Results 1 to 4 of 4

Thread: TƯỜNG THUẬT CỦA MỘT CHỨNG NHÂN TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA Ngày 19/01/1974

  1. #1
    An Loc Đia
    Khách

    TƯỜNG THUẬT CỦA MỘT CHỨNG NHÂN TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA Ngày 19/01/1974

    Đặng Quốc Tuấn



    Kính thưa quư vị, quư đồng hương,
    Chúng tôi hân hoan chào đón quư vị, chúng tôi cảm thấy hân hạnh về sự hiện diện đông đảo của quư vị, và rất hănh diện khi được tiếp đón quư vị.
    Trước tiên, chúng tôi xin chân thành cảm tạ quư anh trong nhóm Vinh Danh Cờ Vàng, đă bỏ rất nhiều công sức tổ chức ngày Hoàng Sa năm nay, tạo điều kiện để chúng ta gặp gỡ, trao đổi nhau những kinh nghiệm trong những ngày lưu vong, tưởng nhớ đến ngày 19-01-1974, 37 năm về trước ngày xảy ra trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa, và đặc biệt là truy điệu các chiến sĩ đă bỏ ḿnh trong trận hải chiến.
    Với tư cách là một chứng nhân, đă tham dự trực tiếp trận đánh, tôi sẽ cố gắng tŕnh bày chi tiết một cách khách quan để hầu chuyện cùng quư vị những điều mắt thấy tai nghe, mấy lúc sau này, có rất nhiều sách và tài liệu viết về trận hài chiến, đă đề cập đến nhóm đổ bộ chúng tôi trên đảo Vĩnh Lạc (Money), khi đối chiếu các tài liệu, sách vở, các bài viết này tôi nhận thấy có nhiều sự lệch lạc, chẳng hạn một số sách cho nhóm chúng tôi 15 người, có sách viết 12 người, hoặc 8 người, chúng tôi là nhóm Biệt Hải người nhái, có tài liệu viết nhóm chúng tôi đào thoát trên biển 15 ngày, hoặc 12 ngày hay 8 ngày, thậm chí có bài viết huyền hoặc là nhóm chúng tôi được cá Ông hoặc cá Voi đưa vào gần bờ. Nay tôi xin đính chánh lại là nhóm đổ bộ chúng tôi gồm 10 người là nhân viên cơ hữu của tuần dương hạm Lư thường Kiệt HQ16, chớ không phải là Biệt Hải người nhái như một số sách đă viết, chúng tôi chỉ giữ một vai tṛ khiêm nhường trong trận đánh, đó là nhận lệnh đổ bộ lên đảo Vĩnh Lạc (Money), phá hủy và gom góp các chứng cớ ngụy tạo, nhổ cờ Trung Cộng và dựng lại cờ vàng Việt Nam Cộng Ḥa, tổ chức pḥng thủ trên đảo, sau trận hải chiến, trước hỏa lực mạnh mẽ của Trung Cộng để chuẩn bị cho lính của họ đổ bộ, chúng tôi đào thoát bằng xuồng cao su lênh đênh trên biển 10 ngày và được một tàu đánh cá Việt Nam cứu vớt tại Mũi Yến ở Qui Nhơn.

    CUỘC ĐỜI QUÂN NGŨ

    Tôi xin bắt đầu với cuộc đời quân ngũ của chính tôi.
    Tôi xin tự giới thiệu, tôi là một cựu quân nhân Hải Quân QLVNCH, tôi nhập ngũ ngay sau Tết Mậu Thân, vào khoảng tháng 3 năm 1968, sau khóa căn bản quân sự tại Trung Tâm Huấn Luyện HQ Cam Ranh, tôi được đưa về học hải nghiệp ở Trung Tâm Hải Quân Nha Trang ngành Giám Lộ. Sau khi tốt nghiệp, khoảng tháng 12.1968 tôi được thuyên chuyển đến giang đoàn 513 PBR và tiếp đó là 512 PBR Hải Quân Hoa Kỳ đồn trú tại căn cứ Hải Quân Rạch Sỏi Rạch Giá (PBR là chữ tắt của Patrol Boat River).Đây là loại giang tốc đỉnh trang bị vũ khí mạnh với vận tốc cao khoảng 30 knots tức khoảng 55 km/giờ, toàn chiến trường sông ng̣i Việt Nam lúc ấy có khoảng 250 chiến đỉnh PBR, đây là giai đoạn chuẩn bị Việt Nam hóa chiến tranh của Hoa Kỳ, tháng 06.1969 hai giang đoàn Hoa Kỳ trên được gộp lại bàn giao và h́nh thành giang đoàn 55 Tuần Thám thuộc lượng Tuần Thám Hải Quân Việt Nam (lực lượng này gồm 15 giang đoàn ). Sau đó giang đoàn 55 tuần thám này được chuyển đến căn cứ Hải Quân Cái Dầu ở Châu Đốc tham dự chiến dịch hành quân ở kinh Vĩnh Tế, đây là chiến trường lớn của vùng 4 chiến thuật với sự tham dự của hầu hết các quân binh chủng QLVNCH.
    Khoảng tháng 10.1971, giang đỉnh tôi bị trúng đạn phóng lựu B40, tôi bị thương được đưa về điều trị tại Quân y Viện Châu Đốc, sau hơn 2 tháng trị liệu, tôi được lệnh tŕnh diện pḥng nhân viên Bộ Tư Lệnh Hải Quân Sài G̣n để làm thủ tục qua Mỹ nhận lănh HQ16 Lư Thường Kiệt theo chương tŕnh Việt nam hóa chiến tranh, chúng tôi gồm 2 nhóm, nhóm đầu 40 người đă đi trước đó hơn 1 tháng, nhóm 2 trong đó có tôi gồm 37 người khởi hành khoảng đầu năm 1972, về lai lịch của chiến hạm HQ16 này đại khái như sau: hạ thủy năm 1942 thuộc lực lượng Tuần Dương Hoa Kỳ (WHEC), ngay sau khi hạ thủy trực tiếp tham dự chiến trường Bắc Đại Tây Dương thời Đệ Nhị thế chiến, sau đó v́ nhu cầu tân trang hóa của Hải Quân Hoa Kỳ, chiến hạm này đă lỗi thời, bị đem vào bỏ neo ở băi phế thải tàu cho đến khi chúng tôi qua tiếp nhận, tàu được kéo vào ụ, sơn phết, thiết kế Rada, gắn máy móc,trang bị vũ khí sau đó chiến hạm này hải hành về Việt Nam nhận lănh trách nhiệm tuần tiểu và bảo vệ lănh hải Việt Nam. Riêng tôi là nhân viên Giám Lộ phục vụ tại Trung Tâm Chiến Báo trên chiến hạm Lư thường Kiệt HQ16 từ lúc ấy cho đến ngày xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa.
    Ngày 14-01-1974, tuần dương hạm Lư thường Kiệt HQ16, lúc ấy đang cập bến Tiên Sa tại căn cứ Hải Quân vùng 1 Duyên Hải ở Đà Nẳng, chúng tôi được lệnh ra công tác ngoài quần đảo Hoàng Sa, chở theo 1 thiếu tá bộ binh tên là Hồng (tôi đọc được nhờ vào bảng tên gắn trước ngực ), 4 tùy viên quân sự thuộc Quân Đoàn 1, Tiểu khu Quảng Nam, 1 cố vấn Mỹ mặc thường phục măi về sau này khi nằm điều trị ở Quân Y Viện Qui Nhơn, tôi mới biết tên ông ta là Gerald Kosh.Về hành lư của người Mỹ dân sự này, chúng tôi thấy có điều kỳ lạ, bởi v́ ngoài túi xách quần áo thông thường, c̣n có một số dụng cụ và máy móc đo đạc và một thùng chất nổ TNT, chúng tôi bày tỏ sự lo ngại về thùng TNT với ông Kosh th́ ông ta bảo đảm 100% an toàn bởi v́ ng̣i nổ vẫn c̣n ở trong xách tay của ông ta, c̣n về các máy móc dụng cụ đo đạc, th́ một người bạn cùng tàu có vẻ rành rẽ về việc này đă giải thích với chúng tôi,đó là các máy địa chấn kư và máy ghi nhận tín hiệu cũng như máy vẽ biểu đồ về sự rung chuyển trong ḷng đất, anh bạn này c̣n quả quyết là người Mỹ này sẽ ḍ t́m dầu hỏa ở vùng quần đảo Hoàng Sa, anh em chúng tôi nghe sự giải thích này có vẻ hợp lư và suôi tai nên không thắc mắc hỏi thêm nữa.
    Tàu khởi hành lúc chiều tối ngày 14-01-1974 và đến Hoàng Sa vào buổi sáng ngày 15-01-1974. Khi đến nơi, tàu liên lạc vô tuyến với nhóm Địa Phương Quân trên đảo và họ lái xuồng ra rước viên thiếu tá bô binh, mấy tùy viên quân sự và người Mỹ dân sự lên đảo, kế tiếp tàu rời đảo Hoàng Sa, hải hành ra xa và sau đó thả trôi trong khi chờ đợi đưa những người khách về lại Đà Nẵng.

    NGÀY 16-01-1974.
    Khoảng 10 giờ sáng ngày hôm sau 16.01.1974 một người bạn giám lộ đang trực phiên trên đài chỉ huy chiến hạm phát hiện trên màn ảnh Rada 1 vệt nhỏ đang di chuyển về hướng đảo Quang Ḥa (Duncan), chúng tôi dùng ống ḍm quan sát, nhưng vẫn không thấy được v́ quá xa, sĩ quan trưởng phiên báo cáo với hạm trưởng và cho khởi động máy tàu chạy về hướng đảo Quang Ḥa (Duncan), khi gần đến, chúng tôi quan sát từ đài chỉ huy mới thấy vệt nhỏ trên màn ảnh Rada lúc năy là một tàu Trung Cộng ngụy trang đánh cá, sơn mầu xanh lá cây đậm, vỏ bằng sắt, trang bị đại bác 25 ly, chiến hạm dùng quang hiệu yêu cầu tàu Trung Cộng rời khỏi lănh hải VNCH, tàu này không trả lời, sau đó chiếm hạm tiến lại gần th́ tàu Trung Cộng mới rời khỏi hải phận Hoàng Sa, chạy về hướng Đông-Bắc. HQ16 chúng tôi quan sát trên đảo Quang Ḥa, mới phát hiện đảo này đă bị chiếm đóng, trên đảo có mấy dăy nhà gỗ, có cḥi canh vọng gác cao, cắm cờ Trung Cộng, có rất nhiều người di chuyển qua lại h́nh như họ đang xây cất thêm doanh trại.
    HQ.16 gọi máy về Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải báo cáo mọi sự việc. Chúng tôi nhận được chỉ thị đi quan sát các đảo khác trong quần đảo và ghi nhận các sự kiện sau :

    - Đảo Duy Mộng (Drummond) và Đảo Cam Tuyền (Robert) không có người, nhưng có cắm cờ Trung Cộng. Riêng đảo Duy Mộng (Drummond) có 2 tàu nhỏ , từ mũi đến lái có trang bị 3 giàn súng, tất cả được phủ lên bằng lưới đánh cá để ngụy trang, do đó chúng tôi không quan sát được dó là loại vũ khí ǵ, đang bỏ neo sát bờ.

    - Đảo Vĩnh Lạc (Money) v́ có nhiêu rừng cây cao nên HQ16 quan sát từ phía Tây vẫn không thấy suốt bờ phía Đông của đảo, do đó HQ16 phải hải hành ṿng qua bờ phía Đông của đảo, khi dùng ống ḍm quan sát, chúng tôi thấy có cắm nhiều cờ Trung Cộng.

    HQ16 báo cáo các sự việc về Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải, và nhận lệnh tuần tiểu trong vùng ḷng chảo, đề cao cảnh giác chờ lệnh mới. Chiều ngày 16-01-1974, chúng tôi được tin Khu trục hạm HQ4 (Trần khánh Dư) sẽ ra tăng cường và tối ngày hôm đó HQ4 rời Đà Nẳng trực chỉ Hoàng Sa mang theo nhóm Biệt Hải người nhái gồm 25 người.

    NGÀY 17-01-1974.
    Lúc 08.00h ngày 17-01-1974 chúng tôi nhận lệnh đổ bộ lên đảo Vĩnh Lạc (Money). Đảo Vĩnh Lạc này chỉ là đảo nhỏ trong quần đảo Hoàng Sa, đảo có chiều dài khoảng 1Km, chiều ngang 0,5km, trên đảo có rừng cây cao. Toán đổ bộ chúng tôi gồm 10 người, sự chọn lựa này có tính cách ngẫu nhiên, các ban ngành đề cử 1 người cho toán đổ bộ, danh sách 10 người này tôi vẫn c̣n nhớ, mặc dù đă trôi qua 37 năm, vài người trong nhóm tôi có liên lạc sau này, nhóm đổ bộ 10 người chúng tôi gồm:

    1/- Lâm trí Liêm (trung úy), trưởng toán.
    2/- Nguyễn ngọc Cẩn (điện khí).
    3/- Nguyễn văn Duyên (quản kho).
    4/- Trần Phừng (vô tuyến).
    5/- Nguyễn trọng Tuấn (điện tử).
    6/- Đoàn văn Nghiệp (trọng pháo).
    7/- Nguyễn văn Trung (vận chuyển).
    8/- Nguyễn văn Cảnh (y tá).
    9/- Nguyễn văn Thương (pḥng tai).
    10/- và sau cùng là tôi : Đặng quốc Tuấn (giám lộ).

    Chúng tôi mang theo vũ khí, đạn dược, máy truyền tin, thực phẩm, nước uống, chúng tôi dùng xuồng cao su để đổ bộ, đây là loại xuồng được chế tạo rất đặc biệt, vỏ rất dầy, được cấu trúc rất nhiều ngăn và có thể bơm không khí riêng rẽ vào các ngăn, dài khoảng 5m, ngang 2m, ở 2 đầu trước sau có trang bị sẵn các lỗ hổng bằng sắt để dùng gắn súng đại liên, hoặc các máy động cơ, phía trước mũi có đính sẵn 1 la bàn từ loại nhỏ, và 2 bên hông gắn những quai sách để người xử dụng dễ dàng bám vào khi ở mực nước xâu, cũng như xách di chuyển trên cạn.
    Chúng tôi đổ bộ lên đảo từ hướng Đông-Bắc, nơi đây trong vùng ḷng chảo bờ biển sâu thuận tiện cho việc đổ bộ, chúng tôi được chỉ thị nếu gặp địch quân hoặc ngư dân Trung Cộng, cố gắng ḥa hoăn đến mức tối đa, chỉ nổ súng khi thật cần thiết để tự vệ, ngoài ra chúng tôi phải triệt hạ các chứng cớ ngụy tạo nếu t́m thấy. Sau khi đặt chân lên đảo Vĩnh Lạc (Money) chúng tôi lập tức nhổ các lá cờ Trung Cộng ớ rải rác khắp đảo và dựng lại cờ vàng VNCH ngay tại vị trí các cờ Trung Cộng bị nhổ bỏ, sau đó toán đổ bộ chúng tôi thám sát toàn đảo, trên đảo không có người, giữa đảo trong rừng cây có một miếu thờ nhỏ rất xưa cũ có khắc chữ Việt tên họ cùng ngày tháng năm , tôi nghĩ là của các ngư phủ Việt Nam trước đây đă lên đảo lập miếu thờ, về phía Nam đảo, chúng tôi phát hiện trong rừng cây 4 nấm mộ (2 gắn bia đá, 2 bia gỗ), khắc chữ Tàu, tất cả trông có vẻ xưa cũ, nhưng vết tích th́ mới, chúng tôi dùng xẻng đào các nấm mộ nhưng không tỉm thấy xương cốt ǵ cả. Điều chúng tôi thắc mắc là tại sao lính Trung Cộng đă cố t́nh ngụy tạo các nấm mộ, bỏ công cắm nhiều cờ ở băi biển, mà lại không phá hủy cái miếu nhỏ xưa cũ của Việt Nam ta, điều đó chứng tỏ là họ rất vội vă, vừa thực hiện xong lập tức đi ngay không có th́ giờ thám sát đảo.
    Tất cả sự việc này được báo cáo về đài chỉ huy chiến hạm HQ16, sau đó chúng tôi được lệnh triệt hạ các chứng cớ ngụy tạo, đem các tang vật này gồm 2 bia đá, 2 bia gỗ và các lá cờ Trung Cộng giao cho xuồng máy đem về chiến hạm HQ16 để làm bằng chứng sau này, tiếp theo chúng tôi nhận thêm lương thực và nước ngọt đồng thời tổ chức pḥng thủ trên đảo. đào các hố cá nhân trong rừng cây, gài lựu đạn ở các hốc đá và dùng rong biển đắp lên, đặt nhiều ḿn định hướng Claymore và dùng cát phủ lên ở băi biển mà chúng tôi nghĩ là địch quân sẽ đổ bộ, tất cả các vị trí nảy đều được chúng tôi đánh dấu cẩn thận trên hải đồ.
    Khoảng 11.00h, qua máy truyền tin chúng tôi được biết Khu Trục Hạm Trần khánh Dư HQ4 đă ra đến nơi và lập tức đổ bộ lên đảo Cam Tuyền (Robert) 1 toán nhân viên Biệt Hải người nhái gồm 25 người do 1 Thiếu úy chỉ huy, chúng tôi nhận được bản mă từ HQ16, sau khi dịch mă th́ đó là tần số đặc biệt để chúng tôi có thể liên lạc với đảo chính Hoàng Sa cùng với toán đổ bộ HQ4 trên đảo Cam Tuyền, t́nh h́nh trên đảo này cũng không có ǵ đặc biệt, chỉ mấy lá cờ Trung Cộng bị toán đổ bộ nhổ bỏ và cắm lại cờ vàng VNCH, ngoài ra không phát hiện ǵ thêm, cũng như toán chúng tôi, họ được lệnh ở lại tổ chức pḥng thủ trên đảo.
    Qua máy truyền tin, chúng tôi được biết chiến tranh với Trung Cộng có thể xảy ra, trong trường hợp này, Hải Quân sẽ được sự yểm trợ của Không Quân, phi đoàn F5-E của Sư Đoàn 1 Không Quân đang trú đóng tại Đà Nẳng.
    Chiều ngày hôm đó(17-01-1974), 2 chiến hạm Trung Cộng xuất hiện trong vùng mang số 271 và 274, đây là loại tàu chiến Hộ tống hạm của Liên Sô chế tạo, được gọi là tàu Kronstadt, Kronstadt là tên của hăng đóng tàu quân sự Liên Sô nằm ở cực Bắc Âu Châu trong vịnh Finland, hăng đóng tàu này tọa vị trên ḥn đảo Kotlin, ngoài vành thành phố cũng mang tên Kronstadt ở phía Tây thành phố Sint-Petersburg (trước đây được gọi là Leningrad), hai tàu này chiều dài khoảng 100m hơi ngắn hơn HQ16, nhưng vận tốc nhanh hơn.
    Hai chiến hạm ta HQ16 và HQ4 dùng quang hiệu yêu cầu họ lập tức rời vùng lănh hải VNCH, th́ liền đó nhận lại quang hiệu mang ư nghĩa tương tự, sau đó 2 chiến hạm Trung Cộng bỏ đi về hướng Đông-Bắc quần đảo.

    NGÀY 18-01-1974.
    Tảng sáng sớm ngày 18-01-1974 Tuần Dương Hạm HQ5 (Trần b́nh Trọng), đă có mặt tại Hoàng Sa, và Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 cũng đă khởi hành hướng về Hoàng Sa, theo dự định sẽ đến nơi vào chiều tối ngày hôm ấy, trên chiến hạm HQ5 có Hải Quân Đại Tá Hà văn Ngạc là người chỉ huy trận hải chiến. Khi vừa đến nơi Đại Tá Ngạc truyền lệnh của BTLHQ vùng 1 Duyên Hải cho tất cả các đơn vị hiện diện tại Hoàng Sa, đó là phải tỏ thiện chí ḥa hoản tối đa, các toán đổ bộ không được tùy tiện nổ súng khi chưa có lệnh.
    Khoảng 10.00h sáng ngày 18-01-1974, HQ4 nhận lệnh đưa toán nhân viên cơ hữu 15 người lên đảo Cam Tuyền (Robert) để thay thế nhóm người nhái 25 người đă đổ bộ hôm trước, nhóm người nhái này chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Ngay lúc này 4 chiến hạm Trung Cộng lại xuất hiện, 2 trong số chúng tôi đă nhận dạng hôm trước, đó là các Hộ tống hạm Kronstadt 271 và 274, c̣n 2 chiếc khác mang số 389 và 396, 2 chiến hạm này h́nh dạng khác hơn 2 Hộ tống hạm kia, chiều dài ngắn hơn, khoảng 70m, trang bị vũ khí nhiều hơn, ở trên đảo dùng ống ḍm quan sát chúng tôi thấy như vậy, về lực lượng Không quân và Hải Quân Trung Cộng, chúng tôi không được biết ǵ nhiều, theo tài liệu th́ hầu hết các chiến cụ Trung Cộng đều mua của Liên Sô trong thập niên 60 cho đến khi xảy ra chiến tranh biên giới giữa 2 nước năm 1969 th́ việc mua bán chiến cụ bị hủy bỏ. do đó 2 chiến hạm 389 và 396 chúng tôi nghĩ la do Liên Sô chế tạo và gọi là pháo hạm, cả 4 chiến hạm Trung Cộng đều vận chuyển cản đường và khiêu khích, qua máy truyền tin chúng tôi ghi nhận các sự kiện sau:

    * HQ16 và Hộ tống hạm 271 đă va chạm 2 hông tàu với nhau.
    * HQ4 đă đụng mũi vào hông sau của tàu Pháo hạm 389 và làm găy mấy trụ giây an toàn của tàu này.
    * HQ5 di chuyển phía Nam đảo Quang Ḥa (Ducan) để quan sát và thăm ḍ phản ứng của địch th́ bị Hộ tống hạm 274 vận chuyển ép ngang phía trước mũi, HQ5 phải ngưng máy và quay trở lại thả trôi phía nam đảo Vĩnh Lạc (Money) nơi mà chúng tôi đang trấn thủ.
    * Tất cả 4 chiến hạm Trung Cộng sau đó cũng vận chuyển về hướng đảo Quang Ḥa (Duncan) và thả trôi ở đó.
    * Khoảng xế chiều ngày 18-01-1974, 2 tàu nhỏ ngụy trang tàu đánh cá mang số 402 và 407 xuất hiện tăng viện cho phía Trung Cộng, 2 tàu này có lẽ là 2 tàu chiến nhỏ ngụy trang tàu đánh cá mà chúng tôi đă phát hiện bỏ neo sát bờ đảo Duy Mộng (Drummond) cách 2 ngày trước đây (16-01-1974).

    Khoảng chiều tối ngày 18-01-1974, Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 đă ra đến nơi, lúc này ở trên đảo Vĩnh Lạc (Money) chúng tôi nhận được bản mă văn mới, sau khi dịch mă th́ đó là 3 tần số khác nhau, 1 để liên lạc trực tiếp với chiến hạm, 1 với các toán đổ bộ, và 1 với đài khí tượng ở đảo Hoàng Sa, v́ tần số các chiến hạm xử dụng tần số âm thoại đơn ngắn SSB (Single.Side.Bandmod ulation) đă bị phát hiện, sóng vô tuyến đă bị chen vào phá rối, thỉnh thoảng nghe ra hàng loạt tiếng Tàu, do đó các chiến hạm chuyển sang xử dụng loại máy truyền tin VRC46 và PRC25, 2 loại này rất tiện lợi trong việc chuyển đổi tần số, nhất là loại sách tay di động PRC 25 chúng tôi đă mang theo xử dụng khi đổ bộ lên đảo ngày hôm trước, tuy nhiên loại máy này có khuyết điểm là chỉ liên lạc trong phạm vi gần khoảng 10, 15 hải lư mà thôi, chúng tôi biết thêm là 4 chiến hạm ta được chia làm 2 nhóm, nhóm 1 gồm HQ5 và HQ4 sẽ hoạt động chung nhau về phía Nam quần đảo, nhóm 2 gồm HQ16 và HQ10 đang vận chuyển ở phía Tây quần đảo Hoàng Sa, bên ngoài khu ḷng chảo.
    Đêm 18-01-1974 trôi qua một cách yên lặng.

    NGÀY 19-01-1974.
    Trời tờ mờ sáng, t́nh h́nh có vẻ rộn rịp căng thẳng lên, lúc 08.00h sáng ngày 19-01-1974, qua máy vô tuyến chúng tôi được biết HQ5 đang yểm trợ HQ4 đổ bộ nhóm người nhái gồm 25 người lên đảo Quang Ḥa (Duncan) từ phía Nam bên ngoài khu ḷng chảo, nơi đây HQ4 đă không vào sát bờ được v́ có nhiều đá ngầm, toán người nhái đă dùng xuồng cao su để bơi vào đến băi đá ngầm sau đó họ phải lội bộ lên đảo, mực nước biển ngang đầu gối, thiếu úy trưởng toán người nhái báo cáo họ bị lính Trung Cộng tấn công bằng súng thượng liên và phóng lựu từ trong rừng cây cũng như trong các cḥi canh vọng gác trên đảo, sau vài phút, toán người nhái báo cáo là viên thiếu úy trưởng toán người nhái và 1 binh sĩ tử thương, toán đổ bộ đă phản kích bằng phóng lựu M79 và đại liên M60, nhưng không hiệu quả v́ quá xa tầm, tóm lại t́nh h́nh hoàn toàn bất lợi, toán người nhái đang lội b́ bỏm dưới nước chưa đặt chân được lên bờ, họ trở thành mục tiêu tác xạ của lính Trung Cộng. Sau cùng toán người nhái được lệnh rút lui về HQ4. Tất cả sự việc trên chỉ xảy ra trong ṿng 2 giờ đồng hồ.
    Khoảng 10 giờ sáng ngày 19-01-1974, ờ trên đảo Vĩnh Lạc (Money), chúng tôi thấy HQ16 và HQ10 đang tiến vào khu ḷng chảo, trong khu này đă hiện diện 3 tàu Trung Cộng mang số 274 (Hộ tống hạm), 396 (Pháo hạm) và 402 (tàu đánh cá ngụy trang), nơi chúng tôi trú đóng rất thuận tiện để theo dơi cả 2 mặt trận sắp sửa xảy ra, mặt trận phía Bắc trong khu ḷng chảo của HQ16 và HQ10, nơi này rất gần chúng tôi có thể dùng ống ḍm để quan sát rơ ràng, c̣n mặt trận phía Nam ngoài khu ḷng chảo xa về hướng Nam của đảo Quang Ḥa (Duncan), HQ5, HQ4 cũng đang ở trong t́nh trạng căng thẳng, dùng ống ḍm ta chỉ có thể phân biệt giữa tàu chiến ta và tàu Trung Cộng khác biệt về màu sắc, tàu Hải Quân Việt Nam sơn màu xám nhạt, c̣n tàu Trung Cộng sơn màu xanh lá cây đậm, và ở đây có 3 tàu chiến Trung Cộng, v́ ở quá xa chúng tôi không đọc được số tàu, qua đối chiếu và suy đoán tổng số tàu địch hiện diện trong vùng, chúng tôi nghĩ 3 tàu Trung Cộng này là 271 (Hộ tống hạm), 389 (Pháo hạm) và 407 (tàu đánh cá ngụy trang).
    Sự hiềm khích và t́nh trạng căng thẳng giữa các chiến hạm Việt Nam và Trung Cộng trong các ngày qua, nhưng không bên nào khai hỏa, để tạo thế thượng phong bất ngờ, Đại tá Hà văn Ngạc (người chỉ huy trận đánh) ra lệnh đồng loạt khai hỏa lúc 10.25h. Các chiến hạm Việt Nam đă đồng loạt khai hỏa, mặt trận phía Bắc trong vùng ḷng chảo, ngay phút đầu tiên, tàu 274 và 396 đă bị trúng đạn và bốc cháy, sau một lúc quần thảo, ở trên đảo dùng ống ḍm quan sát, chúng tôi thấy HQ10 đă trúng hỏa tiễn địch ở đài chỉ huy (sau này khi nằm điều trị tại bệnh viện Qui Nhơn, tôi được biết báo chí lúc đó gọi đây là loại hỏa tiễn Styx do Liên Sô chế tạo) chúng tôi nghĩ là các hỏa tiễn được bắn từ tàu 402, điều có thể nhận ra loại đạn thường hay hỏa tiễn là với đạn thường sau khi bắn, sẻ có khói bốc ra ở đầu súng, c̣n hỏa tiễn sẽ vạch ra một đường khói dài từ nơi xuất phát, và điều này đă được chúng tôi nh́n thấy bằng mắt thường ở trên đảo. Sau 30 phút giao tranh, sự thiệt hại đôi bên mặt trận phía Bắc trong vùng ḷng chảo được chúng tôi ghi nhận sau:

    * Phía Trung Cộng: Hộ tống hạm Kronstadt 274 sau một lúc nổ( chắc là bị trúng ở hầm đạn) đă ch́m lỉm, pháo hạm 396 đang bị cháy đă ủi vào băi san hô giữa đảo Vĩnh Lạc (Money) nơi chúng tôi trấn đống và đảo Quang Ḥa (Duncan), để nhân viên đào thoát, tàu này có lẽ cũng trúng ở hầm đạn ở phía sau lái, thỉnh thoảng dùng ống ḍm quan sát, chúng tôi thấy lóe sáng phía sau lái và có khói bốc cao. C̣n tàu 402 chắc bị trúng đạn ở bánh lái, nên chuyển vận rất khó khăn, chạy một h́nh chữ chi về hướng Bắc đảo Duy Mộng (Drummond).
    * Phía Hải Quân VNCH: HQ10 trúng hỏa tiễn ở đài chỉ huy và nhiều loại đạn khác, chiến hạm bị cháy ở đài chỉ huy, hạm trưởng và nhiều nhân viên trênchiến hạm đă tử thương. Hạm phó bị thương nặng và đă xuống được bè đào thoát cùng với 23 nhân viên chiến hạm. HQ16 bị trúng nhiều loạt đạn, hư hại nặng, tàu bị nghiên về phía bên phải và vận chuyển một cách khó khăn chậm chạp ra khỏi vùng ḷng chảo.
    * Mặt trận phía Nam cũng đă chấm dứt, thiệt hại đôi bên chúng tôi không rơ, nh́n qua ống ḍm chỉ thấy khói súng dầy đặc, chúng tôi liên lạc với toán đổ bộ HQ4 trên đảo Cam Tuyền (Robert) th́ được biết HQ4 và HQ5 đă rời vùng giao tranh, tất cả đều bị thiệt hại , và từ đó về sau họ đă mất liên lạc với HQ4, phía Trung Cộng th́ không được biết.

    Bất chợt, người bạn trong nhóm chúng tôi anh Trần Phừng (vô tuyến) nhận được ám ngữ muốn nói chuyện với Trung úy Liêm trưởng toán, đó là hạm trưởng HQ16 chúng tôi, ông cho hay t́nh h́nh rất tệ hại, tàu chỉ c̣n 1 máy, bên hông phải bị trúng đạn, trung sĩ điện khí Xuân bị thương nặng, tàu không thể dừng lại rước chúng tôi được, máy phát điện bất khiển dụng nên không thể nào khởi động máy ép gió để chạy máy tàu, do đó ông trao toàn quyền quyết định cho trung úy Liêm.
    Khoảng 16.00h chiều ngày 19-01-1974, có 6 phản lực cơ Trung Cộng xuất hiện trong vùng, nơi Trung Tâm Chiến Báo của chiến hạm mấy lúc sau này để giúp nhân viên nhận dạng phi cơ đối phương, có dán h́nh chụp nh́n ngang cũng như nh́n từ dưới lên h́nh các phản lực cơ Mig17, Mig19 và Mig21, do đó chúng tôi nhận dạng 6 phản lực cơ này thuộc loại Mig19, v́ chúng bay rất thấp lượn chung quanh các đảo ở Hoàng Sa rất nhiều lần, có lẽ là quan sát t́nh h́nh chung trong vùng, sau đó biến mất về hướng Bắc. Đêm ngày 19-01-1974, trung úy Liêm đă hội ư và bàn bạc với cả nhóm, lúc này cận Tết gió mùa Đông Bắc, nếu dùng xuồng cao su hiện có và poncho làm buồm, chặt cây trên đảo làm cột buồm, cơ hội về đến đất liền rất lớn, chúng tôi nhất trí đào thoát về đất liền bằng cách này, kiểm điểm lại lương thực chúng tôi c̣n đủ dùng trong 4 ngày, 1 can nước ngọt khoảng 18 lít, đêm hôm ấy b́nh thản trôi qua sau một cơn biến động dữ dội.
    Sáng ngày hôm sau, 20-01-1974, 7 chiến hạm Trung Cộng xuất hiện trong vùng 4 trong số này là loại Kronstadt Hộ tống hạm, c̣n 3 chiếc khác là loại chuyển vận hạm, chúng tôi đoán là họ đang chuẩn bị đổ bộ.
    Khoảng 09.00h ngày 20-01-1974, các chiến hạm Trung Cộng đồng loạt bắn vào các băi biển ở các đảo do ta trấn đóng để dọn băi chuẩn bị lính cho của họ đổ bộ, trên đảo Vĩnh Lạc (Money), chúng tôi ẩn núp ở các hố cá nhân đă đào trước đây dưới các gốc cây lớn trong rừng phía Nam đảo, lúc này chúng tôi liên lạc đều đặn với các đơn vị trú đóng, chúng tôi được biết sau:

    * Đảo Hoàng Sa (Pattle): nơi đặt đài khí tượng do nhóm Địa phương quân trấn đóng, Tàu Trung Cộng đă ngưng bắn dọn băi và đang cho lính đổ bộ.
    * Đảo Cam Tuyền (Robert): nơi nhóm nhân viên cơ hữu HQ4 trấn đóng. Tàu Trung Cộng vẫn c̣n đang bắn vào băi biển.
    * Đảo Vĩnh Lạc (Money): nơi chúng tôi trấn đóng, tàu Trung Cộng đă ngưng bắn dọn băi, họ đang cho lính đổ bộ từ mặt Đông Bắc của đảo, chính mấy ngày trước đây.

    Chúng tôi đă đổ bộ lên đảo ở chỗ này v́ nơi đây bờ biển sâu, rất thuận tiện cho việc đổ bộ, cũng chính nơi đây chúng tôi đă gài nhiều ḿn và lựu đạn để tổ chức pḥng thủ.
    Ngay lúc này chúng tôi quyết định rời đảo từ hướng Nam, nơi đây bờ biển lài đầy san hô và đá ngầm, chúng tôi 10 người mang xuồng cao su và các vật dụng kể cả vũ khí cá nhân và máy truyền tin, ra xa đến 2, 3km mà mực nước chỉ ngang đến bụng, sau đó chúng tôi lên xuồng, cố gằng bơi thật nhanh, rời xa đảo càng sớm càng tốt, khi thấy đảo chỉ c̣n 1 vệt nhỏ, lúc ấy chúng tôi mới dựng cột dùng Poncho căng làm buồm hướng về phía Đông Nam. Chúng tôi lênh đênh trên biển 2 ngày lương thực và nước ngọt cạn dần, trung úy Liêm đă nh́n thấy điều này nên quyết định giới hạn khẩu phần lương thực và nước ngọt, đến chiều ngày 22-01-1974, khi mặt trời chưa lặn, chúng tôi ghi nhận 1 điều rất đặc biệt, từ phía sau lưng chúng tôi phía xa ở đường chân trời, bất chợt hỏa châu được bắn lên, chúng tôi cũng đáp ứng lại bằng hỏa châu, cả 2 bên đều làm tin cho nhau bằng hỏa châu vài lần rồi sau đó im bặt, chúng tôi không biết nguồn hỏa châu này từ đâu, chỉ suy đoán là của phi cơ trinh sát, hoặc của tàu ḍ t́m các nhân viên chiến hạm bị trôi trên biển sau trận hải chiến, sau này được chuyển từ Quân Y viện Qui Nhơn về Bệnh Viện Hải Quân Sài G̣n, khi trao đổi các mẫu chuyện, chúng tôi mới biết đó là nhóm 23 người HQ10 đào thoát trên bè cấp cứu của chiến hạm, họ may mắn hơn chúng tôi khoảng vài giờ sau, được 1 thương thuyền Ḥa Lan cứu vớt.
    Chúng tôi tiếp trục trôi trên biển đến ngày thứ 6 th́ lương thực và nước ngọt hoàn toàn hết sạch, từ đó trở đi, nếu trời mưa, chúng tôi dùng Poncho hứng nước, trời nắng th́ chúng tôi dùng ca sắt (đây là loại mà quân đội thường dùng khi hành quân) múc ít nước biển, sau đó lấy bao nylon của bịch gạo sấy Quân tiếp vụ bít lên, một thời gian sau, nước bay hơi đọng ở phía dưới bao nylon, cẩn thận mở bao nylon dùng lưỡi mà liếm, đó là cách chúng tôi giải khát từ ngày thứ 6 trở đi.
    Sang đến ngày thứ 10, anh em chúng tôi đă hoàn toàn kiệt sức, trưa ngày hôm ấy, anh Nguyễn văn Duyên (quản kho) đă hấp hối, trong t́nh trạng mê sảng, anh lầm bầm trong miệng những câu nghe không được rơ, khoảng 2 giờ sau, anh Nguyễn văn Cảnh (y tá) là người khỏe nhất trong nhóm, đă lay mọi người dậy cho hay là anh Nguyễn văn Duyên đă từ trần, chiều ngày hôm ấy khoảng 15.00h, có một tàu đánh cá chạy về hướng chúng tôi, trên tàu đánh cá có 4 ngư phủ, đó là những vị cứu tinh của chúng tôi, từng người một, chúng tôi được họ ẵm lên tàu và thay phiên nhau đút từng muỗng cháo cho anh em chúng tôi, kế đó họ báo là anh Nguyễn văn Duyên (quản kho) đă chết, và chúng tôi cho họ hay là chúng tôi đă biết lúc mấy giờ trước, xuồng cao su được các ngư phủ cột vào sau lái tàu và sau đó kéo về quân cảng Qui Nhơn, tàu đánh cá cập bến quân cảng Qui Nhơn lúc xế chiều, và chúng tôi được xe hồng thập tự chở vào Quân Y viện Qui Nhơn để được cấp cứu, đây là ngày không bao giờ quên của nhóm chúng tôi, ngày 30-01-1974, ngày chúng tôi được cứu sống sau 10 ngày lênh đênh trên biển.
    Trưa ngày hôm sau, Phó Đề Đốc Lâm ngươn Tánh (Tư Lệnh Phó Hải Quân) đă ghé bệnh viện thăm viếng và ủy lạo anh em chúng tôi. Xác anh Nguyễn văn Duyên (quản kho) được vợ anh nhận lănh mang về an táng nơi quê nhà nếu tôi nhớ không lầm là ở Vĩnh Long, chị Duyên lúc ấy đang mang thai 3 tháng, măi về sau này anh Nguyễn văn Cảnh (y tá) cho tôi hay chị Duyên đă hạ sanh một cháu trai, tính đến nay cháu ấy đă 36 tuổi rưởi, sắp sinh nhật 37 tuổi. Một tuần sau, chúng tôi được chuyển về Bệnh Viện Hải Quân Sài G̣n để được tiếp tục điều trị. Hai tháng tiếp theo, tôi được thuyên chuyển về Căn Cứ Hải Quân Cát Lái Sài G̣n và tôi phục vụ tại nơi đây cho đến ngày 30-04-1974.

    Kính thưa quư đồng hương,
    Trong những ngày lửa đạn của đầu năm 1974, người lính VNCH thuộc các quân binh chủng tôi đă phải 1 tay 2 súng, đương đầu với 2 đối phương phía Bắc, chưa hết c̣n phải chịu áp lực chính trị lớn lao từ phía sau lưng của đồng minh Hoa Kỳ. Chúng tôi nêu ra đây không phải là để đỗ lỗi cho đồng minh về sự thất bại này, cũng không phải là lư do để biện minh cho sự sai lầm hèn kém của ḿnh, mà là một sự yêu cầu thông cảm cho t́nh trạng của anh em quân nhân chúng tôi lúc ấy.
    Ngày hôm nay, trước sự hiện diện đông đảo của quư đồng hương, anh em cựu quân nhân chúng tôi muốn nói lên lời tâm huyết xuất phát tự đáy ḷng, những lời nói theo lẽ từ lâu chúng tôi muốn nói, nhưng không có dịp để nói, nhất là nói với thế hệ thanh niên hiện tại, các thế hệ đàn em.
    Tính đến nay, đă 37 năm từ ngày xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa, riêng cá nhân tôi th́ đây là sự thất bại lớn lao nhất, quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng của những ngày cận Tết Giáp Dần 1974, những kẻ thất phu như anh em chúng tôi đă không làm tṛn được tránh nhiệm bảo vệ tổ quốc, để mất vào tay Trung Cộng phần lănh hải mà tiền nhân chúng ta đă bỏ ra không biết bao nhiêu công lao để tạo dựng, tôi cảm thấy hổ thẹn, chính v́ vậy mà những bạn bè quen biết khi hỏi tôi về sự việc này tôi chỉ ầm ừ cho qua hoặc chỉ kể vắn tắt. So với những chiến tích lẫy lừng của tiền nhân trong suốt 4 ngàn năm dựng quốc và vệ quốc, anh em chúng tôi quả là những kẻ bất tài.

    Các bạn thanh niên của thế hệ hiện tại, các em, các cháu thân mến,
    Các em, các cháu là những hậu duệ ưu tú của Nguyễn trung Trực với lửa hồng Nhật Tảo kinh thiên địa, kiếm bạc Kiên Giang khóc quỷ thần, của Lư Thường Kiệt đă phạt Tống b́nh Chiêm, của Trần Khánh Dư với chiến tích Vân Đồn, củaTrần b́nh Trọng hiên ngang khi chiến đấu, bất khuất khi sa cơ, thà làm quỷ nước Nam không làm vương đất Bắc.
    Xin hăy thứ lỗi cho thế hệ đàn anh chúng tôi v́ đă không làm tṛn bổn phận bảo vệ quốc gia, đành phải trút trách nhiệm vô cùng nặng nề lên vai các em, các cháu .

    Các bạn thanh niên, các em các cháu thân mến,
    Xin hăy hướng mắt nh́n về phía Đông Việt Nam để luôn luôn nhớ rằng 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vẫn c̣n bị Trung cộng chiếm đóng. Việt Nam là một dân tộc hiếu ḥa, chúng ta không muốn gây hiềm khích, tạo chiến tranh hoặc cướp đất đai của bất kỳ nước nào, chúng ta chỉ muốn lấy lại những ǵ của chúng ta. Đó là dành đoạt lại phần đất thân yêu của tổ quốc Việt Nam chúng ta. Dù ǵ cũng phải thực hiện cho bằng được, cho dù 5, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa cũng được.
    Để dứt lời, chúng tôi kính cẩn nghiên ḿnh trước anh linh các tử sĩ Hoàng Sa.

    Chúng tôi xin gửi đến quư vị lời chào trân trọng nhất.
    Kính chào và cám ơn quư vị.

    Đặng Quốc Tuấn
    23.01.2011


  2. #2
    An Loc Đia
    Khách

    Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam

    Quỳ gối và tin tưởng mù quáng trước các đồng chí anh em Tàu, bọn chỉ huy Hải Quân VC xuất thân từ dân đánh cá đă dâng các thuỷ thủ VC đáng thương cho Hải Quân Tàu làm bia tập bắn.
    Bọn VC ngu dốt há miệng mắc quai qua Công Hàm bán nước cuả Phạm Văn Đồng mà chính là do lệnh Hồ Chí Minh, dở tṛ ngậm máu phun người vu cáo VNCH dâng đảo cho Tàu Cộng và Đài Loan mà không có một bằng chứng cụ thể.
    Quần đảo Trường Sa c̣n nguyên vẹn dưới quyền HQVNCH kiểm soát, ngoại trừ đảo Ba B́nh mà quân Tàu Tưởng chiếm cứ bất hợp pháp từ năm 1949 khi quân Pháp c̣n loay hoay cuộc chiến chống Việt Minh tại nội điạ, sau khi Hoa Lục thất thủ về tay Mao.
    Sau năm 1975, lợi dụng HQ Việt Cộng yếu kém, bọn lănh đạo VC lo vơ vét, giặc tham nhũng lan tràn, Phi Luật Tân, Mă Lai, Tàu cộng đă liên tục chiếm một số đảo quan trọng tại quần đảo Trường Sa mà các nước này không dám dở tṛ ăn cướp bỉ ổi dưới thời VNCH

    ALĐ

  3. #3
    An Loc Đia
    Khách

    Vấn đề Tranh chấp Chủ quyền trên Quần đảo Hoàng Sa

    1) Tái thẩm định miền Nam Việt Nam
    Chỉ có một số ít các chính phủ sẵn sàng thú nhận rằng họ đă phạm phải sai lầm, ngay cả khi những chính sách của họ cho thấy điều đó một cách rất rơ ràng. Lấy thí dụ như Việt Nam chẳng hạn

    Khi nước CHXHCN Việt Nam đă từ bỏ chủ nghĩa xă hội trên tất cả mọi mặt, ngoại trừ cái tên, th́ họ vẫn ngần ngại không muốn thú nhận điều này. Chính sách kinh tế thị trường mà họ đang theo đuổi, dù sao, đă nói lên điều ngược lại.

    Trong những năm chiến tranh, những trận đánh chống lại quân đội Mỹ và quân đội miền Nam Việt Nam, đă được chiến đấu dưới danh nghĩa của chủ nghĩa xă hội và nhận được sự ủng hộ của toàn thể thế giới cộng sản, đặc biệt là từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.

    Những trận đánh này đă đ̣i hỏi một sự hy sinh nặng nề về xương máu và tài nguyên của đất nước, là một cái giá mà người Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả cho đến ngày hôm nay khi nhà nước CSVN đang cố gắng, một cách rất muộn màng, đặt việc phát triển kinh tế lên trên ư thức hệ chính trị. Cái ư thức hệ đó trong quá khứ đă buộc Hà Nội phải lựa chọn những chính sách mà khi nh́n lại th́ không có vẻ ǵ là khôn ngoan cả. Và việc bóp méo ư thức hệ này đă gây cho họ nhiều thứ rắc rối khác hơn là chỉ đưa họ vào t́nh trạng khó xử với các đồng chí cộng sản đàn anh của họ ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Đôi khi nó cũng làm mờ mắt họ về những lập trường đứng đắn được khẳng định bởi kẻ thù của họ là chính phủ Sài G̣n .

    Trong những ngày đó, chế độ Hà Nội rất hăng hái trong việc lên án chính quyền miền Nam, cho họ là những con rối của Mỹ, là những kẻ đă bán đứng quyền lợi của nhân dân Việt Nam. Ngay cả lúc đó, một điều rơ ràng là những lời cáo buộc này đă không có căn cứ. Bây giờ, 20 năm sau, cũng lại một điều rơ ràng là đă có những lúc mà chính quyền Sài G̣n đă thật sự đứng lên cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam, một cách vô cùng mạnh mẽ, hơn xa cả cái chính quyền tại Hà Nội.

    Một trường hợp để chứng minh cụ thể là vụ tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa trên biển Nam Trung Hoa. Quần đảo Hoàng Sa, giống như quần đảo Trường Sa ở xa hơn về phía Nam, được tuyên bố chủ quyền bởi cả hai Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng khi chế độ Hà Nội vẫn đang nhận viện trợ từ Bắc Kinh, th́ họ im hơi lặng tiếng trong việc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo này đă bị chiếm đoạt bởi Trung Quốc sau một vụ đụng độ quân sự vào tháng Giêng năm 1974, lúc quân Trung Quốc đánh bại những người tự bảo vệ từ miền Nam Việt Nam. Từ đó, quần đảo này đă nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.

    Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một sự bất đồng nhanh chóng giữa Bắc Kinh và Hà Nội, và chính quyền Hà Nội - vừa mới thống nhất với miền Nam - lại tái tuyên bố chủ quyền của ḿnh trên quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đă có những cuộc đàm phán cao cấp giữa hai nước, nhưng vụ tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Các chuyên gia của hai nước có hy vọng là sẽ gặp gỡ sớm sủa hơn để bàn thảo về những vấn đề chuyên môn, nhưng không chắc chắn là sẽ có một quyết định toàn bộ . Thật ra, một viên chức cao cấp của Việt Nam đă thú nhận rằng vấn đề sẽ được giải quyết bởi các thế hệ tương lai.

    Dù không muốn phán đoán về những giá trị của lời tuyên bố chủ quyền của bất cứ bên nào, một điều rơ ràng là cương vị của phía Việt Nam đă bị yếu thế hơn v́ sự im hơi lặng tiếng của Hà Nội khi quân đội Trung Quốc chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Sự thiếu sót của Hà Nội để phản đối trước hành động quân sự của nước ngoài bây giờ được dùng để quật ngược lại Việt Nam mỗi khi đề tài trên được nêu ra.

    Giới thẩm quyền Việt Nam ngày hôm nay giải thích sự im lặng của họ vào thời điểm đó bằng cách nói rằng họ đă phải dựa vào viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Mỹ, vốn là kẻ thù chính yếu của họ lúc đó. Vậy th́ một điều chắc chắn là, khi chiến tranh càng được chấm dứt sớm hơn th́ quan hệ hữu nghị giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng như vậy .

    Cộng thêm vào đó là những điều bị bóp méo mới toanh mà Hà Nội phải dùng đến để tăng thêm giá trị cho lời tuyên bố về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa. Bởi v́ sự im lặng đồng ư ngầm trong quá khứ mà Hà Nội bó buộc phải tránh không dám dùng những lời tuyên bố chính thức của họ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970, mà phải dùng những bản tuyên bố của chế độ Sài G̣n - tức là công nhận tính hợp pháp của của chính phủ miền Nam. Một cách rất sớm sủa, như vào năm 1956, chính phủ Sài G̣n đă công bố một thông cáo chính thức xác nhận chủ quyền của ḿnh trên Hoàng Sa và Trường Sa.

    Chế độ Sài G̣n cũng công bố một nghị định để bổ nhiệm nhân sự hành chánh cho quần đảo Hoàng Sa. Cho đến khi họ bị thất bại bởi lực lượng quân sự Trung Quốc vào năm 1974 (chỉ vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ trước sự tấn công của cộng sản từ miền Bắc), th́ chính phủ Sài G̣n vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền của ḿnh trên quần đảo Hoàng Sa.

    Trong vài năm vừa qua, nước Nam Dương (Indonesia) đă bảo trợ cho các buổi hội thảo với tính cách phi chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không này, phía Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về sự im lặng của họ hồi đó, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần của lănh thổ họ. “Trong thời gian này”, họ nói, “có những t́nh trạng rắc rối về chính trị và xă hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung Quốc đă lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đă thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974.”

    Với lợi thế của hai thập niên về lịch sử, bây giờ có thể thẩm định được những hành động của chính quyền miền Nam với một nhăn quan công minh hơn. Trong cái phúc lợi của việc hàn gắn vết thương chiến tranh, nếu không phải v́ những chuyện khác, có lẽ điều khôn ngoan cho Hà Nội là nên xem xét lại quá khứ và trả lại cho Cesar những ǵ thuộc về Cesar. Và sự chống đỡ mănh liệt của chính quyền Sài G̣n để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, đúng vào cái lúc mà chế độ Hà Nội đang bận rộn ve vuốt để nhận đặc ân từ Trung Quốc, là một hành động xuất sắc nên được công nhận.

    Hồ Chí Minh đă có một lần được hỏi rằng ông ta ủng hộ Liên Sô hay ủng hộ Trung Quốc Ông ta đă trả lời rằng ông ta ủng hộ Việt Nam. Bây giờ là lúc để chế độ Hà Nội nh́n nhận rằng đă có lúc khi mà chính quyền Sài G̣n đă ủng hộ cho Việt Nam nhiều hơn là chính quyền của miền Bắc.

    2) Đằng sau những tuyên bố về chủ quyền trên hai quần đảo

    Những ǵ đă xảy ra sau khi Hồ Chí Minh được quân đội của Mao Trạch Đông và các đồng chí giúp nắm giữ quyền lực tại miền Bắc Việt Nam.

    Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên “quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” dựa trên các tài liệu xưa cũ và đặc biệt là tập bút kư “Phủ Biên Tập Lục” của Lê Quư Đôn. Việt Nam gọi hai quần đảo này là Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys); Trung Quốc gọi là Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha). Người Việt Nam đă đụng độ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa vào ngày 19/1/1974 với kết qủa là một tàu lớn của Hải quân miền Nam cũ bị đắm và 40 thuỷ thủ bị bắt. Vào tháng 3/1988 nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa lại đến và đánh ch́m 3 tàu của Việt Nam, 72 thuỷ thủ bị thiệt mạng và 9 bị bắt. Vào ngày 25/2/1992, nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.

    Lư do chính để Trung Quốc làm như thế đă được biết đến trước đây như một phần của kế hoạch gọi là “Không gian sinh tồn”, bởi v́ tài nguyên thiên nhiên của hai vùng Măn Châu và Tân Cương sẽ bị cạn kiệt sớm. Để làm điều này, Trung Quốc bắt đầu bằng phần dễ nhất – là cái mà cộng sản Việt Nam đă hứa trước đây. Có nghĩa là Trung Quốc căn cứ vào một sự thương lượng bí mật trong qúa khứ. Trong một bản tin của hăng thông tấn Reuters ngày 30/12/1993, th́ cộng sản Việt Nam đă bác bỏ sự thương lượng bí mật này nhưng không đưa ra bất cứ lời giải thích nào. Lê Đức Anh đi thăm Trung Quốc và làm chậm trễ vụ tranh chấp này đến 50 năm. Có phải là Trung Quốc có thái độ v́ sự vô ơn và những hứa hẹn trong quá khứ của Lê Đức Anh?

    3) Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo Hoàng sa và Trường sa, nhưng bây giờ muốn nói không.

    Theo tài liệu "Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa" của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, 18/2/1980), th́ Hà Nội đă "dàn xếp" vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đă bảo rằng:

    - Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của ông Hồ Chí Minh đă được tái lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm nói với Li Zhimin, Xử lư Thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lănh thổ Trung quốc".

    - Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đă tuyên bố bề rộng của lănh hải Trung Quốc là mười hai hải lư, được áp dụng cho tất cả các lănh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, "bao gồm ... Quần Đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa ...". Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đă ghi rơ trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng "Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lănh hải".

    Đây là của văn bản của nhà nước Việt Nam do Phạm Văn Đồng kư gởi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958 để ủng hộ cho lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc như theo sau:
    Thưa Đồng chí Tổng lư,

    Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lư rơ:

    Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

    Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng ḥa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.

    Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lư lời chào rất trân trọng.

    Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
    PHẠM VĂN ĐỒNG
    Thủ tướng Chính Phủ
    Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Ḥa



    Thêm một điều cần ghi nhận là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đă chỉ đe dọa những lănh thổ mà Việt Nam đă tuyên bố là của ḿnh, và để yên cho các nước khác. Rơ ràng là ông Hồ Chí Minh qua Phạm Văn Đồng, đă tặng cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa "một cái bánh bao lớn" bởi v́ lúc đó ông Hồ Chí Minh đang chuẩn bị cho công cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam. Ông Hồ cần sự viện trợ khổng lồ và đă nhắm mắt để nhận tất cả những điều kiện của Bắc Kinh. Đối với ông ta, việc bán "trên giấy tờ" hai quần đảo lúc đó vẫn thuộc về miền Nam Việt Nam là một điều dễ dàng.

    V́ sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đă chờ một buổi họp của các quốc gia khối ASEAN tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và kư ngay một văn kiện đ̣i hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề "một cách công b́nh"

    Về phía Trung Quốc, sau khi đă lấy được những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đă tỏ thái độ ôn ḥa đối với Mă Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn sàng thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt Việt Nam qua một bên. Trung Quốc đă nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.

    Sau đó, Phạm Văn Đồng đă chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ, trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lư do mà ông ấy đă làm bởi v́ lúc đó là "thời kỳ chiến tranh". Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở trang số 11:

    “Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc đă sẵn sàng chia chác vùng vịnh "mỗi bên một nửa" với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đă vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li cũng đă nói rằng vào năm 1956 (hay 1958 ?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đă ủng hộ một bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm 1975, Việt Nam đă kiểm soát một phần của nhóm đảo Trường Sa - nhóm đảo Hoàng Sa th́ đă nằm dưới sự kiểm soát bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật th́ ông Đồng đă biện hộ cho lập trường của ông ấy hồi năm 1956: "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đă phải nói như vậy".”

    V́ hăng hái muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Nam Bắc, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đă hứa, mà không có sự tự trọng, một phần đất "tương lai" để cho Trung Quốc nắm lấy, mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam hay không.

    Như ông Đồng đă nói, "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đă phải nói như vậy". Vậy th́ ai đă tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đă chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.

    4) Trong cuốn “Vấn đề tranh chấp lănh thổ Hoa -Việt” của Pao-min-Chang thuộc tủ sách The Washington Papers, do Douglas Pike viết lời nói đầu, được Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế thuộc Đại học Georgetown , Washington D.C. xuất bản

    Ngoài cái khoảng cách về địa lư, cả hai nhóm quần đảo này nằm ngoài phía bờ biển của miền Nam Việt Nam và vẫn dưới sự quản lư hành chánh của chế độ Sài G̣n vốn không thân thiện ǵ. Hà Nội đơn giản là không ở trong cái tư thế để đặt vấn đề với cả Trung Quốc lẫn sức mạnh của hải quân Mỹ cùng một lúc. Do đó, vào ngày 15/6/1956, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă nó́ với phía Trung Quốc: “Từ quan điểm của lịch sử, th́ những quần đảo này thuộc về lănh thổ Trung Quốc” (Beijing Review 30/3/1979, trang 20 – Cũng trong báo Far East Economic Review 16/3/1979, trang 11).

    Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng của lănh hải của họ đến 12 hải lư, đă xác định rằng quyết định đó áp dụng cho tất cả các lănh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa Hà Nội đă lên tiếng nh́n nhận chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đă ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lănh tụ Trung Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: "Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc"
    (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 -- Beijing Review 25/8/1979, trang 25 -- Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đă được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)
    5) Tại sao ?

    Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài "Sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam" trong bộ tài liệu "Trung Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái B́nh Dương" của Stuart Harris và Gary Klintworth [Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994] :

    Phía Việt Nam, trong khi theo đuổi quyền lợi quốc gia, đă thực hiện nhiều hành động mà theo quan điểm của Trung Quốc th́ có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như, trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đă không biểu lộ sự chống đối công khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra lại tán thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đă đổi ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đă chiếm đóng một số hải đảo trong quần đảo Trường Sa và sau đó đă tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lănh thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.

    Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đă thú nhận:

    "Các nhà lănh đạo của chúng tôi đă có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lănh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đă phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hăn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đă phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, t́nh hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đă cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đ̣i hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lănh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết v́ nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.”

    Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng ǵ đến nền tảng lịch sử và pháp lư trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa" (Tuyên bố trong một buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xă Việt Nam ngày 3/12/1992)

    Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung Quốc đă tố cáo phía trên là sự thật. Những ǵ xảy ra ngày hôm nay mà có liên hệ đến hai quần đảo này chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ.

    Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lư do rất rơ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nh́n nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đă muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải bắt chước theo chính sách "đổi mới" của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xă hội.
    Lược dịch từ: Paracels Islands Dispute by Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)

    CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ CÔNG NHẬN QUYẾT ĐỊNH VỀ HẢI PHẬN CỦA TRUNG-QUỐC

    Sáng ngày 21.9.1958, đồng chí Nguyễn-Khang, Đại sứ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tại Trung-quốc, đă gặp đồng chí Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa và đă chuyển bức công hàm sau đây của Chính phủ ta:

    Thưa đồng chí Chu Ân-lai,
    Tổng lư Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa,

    Chúng tôi xin trân trọng thông báo tin để đồng chí Tổng lư rơ:
    Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
    Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.
    Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lư lời chào rất trân trọng.

    Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
    PHẠM VĂN ĐỒNG
    Thủ tướng Chính phủ
    nước Việt-nam dân chủ cộng hoà
    ____________________ ____________________
    Tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc về lănh hải

    Bấm vào h́nh để phóng lớn

    DECLARATION OF THE GOVERNMENT OF THE PEOPLE'S REPUBLIC OF CHINA ON THE TERRITORIAL SEA
    (Approved by the 100th Session of the Standing Committee of the National People's Congress on 4th September, 1958)
    The People's Republic of China hereby announces:
    (1) This width of the territorial sea of the People's Republic of China is twelve national miles. This provision applies to all Territories of the People's Republic of China, including the mainland China and offshore islands, Taiwan (separated from the mainland and offshore islands by high seas) and its surrounding islands, the Penghu Archipelago, the Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
    (2) The straight lines linking each basic point at the mainland's coasts and offshore outlying islands are regarded as base lines of the territorial sea of the mainland China and offshore islands. The waters extending twelve nautical miles away from the base lines are China's territorial sea. The waters inside the base lines, including Bohai Bay and Giongzhou Strait, are China's inland sea. The islands inside the base lines, including Dongyin Island, Gaodeng Island, Mazu Inland, Baiquan Island, Niaoqin Island, Big and Small Jinmen Islands, Dadam Island, Erdan Island and Dongding Island, are China's inland sea islands.
    (3) Without the permit of the government of the People's Republic of China, all foreign aircrafts and military vessels shall not be allowed to enter China's territorial sea and the sky above the territorial sea.
    Any foreign vessel sailing in China's territorial sea must comply with the relevant orders of the government of the People's Republic of China.
    (4) The above provisions (2) and (3) also apply to Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands, the Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
    Taiwan and Penghu are still occupied with force by the USA. This is an illegality violating the People's Republic of China's territorial integrity and sovereignty. Taiwan and Penghu are waiting for recapture. The People's Republic of China has rights to take all appropriate measures to recapture these places in due course. It is China's internal affairs which should not be interfered by any foreign country.
    Trích từ nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
    ____________________ ____________________
    Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc về Lănh Hải
    (Được thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958)
    Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:
    (1) Bề rộng lănh hải của nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lư. Điều lệ này áp dụng cho toàn lănh thổ nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
    (2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lănh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lư tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Đại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
    (3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc
    (4) Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
    Đài Loan và Penghu hiện c̣n bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Đây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lănh thổ và chủ quyền của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc. Đài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc
    (Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)
    Chú thích: Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
    Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands

  4. #4
    An Loc Đia
    Khách

    Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (1974)


    Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (1974)
    Nhiệm vụ cao cả và cần thiết của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lănh thổ quốc gia. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cương quyết thi hành nhiệm vụ này, bất kể những khó khăn có thể sẽ gặp phải và bất kể những cáo buộc vô căn cứ có thể sẽ đến bất cứ từ đâu.
    Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng quân sự trên Quần đảo Hoàng Sa, nguyên là một phần đất thuộc lănh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà xét thấy cần thiết phải long trọng tuyên bố trước công luận thế giới, bạn cũng như thù, rằng:
    Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần không thể cắt rời của lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa. Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Ḥa sẽ không khuất phục trước bạo lực và bác bỏ tất cả hoặc một phần chủ quyền của họ trên những quần đảo này.
    Chừng nào mà bất cứ một ḥn đảo nào của phần lănh thổ đó của Việt Nam Cộng Ḥa vẫn bị một nước khác chiếm đóng bằng bạo lực, th́ Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Ḥa sẽ tiếp tục tranh đấu để lấy lại quyền lợi hợp pháp của ḿnh.
    Kẻ chiếm đóng bất hợp pháp sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bất cứ t́nh trạng căng thẳng nào bắt nguồn từ đó.
    Nhân cơ hội này, Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Ḥa trên các hải đảo ngoài khơi miền Trung và Nam phần Việt Nam, đă luôn luôn được chấp nhận như một phần lănh thổ của Việt Nam Cộng Ḥa trên căn bản không thể chối căi được về địa lư, lịch sử, chứng cứ hợp pháp và bởi v́ những điều thực tế.
    Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những quần đảo này bằng tất cả mọi phương tiện. Để ǵn giữ truyền thống tôn trọng hoà b́nh, Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa sẵn sàng giải quyết, bằng sự thương lượng, về các tranh chấp quốc tế có thể bắt nguồn từ các quần đảo đó, nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa sẽ từ bỏ chủ quyền của ḿnh trên bất cứ phần lănh thổ nào của quốc gia.
    Tuyên bố bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa vào ngày 14 tháng 2 năm 1974
    Trích và lược dịch từ nguồn:
    Paracels Forum - The Discussion Proceeds For Peace
    ____________________ ____________________

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2960
    Last Post: 07-11-2015, 12:53 PM
  2. Replies: 14
    Last Post: 16-09-2012, 06:53 PM
  3. Replies: 10
    Last Post: 18-06-2011, 04:04 PM
  4. 37 NĂM TRẬN TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974.
    By nghiep in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 0
    Last Post: 10-06-2011, 04:22 AM
  5. Replies: 3
    Last Post: 31-08-2010, 12:38 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •