếng súng AK47 nỗ rất chát chúa “bắkk..bắkk..bắkk ..” làm sao những bộ đội sư đoàn 330 lại không nghe,không biết được khi những tiếng súng AK47 nỗ một cách ghê rợn trong đêm trường vắng lặng.

    Có hơn trên 2.000 tiếng súng và tạc đạn nổ phát trong đêm vắng mà phải đợi tới 12 ngày sau bà HTN mới được cứu sống ???

    -Theo tài liệu cùng với những nhân chứng địa phương, chính sư đoàn 330 hay c̣n gọi là sư đoàn 30 đă thực hiện cuộc tàn sát nầy và CSVN đă chọn địa điểm làng Ba Chúc

    [CENTER]

    V́ sao Việt cộng dă man đă ném đá dấu tay:

    V́ nơi đây là nơi phát tích cuả giáo phái “Bửu Sơn Kỳ Hương” do đức Phật Thầy Tây An sáng lập ra và Phật Giáo Hoà Hảo là giáo phái đă được thừa truyền y bát với số tín đồ trên 7 triệu người đă trăi rộng ra khắp miền Tây Việt Nam.

    Đúng là sự huyền nhiệm của vùng “Địa Linh Nhân Kiệt Thất Sơn” đă khiến cho bà HTN sống c̣n để trỡ thành nhân chứng sống.




    Với chủ đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” bao gồm:

    Ân Tổ Quốc. Ân Thầy. Ân Cha Mẹ. Ân Đồng Bào.

    Kỳ diệu thay lại phù hợp với chủ đạo Việt tộc trong tôn giáo “Thờ Cúng Ông Bà, Tổ Tiên”.

    Nghiă là dưới bộ áo cà sa của “Bửu Sơn Kỳ Hương” lại ẩn tàng một “Gươm Thiêng Bảo Quốc”.




    Đây là lư do tại sao cả Trung cộng lẫnViệt cộng t́m cách tiêu diệt giáo phái Phật Giáo Hoà Hảo nầy cho bằng được, kể từ 1939 cho đến ngày hôm nay.

    Hành tŕnh Đạo Cao Đài từ 1975 (phần 1 - 4)

    Phần âm thanh (1)[AUDIO]http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-CaoDai-itinerary-from-1975-part1-TGiao-06182008160318.html/vtgiao061808.mp3/inline.html[/AUDIO]
    Phần âm thanh (2)[AUDIO]http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Trials_of_Caodaism_p art2_RFA-06202008124537.html/vRFA_CaoDai%202_0806 18p.mp3/inline.html[/AUDIO]
    Phần âm thanh (3)[AUDIO]http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Caodaism_part3_RFA-06202008152600.html/vRFA_CaoDai%203_0806 19p.mp3/inline.html[/AUDIO]
    Phần âm thanh (4)[AUDIO]http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/CaoDai_part4_RFA-06262008164718.html/vRFA_CaoDai%204_0806 19p.mp3/inline.html[/AUDIO]



    Nguyễn Văn Vàng thuật lại câu chuyện thảm sát nói trên.
    Ai là thủ phạm của vụ thảm sát tại làng Ba Chúc? Tại sao lại có vụ thảm sát đó?
    Con số nạn nhân vô tội gồm toàn phụ nữ và trẻ em tại chùa Phi Lai lên đến bao nhiêu người?


    http://suutamlichsu.blogspo t.com/2007/02/su-ap-ba-chuc-bvn-2.html

    * Tài liệu trích từ James Pringle International Herald Tribune.
    http://www.iht.com/bin/print_ipub.php?file=/articles/2004/01/07/edpringle_ed3_.php

    Trong phần tài liệu cuả James Pringgle nấy có những dữ kiện sau đây đă tạo thành nghi vấn:

    Có 2 người con gái rất đẹp“Chinese beauties, từ ngữ cuả James Pringle” đi cùng với toán quân Khmer Rouge nhưng lại không nói được tiếng Việt lẫn tiếng Khmer Rouge. Điều chắc chắn là 2 người con gái nầy không xuất xứ từ Miên v́ Pol Pot đă tàn sát hấu hết những người dân trong vùng.

    -Tất cả nạn nhân đều bị bắn chết trong chùa và trường học, riêng bà H.T.N. lại bị bọn Khmer Rouge mang cả gia đ́nh đi về phiá biên giới Việt-Miên rồi mới giết.

    -Người con gái của bà HTN bị đập vào đầu 3 lần bằng báng súng (James Pringle dùng từ ngữ “struck”) cho thấy sự tàn nhẫn cuả toán người nầy.

    Điều nầy khác với phương thức giết người theo kiểu “Cáp-Duồng” của người Miên, nghiă là tàn sát dân Việt Nam tại chổ, gặp đâu giết đó.

    Tuy nhiên bà H.T.N may mắn vẫn c̣n sống và được quân CSVN "cứu" sau 12 ngày đêm bị thương!!!
    (Trích tài liệu cuả ông Nguyễn Vỉnh Long Hồ)

    - “Mở Lại Hồ Sơ CSVN Thảm Sát Đồng Bào Làng BA CHÚC, Tỉnh Anh Giang Đêm 18-04-1978.”

    Qua bài viết nầy chúng tôi cố gắng giải đáp một nghi vấn là:

    Ai đă giết chết 3.157 mạng người dân làng Ba Chúc vô tội?

    1) Miên cộng (Khmer Rouge) Polpot đă ra tay tàn sát dân lành ?

    Hay:

    2) T́nh báo cục Đông Dương của Trung Cộng điều hành cuộc tàn sát đă nói qua bàn tay của bộ chính trị CSVN, những quan thái thú TC hiện đang ngự trị trên đầu dân chúng Việt Nam thừa lệnh thiên triều TC để thi hành việc dâng đất, dâng biển Việt Nam cho TC? Qua các cơ quan có tên là TC2, T4 ???

    Mọi người ai cũng hiểu là CSVN đă chịu rất nhiều áp lực từ phía TC v́ thế nên phải lép vế đi theo chỉ đạo của TC, tuy nhiên cho đến nay không ai trong đất nước Việt Nam có một thái độ khẳng định dứt khoát là bộ chính trị CSVN chính là một hệ thống thái thú hiện đại của TC đặt tại Việt Nam, từ bộ chính trị xuống tới làng xă .

    Đây là “mấu chốt vấn đề” cho cả một dân tộc thế mà không một ai trong đất nước Việt Nam dám nh́n nhận cái sự thật nầy.

    Trong bài viết của giáo sư Lâm Lễ Trinh về trận chiến Hoa Việt cho thấy nguyên nhân của cuộc chiến là do sự tranh dành ảnh hưởng của hai phe thân Nga cộng và Tàu cộng . Rất đúng. Điều nhận xét của giáo sư Lâm Lễ Trinh và nhận xét của cả công luận báo chí trên thế giới rất đúng.

    Tuy nhiên có một vấn đề mà cho đến nay chưa một ai hay những tác giả của những bài báo nêu lên hay đào sâu vào, đó là vấn đề :

    “T́nh báo chiến lược Đông Dương của Trung cộng”

    Liệu phe CSVN thân Nga có thật sự theo Nga cộng hay không ? hay chỉ là trá h́nh theo Nga để thu nhận tin tức t́nh báo cùng những tài liệu kỷ thuật của Nga rồi chuyển về cho TC để TC có thể hiện đại hóa quân sự và tiến hành mộng bành trướng của TC?

    Trong quyển sách “Một Ngàn Giọt Lệ Rơi” của bà Đặng Mỹ Dung đă cho chúng ta thấy rơ điều nầy là t́nh báo CSVN chỉ hoạt động có lợi cho Trung Cộng mà thôi.

    Dưới đây là những dữ kiện của cuộc thăm sát 3.157 thường dân Việt Nam và Khờ-Me (Khmer).

    * Tài liệu của ông Nguyễn Vĩnh Long Hồ.

    - Nhà Mồ Ba Chúc được xây dựng giữa chùa Phi Lai và chùa Tam Bửu được nhà nước CSVN công nhận là “Di Tích Căm Thù” vào năm 1980 để đánh dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Polpot từ ngày 18/04/1978 cho đến ngày 29/04/1978. (Theo tài liệu của CSVN th́ Khmer đỏ đă tràn sang biên giới tàn sát dân lành VN từ 18/04/1978 cho đến 29/04/1978.)

    - Ngày 18 tháng 04 năm 1978 CSVN đă tàn sát 3.157 mạng người trong các ngôi chùa, trường học tại làng Ba Chúc các biên giới Việt-Miên khoảng 7 km.



    The Bone Pagoda. Ba Chúc, Tịnh Biên

    Nhà mồ đă được xây theo h́nh bát giác (8 cạnh cuả bát quái đồ).

    Tại sao không xây theo h́nh tṛn, h́nh vuông, h́nh chử nhật mà phải là h́nh bát giác ?

    Đây có phải là một phương thức trấn ếm cuả Tàu cộng để triệt tiêu linh khí cuả miền Nam mà đại diện là ngành phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương do đức Phật Thầy Tây An sáng lập và giáo phái thừa truyền là Phật Giáo Hoà Hảo với chủ đạo Tứ Ân.

    Đây có lẽ cũng là nguyên nhân chính mà CSVN đă cố tâm tàn sát tất cả những tín đồ cuả Phật Giáo Hoà Hảo trong khu vực miền Tây mà đức thầy Huỳnh Phú Sổ là người đại diện cho tôn giáo nầy.

    Một phần khu Thất Sơn trên website dưới đây.


    -Theo tiết lộ cuả Hoàng Tùng, uỷ viên bộ chính trị CSVN, bộ chính trị CSVN đă có ư đồ chiếm Cambodge từ năm 1970-1972. (Đây có lẽ là thời điểm mà 2 phe thân CSVN và thân TC đă được thành h́nh)

    -Phe thân Nga gồm: Lê Duẩn, Vơ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dủng, Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười….

    -Phe thân TC gồm: Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng…

    -Tháng 09 năm 1975 Sihanouk và Khiêu Samphan, chủ tịch nước Khmer Rouge đến Hà Nội dự lễ quốc khánh cuả CSVN.


    Ngày 23 /4/ 2008. Khieu Samphan trước Ṭa án Quốc tế với Tội danh Diệt chủng

    Ieng Sary trước Ṭa án Quốc Tế Ngày 30/6/2008

    -Tháng 03 năm 1977 leng Sary, ngoại trưởng Khmer Rouge sang Bắc Kinh. Trong buổi tiếp tân có phó thủ tướng TC Lư Tiên Niệm, tổng tham mưu phó QĐTC Vương Thăng Long.

    -Tháng 04 năm 1977, trong buổi tiếp tân tại Toà Đại sứ Cambodge, ngoại trưởng TC Hoàng Hoa công khai tuyên bố: “nước Cambodge đang bị kẻ thù phá hoại và Trung Hoa sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn cuả các lân bang”. (Lời tuyên bố nầy đă khơi màu cho cuộc chiến Việt-Trung 1979-1991)

    Cambodge tấn công vào những làng, xă và những thị trấn dọc biên giới thuộc tỉnh An Giang, Châu Đốc hai tuần sau, ngay vào ngày CSVN đang ăn mừng “Mùa Xuân đại thắng 1975” (30-04-1977?).

    -Ngày 27 tháng 09 năm 1977 Pol Pot tuyên bố vai tṛ chủ tịch đảng lănh đạo tổ chức Angka là đảng cộng sản Cambodge. Một ngày sau Pol Pot lên đường đi Bắc Kinh và B́nh Nhưỡng với tư cách là chủ tịch đảng.


    POL POT chết ngày 15 tháng 4/1998.

    Ba ngày trước (24-09-1977?)chuyến đi, Pol Pot đă ra lệnh cho quân đội Quân Khu Đông tấn công vào Tây Ninh. CSVN không cho quân đội phản công.


    -Cách chức tướng tư lệnh “quá khích” Trần Văn Trà!.
    (Thay Lê Đức Anh vào để thi hành kế hoạch cuả t́nh báo Trung cộng là giử quân CSVN, 10-15 sư đoàn tại Cambodge, để Trung cộng rănh tay tiến chiếm miền Bắc Việt Nam)


    (Nhân vật Lê Đức Anh là mấu chốt, xuất xứ cuả cuộc chiến Việt-Trung 1979-1991, cũng để tạo nên những nghi kỵ giửa Việt Nam và Cambodge qua vụ giết oan những cán bộ cuả Cambodge, phe thân VN do TC2 điều khiển.)

    -Phan Hiền bí mật sang Bắc Kinh nhờ TC dàn xếp. Không thành công.
    TC nhất quyết ủng hộ Cambodge và chở vũ khí, chiến cụ ồ ạt tới cảng KomphongSom.

    -Cuối năm 1977, quân đội CSVN tấn công thăm ḍ vào sâu trong lănh thổ Cambodge, bị quốc tế lên án nên buộc phải rút quân về ngày 06 tháng 01 năm 1978.

    -Đầu tháng giêng năm 1978, sư đoàn 2 và sư đoàn 210 của quân khu tây nam Cambodge đă tấn công và chiếm đóng các xă Phú Cường, Khánh An, Khánh B́nh, các huyện Hồng Ngự, Hà Tiên thuộc lănh thổ quân khu 9 Việt Nam.

    -Tướng Trần Nghiêm, tư lệnh phó cuả Lê Đức Anh, được đề bạt làm tư lệnh quân khu 9 điều động các sư đoàn 4, 8, 330 cùng với 2 trung đoàn cơ động cuả hai tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp.

    Sư đoàn 341, tư lệnh Vũ Cao, được điều từ quân khu 7 đến tăng phái cho quân khu 9.

    Với sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp và với quân số áp đảo 4 sư đoàn: 4, 8, 330 341 cùng 2 trung đoàn cơ động để phản công mà mải tới 2 tháng sau CSVN mới có thể đánh bật sư đoàn 2 và sư đoàn 210 của Cambodge ra khỏi lănh thổ Việt Nam!.

    -Sư đoàn 330 CSVN (chính sư đoàn nầy là thủ phạm tàn sát 3.157 người dân ấp Ba Chúc) trấn đóng huyện Tri Tôn để tạo thành tuyến pḥng thủ tại đây.

    -Cuộc thanh trừng nội bộ thuộc Quân Khu Đông Cambodge đă xăy ra từ tháng 03 năm 1978 cho tới ngày 24 tháng 05 năm 1978 khiến cho sư đoàn 4 cuả Cambodge bị xoá sổ, những sư đoàn 3, 5, 280 suy yếu dần.
    Ngày 18 tháng 04 năm 1978 xăy ra cuộc tàn sát đẩm máu của 3.157 nhân mạng thường dân vô tội, trong đó bao gồm cả dân chúng Việt lẫn Miên trong các ngôi chùa và trường học thuộc làng Ba Chúc.

    Cuộc tàn sát đă xảy ra trong khi Quân Khu Đông Cambodge có biến động thanh trừng lẫn nhau, có lẽ giửa hai phe thân Trung Cộng và thân CSVN.!!

    Đây quả thật là một sự trùng hợp kỳ cục , !!???

    Chuyện bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước. Khi Lê Đức Anh xuất hiện nhiều trên Chính trường, có một người tên là Hồng đă nhận ra Lê Đức Anh chính là "Viên Cai Anh" ở đồn điền cao su Phú Riềng khét tiếng tàn ác, đă đánh ông mà trên lưng vẫn c̣n vết sẹo hằn sâu đến bây giờ. Ông đă viết đơn và trực tiếp mang đến Ban tổ chức Trung ương, tố cáo "Lê Đức Anh là cai phu đồn điền, không phải là đảng viên, nhưng đă chui vào Đảng..." ! UB KTTW đă đi điều tra xác minh. Kết quả : Đ/c bí thư chi bộ ở địa phương hồi đó đă khẳng định: "Từ 1938 đến 1945, chi bộ không kết nạp ai và trong chi bộ không có ai tên là Lê Đức Anh" !

    Hay đây là một cuộc đấu trí, đấu sức giữa t́nh báo TC và t́nh báo CSVN mà Lê Đức Anh làm đạo diễn (dưới bàn tay TC2, T4) qua những vụ án Xiêm Rệp (1983), vụ án Sáu Sứ (1991).

    Lê đức Anh 16-6-2008 dự tang Vơ văn Kiệt. (Tê liệt sau cơn bịnh bại năo)

    Tài liệu TC2

    Bằng cách giam khoảng 10-15 sư đoàn quân CSVN tại Cambodge, để cho quân TC có dịp tràn sang biên giới phiá Bắc Việt Nam ngày 17 tháng 02 năm 1979 và khởi chiến (cuộc chiến diệt chủng) với 2 quân đoàn Quảng Tây, Vân Nam và sau đó là 7 quân đoàn c̣n lại cuả TC, thay phiên nhau tấn chiếm suốt dọc chiều dài vùng biên giới phía bắc Việt Nam từ 1979-1991, để rồi bộ chính trị CSVN nhượng lần đất và biển cho TC?!.

    -Ngày 15 tháng 06 năm 1978, các sư đoàn 7, 9, 341 cùng các đơn vị yễm trợ đă tràn sang Cambodge và chỉ rút quân về vào cuối năm 1989 (tháng 09/1989, tài liệu “Hồi Kư Trần Quang Cơ”.)

    -Ngày 17 tháng 02 năm 1979 chiến tranh Việt – Trung khởi đầu và chỉ chấm dứt sau năm 1991, dẫn đến việc mất những vùng đất biên giới phiá bắc Việt Nam và những vùng biển từ Bắc Bộ kéo dài xuống Trường Sa.

    * Tài liệu trích từ “Hồi Kư Trần Quang Cơ”. 1975-1991

    “Án Sử Cuộc Chiến Việt – Trung” không thể kết thúc tại đây v́ nó quan trọng cho cả dân tộc Bách Việt, mong rằng các bậc thức giả Việt Nam trong và ngoài nước cùng nhau đi t́m những đáp án cho dân tộc.

    http://suutamlichsu.blogspo t.com/2007/02/su-ap-ba-chuc-bvn.html
    http://suutamlichsu.blogspo t.com/2007/02/su-ap-ba-chuc-bvn-2.html


    Chú thích: CSVN đă biết rơ TC sẽ tấn công VN thế nhưng CSVN vẫn giam chết những đơn vị thiện chiến tại chiến trường Cambodge, để cho tiêu hao binh lực, và chỉ phản công khi quân TC đă tràn sang biên giới, để cho TC tiến hành cuộc chiến “genocide” nghiă là “diệt chủng” dân Việt Nam. Mặt trận Lạng Sơn-Cao Bằng, mặt trận Hà Giang, Vị Xuyên với 3.700 tử sỉ đă bị bộ chính trị CSVN bán đứng, Mặt trận Lào Cai-Lai Châu là những bằng chứng cụ thể cho thấy bộ chính trị CSVN đă bán đứng đất nước, bán đứng dân tộc Việt Nam.

    Ngày 29.8.90, đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp TBT Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười chuyển thông điệp của TBT Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày 3.9.90 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề b́nh thường hoá quan hệ hai nước. Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu B́nh có thể gặp anh Tô. Trung Quốc c̣n lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ chức ASIAD (Á Vận hội) nên không gặp cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh được v́ khó giữ được bí mật, mà gặp ở Thành Đô.

    Đây quả là một sự chuyển biến đột ngột của phía Trung Quốc. Trước đây Trung Quốc nói không chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia mới gặp cấp cao ta và mới bàn vấn đề b́nh thường hoá quan hệ. Năm ngày trước – ngày 24.8.90 - Trung Quốc c̣n bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại mời ta gặp cấp cao trong một thời hạn rất gấp và đồng ư cấp cao sẽ nói chuyện về cả hai vấn đề Campuchia và vấn đề b́nh thường hoá quan hệ.

    Thái độ “thiện chí” gấp gáp như vậy của Bắc Kinh không phải tự nhiên mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân tố bức bách.

    Chú thích: Trong giai đoạn nầy, năm 1990, chiến trận Việt-Trung sắp sửa kết thúc. TC đă chiếm khá nhiều đất cuả Việt Nam và đă buộc CSVN phải chấp nhận lập lại cột mốc biên giới mới. Cũng xin nói rơ là cho đến năm nầy 1990 TC vẫn chưa tháo gở bài ḿn dọc theo biên giới Việt-Trung. TC đă không thực hiện đúng như lời tuyên bố với thế giới là gở ḿn hoàn toàn, mà chỉ “seal” rào kín khu vực rồi để đó, nghiă là chỉ để bản “Khu Vực Ḿn Bẩy Cấm Vào”. Để sau nầy bắt CSVN phải chấp nhận khu vực ḿn bẩy nầy là lănh thổ của TC. Cuộc họp cấp cao tại Thành Đô chỉ với mục đích đó mà thôi.

    Từ 17 đến 27.6.91 Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội lần thứ VII đưa lại nhiều thay đổi quan trọng về nhân sự: Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm TBT; Lê Đức Anh nay nghiễm nhiên giữ vị trí thứ 2 trong Đảng, Uỷ viên thường trực BCT kiêm bí thư trung ương phụ trách cả 3 khối quốc pḥng – an ninh – ngoại giao và lên chức Chủ tịch nước. Vơ Văn Kiệt được giới thiệu với Nhà nước cử làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Đào Duy Tùng thường trực Ban bí thư. Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng nắm bộ phận thường trực của Bộ Chính trị và của Ban Bí thư. Đại tướng Vơ Nguyên Giáp bị gạt ra khỏi chức uỷ viên Trung ương. C̣n Nguyễn Cơ Thạch bị bật ra khỏi Bộ Chính trị và chuẩn bị thôi chức Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao... (thực ra những thay đổi về nhân sự trong BCT đă được quyết định từ tháng 5 và Trung Quốc đă biết).


    Dư luận quốc tế xôn xao cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là “vật tế thần” trong việc Việt Nam b́nh thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó mới chỉ là một cách nói đơn giản v́ vấn đề không chỉ là b́nh thường hoá quan hệ mà là phụ thuộc hoá quan hệ.

    Chú thích: Đây là lúc quê hương đang bước vào giai đoạn nguy kịch v́ Lê Đức Anh đă, đang và sẽ lũng đoạn đất nước theo chiều hướng dẩn cuả Trung cộng. Kết cuộc là những phần đất và biển đă lọt vào tay Trung cộng một cách êm thấm

    Sau Đại hội VII, mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà nước đều do Hồng Hà, bí thư TƯ, phụ trách đối ngoại, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Đức Anh và tất nhiên được sự tán thưởng của TBT Đỗ Mười, quyết định. Những phần công việc xưa nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối ngoại chủ tŕ. Một thí dụ điển h́nh về v́ ư đồ cá nhân họ sẵn sàng bỏ qua danh dự và quốc thể: Ngày 5.8.91, tại cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố: ‘Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh’. Lê Đức Anh cho biết khi ở Trung Quốc, Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu Lương có đề nghị: v́ lư do kỹ thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua Trương Đức Duy. Hôm sau, Hồng Hà với tư cách Trưởng ban Đối ngoại tiếp Đại sứ Campuchia Ouch Borith, đă thông báo: “Theo sự phân công của BCT Việt Nam, từ nay đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà sẽ phụ trách việc thảo luận giải pháp Campuchia và các vấn đề liên quan. Nếu lănh đạo Campuchia muốn bàn các vấn đề trên th́ đề nghị quan hệ và thảo luận trực tiếp với 2 đồng chí đó.

    Ngày 9.7.91, vừa được bầu làm TBT, Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy tỏ ư muốn cử đặc phái viên đi Bắc Kinh để thông báo về Đại hội VII và trao đổi về quan hệ giữa hai nước. Trước đó ít ngày–ngày 11.6.91 – Bộ Ngoại Giao ta cũng đă gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao hai nước. Ngày 17.7, Trung Quốc trả lời đồng ư gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh từ 5.8 đến 10.8. Hai ngày sau, Trung Quốc trả lời đồng ư việc ta cử đặc phái viên gặp lănh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp xếp cuộc gặp đặc phái viên Đảng trước cuộc gặp thứ trưởng ngoại giao… Việc làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác muốn dùng những thoả thuận với cấp đặc phái viên để ép ta trong cuộc gặp cấp thứ trưởng ngoại giao. Để đề cao công việc này, phía Trung Quốc đă đề nghị thay chữ “đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” tuy Đoàn chỉ có 2 thành viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà. Hồng Hà lúc đó là bí thư TƯ, phụ trách đối ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại giao có đề nghị có một thứ trưởng ngoại giao là uỷ viên TƯ đi với đoàn để nắm t́nh h́nh vận dụng vào cuộc đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự các hoạt động của đoàn, trong khi đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Trương Đức Duy lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại Trung Quốc.



    Thời điểm nầy Lê Đức Anh phe đảng và t́nh báo Trung cộng đă hoàn toàn thống trị đảng CSVN cho đến ngày hôm nay.



Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 5
    Last Post: 08-05-2011, 11:25 AM
  2. Replies: 4
    Last Post: 02-05-2011, 08:06 PM
  3. QUỐC HẬN 30 THÁNG 4 - Phần 7 : ( BOAT PEOPLE ) Thuyền Nhân Việt Nam
    By nguoibatcao in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 7
    Last Post: 26-04-2011, 09:33 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 26-04-2011, 06:44 AM
  5. QUỐC HẬN 30 THÁNG 4 - BLACK APRIL
    By nguoibatcao in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 4
    Last Post: 23-04-2011, 02:06 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •